Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Chiếm Đóng - Kobo Abe

Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. *** Abe Kôbô là một trong những nhà văn hậu chiến Nhật Bản thế hệ Shôwa 30 (từ năm 1955 trở đi) có khuynh hướng đi tìm một thủ pháp mới với mục đích bắt gặp con người toàn thể như một sinh vật có tính xã hội và chính trị. Nhà văn thế hệ nầy đều muốn tìm hiểu đâu là lối sống thích hợp của con người trong điều kiện của xã hội hiện tại. Abe Kôbô trên giấy tờ được gọi là Kimifusa theo cách đọc âm Nhật của hai chữ Hán Kôbô. Song thân gốc miền bắc (đảo Hokkaidô) nhưng ông sinh ra ở Tôkyô ngày 7 tháng 3 năm 1924. Cha ông, một bác sĩ y khoa tùng sự tại Mãn Châu. Do đó, ông lớn lên ở Phụng Thiên (nay là Thẩm Dương thuộc Trung Quốc) nhưng đã trở về nước để học thuốc và tốt nghiệp y khoa Đại học Đế Quốc Đông Kinh năm 1948. Sau khi Nhật bại trận và cha chết, ông sống cuộc đời nghèo túng nhưng vẫn cố gắng bỏ tiền túi in thơ (1947) và tiểu thuyết (1948). Không hành nghề y như cha, ông theo nghiệp văn như mẹ, một nhà giáo có đầu óc khuynh tả. Đầu tiên, ông sử dụng một bút pháp trừu tượng, xa rời hiện thực, nhưng sau chuyển qua văn phong tiền vệ với khuynh hướng đi tìm những ý tưởng và phương pháp biểu hiện mới mà trung tâm là những câu chuyện ngụ ngôn có tính khoa học giả tưởng. Đặc điểm của văn chương ông trước tiên là bản chất con người khoa học của ông. Thứ đến là tình cảm thiếu quê hương vì nơi ông gắn bó sâu đậm nhất là Mãn Châu, một nơi về sau đã trở thành một tỉnh của Trung Quốc. Ở Tôkyô, ông có cảm tưởng như mình sống trong một miền đất lạ. Quê hương ông là Mãn Châu có sa mạc ngút ngàn và những cơn bão cát chứ không phải là thành phố Tôkyô xô bồ, lạ mặt. Đặc điểm thứ ba là kinh nghiệm đau thương của cuộc sống khốn cùng sau những ngày Nhật Bản bại trận, lúc người di dân lập nghiệp ở thuộc địa trong số đó có gia đình ông đã phải vượt qua bao khó khăn để có thể về đến mẫu quốc. Người có ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của ông là Abe Rokurô, ông giáo dạy tiếng Đức và là nhà nghiên cứu về triết học của Nietsche [1] và Shestov [2]. Qua Abe Rokurô, ông làm quen được Haniya Yutaka [3]. Trước khi ra trường (1947), ông kết hôn với Yamada Machiko, một nữ sinh viên ngành hội họa. Họ sống đạm bạc trong một căn nhà lợp tạm và đeo đuổi hoạt động nghệ thuật. Bà Machiko đã giúp đỡ ông rất nhiều trong việc trang trí hình bìa những tác phẩm và trong việc dựng phông cảnh khi Abe chuyển qua kịch nghệ. Tài năng của Abe đa dạng. Ông không những làm thơ, viết văn, dựng kịch, vẽ tranh mà còn chen vào các lãnh vực truyền thanh, truyền hình. Ở đâu, ông cũng chứng tỏ một tài năng phi thường và thí nghiệm không mệt mỏi những thủ pháp diễn đạt mới. Vì lúc nào cũng đi trước thời đại nên không phải ai cũng yêu chuộng ông. Mumyô shishuu "Tập thơ không tên" (1947) là tác phẩm đầu tay. Akai Mayu "Cái kén đỏ" (1950) giúp ông đoạt giải thưởng văn học hậu chiến, Kabe - S. Karuma nohanzai "Bức tường. tội của S. Karma" (1951) đem giải Akutagawa về tay ông lúc mới có 27 tuổi. Sau đó là một loạt tác phẩm như Daishikan Hyôki "Thời kỳ băng hà thứ tư" (1959), Suna no Onna "Người đàn bà trong động cát" (1962), Ta.nin no kao "Gương mặt kẻ khác" (1964), tất cả đều gây nên tranh cãi. Ngoài các vở kịch như Doreigari "Săn nô lệ" (1955), Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958), sau nầy ông còn viết Hako-otoko "Người hộp"(1973) Hakobune sakuramaru "Chiếc thuyền lợp mái tránh lụt tên gọi anh đào" (1984). Với lối viết tiền vệ, nhà văn Abe Kôbô được sắp vào số tác giả khoa học giả tưởng qua "Bức Tường - Tội của ông Karuma","Thời băng hà thứ tư"nói trên, cũng như Moetsukitachizu "Bức địa đồ cháy rụi" (1967) mà ông viết theo phong cách nhà văn Pháp Alain Robbe-Grillet. Ông đặc biệt chú trọng tới chủ đề tha hóa (alienation). Abe Kôbô còn nhảy vào sân khấu như lạc bước vào một mê cung lúc nào không hay. Năm 1955, trong một cuốn tiểu thuyết nhan đề Seifuku "Đồng Phục" ngẫu nhiên có một số đoạn, ông trình bày như đối thoại của kịch. Thế rồi, Yuurei wa koko ni iru "Đây có ma" (1958) của ông đã ra đời 3 năm sau như ta đã biết. Ông đưa lên sân khấu những ảo tưởng (phantasm) của thời mới như ảo tưởng tinh thần, tâm lý hay thương mãi và muốn bắt nọn khán giả. Ông xem sân khấu phải là một loại chất dẻo để khán giả có thể nắn theo ý mình và để lại những dấu tích sự tham dự của họ vào quá trình xây dựng chung giữa nhà viết kịch bản, diễn viên và khán giả đó. Khán giả không thể là vô can. Họ được xem như có khả năng phạm tội. Ông muốn nói như thế về vai trò của người xem kịch khi viết vở Omae ni mo tsumi ga aru "Mầy cũng có tội nữa đấy" (1965). Một ví dụ khác với vở Enomoto Takeaki (1967), trong đó ông mô tả cuộc nổi loạn để thành lập một chế độ Cộng Hòa ở Hokkaidô năm 1870 của Enomoto Takeaki nhưng không phải là không muốn chất vấn khán giả về thái độ họ phải chọn lựa trước sự kiện ấy. Từ năm 1969, Kôbô chuyển qua dàn cảnh và thành lập trung tâm nghiên cứu và thí nghiệm kịch nghệ Abe Kôbô Studio (từ 1973), thử sửa đổi và dựng lại nhiều vở cũ, chuyển một số tiểu thuyết, kịch phóng thanh, kịch bản phim đã viết thành kịch nói. Danh tiếng ông vang dội trong lẫn ngoài nước. Hầu như cứ một lần viết một tác phẩm mới, ông lại như nới rộng thêm chân trời văn học. Ông được quốc tế đánh giá cao, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Ý, Đức. Tháng 9 năm 1992, ông được Hàn Lâm Viện Khoa Học Nghệ Thuật Hoa Kỳ trao tặng danh hiệu hội viên danh dự. Chẳng bao lâu, một ngày cuối năm, đang ngồi viết trong thư phòng, ông bị tai biến mạch máu não, mê man và được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Đầu năm sau, lại nhập viện vì vấn đề tim mạch và mất vào ngày 22 tháng giêng năm 1993, khép lại cánh cửa một cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật không ngừng nghĩ.   Mời các bạn đón đọc Bọn Chiếm Đóng của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hậu Duệ Thần Đèn Tập 2: Djinn Xanh Babylon - Philip Ballantyne Kerr
John và Philippa Gaunt là hai anh em sinh đôi gần đây vừa khám phá ra việc họ là hậu duệ của một tộc djinn (thường được gọi là thần đèn) lâu đời. Sở hữu năng lực thần thông vĩ đại, họ vừa mới trở về sau cuộc phiêu lưu chống lại một djinn độc ác ở Cairo và London. Giờ đây, một bí ẩn lại cuốn cặp sinh đôi lao vào hành trình khác thường kế tiếp. Khi quyển Grimoire của vua Solomon, quyển sách có thể cho người sử dụng quyền năng điều khiển mọi djinn trên đời, bị báo mất cắp, cặp sinh đôi được triệu hồi đi lấy lại nó, mà không hề biết một cái bẫy đã được giăng ra sẵn chờ đợi họ. John phải ngay lập tức dấn thân vào một hành trình nguy hiểm như một áng sử thi để giải cứu em gái mình …. trước khi quá muộn. “… Ngay khi đang nói, John đã cầm kiếm đâm vào cái người có hình dáng giống như cha cậu như lời hướng dẫn nghiêm ngặt của Eno: “Kẻ thâm nhập bắt buộc phải giết chết người bảo vệ thứ bảy mà không chút lưỡng lự, hoặc sẽ phải đối mặt với sự thất bại hoàn toàn của tham vọng bí hiểm của mình”. John không chắc từ “bí hiểm” nghĩa là gì, nhưng cậu có thể chắc chằn rằng nếu không làm đúng theo hướng dẫn của Eno đến từng câu chữ, cậu sẽ không bao giờ được gặp lại em gái – ít nhất là đứa em mà cậu biết và yêu quý. Nhưng nếu John nghĩ rằng thanh kiếm của cậu sẽ xuyên qua không khí, cậu đã lầm. Qua cán cầm của thanh kiếm, cú đâm của cậu có cảm giác thật đến rợn người. Còn tệ hơn nữa là việc cái người giống hệt cha cậu hét lên một tiếng kinh hoàng, như thể ông thật sự bị đâm chết. Và ông cũng không biến mất như những người bảo vệ khác. Thay vào đó, ông ngã gục mặt xuống đất và nằm im lìm giữa một vũng máu. Máu nhìn quá ướt, quá thật và quá đỏ. *** “Hậu Duệ Thần Đèn” không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi mà còn dành cho cả những độc giả trưởng thành yêu thích truyện phiêu lưu viễn tưởng.  John và Philippa là hai anh em sinh đôi. Chúng nghĩ rằng, chúng là những đứa trẻ bình thường, nhưng từ khi bà giúp việc của gia đình trúng số độc đắc, chúng phát hiện ra một sự thật đáng kinh ngạc: chúng là Djinn - hậu duệ thần đèn, và chính năng lực kỳ diệu của chúng đã giúp bà giúp việc trúng số. Nhưng năng lực djinh rất nguy hiểm và rắc rối, chúng phải học cách kiểm soát những ký năng mới mẻ này và chú chó Nimord lập dị trở thành thầy dạy chúng. Ông đã lôi kéo chúng đến Ai Cập để cùng ông tìm ngôi mộ của một pharaoh bị thất lạc, và thế là cả ba người tìm ngôi mộ của một cuộc chiến khủng khiếp chống lại Iblis – tên djinh ác độc nhất thế giới.  *** Hậu Duệ Thần Đèn gồm có: Truy Tìm Akhenaten Djinn Xanh Babylon Hổ Mang Chúa Kathmandu Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Mắt Rừng Năm Tu Sĩ Khổ Hạnh Xứ Faizabad *** P. B. Kerr nhận ra ông muốn trở thành nhà văn gần như ngay khi ông vừa biết đọc. Tác phẩm đầu tay của ông Chiếc phi cơ biến mất được viết khi ông lên mười. Ông đã nói về tuổi thơ của mình ở Scotland như sau: "Không có ti vi màu hay chương trình truyền hình dành cho trẻ em, không có máy vi tính, không có sân chơi. Vậy nên những trò tiêu khiển của chúng tôi có khuynh hướng ở ngay tại gia. Thật dễ để tôi trở nên ghiền sách, vì thực sự đâu còn gì khác cho tôi làm. Tôi cảm thấy tiếc cho lũ trẻ nhà tôi, có quá nhiều thú vui khác cạnh tranh nhau để giành được sự chú ý của chúng." Hiện Kerr đang sống cùng vợ và ba người con ở London. Tác giả P.B. Kerr sinh ra ở Edinburgh, Scotland, nơi ông được nuôi dưỡng niềm ham thích đọc sách đến tận bây giờ. Mặc dù Hậu duệ thần đèn là bộ sách dành cho thiếu nhi đầu tiên của P.B. Kerr, ông đã rất nổi tiếng trong thế giới truyện trinh thám qua cái tên Philip Kerr, tác giả của bộ truyện ba cuốn Berlin Noir, Một vụ điều tra triết học, Toà nhà Gridiron, Phát súng, cùng rất nhiều bộ tiểu thuyết ăn khách khác. Ông hiện đang sống cùng gia đình ở London. *** Quy tắc chơi Djinnversoctoannular Trò chơi cổ đại với xúc xắc, hoặc astaragali, là một trò chơi dành cho djinn với số lượng người chơi không giới hạn, Djinnversoctoannular sử dụng một bộ bảy viên xúc xắc tám mặt, hay còn được gọi là astaragali. Tám mặt astaragali được đánh dấu bởi Linh hồn, Thời gian và Không gian, Lửa, Đất, Không khí, Nước, Gỗ và Sự May mắn. Sự May mắn, Linh hồn, Thời gian và Không gian, Gỗ, Không khí, Nước, Lửa, và Đất, những mặt được liệt kê ở đây theo thứ tự giá trị với Sự May mắn là giá trị cao nhất[29] Sau khi ném, những viên astaragali sẽ được chuyển cho người chơi tiếp theo cùng với một lời tố (giống bài xì phé) có cấp độ cao hơn lời tố trước đó. Khi một lời tố bị thách thức, người đưa ra lời tố hoặc người thách thức lời tố sẽ mất đi “điều ước” tùy thuộc vào việc lời tố đó là lời tố xác thực hay là lời tố lừa. Mỗi người chơi có ba “điều ước”. Một người chơi sẽ bị loại khỏi ván đấu một khi mất hết ba điều ước. CÁCH CHƠI Tất cả người chơi sẽ cùng ngồi quanh một cái bàn thuận tiện, để bộ astaragali của djinnverso có thể được chuyển đi theo chiều kim đồng hồ từ người chơi này qua người chơi khác mà không làm xáo trộn vị trí các viên astaragali đã được ném. Số lượng người chơi tốt nhất là từ bốn đến tám người, còn trong một giải thi đấu thì chỉ có bốn người chơi một lần. Sức mạnh djinn bị cấm sử dụng trong suốt ván đấu djinnverso, và những viên astaragali sẽ được ném trong một cái hộp thủy tinh được thiết kế đặc biệt để vừa che giấu kết quả ném, vừa phát hiện việc sử dụng sức mạnh djinn trái luật. Do đó, kết quả thắng thua được quyết định không phải bởi khả năng may rủi hay sức mạnh djinn, mà bởi chính khả năng lừa phỉnh đối thủ của người chơi. Bất cứ người chơi nào bị phát hiện sử dụng sức mạnh djinn trong khi chơi sẽ ngay lập tức bị loại khỏi ván đấu. Người chơi đầu tiên được quyết định bởi kết quả ném astaragali, với người được chọn là người có kết quả ném cao nhất. Nếu có hai người chơi có cùng kết quả ném cao nhất, họ sẽ cùng ném lại. Trong lượt chơi của mình, mỗi người chơi có quyền quyết định sẽ ném tất cả/vài/một/hoặc không viên astaragali nào, và thường sẽ ném chúng mà không để những người chơi khác thấy được. Người chơi đầu tiên phải ném cả bảy viên astaragali. Một người chơi cần phải tuyên bố chính xác mình sẽ ném bao nhiêu viên. Quy tắc này đã được đem ra thảo luận trong lần họp cuối cùng. Quyết định của Trọng Tài Tối Cao là nó được giữ nguyên. Và hiện nay, nó được biết tới như Quy tắc Badroulbadour. Người chơi ấy sau đó sẽ chuyển những viên astaragali được che kín trong hộp cho người chơi ở phía bên trái mình, và đưa ra lời tố. Lời tố này phải có cấp độ cao hơn lời tố trước đó. Người chơi tiếp theo có thể, hoặc chấp nhận những viên astaragali và bắt đầu lượt chơi của mình, hoặc thách thức lời tố. Một lời tố chính thức được thách thức bằng từ “mendax”. Một khi được thách thức, hộp astaragali sẽ được mở ra để kiểm tra. Nếu cấp độ của những viên astaragali bên trong hộp ngang bằng hoặc cao hơn lời tố, người thách thức lời tố sẽ mất đi một điều ước, và hộp astaragali sẽ được chuyển cho người chơi ở bên trái người thách thức lời tố để bắt đầu lại từ đầu. Nếu cấp độ của những viên astaragali bên trong hộp thấp hơn lời tố, người đưa ra lời tố sẽ mất đi một điều ước, và người thách thức lời tố sẽ trở thành người bắt đầu lại ván đấu. Tiến trình được đề cập phía trên thường được người chơi thực hiện với một thái độ cử chỉ gây bối rối đối phương, để làm những người chơi khác phải cố gắng hơn. Mỗi một lời tố không cần thiết phải hoàn toàn được chỉ định rõ, và trong trường hợp này nó được coi là lời tố yếu nhất có thể đưa ra mà vẫn đáp ứng được luật lệ đã đề ra. Tốt hơn là một lời tố hợp lệ, cũng như Tốt hơn nhiều (nghĩa là Tốt hơn của tốt hơn) v. v… Nếu một người chơi tố thấp hơn cấp độ astaragali đạt được, nó được coi như Tốt hơn. Việc tố thấp hơn cấp độ này có thể được chỉ ra bởi bất cứ người chơi nào vào bất cứ thời điểm về sau nào của ván đấu, tính đến lúc hộp astaragali được mở ra trước một sự thách thức lời tố. Khi lời tố đạt đến cấp độ Djinnverso: Bảy May mắn (L,L,L,L,L,L,L)[30], người chơi cần đưa ra lời tố cao hơn sẽ phải ném cả bảy viên astaragali, và sau đó có thể ném tất cả/vài/một/hoặc không viên nào thêm hai lần nữa để đạt được cấp độ Bảy May mắn khác. Nếu người chơi làm được điều này, không ai mất đi một điều ước nào, và người chơi tiếp theo sẽ bắt đầu một ván mới. Còn nếu không đạt được cấp độ Bảy May mắn lần nữa, người chơi sẽ mất đi một điều ước. Khi một người chơi chỉ còn lại một điều ước sau khi mất đi điều ước thứ hai của mình, người đó – chứ không phải người chơi ở bên trái họ – sẽ là người bắt đầu ván đấu tiếp theo, tức ném astaragali lại lần nữa. Mỗi người chơi bắt đầu ván đấu với ba điều ước, và sẽ bị loại khỏi ván đấu khi mất hết cả ba điều ước của mình. Người chiến thắng chung cuộc là người cuối cùng còn lại một điều ước. Nếu một người chơi vắng mặt khi đến lượt chơi của mình, người đó được coi như đã chấp nhận lời tố và chuyển hộp astaragali cho người chơi tiếp theo mà không ném viên astaragali nào, như là một lời tố Tốt hơn. Đó là Quy tắc Cairo. Mời các bạn đón đọc Hậu Duệ Thần Đèn Tập 2: Djinn Xanh Babylon của tác giả Philip Ballantyne Kerr.
Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield - Marc Levy
Eleanor-Rigby là nhà báo, cô sống tại Luân Đôn. Một sáng, cô nhận được một lá thư nặc danh cho biết mẹ cô từng có một quá khứ tội lỗi. George-Harrison là thợ mộc, anh sống ở Québec. Một sáng, anh nhận được một lá thư nặc danh tố cáo mẹ anh từng phạm tội. Eleanor-Rigby và George-Harrison không hề quen biết nhau. Những bức thư nặc danh kể về quá khứ hai người mẹ của mình - những chuyện mà họ chưa bao giờ biết. Vậy mối dây nào đã liên kết họ lại với nhau? Mẹ của họ đã phạm tội gì? Kẻ viết thư nặc danh kia là ai, mục đích của hắn là gì? Trí tò mò đã đưa họ giải mã từng nút thắt của câu chuyện với nhau, cùng nhau khám phá những bí mật và cả những nỗi đau bị che giấu trong quá khứ. Mỗi nhân vật trong câu chuyện đều là một mảnh ghép trong bức tranh toàn thể và tác giả đan xen những mẩu chuyện nhỏ về ông bà - ba mẹ hai nhân vật chính không theo một thứ tự cụ thể về không gian, thời gian. Marc Levy ghép mọi sự kiện lại một cách logic khiến người đọc không thể hài lòng hơn. Cùng với Eleanor và George-Harrison, Marc Levy đưa độc giả phiêu lưu tới nước Pháp thời bị chiếm đóng vào mùa hè năm 1944 rồi lại tới Baltimore những năm 1980 và trở về Luân Đôn ngày nay để khám phá ra một bí mật đã ám ảnh suốt ba thế hệ trong một gia đình. Những dối trá đã kéo họ xích lại gần nhau nhưng chính tình yêu đã giữ họ lại bên nhau. Cô gái cuối cùng của dòng họ Stanfield với những lắt léo của tâm hồn con người một lần nữa chứng tỏ tài năng kể chuyện vô song của Marc Levy. *** Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Ở tuổi 18, ông gia nhập Hội Chữ Thập Đỏ ở Pháp, nơi ông đã dành 6 năm hoạt động. Trong cùng thời gian, Ông học ngành quản lý máy tính ở trường Đại học Paris-Dauphine và sau đó sinh sống tại Hoa Kỳ từ năm 1984 đến năm 1991. Tại đây, ông đã đặt nền tảng cho hai công ty - một đặt cơ sở tại California và một ở Colorado - chuyên về đồ họa tin học. Vào năm 1991, ông hợp tác lập ra một công ty thiết kế và xây dựng ở trong nước mà sau này đã trở thành một trong những hãng kiến trúc dẫn đầu ở Pháp. Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Và nếu như chuyện này là có thật... vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi đã là một thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền phim Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi sự nghiệp viết văn của mình. Năm 2001, ông cho xuất bản quyển sách thứ hai, Em ở đâu?, tiếp theo là quyển Bảy ngày cho mãi mãi... vào năm 2003, Kiếp sau vào năm 2004 và quyển Gặp lại vào năm 2005. Năm 2005 cũng là năm trình chiếu bộ phim Just like Heaven của hãng Dreamworks - phỏng theo tiểu thuyết Et si c'était vrai... bởi các diễn viên chính: Reese Witherspoon và Mark Ruffalo. Xuyên suốt sự nghiệp viết văn kéo dài gần 20 năm của mình, nhà văn người Pháp Marc Levy sáng tác được tổng cộng 14 quyển tiểu thuyết. Trong số đó có 13 tác phẩm đã được dịch ở Việt Nam. Điểm thu hút trong văn chương của Marc Levy nằm ở chỗ lãng mạn, ngọt ngào. Ông bao giờ cũng khai thác những câu chuyện tình yêu ở khía cạnh tròn trịa và hấp dẫn nhất. Bên cạnh đó, vì tiểu thuyết của Marc Levy bao giờ cũng kết thúc bằng "happy ending" nên nó được xem là "kinh thánh" của những tâm hồn đang yêu. Và ngay cả những người đã mất lòng tin ở tình yêu cũng sẽ dễ dàng có lại được niềm tin đó ở sách của Marc Levy. Một số tác phẩm đáng chú ý: Nếu em không phải một giấc mơ, Gặp lại, Em ở đâu, Mọi điều ta chưa nói…   Các tác phẩm của Marc Levy đã được xuất bản tại Việt Nam: Nếu Như Được Làm Lại - Marc Levy Chuyện Chàng Nàng - Marc Levy Mạnh Hơn Sợ Hãi - Marc Levy Nếu Em Không Phải Một Giấc Mơ - Marc Levy Mọi Điều Ta Chưa Nói - Marc Levy Bảy Ngày Cho Mãi Mãi - Marc Levy Em Ở Đâu - Marc Levy Gặp Lại - Marc Levy Kiếp Sau - Marc Levy Đêm Đầu Tiên - Marc Levy Ngày đầu tiên - Marc Levy Những Đứa Con Của Tự Do - Marc Levy Bạn Tôi Tình Tôi - Marc Levy Chuyến Du Hành Kỳ Lạ của Ngài Daldry - Marc Levy Người Trộm Bóng - Marc Levy Một Ý Niệm Khác Về Hạnh Phúc Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield .... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield của tác giả Marc Levy.
Pegasus Tập 5: Sự Trỗi Dậy Của Các Titan - Kate O’Hearn
Khi Saturn, thống lĩnh của xứ Titus, tìm ra một vũ khí bí mật, xứ Olympus bị đẩy vào tình thế vô cùng nguy hiểm. Mắc kẹt trong cuộc chiến của những sức mạnh cổ xưa giữa các chiến binh Olympus và Titan, Emily và Pegasus phải bay về Thế giới Con người để tìm ra vật duy nhất có thể giúp giải cứu xứ Olympus… Ở đó, Ngọn lửa Olympus sẽ phải đối mặt với Ngọn lửa Titus.Trong cuộc đối đầu của những sức mạnh tối thượng, ai sẽ là người chiến thắng?.... Một cuốn truyện kỳ thú và phi thường! *** Lửa thần xứ Olympus dựng lên cuộc phiêu lưu kết hợp hai yếu tố hiện đại và cổ điển. Tác phẩm có cốt truyện gần gũi, nhân vật ở độ tuổi thiếu nhi đầy ắp trí tưởng tượng.  Tác giả Kate O'Hearn (người Canada) tự nhận mình là người "sinh ra dưới một ngôi sao lang thang". Những chuyến đi trong tuổi thơ đã bồi đắp cho bà trí tưởng tượng, kiến thức phong phú làm chất liệu cho tiểu thuyết. Ngoài bộ sách về chú ngựa Pegasus và cô bé Emily, bà viết một số tác phẩm khác như Shadow Dragon, Valkyrie, Herm's secret... Pegasus gồm có: Pegasus Tập 1: Lửa Thần Xứ Olympus  Pegasus Tập 2: Cuộc Chiến Bảo Vệ Xứ Olympus Pegasus Tập 3: Những Người Olympia Mới  Pegasus Tập 4: Nguồn Gốc Xứ Olympus Pegasus Tập 5: Sự Trỗi Dậy Của Các Titan *** TỪ QUÁ KHỨ XA XƯA Cuộc chiến giữa những người xứ Olympus và những người xứ Titus đã diễn ra và đã phân thắng định. Thần Jupiter, người đứng đầu của xứ Olympus và hai người anh em của mình là thần Neptune và thần Pluto, cùng nhân mã Chiron và ba Người Khồng lồ Trăm tay đã tập hợp tại đống tàn tro của cung điện, cùng đối mặt với những chiến binh Titan dữ tợn nhất. Cuộc chiến cuối cùng diễn ra tại Olympus. Cảnh vật quanh họ đã bị thiêu hủy và tàn phá. Vẻ đẹp của thế giới này đã bị xâm phạm. Nhưng từ giữa đống tro tàn của cuộc chiến, xứ Olympus sẽ lại hồi sinh. Nó sẽ vĩ đại và lộng lẫy hơn bất kỳ điều gì người ta có thể tưởng tượng được. Đứng trước mặt ba vị thần Jupiter, Neptune và Pluto - được biết đến với danh hiệu Bộ ba Quyền lực - là thần Saturn, cha đẻ của họ và là người lãnh đạo của xứ Titus. Hai cánh tay đã bị xiềng chặt của ông ta run lên vì giận dữ khi ông nhìn về phía những đứa con trai của mình. Cùng cảnh bị xiềng xích bên cạnh ông là những người anh em thân thiết, cũng là những kẻ thân tín nhất cũng đã bị đánh bại, nhưng vẫn còn vô cùng ngoan cố không chịu khuất phục. “Các ngươi mong ta quỳ xuống trước mặt các ngươi”, thần Saturn khinh bỉ nói, “để cầu xin những đứa con của ta tha thứ sau khi chúng đã dám thách thức sức mạnh của ta ư?” Thần Jupiter nhìn hai người anh em của mình và buồn bã lắc đầu. “Không, thưa Cha. Chúng tôi không cần người phải nói lời xin lỗi. Và ngay cả nếu người có nói lời xin lỗi thì tôi cũng không nghĩ nó có chút thành ý nào. Lời nói của người là hoàn toàn vô nghĩa.” “Vậy thì các ngươi muốn gì?” Thần Saturn hỏi. “Các ngươi có thể làm gì được ta? Các ngươi không thể tiêu diệt được ta hay bất kỳ Titan nào; chúng ta quá hùng mạnh.” “Người nói đúng. Chúng tôi không thể tiêu diệt người. Người nói như vậy làm tôi rất buồn. Chúng tôi vẫn là con đẻ của người.” “Con ta à?” Thần Saturn nhổ nước bọt xuống đất. “Các ngươi không bao giờ nên trốn khỏi Tartarus. Các người chỉ là những đứa con hoang vô ơn. Các ngươi không phải con của ta.” Thần Neptune thở dài. “Mọi lời nói và hành động của ông đều biểu lộ nỗi căm ghét đối với chúng tôi. Tất cả những gì ông khao khát chỉ là quyền lực. Ông là một khối u cần phải được cắt khỏi cuộc đời của chúng tôi, trước khi khối u đó lan ra rộng hơn.” Thần Saturn cười khinh bỉ. “Ta hỏi lại lần nữa: Các ngươi có thể làm gì ta chứ? Các ngươi chỉ là những cái bóng của sự vĩ đại của ta, không hơn.” “Không Cha à, chúng tôi không phải những cái bóng,” thần Neptune nói. “Chính ông mới là kẻ chiến đấu với những cái bóng.” “Ông tra tấn những sinh mạng vô tội để tạo ra đội quân Titan Ảo ảnh,” thần Pluto đồng ý. “Nhưng ngay cả bọn chúng cũng không đánh thắng nổi chúng tôi. Chúng đã biến mất và chúng tôi vẫn còn đây.” “Chính vũ khí bí mật của các ngươi mới tiêu diệt được những Titan Ảo ảnh của ta chứ không phải các ngươi. Ngươi đã cất giấu đứa con gái đó không cho ta tìm thấy. Nhưng đó chỉ là tạm thời mà thôi. Ta sẽ tìm được nó và khi đó, những Titan Ảo ảnh của ta sẽ trỗi dậy một lần nữa, và cuối cùng ta sẽ trở thành người thống trị những thế giới này, đó là định mệnh của ta.” “Ông sẽ không chạm được một ngón tay vào Emily!” Thần Jupiter hét lên. “Cuộc chiến đã kết thúc. Ông đã bị đánh bại!” “Jupe, bình tĩnh nào,” thần Neptune nói. “Ông ta đang cố gài bẫy anh mà thôi.” Thần Jupiter hít một hơi dài để giữ bình tĩnh. “Hòa bình đã trở lại với các thế giới, và đến một lúc nào đó, Olympus, Titus và Trái đất sẽ hồi sinh. Những dấu vết đen tối của người sẽ bị xóa sạch, người sẽ bị chìm vào quên lãng.” Thần Jupiter đứng thẳng người để đưa ra phán quyết: “Saturn xứ Titus, người đã bị kết án vì tội ác chống lại xứ Olympus. Người sẽ phải chịu chính hình phạt người đã chuẩn bị cho chúng tôi. Người sẽ bị mang khỏi đây và bị tống giam vào ngục sâu Tartarus, không bao giờ được hưởng tự do nữa.” “Tartarus không bao giờ có thể giam hãm ta!” Thần Saturn hét lên. “Đầu hàng ngay và ta sẽ tha cho các ngươi.” Thần Jupiter lắc đầu. “Người không bao giờ hiểu được ý nghĩa của từ tha thứ. Không, thưa Cha, cuộc chiến chấm dứt tại đây. Người và đám thuộc hạ sẽ bị tống giam vào ngục Tartarus và bị giam cầm trong đáy ngục tù. Người sẽ không bao giờ được thấy lại ánh sáng ban ngày.” “Ông sẽ cầu mong được chết, Cha à,” thần Pluto lạnh lùng nói. “Nhưng tôi sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Ông sẽ tồn tại và sẽ phải chịu đựng, như chúng tôi đã phải chịu đựng suốt ngần ấy thời gian.” Thần Saturn đưa hai tay lên. Dây xích kim loại nặng nề bắt đầu va vào nhau kêu lách cách. Khi cơn giận dữ của ông ta bùng nổ, lửa và chớp từ hai tay bắn ra, nhắm về phía những người con trai của ông ta. Ngay lập tức, thần Jupiter, Neptune và Pluto cùng giơ tay tạo chung một tấm khiên cản phá đòn tấn công của người cha. Những tia lửa bắn loạn xạ trong điện, làm gạch tan chảy và nung đá thành kính. Những cư dân Olympus chạy toán loạn tìm chỗ trú ẩn và núp sau những cây cột, nhưng may thay tấm khiên bảo vệ của Bộ ba Quyền lực đã bảo vệ họ an toàn. “Cha, hãy dừng lại!” Thần Jupiter nói lớn. “Người không thể chiến thắng!” “Vậy ta sẽ hủy diệt tất cả chúng ta!” Những Ngọn lửa thần và ánh chớp của thần Saturn nổi lên dữ dội hơn cho đến khi ông ta kiệt sức và những làn lửa yếu dần rồi tắt ngúm hoàn toàn. Thần Saturn đứng trước những người con trai của mình, người đẫm mồ hôi và cố gắng lấy hơi nói. “Điều này chẳng thay đổi được điều gì.” Thần Jupiter lắc đầu ghê tởm. “Nó thay đổi mọi thứ.” Ông gật đầu với những Người Khồng lồ Trăm tay. “Mang họ khỏi đây.” Ba thần quỷ trung thành, mỗi người có năm mươi cái đầu, gật đầu và vụng về cúi chào. Một trăm cánh tay của họ tóm tất cả các tù nhân chống đối và kéo họ đi. Mời các bạn đón đọc Pegasus Tập 5: Sự Trỗi Dậy Của Các Titan của tác giả Kate O’Hearn.
Thiên Hành Giả - Lưu Tỉnh Long
"Thiên Hành Giả" là một ca khúc bi tráng dành tặng cho các giáo viên nông thôn - những người anh hùng thầm lặng cống hiến vì sự nghiệp giáo dục tại các miền quê. Một nền giáo dục có thể lột tả được bộ mặt xã hội "Thiên hành giả" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Trung Quốc đương đại Lưu Tỉnh Long, từng đoạt giải Văn học Mao Thuẫn Trung Quốc năm 2009 cho tiểu thuyết xuất sắc nhất. Lấy bối cảnh là việc giáo dục đào tạo ở vùng nông thôn nghèo khó tại Trung Quốc thập niên 90 của thế kỷ 20, tác phẩm xoay quanh những cay đắng cơ cực của những người giáo viên dân lập trọn đời thầm lặng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục tại một vùng nông thôn nghèo khó, nhưng họ lại luôn bị lãng quên. Với phong cách tả thực, ngòi bút tinh tế, tác phẩm đã lột tả được chân thực cuộc sống cơ cực và tính cách rất riêng các nhân vật tiêu biểu tại trường tiểu học Giới Lĩnh cùng sự kiên trì dũng cảm, khát vọng và tấm lòng hết mình vì sự nghiệp đào tạo của các giáo viên dân lập. Đó là thầy giáo trẻ Trương Anh Tài, thầy hiệu trưởng Dư, hiệu phó Đặng Hữu Mễ, chủ nhiệm giáo vụ Tôn Tứ Hải… Mọi mối quan hệ trong nhà trường, giữa nhà trường với thôn xã, giữa nhà trường với các học sinh, phụ huynh… như những sợi dây tơ quấn quýt và bền chặt như một điển hình của xã hội thu nhỏ. *** Mặt trời tháng Chín vẫn không muốn mọi người nhớ đến sự êm dịu của mùa đông, khi vừa nhô lên đã để lộ khuôn mặt đỏ ối khiến người ta vừa nhìn thấy đã vã mồ hôi, ngạo mạn lơ lửng trên không trung, cuối cùng cũng đợi được đến lúc phải xuống núi, nhưng vẫn muốn vật lộn một phen, nhuộm chân trời thành một màu đỏ tươi. Cứ như vậy, thôn làng vùng cao bị nướng bởi cái nắng nóng gay gắt này mới tỉnh lại trong sự mơ mơ màng màng. Một con chó mực đuổi đàn gà từ trong rừng tre ra, cảnh gà bay chó nhảy loạn xạ khiến con trâu già trở về khi trời đã sẩm tối thấy chướng mắt, ngẩng đầu kêu một tiếng dài. Đại Trương gia trại yên tĩnh cả một ngày cũng nóng lòng muốn giải tỏa nỗi phiền muộn. Khói đen cuồn cuộn bốc lên từ những chiếc ống khói lớn nhỏ, chẳng mấy chốc đã bay đến sườn núi, rồi từ từ biến thành một dải mây xanh. Khi màn đêm buông xuống, cũng là lúc Trương Anh Tài, ngồi cả ngày dưới tán cây long nhãn ở ven làng, xem hết trang cuối cùng cuốn tiểu thuyết mà không rời tay. Đó là cuốn Giới trẻ nơi phố huyện do một cán bộ ở nhà văn hóa viết. Cũng chính vì mê quá nên mùa hè năm ngoái, khi vừa tốt nghiệp trung học phổ thông, Trương Anh Tài liền “ra tay” ăn trộm từ thư viện của trường, coi như đó là tài sản riêng. Vụ đó không hề nhỏ, có sáu đứa tham gia. Thực ra ban đầu chỉ có năm đứa, Lam Phi là gặp trong thư viện, cũng may là nó cũng đến để trộm sách, cả hai đều cùng chung chí hướng. Đầu tiên, Lam Phi nhét một quyển sách nói về thuyết “mặt dày tâm đen” vào trong áo, sau đó lại chọn thêm vài quyển về mưu mô tranh giành quyền lực nơi quan trường. Những đứa khác thì chọn sách về sửa chữa đồ điện gia dụng, sửa chữa máy móc, chăn nuôi, trồng trọt, v.v… Trương Anh Tài chỉ chọn một quyển, sau đó chuồn ra ngoài canh chừng. Nghe nói ông Vạn - Trưởng Phòng giáo dục xã sắp đến, Trương Anh Tài ngày nào cũng ôm quyển sách ra ven làng, vừa đợi vừa xem, hai ba ngày xem hết một lượt. Càng xem cậu ta càng thấm thía câu nói cửa miệng của chủ nhiệm lớp khi đó động viên cả bọn: chết ở cống thành phố còn hơn sống bên suối ở Giới Lĩnh, quả thực là rất sâu sắc thấu đáo. Giới Lĩnh là khu vực xa nhất, sâu nhất và cao nhất ở vùng sơn cước này, đứng trước cửa nhà ngẩng đầu nhìn về hướng đó thôi cũng cảm thấy mệt. Mời các bạn đón đọc Thiên Hành Giả của tác giả Lưu Tỉnh Long.