Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Đất Hứa Của Tôi - Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel

Miền đất hứa của tôi là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, băn khoăn trước ngập tràn biến cố lịch sử trên quê hương mình. Đây là một hành trình vượt không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện đại sự của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân và các bài phỏng vấn sâu, Shavit đã cố gắng tiếp cận câu chuyện sâu xa hơn và những câu hỏi sâu sắc hơn về Israel, về sự định hình tương lai của người Do Thái. Đây là một trong những cuốn sách quan trọng và có tác động mạnh mà Ari Shavit viết nhằm phục hồi cảm giác về thực tính của Israel và say sưa với nó, để khôi phục lại sự hùng vĩ của một thực tế đơn giản trong cái nhìn đầy đủ về các sự kiện phức tạp. Miền đất hứa của tôi gây ngạc nhiên về nhiều mặt, nhất là việc nó tương đối ít chú trọng tới việc cung cấp cho người đọc các thông tin về chính trị. Shavit, nhà bình luận trong ban biên tập của Haaretz, có một tư duy độc lập, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ học thuyết nào. Ông viết không để ca ngợi hay đổ lỗi, dù trong quá trình ấy ông đã làm cả hai điều này, thay vào đó, với sự uyên bác và tài hùng biện; ông viết để quan sát và phản ánh. Đây là cuốn sách ít thiên vị nhất về Israel. Một cuốn sách Phục quốc Do Thái nhưng không bị kích động bởi chủ nghĩa phục quốc. Nó nói về toàn thể trải nghiệm Israel. Shavit đắm mình trong toàn bộ lịch sử của đất nước mình. Dù một số  sự kiện trong đó làm ông tổn thương, song không gì là xa lạ đối với ông. Ông đã viết một chương xuất sắc về chính trị gia tham nhũng nhưng đầy sức hút, Aryeh Deri, và sự trỗi dậy trên chính trường của tôn giáo dòng Sephardi tại Israel, qua đó minh họa rõ nét tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên thật may đây không phải là một cuốn hồi ký; nó là một cuộc điều tra được viết với văn phong gần gũi. Shavit khám phá xã hội của ông với sự tỉ mỉ của một người đàn ông cảm thấy bản thân mình gắn với số phận của nó, và ông không ngần ngại nói về sự tan rã của nước cộng hòa Israel trong những năm gần đây. Theo quan sát của ông “Trong vòng chưa đầy 30 năm, Israel đã trải qua bảy cuộc nổi loạn trong nước khác nhau: cuộc nổi dậy của người định cư, các cuộc nổi dậy hòa bình, cuộc nổi dậy vì tự do tư pháp, cuộc nổi dậy phương Đông, cuộc nổi dậy của dòng Chính thống cực đoan, cuộc nổi dậy của chủ nghĩa khoái lạc cá nhân và cuộc nổi dậy của người Israel gốc Palestine.” Ông lo lắng, có lẽ có phần hơi quá, rằng đất nước ông đang tan rã: “Quốc gia khởi nghiệp này phải tự khởi động lại”. Chắc chắn là không có tình tiết giảm nhẹ nào cho sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội mà ông mô tả, hoặc những xáo trộn hoàn toàn các chính sách định cư trong vùng lãnh thổ mà Israel có một mối quan tâm khẩn cấp và lâu dài trong việc di tản. Nhưng những lời khuyên và khích lệ của Shavit rằng “luận điểm cũ về nghĩa vụ và sự cam kết đã được thay thế bằng một luận điểm mới về sự phản kháng và chủ nghĩa khoái lạc”, và “thách thức trước mắt là thách thức giành lại quyền lực quốc gia”, là u ám và khắc nghiệt hơn so với giọng văn đầy nhiệt huyết và phóng khoáng trong cuốn sách. Và khái niệm “quyền lực quốc gia” thì đi kèm với những mối liên hệ không mấy hấp dẫn. Vùng đất hỗn loạn và ồn ào trong Miền đất hứa của tôi sẽ không thể được chữa lành chỉ với những cố gắng đơn thuần để đưa nó trở lại bình thường như trước đây. *** NHỮNG DẤU CHẤM HỎI Những gì tôi còn nhớ được là nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn. Nơi tôi lớn lên - Israel giữa thập niên 1960 - đầy nghị lực, nhiệt huyết, và hy vọng. Nhưng tôi luôn cảm thấy đằng sau những ngôi nhà đẹp đẽ với bãi cỏ phía trước nhà của tầng lớp thượng lưu thành phố quê hương tôi là một đại dương tăm tối. Tôi lo sợ có ngày đại dương tăm tối đó sẽ trào dâng và nhấn chìm tất cả chúng tôi. Một trận sóng thần như trong thần thoại sẽ đập vào bờ và cuốn Israel của tôi đi. Nó sẽ thành một Atlantis(1) nữa, chìm sâu dưới đáy biển. Một sáng tháng 6 năm 1967, khi tôi chín tuổi, tôi đến bên cha dang cạo râu trong nhà tắm. Tôi hỏi ông, liệu người Ả-rập có thắng không. Liệu người Ả-rập có chinh phục Israel của chúng ta hay không? Liệu họ có ném tất cả chúng ta xuống biển không? Vài ngày sau, Chiến tranh Sáu ngày(2) bắt đầu. Tháng 10 năm 1973, tiếng còi báo động của thảm họa bắt đẩu rền rĩ. Tôi đang bị cúm, phải nằm trên giường sau buổi trưa ngày lễ Yom Kippur(3) yên tĩnh, khi những chiếc phản lực F-4 đang xé nát bầu trời. Chúng bay ở độ cao 500 feet(4) trên mái nhà chúng tôi hướng đến kênh đào Suez, chống lại lực lượng xâm lược Ả-rập bất ngờ đánh chiếm Israel. Nhiều chiếc, trong đó đã không bao giờ trở lại. Lúc đó tôi 16 tuổi, sững sờ khi nghe tin quân đội Israel thua trận tại sa mạc Sinai và Cao nguyên Golan. Trong 10 ngày kinh hoàng này, dường như nỗi sợ hãi ban sơ của tôi đã được chứng minh. Israel đang nguy nan. Những bức tường của Ngôi đền Thứ ba(5) của người Do Thái đang rung lắc. Tháng 1 năm 1991, Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất bùng nổ. Tel Aviv bị tên lửa SCUD của Iraq bắn phá. Có người còn lo lắng về khả năng Israel bị tấn công bằng vũ khí hóa học. Trong nhiều tuần, người dân Israel mang theo mặt nạ phòng độc khi đi lại. Thi thoảng, khi có cảnh báo là đầu đạn tên lửa đã được bắn ra, chúng tôi liền đeo mặt nạ chui vào những căn phòng bịt kín. Mặc dù sau đó hóa ra không phải, nhưng có điều gì đó khủng khiếp về thứ nghi lễ kỳ quái này vẫn đọng lại. Tôi lắng nghe âm thanh còi báo động, và hoang mang nhìn vào đôi mắt kinh hãi của người thân nhốt trong những chiếc mặt nạ chống độc do Đức sản xuất. Tháng 3 năm 2002, một làn sóng khủng bố làm Israel lo lắng. Hàng trăm người chết khi những đối tượng đánh bom cảm tử Palestine tấn công các xe buýt, câu lạc bộ đêm, và trung tâm mua sắm. Một đêm, khi tôi đang viết bài nghiên cứu về Jerusalem thì nghe một tiếng nổ lớn. Tôi nhận ra chắc là ở quán bar trong khu nhà tôi. Tôi chộp lấy tập giấy viết và lao ra phố. Ba chàng trai – ngồi trong quán trước những vại bia vơi một nửa - đã chết. Một phụ nữ nhỏ nhắn chết gục trong góc. Những người bị thương thì đang gào thét và khóc lóc. Khi nhìn vào địa ngục xung quanh trong ánh đèn sáng rực của quán bar đã nổ tung, tôi - một nhà báo - tự hỏi: Cái gì sẽ đến? Chúng tôi có thể chịu đựng được sự điên rồ này bao lâu nữa? Liệu có lúc nào sinh lực sống đầy tự hào của người Israel chúng tôi sẽ phải đầu hàng các thế lực gây chết chóc đang cố gắng hủy diệt mình? Chiến thắng quyết định trong cuộc chiến năm 1967 đã xua tan những nỗi sợ trước chiến tranh. Sự phục hồi vào các thập niên 1970 và 1980 đã chữa lành vết thương sâu của năm 1973. Tiến trình hòa bình thập niên 1990 đã hàn gắn thương tích năm 1991. Sự thịnh vượng cuối thập niên 2000 đã che đậy nỗi kinh hoàng của năm 2002. Chính xác là do ít hiểu biết, nên người Israel chúng tôi cứ khăng khăng tin vào bản thân, tin vào quốc gia-dân tộc và tương lai của mình. Nhưng qua nhiều năm, nỗi sợ hãi câm lặng của tôi vẫn không bao giờ qua di. Dù bàn bạc hay biểu đạt nỗi sợ hãi này là điều kiêng ky, nhưng nó vẫn luôn đeo bám tôi mọi nơi. Các thành phố của chúng tôi dường như được xây trên cát trượt. Nhà ở của chúng tôi dường như không bao giờ vững chắc hoàn toàn. Ngay cả khi dân tộc tôi trở nên mạnh mẽ và giàu có hơn, tôi vẫn cảm thây nó dễ bị tổn thương. Tôi nhận ra chúng tôi thường xuyên bị nguy hiểm đe dọa. Vâng, cuộc sống của chúng tôi tiếp tục sôi động, giàu có, và hạnh phúc về nhiều mặt. Israel tạo nên một cảm giác an toàn xuất phát từ thành công về vật chất, kinh tế, và quân sự. Sinh lực sống hằng ngày của chúng tôi thật thần kỳ. Nhưng vẫn luôn tồn tại nỗi sợ, rằng một ngày nào đó cuộc sống thường nhật sẽ tê liệt như ở Pompeii(6). Quê hương yêu dấu của tôi sẽ vụn nát khi đội quân Ả-rập khổng lồ hoặc lực lượng Hồi giáo hùng mạnh vượt qua hàng phòng thủ và xóa sổ sự tồn tại của nó. Những gì tôi còn nhớ được là sự chiếm đóng. Chỉ một tuần sau khi tôi hỏi cha, liệu các nước Ả-rập có chinh phục Israel không, thì Israel đã chinh phục những vùng đất người Ả-rập cư trú ở Bờ Tây và Gaza. Một tháng sau, cha mẹ, em trai và tôi bắt đầu một chuyến đi gia đình đến các thành phố bị chiếm đóng là Ramallah, Bethlehem, và Hebron. Đi qua nơi nào chúng tôi cũng thấy dấu tích của những chiếc xe jeep, xe tải và xe quân sự Jordan bị cháy. Những lá cờ trắng đầu hàng treo trên hầu hết các ngôi nhà. Một số con phố bị chặn lại bằng những xác xe hơi Mercedes đen vốn sang trọng nhưng đã biến dạng do xe tăng Israel nghiến lên. Nỗi sợ hãi hiện ra trong đôi mắt những dứa trẻ Palestine bằng và ít tuổi hơn tôi. Cha mẹ chúng xem ra đã bị đánh bại và bẽ mặt. Trong vài tuần, người Ả-rập hùng mạnh đã biến thành nạn nhân, còn người Israel bị nguy cấp lại trở thành kẻ chinh phục. Quốc gia Do Thái giờ đây hân hoan chiến thắng, tự hào và say sưa với cảm giác cuồng nhiệt về sức mạnh. Khi tôi ở tuổi vị thành niên, mọi thứ còn tốt đẹp. Chúng tôi hiểu chung chung rằng việc chiếm đóng quân sự là nhân đạo. Israel hiện đại đã mang đến sự tiến bộ và phồn vinh cho các vùng đất Palestine. Giờ đây, những người láng giềng lạc hậu của chúng tôi đã có điện, nước máy, và sự chăm sóc y tế mà họ chưa bao giờ có trước đây. Họ cần phái nhận thức được rằng cuộc sống của họ chưa bao giờ tốt đến vậy. Chắc chắn họ biết ơn vì những gì chúng tôi dành cho họ. Và khi hòa bình được thiết lập, chúng tôi sẽ trả lại phần lớn các lãnh thổ đã chiếm đóng. Nhưng lúc này, mọi thứ trên Đất Israel đều ổn cả. Trên khắp đất nước, người Ả-rập và Do Thái chung sống, bình yên, và sung túc. Chỉ khi đi lính tôi mới hiểu được có điều gì đó không ổn. Sáu tháng sau khi gia nhập lữ đoàn dù ưu tú của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF),(7) tôi được điều động đến chính những thành phố bị chiếm đóng mà mình đã đi qua lúc còn bé 10 năm trước. Giờ thì tôi bị phân công làm những nhiệm vụ bẩn thỉu: kiểm tra, quản thúc tại gia, giải tán biểu tình bằng bạo lực. Điều làm tôi tổn thương nhất là đột nhập vào những ngôi nhà, lôi các chàng trai ra khỏi giường ấm nệm êm đi thẩm vấn lúc nửa đêm. Thứ quái quỷ gì đang xảy ra thế này, tôi tự hỏi. Tại sao tôi lại bảo vệ tổ quốc mình bằng cách hành hạ những thường dân đã bị tước đoạt quyền và tự do? Tại sao Israel của tôi lại chiếm đóng và đàn áp dân tộc khác? Vì vậy, tôi trở thành người phản chiến. Trước tiên, với tư cách một người hoạt động xã hội trẻ tuổi và sau là nhà báo, tôi đã hăng hái đấu tranh chống lại sự chiếm đóng. Trong thập niên 1980, tôi phản đối việc thiết lập các khu định cư trên lãnh thổ Palestine. Thập niên 1990, tôi ủng hộ sự thành lập nhà nước Palestine do Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO)(8) lãnh đạo. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, tôi tán thành việc Israel đơn phương rút khỏi Dải Gaza. Nhưng hầu hết các chiến dịch chống lại sự chiếm đóng mà tôi tham gia cuối cùng đều thất bại. Gần nửa thế kỷ sau chuyến đi đầu tiên của gia đình tôi ở Bờ Tây bị chiếm đóng, Bờ Tây vẫn bị chiếm đóng. Như khối u ác tính, chiếm đóng trở thành một phần không tách rời trong sự tồn tại của nhà nước Do Thái. Nó cũng đổng thời trở thành một phần không tách rời trong cuộc đời tôi với tư cách một người Israel. Mặc dù tôi phản dối sự chiếm đóng, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm về sự chiếm đóng này. Tôi không thể phủ nhận sự thật hoặc chạy trốn sự thật là dân tộc mình đã trở thành một dân tộc đi chiếm đóng. Mãi đến vài năm trước, tôi đột nhiên nhận ra rằng nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn liên quan đến tương lai dân tộc mình không tách rời tổn thương về đạo đức liên quan đến chính sách chiếm đóng của đất nước mình. Một mặt, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây đi chiếm đóng dân tộc khác. Mặt khác, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây bị đe dọa sự tồn tại. Cả sự chiếm đóng lẫn sự đe dọa đều khiến tình trạng của Israel trở nên đặc biệt. Đe dọa và chiếm đóng trở thành hai trụ cột trong tình trạng của chúng tôi. Phần lớn các nhà quan sát và phân tích phủ nhận tính hai mặt này. Những người cánh tả đề cập sự chiếm đóng và không chú ý đến sự đe dọa, trong khi những người cánh hữu chú tâm vào sự đe dọa và bỏ qua sự chiếm đóng. Nhưng sự thật là nếu không kết hợp cả hai yếu tố trong một thế giới quan, thì không thể hiểu hết Israel hay cuộc xung đột Israel-Palestine. Bất kể cách tư duy nào không gắn với hai điểm cốt lõi này, chắc chắn đều không đầy đủ và vô dụng. Chỉ có cách tiếp cận thứ ba mới thực tế, xem xét cả việc đe dọa và chiếm đóng, biết phải trái và nhìn nhận đúng lịch sử Israel. Tôi sinh năm 1957 tại thành phố đại học Rehovot. Cha tôi là nhà khoa học, mẹ là nghệ sĩ, và trong số những người sáng lập ra tổ chức Zion(9) có các cụ của tôi. Giống như phần lớn thanh niên Israel, tôi đi nghĩa vụ quân sự ở tuổi 18, tham gia lực lượng nhảy dù, và khi hoàn thành nghĩa vụ, tôi học triết tại Đại học Hebrew ở Jerusalem, nơi tôi tham gia phong trào hòa bình và sau đó là phong trào nhân quyến. Từ năm 1995, tôi viết cho tờ báo tự do hàng đầu của Israel, Haaretz. Mặc dù tôi luôn ủng hộ hòa bình và ủng hộ giải pháp hai quốc gia,(10) nhưng tôi dần nhận thấy những khiếm khuyết và thành kiến của phong trào hòa bình. Hiểu biết của tôi về sự chiếm đóng và đe dọa khiến tiếng nói của tôi có phần khác với mọi người trên truyền thông. Là người phụ trách chuyên mục, tôi thách thức các giáo điều của cả cánh hữu lẫn cánh tả. Tôi biết rằng không có câu trả lời đơn giản cho Trung Đông, và cũng không có giải pháp tình thế cho mâu thuẫn Israel-Palestine. Tôi nhận ra tình huống của Israel là vô cùng phức tạp, có lẽ thậm chí còn bi thương nữa. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, Israel đã hành động hiệu quả. Khủng bố lắng xuống, công nghệ cao bùng nổ, cuộc sống hằng ngày sôi động. Về mặt kinh tế, Israel đã trở thành mãnh hổ. Để tồn tại, đất nước này đã trở nên mạnh mẽ, đầy sinh lực, sáng tạo và thích hưởng thụ. Nhưng đằng sau ánh sáng rực rỡ của câu chuyện thành công phi thường, lo lắng đang dâng trào. Mọi người bắt đầu lên tiếng hỏi những câu mà suốt đời tôi đã luôn tự hỏi. Giờ không chỉ là chính trị phe tả hay phe hữu nữa. Cũng không chỉ là thế tục đối lập với tôn giáo. Có điều gì đó sâu xa hơn đã xảy ra. Nhiều người Israel không an lòng với Israel mới nổi. Họ tự hỏi liệu mình còn thuộc về quốc gia Do Thái nữa hay không. Họ đã mất niềm tin vào khả năng chịu đựng của Israel. Một số đã lấy hộ chiếu nước ngoài; một số gửi con đi du học. Tầng lớp thượng lưu nhìn thấy một lựa chọn khác bên cạnh lựa chọn Israel. Dù phần lớn người Israel vẫn yêu quê hương và mừng vui với phúc lành của dân tộc, nhưng nhiều người đã mất niềm tin vững chắc vào tương lai đất nước. Khi thập niên thứ hai của thế kỷ 21 bắt đầu, có năm vấn đề khác nhau gây hoài nghi về khát vọng sống tham lam của Israel: quan niệm rằng xung đột Israel-Palestine có thể không giải quyết được trong tương lai gần; lo ngại rằng quyền bá chủ chiến lược khu vực của Israel bị thách thức; e sợ rằng tính hợp pháp của nhà nước Do Thái bị xói mòn; quan ngại rằng xã hội Israel vốn đã biến đổi sâu sắc giờ lại bị phân chia và phân cực, nền tảng dân chủ-tự do của đất nước đang sụp đổ; và nhận thức rằng chính phủ yếu kém của Israel không thể giải quyết triệt để những thách thức nghiêm trọng như chiếm đóng và rạn nứt xã hội. Mỗi vấn đề ở đây đều ẩn chứa một mối đe dọa đáng kể, nhưng ảnh hưởng chung của chúng còn gây ra nỗi sợ hãi khủng khiếp hơn. Nếu hòa bình không khả thi, liệu chúng tôi có chống lại được một xung đột kéo dài một thế hệ khi ưu thế về chiến lược bị đe đọa, tính hợp pháp đang mất dần, bản sắc dần chủ đang rạn nứt, và những mâu thuẫn nội bộ đang chia rẽ chúng tôi? Trong khi vẫn đổi mới, quyến rũ và mạnh mẽ, Israel đã trở thành một quốc gia bị nghi ngờ. Cảm giác lo lắng cứ lơ lửng trên mảnh đất này, như cái bóng lớn của một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đây chính là lý do tôi dấn thân vào chuyến đi này. Sáu mươi lăm năm sau khi thành lập, Israel quay lại những câu hỏi chủ chốt. Một trăm lẻ sáu năm sau khi ra đời, chủ nghĩa Zion giờ dang đối mặt với những mâu thuẫn cơ bản của mình. Thách thức giờ đây vượt xa vấn đề chiếm đóng, và củng sâu sắc hơn hẳn vấn đề hòa bình. Điều mà tất cả chúng tôi phải đối mặt là câu hỏi về ba khía cạnh của Israel: Tại sao? Là gì? Sẽ thế nào? Câu hỏi này về Israel không thể trả lời bằng các bài bút chiến. Vì rất phức tạp, nên nó cũng không tự trở thành vấn đề để tranh cãi và phản đề được. Cách giải quyết duy nhất là kể câu chuyện về Israel. Đây chính là điều tôi cố gắng làm trong cuốn sách này. Theo cách riêng và qua lăng kính chủ quan, tôi đã cố gắng nhìn nhận sự tồn tại của chúng tôi trong một tổng thể, theo cách tôi hiểu. Cuốn sách này là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, bối rối trước biến cố lịch sử ngập tràn trên quê hương mình. Đây là một chuyến đi trong không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện rộng lớn của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân, và các bài phỏng vấn sâu, tôi sẽ cố gắng nói đến câu chuyện rộng hơn và câu hỏi sâu hơn về Israel. Điều gì đã xảy ra trên quê hương tôi trong hơn một thế kỷ, đưa chúng tôi đến nơi mình đang sống? Chúng tôi đã đạt được điều gì ở đây và vấp phải sai lầm nào ở đây, và chúng tôi đang hướng tới đâu? Cảm giác lo âu sâu sắc của tôi có cơ sở không? Nhà nước Do Thái có thật sự lâm nguy không? Có phải người Do Thái chúng tôi đang mắc kẹt trong một bi kịch tuyệt vọng, hay chúng tôi vẫn có thể hồi sinh, tự cứu mình, và lấy lại được đất đai mà chúng tôi vô cùng yêu quý? (1) Atlantis là hòn đảo hư cấu được nói đến trong tác phẩm của triết gia Hy Lạp cổ đại Plato viết khoảng năm 360 trước công nguyên (TCN). Mặc dù sống trong một xã hội văn minh, nhưng con người ở đây trở nên tham lam, nhỏ nhen, suy đồi về đạo đức, nên các vị thần đã nổi giận, dùng lửa và động đất nhấn chìm Atlantis xuống biến sâu. Lưu ý: Toàn bộ chú thích trong sách là của người dịch, trừ các chú thích ghi rõ (BT) là của người biên tập. (2) Chiến tranh diễn ra từ 5-10/6/1967 giữa Israel và các quốc gia Ả-rập lân cận là Ai Cập, Jordan, và Syria. Israel chiến thắng áp đảo (nhờ yếu tố bất ngờ, kế hoạch chiến đấu sáng tạo) giành quyến kiểm soát Dải Gaza, bán đảo Sinai của Ai Cập, Bờ Lây và Đông Jerusalem của Jordan và Cao nguyên Golan của Syria. (3) Còn gọi là Ngày chuộc tội/Ngày lễ sám hối. Là ngày lễ thiêng liêng nhất trong năm của Do Thái giáo. Đế chuộc tội và ăn năn, người Do Thái dành 25 giờ ăn chay, chuyên tâm cầu nguyện và thường xuyên tham gia các nghi lễ ở giáo đường Do Thái. (4) 500 feet tương đương 152,4 m. (5) Trong lịch sử người Do Thái, Ngôi đền Thứ nhất do vua Solomon xây dựng vào khoảng thế kỷ 10 TCN, sau đó bị phá hỏng vào khoảng năm 587 TCN. Ngôi đền thứ hai được xây dựng vào năm 516 TCN và lai bị phá hỏng vào khoảng năm 70 sau CN. Ngôi đền Thứ ba chưa dược xây dựng. Nó vẫn nằm trong mong ước của người Do Thái. (BT) (6) Pompeii, thành phố La Mã cổ đại bị phá hủy và chôn vùi hoàn toan khi núi lửa Vesuvius phun trào năm 79, tình cờ được khám phá năm 1748 (sau 1.700 năm) nham thạch đã xóa sạch mọi sự sống, hơn 2.000 người chết, hơi nóng khủng khiếp khiến cơ thế họ ngừng hoạt động gần như ngay lập tức. (7) Viết tắt của “Israel Defense Forces”. (8) Palestine Liberation Organization, thành lập năm 1964 Hội nghị Thượng đỉnh Ả-rập năm 1974 công nhận PLO là “đại diện hợp pháp và duy nhất của nhân dân Palestine.” Năm 1993, PLO đã công nhận nhà nước Israel và Israel đã công nhận PLO là đại diện hợp pháp của nhân dân Palestine. (9) Zion là một phong trào chính trị ủng hộ sự phát triển nhà nước Israel; đây cũng là tên ngọn đồi phía đông thành phố Jerusalem, từng là trung tâm văn hóa-chính trị cúa người Do Thái dưới thời Vua David. Sau khi Vương quốc Judea thất thủ năm 70, Zion trở thành biểu tượng cho hy vọng phục quốc của người Do Thái. (10) Giải pháp cho cuộc xung đột Israel-Palestine, thành lập hai nhà nước của hai dân tộc: nhà nước Palestine độc lập tồn tại cùng nhả nước Israel ở bờ Tây sông Jordan.   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa Của Tôi- Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel của tác giả Ari Shavit.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

5 Ngôn Ngữ Tình Yêu - Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình - Gary Chapman
Hơn 15 năm trước, tôi đã viết quyển sách Năm ngôn ngữ tình yêu: cách thể hiện lời cam kết chân thành của bạn với người bạn đời. Sự đón nhận của độc giả đã vượt quá mong đợi của tôi: Tổng cộng 5 triệu bản đã được bán sạch. Mỗi năm, cuốn sách này lại bán được nhiều bản hơn năm trước đó. Đến nay, Năm ngôn ngữ tình yêu đã được dịch sang 42 thứ tiếng khác nhau. Nhiều người đã hỏi tôi về lý do thành công của cuốn sách đó. Câu trả lời duy nhất của tôi là: Nội dung của nó tập trung vào nhu cầu tình cảm sâu sắc nhất của con người - nhu cầu được yêu thương. Đối với những người đã kết hôn, nó mang lại cảm giác thấu hiểu và những công cụ thực tiễn để nuôi sống tình yêu trong gia đình. Hàng ngàn cặp vợ chồng đã nói với tôi rằng ý tưởng của Năm ngôn ngữ tình yêu đã mang lại “một cuộc sống mới” cho hôn nhân của họ. Điều tôi không ngờ đến chính là có rất nhiều người độc thân cũng tìm đọc cuốn sách mà tôi đã viết riêng cho những cặp vợ chồng. Một người đã nói với tôi: “Dù cuốn sách Năm ngôn ngữ tình yêu được viết dành riêng cho các cặp vợ chồng nhưng nó cũng đã giúp tôi rất nhiều trong việc cải thiện những mối quan hệ của mình”. Hay một người độc thân khác đã nói với tôi: “Tôi chưa bao giờ hiểu được người bạn cùng phòng của mình cho đến khi tôi đọc cuốn sách của ông. Ông phải viết một cuốn Năm ngôn ngữ yêu thương dành cho những người độc thân mới được”. Và thế là tôi quyết định hoàn tất cuốn sách này trong sự mong chờ của nhiều người độc thân. Dù đã kết hôn hay còn độc thân, trẻ hay đã già thì tất cả chúng ta đều có nhu cầu quan trọng về tình cảm là được yêu thương. Khi nhu cầu này được đáp ứng, chúng ta sẽ thể hiện trọn vẹn những đức tính tốt đẹp nhất của mình và đạt được nhiều thành quả lớn lao trong cuộc sống. Ngược lại, ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tôi tin tưởng rằng những chân lý trong cuốn sách này sẽ giúp những người độc thân học được các kỹ năng cần thiết trong việc cho và nhận tình yêu. Một điều quan trọng mà bạn cần phải hiểu là cuốn sách bạn đang cầm trên tay không phải là một cuốn Năm ngôn ngữ tình yêu cũ được in lại với bìa mới. Năm ngôn ngữ yêu thương dĩ nhiên là không thay đổi, nhưng trong cuốn sách này chúng ta sẽ tập trung vào đối tượng những người độc thân. Trong hai chương đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu về những người độc thân và tại sao yêu thương lại là yếu tố quan trọng nhất trong các mối quan hệ. Từ chương 3 đến chương 7, chúng ta sẽ tìm hiểu về từng ngôn ngữ tình yêu. Trong chương 8, chúng ta sẽ học cách khám phá ra ngôn ngữ tình yêu của bản thân cũng như cách phát hiện ra ngôn ngữ tình yêu của người khác. Những chương còn lại sẽ giúp bạn biết cách yêu thương và được yêu thương bằng cách sử dụng “năm ngôn ngữ tình yêu”. Trong chương 9, bạn sẽ biết cách áp dụng những nguyên tắc của “năm ngôn ngữ tình yêu” để thấu hiểu cha mẹ, anh chị em cũng như các thành viên còn lại trong gia đình. Chương 10 – 11, chúng ta sẽ khám phá các mối quan hệ hẹn hò, nền tảng của hôn nhân cũng như tầm quan trọng của ngôn ngữ tình yêu đối với việc xây dựng một mối quan hệ vợ chồng tốt đẹp. Chương 12 sẽ tập trung nói về cách thức truyền đạt tình yêu thương đến bạn chung phòng, bạn học, bạn đồng nghiệp. Chương 13 sẽ mang lại những hướng dẫn thiết thực giúp các bậc cha mẹ đơn thân bộc lộ tình yêu thương của mình với con cái. Cuối cùng, trong chương 14, chúng ta sẽ tập trung nói về tình yêu như một chiếc chìa khóa dẫn đến thành công. Hãy cùng tôi thực hiện cuộc hành trình khám phá cuộc sống của người độc thân - những người đã hiểu ra rằng điều tuyệt vời nhất của cuộc sống chính là cho đi và nhận lại tình yêu một cách đúng đắn. *** Nếu bạn chọn đọc cuốn sách này, rất có thể bạn vẫn đang độc thân hoặc quen biết với một người độc thân nào đó. Theo thống kê, hơn bốn trong số mười người Mỹ trưởng thành vẫn còn độc thân – tức là có tới 92 triệu người độc thân trên toàn nước Mỹ* Dĩ nhiên, sẽ không chính xác nếu xếp tất cả người độc thân vào một nhóm. Có ít nhất 5 nhóm người độc thân. Phần lớn trong số này là người chưa từng kết hôn (là đối tượng chính mà cuốn sách này hướng tới). Tuy nhiên, 4 nhóm còn lại cũng cần được quan tâm xứng đáng. Sau đây là 5 nhóm người độc thân đó: 1. Chưa từng kết hôn. Tính riêng ở Mỹ, từ 18 tuổi trở lên, nhóm này bao gồm khoảng 49 triệu người. Độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng lên, 25 tuổi đối với nữ giới và 27 tuổi đối với nam giới. Cứ mỗi 5 người từ 18 đến 24 tuổi thì có 4 người chưa từng kết hôn (78%). 2. Đã ly hôn. Ngày nay, trên thế giới có 10% người trưởng thành đã từng ly hôn* 3. Ly thân nhưng chưa ly hôn. Đây là những người vẫn chưa chính thức ly hôn nhưng không còn sống chung với nhau nữa. Cuộc sống của họ giống một người độc thân hơn là người đang có gia đình. Tuy nhiên tình trạng ly thân này chỉ là tạm thời. Những người này hoặc sẽ hòa giải với vợ/chồng của mình, hoặc sẽ hợp thức hóa sự chia tay này bằng việc chính thức ly hôn 4. Ở góa. Việc ở góa rõ ràng là có sự khác biệt giữa hai giới. Cứ 5 người sống độc thân do bạn đời của mình qua đời thì có đến 4 người là phụ nữ. Gần 1/2 những người phụ nữ từ 65 tuổi trở lên là góa phụ, trong khi ở nam giới, con số này chỉ là 14%. 5. Cha mẹ đơn thân. Một trăm năm trước, chỉ có dưới 1% số người trưởng thành là phụ huynh đơn thân của trẻ vị thành niên. Nhưng ngày nay, có đến hơn 12 triệu phụ huynh đơn thân đang chăm sóc ít nhất một trẻ em dưới 18 tuổi – chiếm gần 1/3 tổng số gia đình. Rõ ràng, số lượng phụ huynh đơn thân đã từng ly hôn là rất lớn. Nhưng bên cạnh đó, số lượng phụ huynh đơn thân chưa từng kết hôn cũng không ngừng gia tăng. Trong số những người mẹ đơn thân thì có đến 40% là chưa từng kết hôn với cha của con mình. Khác biệt nhưng thống nhất Dù thuộc nhiều nhóm khác nhau nhưng giữa những người trưởng thành độc thân vẫn có nhiều điểm tương đồng. Hầu hết họ đều gặp khó khăn trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như đời sống vật chất, đạo đức, các mối quan hệ… Nếu bạn là một người trưởng thành độc thân, tôi nghĩ có thể cũng như nhiều người khác, bạn luôn muốn thấu hiểu bản thân cũng như vị trí của mình trong xã hội. Và nguồn gốc sâu xa của vấn đề này chính là nhu cầu muốn cho đi và nhận lại tình yêu thương. Là một người độc thân, dù thuộc nhóm nào thì bạn cũng muốn được những người quan trọng trong đời mình yêu thương và tin rằng họ cần tình yêu của bạn. Cho đi và nhận lại tình yêu luôn là niềm hạnh phúc của tất cả mọi người, nhất là người trưởng thành độc thân. Một khi cảm nhận được tình yêu thương cũng như vị trí của mình đối với những người xung quanh, bạn sẽ vượt qua được mọi áp lực của cuộc sống. Nhưng nếu thiếu vắng tình yêu, cuộc sống sẽ trở nên thật lạnh lẽo và trống vắng. ... Mời các bạn đón đọc ​5 Ngôn Ngữ Tình Yêu - Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình của tác giả Gary Chapman.
Sống Lưng Của Jesse - Yamada Amy
Cô gái Nhật Bản có tên Koko đem lòng yêu anh chàng Rick, một tay gà trống nuôi con uống rượu như hũ chìm. Xinh đẹp và phóng túng, Koko hễ muốn chàng nào là khiến được chàng ta lên giường, cũng như chỉ cần từ chối là có thể gieo vào lòng bất cứ anh nào một nỗi thất vọng lớn lao. Ấy vậy mà cô yêu Rick. Một tình yêu đích thực khiến chính cô sửng sốt. Rồi cô bỗng nhận ra, ngoài những màn làm tình nóng bỏng giữa hai người, tình yêu còn có một khía cạnh khác: sự hy sinh. Jesse – thằng bé 11 tuổi, con riêng của Rick và người vợ trước, thực sự là một thằng quỷ sứ. Và tình yêu của cô sẽ phải đối mặt với sự tai quái cùng những trò hành hạ của Jesse… Với một thứ văn phong gợi người ta nhớ tới Papa You’re Crazy của William Saroyan, Sống lưng của Jesse thực sự là một tác phẩm đáng giá của một nhà văn đương đại Nhật Bản đầy ảnh hưởng và gây tranh cãi. Chỉ có thể nói sắc sảo và tài tình khi ca ngợi tài năng của Yamada Amy trong bút pháp miêu tả tâm lý và những tổn thương tinh thần của một cậu bé mới lớn. Và vẫn là những cuồng nhiệt và đam mê đã làm nên Yamada Amy trong những miêu tả về tình yêu nam nữ. “Một tựa sách có ý nghĩa cho tủ sách hàn lâm” (New London) “Tưởng tượng sắc nét và quan sát sắc sảo, Sống lưng của Jesse là tác phẩm giàu sức thuyết phục và có ảnh hưởng nhất của một trong những nhà văn Nhật Bản đương đại cuốn hút nhất” (Powells) *** "Cô ấy chả xinh lắm nhỉ. Tạm được thôi." Đây là câu nói đầu tiên dành cho Koko của thằng quỷ nhỏ 11 tuổi, nó sẽ làm cô khốn khổ trong suốt mấy tháng tới. Koko ngắm khuôn mặt của thằng quỷ nhỏ, đang chọc chọc món trứng bác, với một linh cảm xấu. Rick đang trong tâm trạng hứng khởi. Mới sáng ra đã rót rượu gin vào ly và tỏ ra phấn khích. Còn Koko thì sau cuộc vui cuồng loạn đêm qua, chỉ cần nhìn thấy rượu là đã gần buồn nôn rồi. Cô đặt một bình nước to trước mặt và uống nước đá liên tục. "Nhìn khuôn mặt cô ấy kìa. Đáng yêu quá. Không hôn không chịu được. Thân hình thật là gợi cảm, không ôm không chịu được." Rick nói vậy và đặt môi lên Koko. Mùi rượu tạo cảm giác kích thích ở cổ họng khiến cô phải cố gắng lắm mới kìm được cơn buồn nôn. Còn thằng quỷ nhỏ đó, Jessie, nhìn bố với vẻ coi thường và đặt mạnh cái đĩa xuống. Nó chẳng hề đụng đến món rau sống trộn. Nó đứng lên. "Cô nhớ nhé. Cháu ghét tất cả các loại rau, trừ đậu bắp." Trong khi Koko còn đang ngẩn người ra quên cả trả lời, thì thằng bé cầm lấy cái áo khoác và chuẩn bị ra khỏi nhà. "Bố, con sẽ ăn trưa cùng Alex nên bố khỏi lo. Chúc bố vui vẻ." Cánh cửa khép lại, thế là trong bếp chỉ còn mỗi hai người. Koko và Rick. Koko chăm chú nhìn Rick với tâm trạng nhẹ nhõm. Đột nhiên Rick nhìn xuống có vẻ ngượng ngùng, uống cạn ly rượu và đứng lên đi sang phòng khác. Koko đi về phía phòng ngủ với tâm trạng ngọt ngào và bắt đầu cởi bộ quần áo. Cô trườn vào giường khi trên người chỉ còn một chiếc quần lót nhỏ xíu. Chắc là Rick sẽ đến bên mình ngay thôi, và sẽ lại có thêm một màn nóng bỏng như đêm qua. Đối với Koko, đây là khoảnh khắc vui vẻ nhất mỗi lần ngủ với một người đàn ông mới quen biết. Và cũng là vị ngọt của câu chuyện yêu đương. Đây là lúc hai người sẽ đánh giá xem họ có thể trở thành bạn tình lâu dài hay không bằng con mắt đã tỉnh táo lại từ rượu và khoái lạc. Sau khi đã được giải tỏa khỏi sự cuồng nhiệt bởi sự tò mò dục tính, cuối cùng thì họ cũng có thể khám phá tỉ mỉ cơ thể của nhau một cách thuần túy. Koko soi gương. Cô vén tóc với vẻ mãn nguyện. Lớp trang điểm đã nhạt đi. Cô ý thức được rằng mình đang ở vào cái tuổi mà gương mặt thật có thể thoáng thấy từ sau lớp trang điểm đã nhạt đi khiến mình trông càng hấp dẫn. Cô vùi mặt vào gối. Son môi dính vào gối từ tối qua lại nhuộm hồng má cô thêm lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Sống Lưng Của Jesse của tác giả Yamada Amy.
Lời Nguyền Hai Trăm Năm - Khôi Vũ
Sức hấp dẫn của Lời Nguyền Hai Trăm Năm trước hết là ở cốt truyện. Có hai câu truyện được kể cùng một lúc. Đó là kiểu cấu trúc khá mới lạ vào thời điểm cuốn tiểu thuyết xuất hiện. Trước đây nhiều nhà văn dùng kỹ thuật kể truyện trong kể truyện để tạo môt cấu trúc kép. Khôi Vũ có cách cấu trúc song song. Anh kể  hai câu truyện, xen kẽ nhau, lấy mốc thời gian từng năm để định chương : Câu truyện năm đời của dòng họ Lê, từ 1802 đến 1988, và câu truyện Hai Thìn trở về làng biển Cát  từ 1977 đến 1988. Người đọc bị hấp dẫn bởi hai câu truyện, nhưng đồng thời cũng cảm thấy thật thú vị khi nhận ra Khôi Vũ đã khéo léo cài đặt, ráp nối hai tuyến nhân vật và sự kiện trong những không gian và thời gian khác nhau, để đi tới một kết thúc toàn vẹn, giải quyết mọi vấn đề của cả quá khứ và hiện tại   Vấn đề của quá khứ là lời nguyền của họ Vũ. Bốn đời họ Lê đã phải làm ác mới có con trai nối dòng, kể cả Thích Huệ Mẫn, dù hối hận về hành động tội ác của mình, dù đã tu hành, vẫn muốn con mình là Hai Thìn phạm tội. Đến đời thứ năm, Hai Thìn không tin sự ứng nghiệm của lời nguyền, anh nhất quyết từ chối làm xấu, làm ác. A chọn cuộc sống tự do tuyệt đối, sống với lương tâm của mình, cương quyết không làm gì trái với lương tâm. Anh đã thắng được lời nguyền. Anh chết trong lòng yêu thương của nhân dân, để lại một đưá con trai.   Điều thú vị của cốt truyện nằm trong tư tưởng  của tác phẩm này. Nhìn kỹ vào tội ác 4 đời họ Lê đã làm, đó là những tội ác gì ? hầu hết là tội  phản bội, từ đó gây ra cái chết bi thương cho đồng đội, cho nhân dân. Ông tổ thứ Nhất làm phản triều Nguyễn, Ông tổ thứ Hai là Gia Trí đã phản bội Trương Định. Ông tổ thứ ba là Châu Toàn đã phản bội Tòng Mật (bà cả Mọi). Tổ thứ tư là Phú Quý (Hai xung phong) đã phản bội đảng mình, làm hại đồng chí.  Hai Thìn là đời thứ năm cũng bị quyến rũ phản bội lại nhân dân trong việc đòi lại đình thờ tổ.   Đọc Lời Nguyền Hai Trăm Năm, người đọc nhận ra bản chất của hiện thực, của cõi người này, từ xưa đến nay là sự phản bội. Người ta vì quyền lợi cuả cá nhân mình mà sẵn sàng phản bội, sẵn sàng bán đứng tất cả, sẵn sàng gây ra tội ác cho đồng đội, đồng chí, đồng bào mình. Khôi Vũ đã phản đối mạnh mẽ cái tưởng như định mệnh không thay đổi ấy  bằng hành động đấu tranh tích cực của Hai Thìn. Giá trị thực của đời người là nghiã tình với cộng đồng, với người dân làng xã, là cống hiến công sức cho sự sống chung. Sự tồn tại đích thực của một con người phải là sự tồn tại tự do, thẳng thắn, bao dung. Nhờ thế anh được biển tặng cho anh tất cả những gì anh đã bị tước đoạt mất, cả ước mơ cháy bỏng là có được đưá con trai nối dòng. Nhưng hạnh phúc lớn nhất mà anh có được là những gì anh đã cống hiến cho dân làng. Anh ra đi thanh thản trong sự yêu thương cuả mọi người. *** Hai Thìn trở về làng biển Cát. Điều ấy ai cũng nghĩ sẽ phải xảy ra. Vậy mà khi nó xảy ra thì mọi người lại hoài nghi chưa ai tin ngay đó là sự thật. Tận đến lúc Hai Thìn tuyên bố: - Tôi trở lại sống chết với bà con sống chết với Biển cả. Người ta mới vui mừng truyền tai nhau cái tin vua biển lại về với biển. Trông Hai Thìn không khác xưa là bao. Vẫn vóc người cao lớn nước da người miệt biển màu bánh mật vững chãi mà kiêu bạc. Cái áo montagut anh mặc hôm đó màu mỡ gà vẻ phong trần rất hợp với hoàn cảnh của anh một người phiêu bạt trở về. Gió biển ào vào từ ngoài khơi hỏi anh: - Vua biển có khoẻ không? Anh trả lời theo cách của mình: - Vẫn chưa ai vật ta chết nổi! Gió biển quấn quít: - Ở lại đây đừng đi đâu nữa nghe chưa? Anh gật đầu: - Phải! Ta ở lại đây chẳng đi đâu nữa. Rồi ta sẽ thu xếp đưa cả vợ con ta về đây ở! Gió biển dâng anh vị mặn của muối: - Hãy nếm đi vua biển! Cho da thịt hồng hào săn chắc lại! Anh cảm ơn theo cách của mình: - Nói với Biển cả dùm ta: ta là một hạt muối của Biển cả! Khá lâu sau gió biển mới chịu từ giã anh. Nó đến chuyện trò với rừng phi lao rì rào rì rào... Những cây phi lao nghiêng người vào bờ nhìn cho rõ hơn vua biển sau một năm xa cách... Lũ trẻ con xúm quanh Hai Thìn đều là đệ tử của ông già Bảy nhao nhao hỏi: - Con gì vậy chú Hai? - Con chim đại bàng chú Hai bắt trong rừng phải hôn? - Hay là chú Hai mua của ông bán thuốc dạo? Bao nhiêu tiền vậy?     Hai Thìn quay cổ nhìn con ó lửa đậu trên vai mình. Con ó bấu những cái móng đã tầy của nó lên vai áo anh vì sợ gió biển thổi nó ngã nhào xuống cát. Nó hỏi anh: - Đây là đâu? Những người kia là ai? Anh đáp: - Đây là làng biển Cát quê hương ta. Còn những người kia người lớn là bạn bè ta trẻ nhỏ là cháu con ta. Ó lo ngại: - Tôi không quen với lũ gió có vị mặn. Hay là cho tôi trở lại với rừng đi? Anh an ủi nó: - Không sao đâu! Rồi mi sẽ quen với tất cả. Giống như mi đã quen ta vậy! Hai Thìn trả lời lũ trẻ nhỏ: - Đây là con ó lửa mà chú Hai bắt ở rừng kinh tế mới! Lũ trẻ lại nhao nhao lên tranh nhau hỏi: - Cái mỏ nó quắp xuống coi dữ quá. Nó có cắn mình không hả chú Hai? - Không! Nó hiền lắm. Chú Hai dạy nó rồi. - Nó ăn gì? - Ăn thịt ăn cá ... - Cá ở làng mình thiếu chi cho nó ăn mệt nghỉ phải hôn chú Hai? - Ừa! ... Mời các bạn đón đọc Lời Nguyền Hai Trăm Năm của tác giả Khôi Vũ.
Cọp Trắng - Aravind Adiga
NHỮNG LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO CỌP TRẮNG “Lôi cuốn, giận dữ, và hài hước thâm sâu, Cọp Trắng là một chuyến đi gây ngạc nhiên vào một Ấn Độ mới. Aravind Adiga là một tài năng cần theo dõi.” - Mohsin Hamid, tác giả The reluctant fundamentalist “Dữ dội và vui nhộn... Một tiểu thuyết châm biếm không thể sắc bén hơn.” - Michael Upchurch, The Seattle Times “Sự trui rèn của Adiga với tư cách một nhà báo đã đem lại cho ngòi bút của anh tính tức thời của tin thời sự, nhưng chính cách kể chuyện giàu chi tiết của anh mới là điều cuốn hút độc giả... Cọp Trắng gợi nhớ đến những kiệt tác về sự phản kháng và sự đàn áp (khiến nghĩ đến cả Rừng rậm lẫn Con của đất mẹ) [và] chứa đựng những đoạn văn đẹp sửng sốt... Một quyển sách cân bằng giữa hư cấu và thuần túy quan sát.” - Lee Thomas, San Francisco Chronicle “Có quá nhiều điều để giới thiệu trong quyển sách này, một câu chuyện ẩn dụ hay ho về xã hội đang biến đổi của Ấn Độ.” - The Guardian “Khiêm tốn và dễ đọc một cách lôi cuốn... tiểu thuyết đầu tay đầy thuận lợi của Aravind Adiga ngay tức khắc cho cái nhìn hấp dẫn bên dưới bề nổi của một “phép màu” kinh tế Ấn Độ, một câu chuyện tâm lý làm đứng tim về một vụ giết người được tính toán trước và hậu quả của nó, và một câu chuyện ẩn dụ được diễn đạt một cách tỉ mỉ về sự hủy diệt mang tính sáng tạo đang thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa.” - The New York Sun “[Một] chuyện kể làm sững sờ... Một tiểu thuyết Ấn Độ làm nổ tung những cách diễn đạt cũ - những bài tụng ca trang trí, hương nghệ tây - kết hợp với lối diễn đạt [và] một chuyến đi li kì qua một cường quốc toàn cầu... Đắm chìm trong thế giới của Balram - và phong cách diễn đạt tuyệt vời của anh ta - những trang sách như tự lần giở. Mang trong mình tính khí ngang tàng, mỉa mai, ranh mãnh, và nhiều lúc tức cười, Balram gợi nhớ đến những diễn giả bất tận trú ngụ trong các tác phẩm của tiểu thuyết gia vĩ đại người Czech Bohumil Hrabal. Sáng tạo ra một nhân vật như thế là kì công không nhỏ đối với một tiểu thuyết gia đầu tay.” - David Mattin, The Independent (London) “Một chuyến tham quan hay ho và giàu trí tưởng tượng về... một mặt của Ấn Độ không thường được khắc họa trong tiểu thuyết... Với việc không sa đà vào chủ nghĩa dị lãm nông cạn hoặc những căng thẳng gia đình Nam Á, Cọp Trắng tự tìm lối đi đến thành công nhiều mặt: đó vừa là một câu chuyện hình sự hiện hữu đầy cuốn hút, vừa là bản tường trình về sự bất công của xã hội.”- Scott Indrisek, Time Out New York “Hóm hỉnh, hài hước thâm thúy.” - The Star-Ledger (Newark, N.J.) “Châm biếm mạnh mẽ... Adiga, chào đời ở Ấn Độ năm 1974, đã viết một cách hết sức sinh động về một nền văn hóa suy đồi... Một tác phẩm đầu tay không đi theo khuôn phép... với văn phong đầy sức sống.” - Kirkus Reviews “Thuốc giải độc hoàn hảo cho một Ấn Độ mê muội.” - Publishers Weekly “Tuy giọng điệu ban đầu của quyển sách gợi nhớ đến sự bất công trong Một sự cân bằng tốt đẹp của Rohinton Mistry, nhưng sẽ hợp lí hơn khi so sánh với chuyện kể của Frederick Doughlas về quá trình đập tan chế độ nô lệ... Cảnh giết người đỉnh điểm là một cảnh cực kì căng thẳng, và sự tiến hóa của Balram từ một cậu bé nhà quê dễ thương đến một tên sát nhân máu lạnh thật hấp dẫn và đáng tin. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là giọng văn tường thuật lại hiệu nghiệm khi được viết trong một lá thư gửi thủ tướng Trung Quốc, người chuẩn bị đến thăm Bangalore, Ấn Độ. Đề xuất cho tất cả các thư viện.” - Library Journal “Một sự đả kích mạnh mẽ về Ấn Độ nông thôn đương đại.” - The BBC World Service “Bằng sự hóm hỉnh và hiểu biết sâu sắc, tiểu thuyết đầu tay lôi cuốn, sắc như dao cạo của Aravind Adiga khám phá thực trạng [Ấn Độ]...[và] Adiga đào sâu mọi ngóc ngách hài hước thâm thúy của nó. Giọng điệu của Halwai - ranh mãnh, chua cay, nhạo báng, tự mỉa mai và không hề ảo tưởng - vừa lôi cuốn vừa thuyết phục, và là một trong những thành công lớn của quyển sách. Adiga có con mắt và cái tai nhạy bén... Adiga đã khẩn trương giải quyết một chủ đề phức tạp và khẩn thiết. Tác phẩm của anh là một tiểu thuyết có mặt đúng lúc.” - Soumya Bhattacharya, The Independent (London) “Đã xuất hiện sự cuống cuồng náo nhiệt ở các nhà xuất bản khi tiểu thuyết đầu tay của Adiga, Cọp Trắng, được đấu giá tại Hội chợ sách London mùa xuân năm ngoái. Không khó để nhận ra tại sao. Không giống gần như bất kì quyển tiểu thuyết nào khác về Ấn Độ mà bạn đọc được trong những năm gần đây, tác phẩm lôi cuốn này giới thiệu bức chân dung trọc lốc, cáu bẳn, không tô son trát phấn của một đất nước nhìn từ đáy lên; chẳng có một thoảng hương nghệ tây hay một làn sari phất phơ trong gió. Bản thân Balram là một nhân vật thú vị, người mà lý do giết người trở nên hoàn toàn dễ hiểu vào đoạn kết, nhưng ấn tượng hơn cả là thực tế cuộc sống Ấn Độ mà Adiga bóc trần: sự tham nhũng, hệ thống giai cấp, sự đồi bại đê tiện trắng trợn. Ủy ban du lịch Ấn Độ sẽ không hài lòng, nhưng bạn sẽ đọc nó và trong nháy mắt thấy mình bị mê mẩn ngay lập tức.” - Andrew Holgate, The Sunday Times (London) “Một cái nhìn thực tế, nhiều lúc hài hước thâm thúy đối với vấn đề giai cấp ở Ấn Độ đương đại... Mặc cho cách hành xử vô liêm sỉ và những sự kết án kì thị, Balram bằng cách nào đó vẫn chiếm được cảm tình độc giả. Có lẽ đó chính là vì cách hành xử vô liêm sỉ của anh ta.” - Daniel Menaker, Titlepage.tv “Một câu chuyện cuốn hút mang chút hơi hướm Dostoevsky, [và] một bức tranh sinh động không mấy dễ chịu về cuộc sống của những nền văn hóa khác nhau trời vực tạo nên Ấn Độ hiện đại... Giọng kể của Balram lôi cuốn và sự quan sát của anh ta mới thật sâu sắc, được đệm bằng sự hóm hỉnh mỉa mai pha lẫn chút ưu buồn... Quyển tiểu thuyết căng thẳng, gây hoang mang này sẽ khiến nhiều độc giả phương Tây mở mang tầm mắt.” - BookPage “Nhạy cảm... Balram là một gã điên thực sự quyến rũ... Một cái nhìn thú vị bên dưới bề nổi của phép màu kinh tế Ấn Độ, bạn sẽ không bao giờ còn nghĩ đến “sự phá hủy sáng tạo” như trước đây nữa.” - Scott Medintz, Fast Company “Thỉnh thoảng mới xảy ra, tiếng nói đơn lẻ ấy phá tan sự phức điệu của một Ấn Độ Tưởng Tượng. Một tiếng nói thách thức sự thông thái cố hữu của trường ẩn dụ Ấn Độ và đem đến những trang sách tăng dần một dấu vết mới về sự trông đợi... Cọp Trắng là tiểu thuyết ra đời trong cái tích tắc đen tối ấy. Là một tác phẩm đầu tay, nó đánh dấu sự xuất hiện của một người kể chuyện luôn tìm cách cân bằng giữa hiện thực xã hội về chốn tồi tàn anh ta chọn làm nhà với chủ nghĩa nhân văn của những kẻ bị ruồng bỏ... Adiga - cựu phóng viên Time đến từ Delhi hiện đang sống tại Mumbai - chính là người kể chuyện đang đạp ga ở cần số bốn.” - S. Prasannarajan, India Today “Mạnh như điện giật.” - The Economic Times (Ấn Độ) “Một trong những tác phẩm chỉ trích xã hội sâu sắc nhất từng được viết về tầng lớp trung lưu Ấn Độ mới... Người đọc sẽ chú ý giọng kể đặc sắc, đậm sắc thái phức tạp của hiện thực nghiệt ngã. Nó đồng thời còn chuyển tải sự khúm núm dường như muôn thuở trong ngôn ngữ người nghèo thôn quê lẫn tiềm năng về một sự lật đổ tiên liệu. Nó phát đi thứ ngôn ngữ của tầng lớp nhà giàu mới, sự hoang đàng lố bịch và thị hiếu lòe loẹt của họ, nhưng vẫn thể hiện một cách nhẹ nhàng đầy hiểu biết... Thể loại viết mà Ấn Độ mới cần nhưng chưa có đủ.” - Nakul Krishna, The New Statesment (Anh) “Một chân dung thông minh và tàn nhẫn của Ấn Độ trong thời kì xây dựng - bất kể tỏa sáng hay nổi lên, nhưng cuối cùng vẫn luôn là chìm xuống - được thể hiện bằng sự hài hước thâm thúy tương thích với sự kiệm lời của tác giả... Sức mạnh thực sự của quyển sách này đến từ việc nó thiếu vắng cảm xúc ủy mị, và từ chủ nghĩa hiện thực mà nó truyền tải.” - The Indian Express “Nực cười, phức tạp... Văn phong tự nhiên và khôi hài đến nỗi quyển sách cũng bị cuốn theo, châm biếm sâu sắc, vừa đủ trêu ngươi... Adiga đưa bạn vào trong bộ não của Balram để bạn từ từ yêu mến anh ta, và khi anh ta cư xử không tốt bạn lại đau khổ, lo lắng và vã mồ hôi. Bạn sẽ không bao giờ quên được cảnh giết người - và những người nghèo bị kẹt trên xe buýt với tôi cũng sẽ không quên. Đây là một trong những tiểu thuyết đầu tay xuất sắc nhất trong nhiều năm gần đây [và] một tiểu thuyết chính trị nhức nhối thể hiện bằng niềm khoái cảm trào phúng hoàn hảo về mặt ngữ nghĩa, một yến tiệc tinh thần phức tạp sẽ khiến bạn bật cười và nghĩ ngợi rất lâu sau khi nó kết thúc.” - Nick DiMartino, Shelf Awareness “Văn học có truyền thống về những kẻ tâm thần đáng cảm thông. Balram Halwai, nhân vật chính trong tiểu thuyết đầu tay ấn tượng của Aravind Adiga, cần phải được kết nạp vào danh sách những kẻ nổi tiếng ấy.” - Financial Times “Một tiểu thuyết diễn tiến nhanh, khôi hài... Adiga thể hiện một tài năng thực thụ không gượng ép... Cọp Trắng khiến chúng ta nghĩ đến nhiều Ấn Độ và nhiều sự kì vọng lẫn thất vọng mà chúng đem lại, nhưng gói gọn trong khuôn khổ một quyển tiểu thuyết hấp dẫn. Đây là một khúc dạo đầu ấn tượng.” - Business Standard (New Delhi, Ấn Độ) “Aravind Adiga đã tạo ra một nhân vật hiểm độc, tự hủy hoại mình, một kẻ mà, bên cạnh tính khôi hài, là phương tiện cho sự quan sát sắc bén về văn hóa và điểm yếu của những kẻ tư sản và những kẻ vô sản ở tiểu lục địa.” - The Age (Melbourne, Úc) “Xuất sắc... [Một] tác phẩm cuốn hút khiến người đọc không thể dừng lại.” - The Straits Times (Singapore) “Hoài nghi, thâm thúy, hài hước và cực kì khốc liệt... Cọp Trắng là một quyển truyện mượt mà mở ra lối đi tắt đến một Ấn Độ hiện đại nhìn từ phía Tối.” - The Statesman (Ấn Độ) “Khuấy động... Người kể chuyện của chúng ta tình cờ... đủ nhân tính để được yêu mến. Adiga trêu ngươi độc giả của mình... còn chúng ta thì bị câu chuyện cuốn lấy.” - The New Zealand Herald “Cực kì chân thực... Một tác phẩm được thừa nhận nồng nhiệt [diễn ra] trên con đường của sự phát triển và sự suy đồi.” - Vikram Johri, St. Petersburg Times (Florida) “Giọng điệu hoài nghi, hân hoan của Balram thâu tóm Ấn Độ hiện đại: chẳng có trữ tình hoài niệm gì ở đây cả, chỉ có hiện thực ngồn ngộn.”- Kate Saunders, The Times (London) “Một tác phẩm khôi hài thâm thúy [và] gấp gáp... Adiga xây dựng tiểu thuyết của mình quanh những người nghèo tưởng tượng, nơi mà sự khôi hài là vũ khí và tội ác là một tên gọi khác của sự khởi nghiệp.” - Arthur J. Pais, India Abroad “Bức tranh [Adiga] vẽ về một Ấn Độ hiện đại, bị giai cấp chi phối và di chuyển theo hướng đi lên, đem lại nhiều thông tin bổ ích, đôi khi thật đáng sợ và trên hết, hài hước một cách thâm thúy.” - The Advertiser (Úc) “Hóm hỉnh và gấp gáp... Cọp Trắng là một lựa chọn thay thế cực kì tinh tế cho vô vàn tiểu thuyết Ấn Độ mang âm hưởng bi kịch [và] là một sự tiếp cận sát sườn mâu thuẫn giai cấp trong đời sống Ấn Độ đương đại, một vở kịch châm biếm dưới hình thức tiểu thuyết viết thư... Một tiểu thuyết mang nhiều tiếng cười thâm thúy... mà chúng ta có thể chia sẻ, đến một mức độ nào đó, và ngược lại rùng mình khi mường tượng những tiếng cười ấy.” - Randy Boyagoda, National Post (Canada) “Điều khiến quyển sách này khác biệt chính là lối giới thiệu không hề lãng mạn về Ấn Độ hiện đại... Nhân vật kể chuyện châm biếm, dễ mến một cách kì lạ của Aravind Adiga đã dọn ra cho người đọc sự tàn nhẫn, hủ hóa và suy đồi của những ngôi làng ở bóng tối rất xa Bangalore náo nhiệt.” - Sarah Vecere, “Hot summer reads,” The Roanoke Times (Virginia) “[Balram] là một màn trình diễn đậm sắc thái trong một quyển sách vừa cực kì tinh tế vừa vô cùng mạnh mẽ. Ấn Độ chưa bao giờ nguyên sơ như thế trong quyển sách đầu tay đáng nhớ này, và hiếm khi bị chỉ trích với một sự giận dữ ấn tượng, xác đáng nhường ấy.” - bn.com “Adiga có con mắt biết quan sát và trí tưởng tượng sâu sắc đến nỗi đã dùng nó để biến Balram trở nên sống động như một nhà bình luận mỉa mai, triết lý về một Ấn Độ đang biến đổi.” -South China Morning Post “Có một Nàng thơ mới thủ thỉ câu chuyện toàn cầu: da nâu, cáu giận, vui vẻ, học hành nửa vời, nhà quê lên tỉnh, vô thần, nhổ trầu, rèn giũa câu chữ - và trong trường hợp của Aravind Adiga, nàng đến từ một thị xã có tên gọi Laxmangarh. Đây chính là tiếng nói chân thực của Thế giới thứ ba, tiếng nói mà bạn chưa từng nghe đến. Adiga là một Gorky toàn cầu, một Kipling hiện đại đã trưởng thành, và trưởng thành bạo liệt. Tương lai tiểu thuyết nằm chính ở đây.” - John Burdett, tác giả Bangkok 8. “Giữa những ảo tưởng to tát về một Ấn Độ “mới nổi”, Aravind Adiga đã tìm thấy đề tài mà Gorgol hẳn sẽ ganh tị. Với giọng điệu hài hước cay độc tinh tế, không khoan nhượng, Cọp Trắng mổ xẻ lòng tham khôn lường của giới nhà giàu; nó đồng thời kích động, với sự chính xác và khoan thai kinh ngạc, cuộc đấu tranh không thể tuyệt vọng hơn của những kẻ cùng khổ.” -Pankaj Mishra, tác giả Những cám dỗ của phương Tây “Cọp Trắng của Aravind Adiga là một trong những quyển sách mạnh mẽ nhất mà tôi từng đọc trong nhiều thập niên qua. Nói không ngoa. Tiểu thuyết đầu tay này giáng trúng tôi như một cú đá vào đầu - giống như hiệu ứng mà Con của đất mẹ của Richard Wright và Người vô hình của Ralph Ellison đã tạo ra vậy. Nhưng Cọp Trắng không nói về giai cấp hay chủng tộc ở Ấn Độ. Nó nói về sự bất công kinh tế to lớn giữa người nghèo và tầng lớp thượng lưu giàu có. Người kể chuyện là một doanh nhân Ấn Độ thuật lại chi tiết quá trình vươn lên đỉnh cao quyền lực. Ấn Độ của anh ta là một khu rừng thối nát tàn nhẫn của Darwin, nơi mà chỉ có kẻ ác mới sống sót. Hãy hình dung anh ta giống như Vito Corleone thời trẻ trong Bố già không chịu trở thành con rối, nhưng lược đi tình cảm ướt át. Đây là một tiểu thuyết tuyệt vời và đầy giận dữ về sự bất công và quyền lực.” - USA Today “Tàn nhẫn và xuất sắc mãnh liệt... Điều Adiga vạch trần cũng là sự thật không thể lay chuyển: không một chi tiết nào trong tiểu thuyết này nghe có vẻ giả tạo hoặc gây cảm giác bịa đặt.Cọp Trắng là một tác phẩm lột trần, thẳng tay lột bỏ lớp vỏ bọc của “Ấn Độ đang nổi lên” để phơi bày quả tim mục nát của nó. Việc tác giả điều chỉnh để mưu kế thâm độc dần trở thành ý tưởng chủ đạo về cuối truyện cho thấy Adiga còn có thể tiến xa hơn nữa. Chúng ta sẵn sàng theo chân anh ấy.” - Neel Mukhrjee, The Sunday Telegraph (London) *** Sự kiện tiểu thuyết Cọp Trắng đoạt giải thưởng văn học Man Booker 2008 đã làm xôn xao văn đàn thế giới lúc bấy giờ. Bởi trong các đề cử chung khảo, tác phẩm đầu tay này của Aravind Adiga, một nhà báo Ấn Độ 33 tuổi, không được xem là ứng viên nặng ký. Cọp Trắng kể về quá trình lập nghiệp của Balram Halwai, con trai người phu xe đến từ một làng quê nghèo khổ ở Ấn Độ, trình bày dưới hình thức một lá thư viết trong bảy đêm gửi thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. Đó là câu chuyện của cậu bé bị buộc phải nghỉ học để đi làm ở quán trà, rồi trở thành tài xế cho con trai một địa chủ và sau đó thành một doanh nhân thành đạt tại Bangalore. Hành trình của Balram dẫn dắt người đọc đi qua hai Ấn Độ, một Ấn Độ của Ánh sáng, và một Ấn Độ của Bóng tối. Một bên là thế giới của những người thuộc giai cấp thượng lưu, sống trong những căn hộ cao cấp và giải trí bằng những thú tiêu khiển xa xỉ. Bên kia là thế giới của những kẻ bần cùng bị khước từ các điều kiện sống cơ bản nhất. Balram lớn lên từ Ấn Độ của Bóng tối, nhưng không cam tâm sống cuộc đời nghèo khổ để rồi cuối đời thổ huyết mà chết như bố mình. Kẻ được một viên thanh tra giáo dục đặt cho biệt danh “Cọp trắng” đã chứng tỏ mình xứng đáng với tên gọi của “loài vật trong rừng mà mỗi thế hệ chỉ có một con”. Con cọp trắng Balram tinh ranh quỷ quái không trừ một thủ đoạn nào, kể cả giết người, để chạm đến và leo lên vầng hào quang Ánh sáng. Ấn Độ qua giọng kể của Balram là một xã hội trần trụi đầy rẫy bất công. Ở đó, hệ thống giai cấp đã tạo ra chiếc “Chuồng gà” giam hãm những người thấp cổ bé miệng hết đời này qua đời khác. Ở đó, luật pháp bị thay thế bởi những luật lệ nhuốm mùi tiền. Và điều gì sẽ xảy ra khi một ngày, kẻ trong “Chuồng gà” như Balram phá cũi sổ lồng? Đó chính là điều tác giả Aravind Adiga lo sợ. “Tôi ngày càng tin rằng hệ thống chủ-tớ, viên đá tảng của đời sống trung lưu ở Ấn Độ, đang lung lay, và sự đổ vỡ ấy sẽ dẫn đến nguy cơ gia tăng tội ác và sự thiếu ổn định. Tiểu thuyết này là chân dung một xã hội bên bờ vực của bất ổn.” Chủ tịch hội đồng giám khảo giải thưởng văn học Man Booker, ông Michael Portillo, có lẽ hơi quá lời khi đánh giá Cọp Trắng là “một tiểu thuyết hoàn hảo trên nhiều phương diện”. Song những tiếp nhận tích cực của độc giả khẳng định, Cọp Trắng xứng đáng với giải thưởng vì câu chuyện gai góc hấp dẫn khiến người đọc khó lòng bỏ sách xuống cho đến trang cuối cùng, chứ không phải vì sự quan tâm ngày càng tăng của giải thưởng phương Tây đối với các nền kinh tế mới nổi, trong đó có Ấn Độ! Mời các bạn đón đọc ​Cọp Trắng của tác giả Aravind Adiga.