Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viết Và Đọc Tiểu Thuyết

Ðây là một cuốn sách viết để bất cứ người nào cũng có thể hiểu được miễn là biết đọc chữ Quốc ngữ. Vì vậy tôi cố tránh dùng những từ khó hiểu, những câu ý nghĩa tối tăm. Đây không phải là một cuốn sách bàn luận khô khan chỉ dành riêng cho một số người ít ỏi, có học thức cao, và quen thuộc với những danh từ triết lý. Sở dĩ tôi viết cuốn Viết và đọc tiểu thuyết này là vì tôi tin tưởng một cách rất chắc chắn rằng: 1. Bất kỳ ai biết chữ Quốc ngữ, cho dẫu người đó viết văn sai mẹo hay không có học thức cao rộng, cũng có thể viết ra những tiểu thuyết có giá trị. Cái chính là cần có khiếu riêng, cái khiếu ấy có thể có ở bất cứ giới nào, người làm thợ hay người làm ruộng, nhưng xưa nay không nảy nở ra được chỉ vì cái thành kiến trưởng giả cho văn nghệ tiểu thuyết là một thứ cao siêu dành riêng cho một hạng người. 2. Phần đông người viết tiểu thuyết (nổi tiếng hay vô danh) có những quan niệm sai lầm làm cho họ đi vào những con đường chật hẹp hoặc lạc hướng nên văn nghệ của nước nhà vì thế mà sút kém. Sau gần bốn mươi năm kinh nghiệm viết tiểu thuyết, trải qua bao nhiêu phen lầm lỗi và tìm tòi, tôi tự thấy cái trách nhiệm giúp đỡ một phần nào vào sự cố gắng của hàng nghìn hàng vạn các anh chị em có chí muốn tiến trên đường văn nghệ. Cuốn sách này không thể làm cho bất kỳ ai cũng thành văn sĩ một cách dễ dàng, nhưng - tôi mong thế - sẽ giúp đỡ: 1. Những người mới bước chân vào làng văn khỏi bỡ ngỡ, mất công tìm kiếm và mất rất nhiều thì giờ vì bước lầm đường. 2. Một số người đã có nhiều tác phẩm, suy xét lại về lối viết của mình và tìm ra con đường mới hợp với tài năng của mình hơn. 3. Những thiên năng ở những người ít học bị cái hàng rào thành kiến bấy lâu ngăn cản, được thoát ra ngoài để giúp cho nền văn hóa nước nhà thêm phong phú (chỉ có những người thợ, người dân quê mới dễ viết tiểu thuyết về đời sống của họ). Đó là đối với những người viết tiểu thuyết, còn đối với độc giả tôi cũng tin rằng: Trình độ độc giả cao thì nền văn hóa cũng cao. Độc giả sáng suốt, có quan niệm đúng về nghệ thuật sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những tài năng chân chính, và sẽ có thêm nhiều thú thanh cao mà trước kia không được hưởng vì không biết đến. Tuy chỉ là độc giả nhưng cũng cần đọc đoạn nói về cách viết tiểu thuyết để có sự nhận chân về nghệ thuật. Cuốn sách này lại có thể giúp ích cho các học sinh khi học văn và khi viết văn. * Xin nhớ là cuốn sách này tôi chỉ viết về tiểu thuyết thôi chứ không nói đến các loại văn khác như loại thơ, nghị luận, phê bình, giáo khoa v.v... hoàn toàn khác hẳn tiểu thuyết (cũng như văn của ông Phạm Quỳnh, ông Trần Trọng Kim, ông Phan Văn Hùm khác hẳn văn tiểu thuyết). Nếu trong bài khảo luận này có dùng đến những chữ “văn”, “văn sĩ”, “văn nghệ”, “sách” v.v.. cũng chỉ là nói về văn hoặc sách tiểu thuyết thôi. Cũng có nhiều khi tôi trích làm thí dụ một câu của nhà văn này mà không trích của nhà văn khác, đó không phải là vì thiên vị mà chỉ vì trong hiện tình không kiếm được sách để trích ra. Cũng có khi tôi trích trong những truyện của tôi (có lẫn cả chê khen), đó cũng chỉ vì những cái dở, cái hay ấy nó dễ đến ngay trong ý nghĩ khi tôi muốn lấy một thí dụ thích hợp mà không kịp tìm thấy ở trong truyện của các nhà văn khác. Tác giả *** Những điều lầm lỗi Trước hết tôi nói về ý định của một người muốn viết một cuốn sách có nghệ thuật cao siêu, bền mãi với thời gian, như những cuốn Hoà bình và chiến tranh, Anna Kha Lệ Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoï, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov, cuốn Những người bị ám ảnh của Dostoïevsky, cuốn Đỉnh gió hú của nữ văn hào Anh Emily Brontë, những tiểu thuyết của nữ văn hào Anh G. Eliot v.v... và độ hơn trăm cuốn sách khác, mỗi cuốn một vẻ, nhưng đều là những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận. Đó là lý tưởng muốn noi theo của phần đông những người viết tiểu thuyết. Hoặc có người muốn viết tiểu thuyết loại trinh thám, phiêu lưu v.v... nhưng nghệ thuật của những cuốn đó cũng không khác nghệ thuật của những cuốn kể trên. Bây giờ tôi chỉ nói đến. Tiểu thuyết hay (không phân biệt loại gì) Tôi tự đặt mình vào một địa vị những người muốn viết tiểu thuyết và lần đầu lấy giấy bút ra suy nghĩ. Người ta định viết để làm gì và viết những gì? - Có người viết để ghi lên giấy một chuyện riêng (thí dụ: câu chuyện tình, một sự nhớ nhung, một cảnh vui vẻ hoặc sầu thảm trong gia đình v.v...) - Có người viết để ghi một câu chuyện nghe thấy hoặc một cảnh nhìn thấy đã làm họ cảm động. - Có người viết để đả đảo một sự bất công, để tán dương một cái gì tốt đẹp, để nêu lên một lý thuyết và đặt ra một câu chuyện để thực hiện ý đó (loại tiểu thuyết này gọi là luận đề tiểu thuyết). - Có người viết chỉ để cám dỗ người đọc, viết những tiểu thuyết có cốt truyện ngoắt ngoéo, những trường hợp éo le ly kỳ, nhiều chỗ bất ngờ, hồi hộp. - Có người viết chỉ thấy mình cần phải viết. Viết để làm gì, viết về thứ gì, cái đó không quan trọng. Cái quan trọng nhất là viết có hay không, tức là nghệ thuật có cao không (còn thế nào là hay, là nghệ thuật cao, sẽ bàn sau). Điều rất giản dị này, giản dị gần như là một sự cố nhiên, điều mà tôi đã biết từ khi viết những cuốn sách đầu tiên năm mười sáu, mười bẩy tuổi (cuốn Thôn dã, Hai chị em không hề xuất bản lần nào), điều mà bất cứ văn sĩ hay độc giả nào cũng biết, thế mà sau hơn hai mươi năm viết văn, tôi mới nhận ra và chính tôi đã nhiều lần phạm lỗi không cho sự viết hay là cái chính. Sự lầm lỗi này đa số tiểu thuyết gia có, nhưng trước hết tôi đem tôi ra làm thí dụ: 1) Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ để ý đến các ý thích của riêng mình. Tôi thích những truyện về đời riêng của tôi mà tôi thấy rất là lý thú, chỉ việc đem viết lên giấy và viết xong thấy nó hay ngay. Nhưng nếu đưa một người khác xem thì người ấy không thấy hay ở chỗ nào. Tôi đã bị cái tính yêu riêng những việc mình viết nó huyễn hoặc làm hoa mắt, không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay. Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là mình đứng làm chủ mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là mình biến thành một người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn không bị cái yêu cái ghét riêng làm cho thiên vị. 2) Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn vẻ. Tôi bị ảnh hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn chương Tàu hay ta hồi ấy (quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra những câu như thế và cho ngay là truyện của tôi hay. Tôi còn nhớ một lần viết truyện Hồng Nương (không xuất bản), tôi viết xong một câu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trong lòng sung sướng mê man, thỉnh thoảng lại ngừng lại đọc to câu đó lên: “Hồng Nương! Hồng Nương! Sao đêm nay ta đọc đến tên nàng”và tôi quên cả đi ngủ. Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng đọc lại nhưng chỉ để tự giễu mình sao một câu như thế lại có thể cho là hay đến mê man. Ngay đến khi viết truyện đăng báo Phong hóa 1932 - 1933 (năm đó tôi đã hăm bảy, hăm tám tuổi) mà vẫn còn bị câu “văn vẻ” nó quyến rũ. Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng Mới Trong Rừng Xuân: “Đôi bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành thông như tiếng than vãn của buổi chiều”. Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có nhưng đừng “văn vẻ”, “sáo” quá như thế, giản dị hơn như những câu trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác, đúng những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ cảm giác, nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không. Mời các bạn đón đọc Viết Và Đọc Tiểu Thuyết của tác giả Nhất Linh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới
Định nghĩa về “công dân toàn cầu” T hành công của dự án “Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới” là một ví dụ minh họa cho sự toàn cầu hóa của thế giới ngày nay. Trang web và trang Facebook của nhóm Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới được thành lập vào giữa tháng Tám năm 2015, khi ba người bạn trong độ tuổi đôi mươi lại một lần nữa bước vào các cuộc hành trình mới ở những mảnh đất xa lạ. Phạm Anh Đức từ Cộng Hòa Séc chuyển sang London, Anh để bắt tay vào xây dựng một dự án khởi nghiệp. Hồ Thu Hương sắp di cư từ Vancouver, Canada tới Boston, Hoa Kỳ để sinh sống với chồng cô là người Mexico. Còn Nguyễn Phan Linh vừa được công ty truyền thông xã hội của Cộng Hòa Séc cử sang Singapore làm việc cho chi nhánh mới mở của họ. Ba con người, ba châu lục với một niềm quyết tâm: mong muốn giúp đỡ thế hệ trẻ Việt Nam trở thành những công dân toàn cầu. Không có một định nghĩa cụ thể về công dân toàn cầu. Nếu hỏi một trăm người, thì cả trăm sẽ giải thích cho bạn về cụm từ này bằng những cách khác nhau. Đối với những người theo dõi Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới, thì công dân toàn cầu là: “... tự tin đi muôn nơi.” Bùi Mỹ Huyền, Hà Nội “... người không ngừng trải nghiệm, kết nối, học hỏi và hoàn thiện bản thân.” Nguyễn Hoàng Linh Chi, Thành phố Hồ Chí Minh “... người có tư duy toàn cầu. Chia sẻ những vấn đề lớn chung của toàn cầu và họ phải hiểu được toàn cầu hóa không loại bỏ bản sắc riêng.” Đinh Thị Mỹ Linh, Quảng Ninh “... một con người của mọi quốc gia, sẵn sàng học hỏi, sẵn sàng giúp đỡ, sẵn sàng hòa nhập và hài hòa với thế giới.” Lâm Bảo Nhi, Cần Thơ “... trưởng thành hơn trong suy nghĩ, có mục tiêu trong cuộc sống, tự tin hơn trong giao tiếp, làm quen được nhiều bạn bè mang nhiều quốc tịch và đặc biệt là sống có ích hơn.” Trần Thị Thu Lợi, Hàn Quốc Theo Ronald Israel, người sáng lập ra tổ chức The Global Citizens’ Initiative, “công dân toàn cầu là người coi bản thân là một phần của cộng đồng thế giới đang lớn dần và hành động của người đó đóng góp vào việc xây dựng các giá trị và thông lệ của cộng đồng này.”1 Theo các tác giả của cuốn sách này, bạn đã có những phẩm chất của một công dân toàn cầu khi: ✓ Bạn đã từng sinh sống tại các quốc gia khác nhau trên thế giới; ✓ Bạn biết và sử dụng được từ hai ngoại ngữ trở lên; ✓ Bạn coi trọng những ý kiến và cách suy nghĩ đa chiều (nhưng không nhất thiết là bạn phải đồng ý với chúng); ✓ Bạn không có những định kiến đối với những người bạn không quen biết; ✓ Bạn quan tâm đến các vấn đề và tin tức toàn cầu; ✓ Bạn không ngại thay đổi và trải nghiệm những điều mới mẻ; ✓ Bạn thích nghi dễ dàng trong một môi trường mới; ✓ Bạn không ngại đối phó với bất cứ trở ngại nào trên con đường dẫn đến mục tiêu và không chịu bỏ cuộc; ✓ Bạn biết tự tìm kiếm các thông tin cần thiết và biết sử dụng các thông tin đó một cách hiệu quả; ✓ Bạn không gặp vấn đề khi tiếp xúc với những con người khác nhau vì bạn biết cách cư xử trong môi trường đa văn hóa. Có khá nhiều nhân vật cả trong lịch sử lẫn hiện đại ủng hộ quan niệm “công dân toàn cầu”. Diogenes2 thành Sinope từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã từng tuyên bố là: “Tôi là công dân của thế giới.”3 Albert Einstein cũng đã coi mình là công dân của thế giới và đã tuyên bố trước Hội Triết học Pháp tại trường Đại học Sorbonne vào năm 1922: “Nếu như những lý thuyết của tôi đề ra là đúng thì người Đức sẽ nói tôi chính gốc là người Đức. Người Pháp sẽ nói tôi là công dân quốc tế. Nếu sau này có những chứng minh cho rằng lý thuyết của tôi đề ra còn có những thiếu sót, thì người Pháp sẽ nói tôi đã từng là người Đức và người Đức sẽ nói tôi là một tên Do Thái.”4 Tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống của chúng ta đang ngày càng trở nên toàn cầu hóa: chúng ta có thể giao tiếp với toàn thế giới qua Internet, chúng ta quan tâm tới những vấn đề của toàn cầu, chúng ta yêu, nghe nhạc, xem phim, ăn đồ ăn và đi du lịch xuyên quốc gia. Có thể nói là mỗi người trong chúng ta đều có một phần là công dân toàn cầu. Trở thành công dân toàn cầu cũng đồng nghĩa với việc bạn trở thành một con người tốt hơn: bạn đồng cảm với người khác, bạn biết cách lắng nghe và giúp đỡ người khác, bạn biết nhiều ngôn ngữ, bạn có thể sống mọi nơi, mọi người quý mến bạn vì bạn là một người hòa đồng và cởi mở, bạn thông minh vì ham học hỏi, bạn rất năng động và có ý chí lớn. Trong những năm trở lại đây, nhất là sau khi bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc được ký kết, có khá nhiều những tổ chức phi chính phủ được mở ra để ủng hộ và phát triển định nghĩa “công dân toàn cầu”. Chẳng hạn như tổ chức “Global Citizen” có trụ sở tại Đan Mạch hằng năm tổ chức các lễ hội âm nhạc với những ca sĩ và ban nhạc nổi tiếng thế giới, như Stevie Wonder, Alicia Keys, Beyoncé, Coldplay hay Ed Sheeran. Mục đích của sự kiện là kêu gọi người dân trên toàn thế giới quan tâm và giúp đỡ chấm dứt sự nghèo đói từ nay đến năm 2030 (đây cũng là mục đích chính trong Những mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc). Các tổ chức phi chính phủ khác như The Global Citizens’ Initiative (theglobalcitizensinitiative.org) có trụ sở ở tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, Citizens For Global Solutions (globalsolutions.org) với trụ sở ở Thủ đô Washington D.C, Hoa Kỳ hay The Global Citizen Forum (gcfnetwork.org) có trụ sở ở Singapore đều quyết tâm đấu tranh với những vấn đề nan giải của thế giới. Biết đa ngôn ngữ hay sống tại đa quốc gia chỉ là bước đầu trên con đường của những công dân toàn cầu. Bước tiếp theo mới là bước chủ chốt: bắt tay vào giúp đỡ và góp phần cho sự phát triển của thế giới. Các tổ chức quốc tế lớn cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc hợp tác toàn cầu và đã hình thành những bộ phận chú trọng đến những vấn đề đó. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã phát động một chương trình mang tên “Giáo dục công dân toàn cầu” nhằm giúp đỡ người dân trở thành những con người đóng góp tích cực cho các hoạt động để giải quyết và đối mặt với các thách thức toàn cầu, hướng tới một thế giới hòa bình hơn, an toàn hơn và khoan dung hơn. Những tổ chức thanh niên và sinh viên như AIESEC (aiesec.org) hay Global Shapers (www.globalshapers.org) và những tổ chức cho học sinh và thanh thiếu niên như Global Kids (www.globalkids.org) hay Global Kids Connect (www.globalkidsconnect.org) đều tạo ra nhiều cơ hội cho giới trẻ trở thành những công dân toàn cầu tương lai. Ngày nay, khi ra nước ngoài du lịch, học tập hay làm việc không còn là một đặc quyền của những người giàu có, mỗi người trong chúng ta đều có thể trở thành công dân toàn cầu nếu chúng ta mong muốn. Chúng ta không có quyền chọn nơi mình sinh ra, nhưng chúng ta có quyền chọn nơi chúng ta muốn sinh sống và phát triển. Nhưng khởi đầu con đường vươn tới thế giới như thế nào không phải là một chuyện giản đơn, mà cần có sự chuẩn bị kỹ càng và ý chí rất lớn để có thể vượt qua khó khăn trên các chặng đường. Khái niệm về công dân toàn cầu cũng bắt đầu phát triển tại Việt Nam. Đất nước của chúng ta không hề ít những con người đa quốc gia và đa ngôn ngữ, với những người trẻ tuổi và tài ba như hoa hậu Ngô Phương Lan (xuất thân từ gia đình ngoại giao, cô đã từng sinh sống và học tập tại Thụy Sĩ, Pháp và Hoa Kỳ), nhà thiết kế Anna Võ (tên thật là Võ Ngọc Thúy Anh, cô đã từng hoàn tất các khóa học tại Anh, Hoa Kỳ và Ý), ca sĩ Bảo Hân của Paris By Night (cô đã lớn lên tại Áo, từng sống tại Canada và hiện đang định cư tại Hoa Kỳ) hay chủ chuỗi cửa hàng The KAfe Đào Chi Anh (sinh ở Nga, sống một thời gian dài ở Đức và Đài Loan, sau đó làm việc ở Singapore trước khi trở về Việt Nam lập nghiệp). Ba tác giả trẻ tuổi của cuốn sách bạn đang cầm trên tay cũng là những công dân toàn cầu điển hình khi cả ba đều đã từng sống, học tập và làm việc tại nhiều quốc gia trên thế giới, mặc dù họ vừa mới rời ghế nhà trường. Đức sinh ra ở Hà Nội và lớn lên tại Praha (Cộng Hòa Séc). Bên cạnh đó, anh đã sống tại Brasília (Brazil), Lyon (Pháp) và London (Anh). Hiện anh đang làm việc tại Thượng Hải (Trung Quốc). Anh sử dụng thành thạo các thứ tiếng: Việt, Séc, Anh và Pháp và đang học tiếng Trung Quốc. Hương sinh ra ở Hà Nội và lớn lên tại Havířov và Praha (Cộng Hòa Séc). Bên cạnh đó, cô đã từng sống tại Buenos Aires (Argentina), thành phố Mexico (Mexico) và Vancouver (Canada). Hiện cô đang định cư ở Boston (Hoa Kỳ). Cô sử dụng được các thứ tiếng: Việt, Séc, Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Linh sinh ra và lớn lên tại Nghệ An. Anh từng sống tại Palmerston North (New Zealand) và Praha (Cộng Hòa Séc). Hiện nay, anh đang làm việc tại Singapore. Linh nói được tiếng Việt, tiếng Anh và đang học tiếng Séc và Đức. Họ gặp nhau ở trường Đại học Kinh tế Praha tại Cộng Hòa Séc, và như những con người toàn cầu thực sự, sau khi tốt nghiệp họ đã chọn cho mình những hướng đi khác nhau. Nhưng cả ba có một điểm chung: họ đều là những người đã tận dụng những cơ hội quý báu để trở thành công dân toàn cầu. Khi còn ngồi trên giảng đường đại học, cả ba đều là những người có nhiều hoài bão. Họ mơ ước được mang quyển hộ chiếu Việt Nam đi khắp thế giới, để chứng tỏ với mọi người là họ vẫn có thể đến bất cứ quốc gia nào họ muốn với tấm hộ chiếu từ một “đất nước thứ ba”. Trong cuốn sách Hộ chiếu xanh đi quanh thế giới: Những bước để trở thành công dân toàn cầu, ba tác giả sẽ giới thiệu những bí quyết để trở thành công dân toàn cầu, chia sẻ những kinh nghiệm của họ cũng như giúp bạn vạch hướng đi ra thế giới. Từ khi bắt đầu dự án Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới, các tác giả đã tổ chức những buổi giao lưu và nói chuyện thường xuyên với những bạn trẻ ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, vì họ tin rằng học hỏi kinh nghiệm và tri thức từ những người đi trước là cách tốt nhất và hiệu quả nhất để mọi người có thể thực hiện được ước mơ của mình. Những chi tiết và câu chuyện trong cuốn sách này đã được thu thập lại từ những buổi giao lưu như vậy. Cuốn sách không chỉ mang lại cho độc giả những câu chuyện và kinh nghiệm của các tác giả, mà nó còn được viết với mục đích truyền động lực và cung cấp các công cụ để độc giả tìm được những giá trị và niềm đam mê của bản thân, và tìm được hướng đi thích hợp cho mình. Mục đích chính của cuốn sách không chỉ là để đọc, suy ngẫm và rút ra những bài học, mà đây còn là một cuốn sách kêu gọi hành động. Đây chính là một cẩm nang dành cho bất cứ ai có nguyện vọng hoàn thiện bản thân và sánh vai cùng các công dân toàn cầu. Sự di chuyển dễ dàng tạo ra nhiều cơ hội mới, nhưng cũng dẫn tới nhiều sự cạnh tranh. Càng chuẩn bị sớm và kỹ càng cho thế giới toàn cầu hóa ngày nay, bạn sẽ càng sớm được thưởng thức những hương vị của toàn cầu. Vậy hãy cầm cuốn hộ chiếu xanh của bạn đi quanh thế giới cùng Đức, Hương và Linh nhé! Mời các bạn đón đọc Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới của tác giả Hồ Thu Hương & Nguyễn Phan Linh & Phạm Anh Đức.
Chuyện Lính Tây Nam
Gần 5 năm từ 1978 đến 1983 được gói gọn lại trong 300 trang sách chia thành 120 đoản khúc mô tả sự thực đã xảy ra ở chiến trường Tây Nam, một sự thật trần trụi “Nó không chỉ có anh dũng lao lên mà đó còn là cuộc sống hiện tại của người lính chiến vào những năm đầu những năm 1980”. Chuyện lính Tây Nam cho thấy sự khốc liệt, nghiệt ngã tới mức như trò đùa của chiến tranh. Sự sống và cái chết quá mong manh. Cái chết rình rập, bám theo từng bước chân người lính, ẩn nấp trong từng gốc cây, ngọn cỏ. Nhiều khi không chết bởi họng súng địch bên kia chiến hào, mà chết dần chết mòn bởi ma thiêng nước độc, với những hầm chông, bãi mìn câm lặng. Nhưng trong khói lửa chiến tranh chết chóc, dưới ngòi bút của một tay bút nghiệp dư, một người “không phải là nhà văn nhà báo” từng tham gia quân ngũ 40 năm trước, thiên nhiên đất nước Chùa Tháp vẫn hiện lên với vẻ đẹp vừa hoang sơ quyến rũ, vừa bí ẩn hiểm độ. Lâu rồi trong lịch sử xuất bản Việt Nam mới có một cuốn sách là hồi ức về lính, đặc lính được xuất bản và nhận được nhiều phản hồi, dư luận tích cực của bạn đọc như Chuyện lính Tây Nam của Trung Sỹ. Tác giả tên thật là Xuân Tùng, nguyên trung sỹ thông tin, phục vụ tại Tiểu đoàn bộ binh 4 Trung đoàn 2, Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 trong thời gian chiến tranh biên giới Tây Nam 1978 - 1983. Một anh lính Hà Nội hào hoa ra đi vào năm 18 tuổi. Cái tuổi “vừa biết yêu” ấy đã được trận mạc dạy cho nhiều thứ từ phục kích, bắn lén, càn quét… cho đến đói khổ, buồn đau, trưởng thành. *** TÔI LÀ MỘT NGƯỜI LÍNH BỘ BINH, đã tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, đánh đổ chính phủ diệt chủng Kh’mer Đỏ từ năm 1978 đến năm 1983. Sau hơn bốn năm rưỡi dọc dài các nẻo chiến trường đất nước Chùa Tháp, tôi trở về bước lên bậc thềm nhà đúng chiều 23 Tết Quý Hợi 1983. Bốn năm đầy hy sinh gian khổ, với rất nhiều bạn bè đồng đội tôi đã không trở về. Cuộc sống làm ăn xô cuốn, nhưng những gương mặt thân quen ấy nhiều đêm trở lại. Tên các anh em vẫn luôn được nhắc trong những ngày kỷ niệm, trong hàn huyên lính cũ bên cốc bia hơi vỉa hè hàng phố. Chính họ đã nhắc tôi kể lại câu chuyện Tây Nam này, dù tôi không phải nhà văn, nhà báo. Tên tuổi các anh em tôi giữ nguyên không đổi, như là họ vẫn còn sống trên đời. Cũng bởi ngại ngần chưa dám nhờ ai, nên tôi tự mình viết luôn lời tựa cho cuốn sách này, như một người lính được lệnh bước lên dưới quân kỳ, tự giới thiệu mình trước mặt hàng quân. Ba mươi sáu phố phường yêu dấu ta ơi Mỗi một người đi hồn nhói tên một phố Gió chôn vội mắt đêm nhiều ô cửa Sáng nay mưa buồn lòng còn mỗi ngoại ô.   Hà Nội, mùa hè năm 2017 Mời các bạn đón đọc Chuyện Lính Tây Nam của tác giả Trung Sỹ.
Hải Trình Ven Bờ - Jorge Amado
Nhà văn Brazil nổi tiếng Jorge Amado (1912-2001) không có ý định viết hồi ký. Tác phẩm “Hải trình ven bờ” (Navigation de cabotage, 1992) chỉ là những mảnh vụn hồi ức qua nhiều năm được ông ghi lại và quyết định cho công bố với hy vọng đưa ra câu trả lời cho một số câu hỏi “thế nào” và “vì sao”về những sự kiện và con người thế kỷ XX mà ông có dịp chứng kiến và trải qua. Với ông, đó là những điều vui buồn ông đã trải trên hải trình đi sát bờ của chuyến tàu có tên gọi là Cuộc Sống. Ông viết “Tôi vốn không phải sinh ra để thành người nổi tiếng, đừng đo tôi bằng những thước đo “cỡ lớn - cỡ nhỏ” - lạy Chúa, tôi không bao giờ cảm thấy mình là một nhà văn nổi tiếng, một cá nhân xuất sắc cả. Tôi chỉ đơn giản là một nhà văn, đơn giản là một cá nhân? Như thế còn ít sao?” Thời gian và địa điểm ở đây là lúc và nơi diễn ra sự việc, chứ không phải chỗ khi ông ghi chép lại. Bản dịch được thực hiện theo bản tiếng Nga của A. Bordanovski đăng trên tạp chí “Văn học nước ngoài” của Nga số 7 năm 1998. *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)  Mời các bạn đón đọc Hải Trình Ven Bờ của tác giả Jorge Amado.
Hồi Ức Và Suy Nghĩ - Trần Quang Cơ
Tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ (1920–) lưu chuyển trong nước từ đầu năm 2003. Tác giả nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao, thành viên Đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội nghị Paris (68–73) về Việt Nam. Trước khi làm việc tại Bộ Ngoại Giao (1954), Trần Quang Cơ là sĩ quan quân đội nhân dân giảng dạy tại trường Cao Đẳng Ngoại Giao. Ông là cán bộ ngoại giao suốt 44 năm (54–97) –1964 làm bí thư thứ nhất ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – 1966 Trần Quang Cơ trở lại Hà Nội, 1976 phụ trách Vụ Bắc Mỹ rồi chuyển sang vụ Âu Châu trước khi sang làm Đại Sứ tại Thái Lan vào năm 1982. Được đưa vào Trung ương đảng cộng sản Việt Nam từ 1986; ròng rã 12 năm kể từ 1979, ông Trần Quang Cơ tham gia các cuộc thương lượng nhằm giải quyết chiến tranh tại Cambodia. Sau chiến tranh Việt Nam, ông tham gia cuộc đàm phán bình thường hoá quan hệ với ba nước Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Quốc. Tháng hai 1991, ông xin rút ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam khóa VII nhưng không được chấp thuận. Tháng bẩy cùng năm ông gặp Tổng Bí Thư Đỗ Mười xin không nhận chức bộ trưởng ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch. Cuối năm 1993, ở Hội nghị giữa nhiệm kỳ, ông tự ý xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Trong chiều hướng đi tìm những đối thoại thẳng thắn giữa cựu thù, McNamara đề nghị những học giả và cựu lãnh đạo cuộc chiến hai bên cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ cùng ngồi xuống duyệt lại những quyết định trong cuộc chiến nhằm hiểu rõ để khả dĩ rút được những kinh nghiệm lịch sử, thực dụng cho toàn cầu qua “bài học Việt Nam”. Sáu hội nghị như trên đã diễn ra tại Hà Nội từ tháng 11, 1995 đến tháng 2, 1998; Hội nghị thứ 7 thực hiện tại Viện Rockefeller ở Bellagio, Italy. Ông Trần Quang Cơ, Nguyễn Cơ Thạch và một số học giả, tướng lãnh và cựu lãnh đạo CHXHCN Việt Nam đã tham dự chuỗi hội nghị này, quan trọng nhất là hai hội nghị chính vào tháng 6, 1997 và tháng 2, 1998. Tập tài liệu này ghi lại nhiều dữ kiện quan trọng về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa lớn nhỏ, với Hoa Kỳ và khối ASEAN cũng như những tranh chấp trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam. Ghi lại những thông tin nổi cộm về các vấn đề của Việt Nam cận đại sau hơn bốn mươi năm mắt thấy tai nghe – được giữ kín–mật, chưa bao giờ phổ biến – cùng với những suy nghĩ của một cán bộ cộng sản trung kiên, tập hồi ký này sẽ phần nào giúp các nhà quan sát, những người cầm bút, thêm tài liệu phân tích cục diện Việt Nam những năm sau cuộc nội chiến và những tháng ngày trước mặt. Dù ở ngàn năm trước hay ngay thời đương đại, quan hệ Việt–Trung lúc nào cũng là nỗi quan ngại của người Việt Nam, nhất là trước những mất mát, thiệt hại, đe dọa lớn đến chủ quyền và tài nguyên Việt Nam trong những năm gần đây dọc đường biên giới phía Bắc cũng như ở Vịnh Bắc Việt và cả vùng Biển Đông của Tổ Quốc; tập tài liệu này chỉ rõ một số hệ quả của tư duy và cách ứng xử của những người có trách nhiệm an dân bảo quốc trong những thập niên cận đại. Đấy là những bài học quý giá cho tất cả mọi người Việt quan tâm đến vận mệnh dân tộc. Phụ đính, mục lục, tất cả những cước chú và chú thích cuối tập tài liệu nhằm giúp người đọc dễ hiểu hơn và để tra cứu thêm khi cần. Phần phụ đính gồm một nhận định khác của Trần Quang Cơ (Tạp chí Cộng Sản số 31, 2003) và một số những trích đoạn bài viết liên hệ đến tập hồi ký trước năm 2005. Người biên tập *** TS Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, nguyên Trưởng Nhóm Tư vấn Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, viết về Trần Quang Cơ khi ông mới qua đời: "Trần Quang Cơ đã bảo vệ đến tận cuối cuộc đời mình tất cả những kế sách mà ông cho là hiệu quả trong cuộc đấu tranh không cân sức với Trung Quốc." Trần Quang Cơ là sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, từng giảng dạy tại trường Cao đẳng Ngoại giao. Từ năm 1954 ông làm việc cho Bộ Ngoại giao. Ông là cán bộ ngoại giao suốt 44 năm (năm 1954– năm 1997). Năm 1964, ông làm Bí thư thứ nhất ở Đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Indonesia. Năm 1966, ông trở lại Hà Nội, là thành viên đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris (68–73) về Việt Nam. Năm 1976, ông phụ trách đàm phán quan hệ Bắc Mỹ rồi chuyển sang châu Âu trước khi đi làm Đại sứ tại Thái Lan vào năm 1982 cho tới năm 1986.[3] Nhà báo Thái Lan Kavi Chongkittavorn nhận xét, ông là một người lịch lãm, hiểu biết, và sâu sắc. Ông được đưa vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986. Trong suốt 12 năm kể từ 1979, Trần Quang Cơ tham gia các cuộc thương lượng nhằm giải quyết chiến tranh tại Campuchia. Sau chiến tranh Việt Nam, ông tham gia cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ với ba nước Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc. Tháng 2 năm 1991, ông xin rút ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII nhưng không được chấp thuận. Tháng 7 cùng năm ông gặp Tổng Bí thư Đỗ Mười xin không nhận chức Bộ trưởng ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch. Cuối năm 1993, ở Hội nghị giữa nhiệm kỳ, ông tự xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng. Năm 2001, ông cho ra hồi ký 'Hồi ức và Suy nghĩ' nói về các sự kiện ngoại giao thời hậu chiến. Ông mất ngày 25 tháng 6 năm 2015 tại Hà Nội. Mời các bạn đón đọc  Hồi Ức Và Suy Nghĩ của tác giả Trần Quang Cơ.