Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Công Lý & Báo Thù

Michael Rogan nhìn kỹ cái biển hiệu rực rỡ bên ngoài hộp đêm nóng nhất ở Hamburg. Sinnlich! Schamlos! Sündig! Kích dục! Không mát-x-cỡ! Tội lỗi đầy mình! Đúng là cái hộp đêm này, Roter Peter, không thèm giấu giếm cái gì nó đang rao bán. Rogan rút từ túi mình ra một tấm ảnh nhỏ và ngắm nghía cẩn thận dưới ánh sáng màu đỏ của ngọn đèn nơi cánh cửa có hình con heo. Chàng đã nhìn rất kỹ bức ảnh này hàng trăm lần rồi , nhưng chàng vẫn còn bối rối về chuyện nhận diện kẻ mà chàng tìm kiếm lâu nay. Trong vòng mười năm người ta thay đổi nhiều lắm, Rogan biết thế. Chính mình cũng thay đổi nhiều mà, nói chi ai. Chàng đi qua anh chàng gác cửa đang cúi người một cách xun xoe, khúm núm, để đi vào hộp đêm. Bên trong tối mò ngoại trừ cuốn phim “xanh” (blue movie) đang sáng nhấp nháy trên một màn hình chữ nhật nhỏ. Rogan vạch đường đi xuyên qua những cái bàn đông người, một đám đông ồn ào, nồng nặc mùi rượu bia. Bỗng dưng mọi ngọn đèn trong nhà sáng lên và đóng khung chàng sát sân khấu, với những cô gái tóc vàng trần truồng đang giựt người tưng tưng phía trên đầu chàng! Đôi mắt Rogan vẫn chòng chọc vào mấy khuôn mặt của những kẻ ngồi ở các bàn vòng quanh sân khấu. Một cô tiếp viên chạm vào cánh tay chàng. Cô ả nói bằng giọng đỏm dáng,” Có phải Herr Amerikaner tìm kiếm một món đặc biệt?” Rogan chà xát lướt qua nàng, cảm thấy bực mình vì đã dễ dàng để bị nhận ra là một “ông Mẽo. ”Chàng có thể cảm nhận máu đang đập vào tấm thẻ bằng bạc vốn đang giữ hộp sọ chàng gắn lại với nhau – một dấu hiệu nguy hiểm. Có lẽ chàng sẽ phải nhanh chóng hoàn thành chuyện này và quay về lại khách sạn. Chàng di động qua hộp đêm, kiểm tra các góc tối nơi các ông chủ nốc bia từ những chiếc vại khổng lồ và sờ soạng nhéo bóp bất kỳ em nào gần bên. Chàng liếc mắt vào những bàn có che màn nơi các ông khách nằm ngồi lổn ngổn trên mấy ghế sofas bọc da, “ngâm kiếu” các cô nàng trên sân khấu trước khi nhấc điện thoại lên để “triệu tập” em nào vừa mắt đến hầu quan. Bây giờ Rogan đang mất kiên nhẫn. Chàng không còn nhiều thời gian cho lắm. Chàng quay người và đối mặt với sân khấu. Phía sau những cô gái trần truồng đang nhảy có một bức vách trong suốt. Xuyên qua bức vách đó các ông chủ có thể thấy hàng kế tiếp các cô gái đang sẵn sàng bước lên sân khấu, và bọn họ vỗ tay mỗi khi một trong các cô gái cỡi áo nịt ngực hay tuột vớ ra. Một giọng nhừa nhựa say xỉn gọi vọng ra, ”Ôi các em cưng, các em đáng yêu – ta có thể đánh quả với tất cả các em.” Rogan quay người về phía giọng nói kia và cười trong bóng tối. Chàng nhớ lại giọng ấy rồi. Mười năm đã không làm cái giọng ấy thay đổi là mấy. Đó là một giọng vùng Ba-vi-e chói tai với vẻ thân tình giả tạo. Rất nhanh, Rogan di chuyển về hướng ấy. Chàng mở áo jacket, tháo một cái nút bằng da vốn giữ cho khẩu Walther an toàn trong cái bao đeo nơi vai. Tay kia chàng rút ống hãm thanh ra khỏi túi áo jacket và cầm nó như thể đó là một chiếc tẩu thuốc. Và rồi chàng đến trước chiếc bàn kia, trước khuôn mặt của con người chàng không bao giờ quên, kẻ mà kí ức về hắn đã giúp cho chàng sống suốt mười năm qua. Giọng nói đã không đánh lừa chàng; đúng là giọng nói của Karl Pfann. Tay cựu Đức quốc xã này hẳn đã tăng trọng thêm năm mươi pao nhưng lại mất đi gần hết đầu tóc – chỉ còn vài sợi màu vàng lơ thơ trên cái sọ bóng mỡ - nhưng cái mồm thì vẫn nhỏ tí và hầu như vẫn đầy vẻ hiểm ác như Rogan còn nhớ. Chàng ngồi xuống ở bàn kế bên và gọi thức uống. Khi mọi ánh đèn trong nhà tắt đi và cuốn phim xanh lại bật lên chàng rút khẩu Walther ra khỏi bao da và, giữ hai tay dưới bàn, gắn ống hãm thanh vào đầu nòng súng. Vũ khí hơi chùng xuống vì mất cân bằng; nó sẽ thiếu chính xác nếu cự ly quá năm yards. Rogan nghiêng người về phía phải và vỗ vào vai Karl Pfann. Cái đầu to bự quay lại, cái sọ bóng nhẫy nghiêng qua và cái giọng thân tình giả tạo mà Rogan từng nghe trong những cơn mộng ròng rã đã mười năm, nói, ”À, mein Freund, bạn muốn gì ạ?” Rogan nói giọng khàn khàn,” Tôi là một đồng chí cũ của bạn. Chúng ta có cuộc thương thảo công việc vào ngày Rosenmontag – Thứ hai Lễ hội Hoa hồng – năm 1945, nơi Tòa án Munich, bạn nhớ chứ?” Cuốn phim với cảnh nóng lên cao trào khiến Karl Pfann xao lãng câu chuyện, và đôi mắt hắn dính vào màn hình. ”Không, không, không thể có chuyện đó,” hắn nói một cách sốt ruột, mất kiên nhẫn. ”Năm 1945 tôi đang phục vụ cho tổ quốc.Sau chiến tranh tôi mới trở thành doanh nhân.” “Khi mi là một tên Quốc xã,” Rogan nói. ”Khi mi là một kẻ tra tấn... Khi mi là một tên sát nhân. ”Tấm bạc trong sọ Rogan phập phồng. ”Tên ta là Michael Rogan. Ta làm Tình báo Mỹ. Giờ đây mi nhớ ra ta chưa?” Có tiếng thủy tinh vỡ trong lúc tấm thân phục phịch của Karl Pfann xoay quanh và mắt hắn chọc qua bóng tối nhìn Rogan. Tên Đức nói bình thản, có vẻ hăm dọa, ”Michael Rogan đã chết. Mi muốn gì ở ta?” “Mạng sống của mi,” Rogan nói. Chàng rút khẩu Walther từ dưới bàn ra, ấn vào bụng Pfann và siết cò. Thân người của tên Đức giật nẩy lên.với sức mạnh của viên đạn. Rogan chỉnh lại ống hãm thanh và bắn tiếp phát nữa. Tiếng kêu than lúc chết của Pfann bị nhận chìm bởi tràng cười rộ lên, lan ra khắp hộp đêm khi màn hình diễn ra cảnh rù quến buồn cười. Thân hình Pfann đổ gục xuống vắt ngang qua bàn. Cuộc mưu sát hắn ta sẽ không được ai nhận ra cho đến khi cuốn phim kết thúc. Rogan rút ống hãm thanh ra khỏi đầu nòng súng và đút cả hai thứ trở vào trong các túi áo jacket. Chàng ta đứng lên và lặng lẽ di chuyển xuyên qua hộp đêm tối tăm. Anh chàng giữ cửa mặc đồ viền tua vàng chào chàng và huýt sáo đón taxi, nhưng Rogan quay mặt đi và bước xuống đường hướng về phía bến cảng. Chàng đi dọc theo bến cảng một lúc lâu cho đến khi nhịp tim và mạch máu dần trở lại mức bình thường. Trong ánh trăng lạnh của miền Bắc Đức, những bến tàu ngầm hoang phế và những con tàu rỉ sét mang trở lại những bóng ma ghê khiếp của một thời chiến tranh. Karl Pfann đã chết. Rogan như vừa trút được gánh nặng nhưng rồi lại thấy hụt hẫng, chán chường. Và rồi mười năm mộng dữ đã được trả giá và chàng có thể giảng hòa với tấm bạc trong sọ mình, những tiếng kêu xé lòng còn vang vọng vô tận của Christine gọi tên chàng, kêu cầu sự cứu độ, và cái khúc đoạn mù quáng, lóa mắt khi bảy người trong một căn phòng vòm cao của Tòa án Munich đã hành hình chàng như thể chàng là một con thú. Chúng đã cố mưu sát chàng, không chút nhân phẩm, như một trò đùa độc ác. Ngọn gió dọc theo bến cảng cắt vào da thịt chàng và Rogan quay lên phía lối đi Reeperbahn, đi qua đồn cảnh sát khi chàng bước vào Davidstrasser (Phố David). Chàng không có gì phải sợ cảnh sát. Ánh sáng trong hộp đêm quá tù mù để cho bất kỳ ai có thể thấy rõ mặt chàng, đủ rõ để có thể mô tả chàng tương đối chính xác. Tuy nhiên, để cho an toàn, chàng lỉnh vào con đường rẽ có treo tấm bảng bằng gỗ lớn: ”Cấm trẻ vị thành niên!” Trông nó cũng giống như bất kỳ con phố nào khác cho đến khi chàng quẹo ở góc phố. Chàng đã “sa chân lỡ bước” vào khu phố St Pauli nổi tiếng của Hamburg, khu vực được thành phố dành riêng cho việc mại dâm hợp pháp. Khu phố được chiếu sáng rực rỡ và đông đảo khách tìm hoa qua lại. Những căn nhà ba tầng thoạt trông có vẻ bình thường, ngoại trừ là mọi nơi đều rộn ràng như đang mở hội. Những tầng trệt có những cửa sổ thật rộng để phô bày, cho thấy các phòng bên trong. Ngồi trên các ghế bành, đọc sách báo, uống cà-phê và tán gẫu hay nằm ườn trên ghế sofa và nhìn lên trần mơ màng là một vài trong số những cô gái trẻ đẹp nhất mà Rogan từng thấy. Một vài cô ả còn làm bộ như đang lau chùi nhà bếp và chỉ mặc có mỗi cái tạp dề buông xuống đến nửa đùi phía trước còn nguyên phía sau thì... trống trơn! Mỗi nhà đều có tấm biển: ” Ba mươi Marks cho Một Giờ Mê Ly. ”Trên một số cửa sổ màn được kéo xuống. In bằng chữ vàng trên các tấm màn đen là chữ Ausverkauft, “Hết hàng,” để thông báo một cách tự hào là có vị khách sộp nào đấy đã bao cô gái trọn đêm rồi. Có một nàng tóc vàng đang đọc sách trên một cái bàn bằng thiếc nơi nhà bếp. Cô nàng có vẻ sầu muộn ủ ê, không bao giờ liếc nhìn ra ngoài phố phường nhộn nhịp; một ít giọt cà-phê rơi ra gần quyển sách đang mở của nàng. Rogan đứng bên ngoài căn nhà và chờ cho nàng ta ngẩng đầu lên để chàng có thể mục sở thị dung nhan của nàng. Nhưng có vẻ như nàng chẳng muốn nhìn lên. Chắc là tại nàng hơi xí? Cho nên nàng mặc cảm thua chị kém em, chàng Rogan đóan già đoán non như vậy. Cho dầu thế nào đi nữa chàng cũng sẵn lòng chi cho em ba mươi Marks chỉ để có thể nghỉ ngơi thư giãn một tí trước khi bắt đầu cuộc đi bộ khá dài để trở về khách sạn. Đối với thể trạng của chàng mà để bị kích thích tình dục thì cũng không tốt lắm đâu, các vị đốc tờ đã phán như thế, và một phụ nữ với khuôn mặt xấu xí thì sẽ không làm chàng hứng chí được và như thế lại hóa hay. Với tấm bạc đó trong sọ chàng Rogan bị cấm uống rượu nặng, cấm làm tình quá độ, và ngay cả là không được giận dữ. Nhưng các vị đốc tờ lại chẳng nói gì với chàng về chuyện có được giết người hay không. Khi chàng bước vào phòng bếp được chiếu sáng choang kia chàng thấy rằng cô gái đang ngồi đọc sách đó đẹp quá đi chứ! Nàng gấp lại quyển sách với vẻ hối tiếc, đứng lên, rồi nắm tay chàng và dẫn chàng vào phòng riêng ở phía trong. Rogan cảm thấy một cơn thèm muốn nhanh chóng bốc lên khiến đôi chân chàng run rẩy, đầu chàng nặng và căng. Phản ứng của việc giết người và trốn chạy đập mạnh vào chàng và chàng cảm thấy muốn ngất đi. Chàng để rơi người xuống giường và giọng nói vi vu như tiếng sáo của cô gái trẻ dường như đến từ nơi xa xôi nào. ”Anh sao thế? Anh có đau ốm gì không?” Rogan lắc đầu và lóng ngóng với cái ví tiền của mình. Chàng lôi ra một xấp tiền để trên giường và nói,” Anh bao em trọn đêm nay. Kéo màn xuống đi. Rồi để yên cho anh ngủ. ”Trong lúc nàng trở lại nhà bếp Rogan lấy một lọ thuốc nhỏ từ túi áo sơ-mi và thảy hai viên vào mồm. Đó là chuyện cuối cùng chàng làm mà chàng còn nhớ trước khi mất ý thức và chìm vào giấc ngủ mê man. Khi Rogan thức giấc bình minh xám nhạt xuyên qua những cửa sổ bụi mờ để chào chàng. Chàng nhìn quanh. Cô gái đang ngủ trên sàn dưới một tấm nệm mỏng. Một mùi hương hoa hồng toát ra từ thân thể nàng. Rogan lăn mình để có thể ra khỏi giường ở phía bên kia. Những dấu hiệu nguy hiểm đã tan đi. Miếng bạc không còn phập phồng nữa; cơn nhức đầu cũng đã tan biến. Chàng cảm thấy thoải mái, thư thái và sung sức. Không có gì trong ví của chàng bị lấy đi. Khẩu Walther vẫn nằm trong túi áo jacket. Chàng đã “hái lượm” được một cô gái lương thiện, biết điều, Rogan thầm nghĩ. Chàng đi vòng qua phía bên kia của chiếc giường để đánh thức nàng dậy, nhưng nàng đã ngọ ngoạy đôi chân, thân hình xinh đẹp của nàng đang run lên trong cái lạnh ban mai. Căn phòng sực nức mùi hoa hồng, Rogan để ý và có nhiều hoa hồng được thêu nơi các màn cửa sổ và trên các tấm trải giường. Có cả những hoa hồng được thêu trên chiếc áo ngủ mỏng dính, hầu như trong suốt của cô gái. Nàng cười với chàng. “Tên em là Rosalie. Em thích mọi thứ với hoa hồng – nước hoa, quần áo, mọi thứ.” Nàng có vẻ tự hào một cách rất là...con gái về tính mê hoa hồng của mình, như thể điều đó đem lại cho nàng một nét riêng, đặc biệt. Rogan thấy chuyện ấy cũng vui vui. Chàng ngồi trên giường và vẫy gọi nàng. Rosalie đến và đứng giữa hai chân chàng. Chàng có thể ngửi được mùi hương dìu dịu thoảng ra từ người nàng, và trong lúc nàng từ từ cỡi chiếc áo ngủ bằng lụa ra chàng có thể thấy bộ ngực nàng với hai đầu vú như hai trái dâu chín, đôi chân trắng dài; và rồi thân hình nàng bọc quanh thân xác chàng như những đài hoa lụa mịn màng và miệng nàng với đôi môi dày nhục cảm nở hoa bên dưới miệng chàng, bối rối xốn xang, vỗ cánh phất phới với đam mê nồng nàn. *** Con của những người nhập cư Ý đến sinh sống tại khu Hell’s Kitchen của Thành phố New York, Mario Puzo sinh ngày 15, tháng mười, 1920. Sau Đệ nhị Thế chiến – trong thời gian đó ông là một Hạ sĩ của Quân đội Mỹ - ông theo học Trường Cao đẳng Thành phố New York và bắt đầu làm một nhà văn tự do. Trong thời kỳ này ông viết hai quyển truyện đầu tay "Đấu Trường Đen Tối" (The Dark Arena, 1955) và "Người Hành Hương May Mắn" (The Fortunate Pilgrim, 1965). Khi những quyển sách của ông làm ra ít tiền mặc dầu được giới phê bình hoan nghênh, ông thề phải viết ra một quyển bestseller làm rung động văn đàn. "Bố già" (The Godfather - 1969) là một thành công vang dội không chỉ tại nước Mỹ mà hầu như trên gần khắp thế giới. Ông cộng tác với đạo diễn Francis Ford Coppola để viết kịch bản cho cả ba phim Godfather và thắng giải của Hàn lâm viện Điện ảnh cho cả hai phim The Godfather (1972) và The Godfather, Part II (1974). Ông cũng hợp tác viết kịch bản cho những phim như Superman (1978), Superman II (1981), và The Cotton Club (1984). Ông tiếp tục viết những quyển truyện thành công rất ấn tượng như "Fools Die (1978)", "The Sicilian(1984)", "The Fourth K (1991)", và "The Last Don (1996)". Mario Puzo mất ngày 02, tháng bảy, 1999. Quyển truyện cuối của ông "Omerta" -(Luật Im Lặng), được xuất bản trong năm 2000. Tại Việt Nam, hầu hết các tác phẩm của Mario Puzo đều đã được Nhà xuất bản Phương Đông mua tác quyền và chuyển ngữ tiếng Việt. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) Công Lý & Báo Thù ... Mời các bạn đón đọc Công Lý & Báo Thù của tác giả Mario Puzo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nữ Thám Tử Nghiệp Dư: Alice và Chiếc Bình Cổ - Caroline Quine
Nguyên tác : THE CLUBS 0F THE LEANING CHEMNEY Dịch theo bản tiếng Pháp: ALICE ET LE VASE DE CHENE Nhà Xuất bản HACHETTE 1966 Alice Roy là con gái một luật sư. Lòng yêu công lý, tính thích mạo hiểm và khả năng phán đoán thiên bẩm đã khiến Alice trở thành một NỮ THÁM TỬ NGHIỆP DƯ. Cô cùng các bạn đã lập nhiều kỳ tích trong việc truy tìm kẻ gian, phanh phui nhiều vụ pham tội. Bộ truyện NỮ THÁM TỬ NGHIỆP DƯ gồm nhiều tập, mỗi tập kể về một vụ phá án của Alice. Bộ Nữ Thám Tử Nghiệp Dư gồm có: - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 1: Alice và Bọn Làm Bạc Giả - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 2: Alice và Chiếc Bình Cổ - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 3: Alice và Cây Đàn Dương Cầm - Nữ Thám Tử Nghiệp Dư Tập 4: Alice và Bí Mật Sau Bức Tường Đổ *** - Alice ! Thật là điên mới đi vào con đường vắng tanh không một bóng người thế này. Nhất là với số tiền mà chúng ta mang theo trong túi xách. Nếu bị ai cướp mất thì khốn !. Mắt nhìn thẳng vào cảnh vật xuyên qua khung kính chắn gió trước mặt, Bess cố giữ thật chặt chiếc túi xách bằng da đặt trên đùi. Cảnh vật bất biến của một rừng cây dày đặc tới mức dù giữa ban ngày, ánh mặt trời cũng khó mà lọt qua được. Những đám mây đen kịt chồng chất trên bầu trời đêm, gió lay mạnh khiến cây rừng rít lên. Bess rùng mình và bất giác xích lại gần cô bạn gái của mình: - Ớn quá chị ơi ! Cô khẽ nói. Gương mặt Alice bình thường vốn tươi tỉnh giờ cũng có vẻ căng thẳng. - Thôi nào, thôi nào, Bess, kềm bớt trí tưởng tượng của cậu lại đi. - Alice vừa nói để trấn an bạn vừa lắc nhẹ mái tóc vàng óng mượt như tơ của mình. - Chúng ta sắp tới nơi rồi mà. Alice cố làm ra vẻ đầy tự tin tuy trong lòng cô lúc này cũng đang rối như tơ vò. Với sự điệu nghệ của một tay lái lão luyện, cô cho xe lăn bánh trên con đường Trois-Ponts và nhìn lơ đãng về phía chiếc xắc tay. Trong xắc chứa đựng thành quả của cuộc bán đấu giá gây quỹ từ thiện tại Carney mà hai cô đã tham gia hôm nay. Trên cương vị là thủ quỹ của quỹ từ thiện trên, Alice có nhiệm vụ ký gửi toàn bộ số tiền thu được vào một ngân hàng ở River City. Nhìn con đường như một dải băng đen ngoằn ngoèo trải dài trước mắt, cô tự hỏi phải chăng mình đã quá bất cẩn khi cho xe đi vào con đường tắt vắng tanh này. Bằng một cử chỉ kiên quyết, cô hất ngược một lọn tóc bướng bỉnh ra đằng sau và định bằng hành động này, gạt những ý nghĩ đen tối. - Thôi, đừng có thần hồn nát thần tính chứ ! Alice tự nhủ thầm. "Thời đại này làm gì còn có phù thủy hoặc bọn thảo khấu đón đường đòi tiền mãi lộ nữa". Bess cắt ngang luồng suy nghĩ của bạn: - Chị không lái nhanh thêm một chút được sao ? Alice ngoảnh đầu lại mỉm cười thân thiện với cô bạn đồng hành. Bess chẳng phải là một trong những bạn gái thân thương nhất của cô đó ư ? Bất chợt, một tia chớp chói lòa rạch những đường ngoằn ngoèo trên nền trời đen, tiếp liền theo là một tiếng sấm rền vang. Những giọt mưa nặng hạt rơi xuống, vỡ tan trên mặt kính xe. - Ôi ! - Bess rên rỉ - Lại còn thế nữa chứ !. Alice không đáp. Xe họ đang tới những khúc quẹo gắt dẫn tới cây cầu được gọi là cầu "Thợ Săn" và việc lái xe đòi hỏi cô phải tập trung cao độ để tránh rủi ro. Vừa bẻ lại tay lái sau cua quẹo cuối cùng, cô chợt thoáng thấy, dưới ánh đèn pha nhạt nhòa vì nước mưa, bóng một người đàn ông đầu đội nón, mình vận áo mưa rộng thùng thình. Khom lưng cúi nhìn xuống lòng đường, ông ta có vẻ như đang tìm kiếm vật gì đó vừa đánh rơi. Bess hoảng hồn thét lên. Alice bẻ ngoặt tay lái, nhấn còi inh ỏi và đạp mạnh cần thắng. Bánh xe rít ken két, chiếc xe rùng mạnh, chao đảo và lết thêm cả chục thước mới chịu ngừng hẳn. - Liệu mình đã... - Bess lắp bắp lên tiếng nhưng không nói được hết câu. Alice lấy cây đèn bấm trong hộc đựng đồ lặt vặt cạnh bảng điều khiển và nhảy vội khỏi xe. Một người đàn ông nằm sõng soài trên mặt đất chắn ngang đường đi. - Bess - Alice gọi bạn, giọng thảng thốt thấy rõ - Ông ta bị thương rồi. Cô chưa kịp lại gần nạn nhân, thì người đàn ông đã lảo đảo đứng lên, nhưng lại khuỵu xuống ngay rồi lại lồm cồm đứng dậy và nhìn quanh như vừa đánh rơi vật gì. - Xin lỗi, ông bị thương có nặng lắm không ? - Alice hỏi, giọng run vì sợ hãi. - Kệ tôi. Quỉ tha ma bắt các người đi cho rồi ! Câu đáp cộc cằn khiến Alice sửng sốt đứng sững như trời trồng. Một chiếc nón nỉ mềm xèo chụp trên đầu, kéo sụp xuống tận mang tai, lại thêm cổ áo bành tô bẻ cao hất ngược lên đã che khuất hoàn toàn gương mặt của người đàn ông, ngoại trừ đôi mắt sáng và sắc như dao. Thình lình, bất ngờ đến độ khó tin, gã cắm đầu cắm cổ chạy như bị ma đuổi, thoáng chốc đã tới bìa rừng, nơi có những lùm cây rậm rạp. - Ông... ông gì ơi ! - Alice lớn tiếng la trong lúc đưa tay lượm một cái gói vừa lăn xuống vệ đường trũng sâu. - Có phải ông muốn tìm cái gói này không ? - Hãy đặt gói đồ xuống đất rồi cút xéo ! - Gã quay lại nói giọng ra lệnh. - Sao ông la dữ vậy ? Cháu chỉ muốn giúp ông thôi mà. Ông có bị sao không ? - Đi mau đi, không thì người gặp nguy hiểm chính là cô đây. Đừng dí mũi vào chuyện người khác. Và như để bồi thêm trọng lượng cho lời hăm dọa, một cục đá xanh lớn bay vút trong bóng đêm, rơi bịch xuống trên mặt đường cách Alice chưa đầy một gang tay. Bess, thận trọng núp sau lưng bạn, giật nhẹ tay áo Alice. - Mình đi thôi chị - cô khẽ nói - Lỡ đó là một nguời điên thì sao ? Nhưng, thái độ của kẻ lạ mặt đã khơi dậy những mối ngờ vực trong đầu Alice. Cô đưa gói giấy cầm trên tay lên săm soi một chỗ rách và chợt nhận ra dường như đây là một đồ vật làm bằng gốm sứ. Tiếc thay, một cục đá xanh, lần này được nhắm khá chính xác, đã làm vỡ tan mặt kính của cây đèn bấm và cũng vỡ luôn cơ may thấy rõ hơn vật gì bên trong cái gói bí mật ấy. Bess thét lên sợ hãi: - Alice ! Em xin chị đấy ! Chúng mình đi thôi ! Alice đặt nhẹ gói đồ xuống đất, nắm lấy tay bạn, chạy thẳng về phía xe và nổ máy. Mưa lúc này đang đổ xuống như trút nước. Máy xe vừa nổ giòn, Alice ngoái đầu nhìn qua khung kính phía sau xe: người đàn ông đã biến mất. Không biết ông ta đã lượm lại vật mà ông ta đánh rơi chưa ? Đó là cái gì quí đến nỗi ông ta suýt mất mạng vì nó ? - Ôi chao ! - Bess thở phào nhẹ nhõm khi thấy những thân cây đang vùn vụt chạy giật lùi dọc hai bên vệ đường. - Lần sau nếu chị nổi hứng muốn làm quen với một kẻ lạ mặt ngay giữa rừng thì hãy lựa dịp nào không có em cùng đi ấy. - Mình cũng công nhận là ông ta chẳng có gì là dễ thương hay tử tế cả. - Alice đáp với nụ cười hóm hỉnh - Dù sao cũng đáng tiếc là mình không thấy rõ mặt ông ta cũng như không thấy rõ món đồ trong bao. - Ờ, không biết đó là cái gì nhỉ ? - Một cái bình để cắm hoa. Mình đã rờ bên ngoài chiếc bình và đã thoáng nhìn thấy hình vẽ những chiếc móng đỏ trên nền men xanh lục. - Bình bằng gốm sứ màu xanh lục có vẽ những chiếc móng màu đỏ ư ? Lạ thật ! - Lạ ở chỗ nào ? - À, thì... tại nó giống hệt một cái lọ mà em đã có dịp thấy trong tủ kính của cửa tiệm Dick Milltop. Một chiếc bình màu xanh lục trên đó vẽ một con rồng đen có những móng màu đỏ. Dick là anh họ của Bess. Anh ta có một cửa tiệm bán đồ sành sứ trên đường Bedford; hầu hết các mặt hàng bày bán trong tiệm là do tự tay anh ta làm. Anh ta đang mở một lớp đào tạo các thợ thủ công gốm sứ. Bess cũng là một trong các học viên của anh ta. - Cái bình mà em vừa nói với chị đẹp không chê vào đâu được. - Bess nói tiếp sau vài giây im lặng. - Đó không phải là tác phẩm của Dick, có người đã cho anh ấy mượn, em đoán thế. Vui vẻ vì biết chắc đã gần đến River City, Bess tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp tuyệt hảo của chiếc bình, với niềm hưng phấn của một đệ tử mới nhập môn nghệ thuật gốm sứ. - Chị nên đến tham dự vài tiết dạy tại cơ sở gốm sứ của anh họ em, - cô nói - thấy mà mê luôn. Alice chỉ nghe một cách lơ đãng những lời tán dương của bạn mình. Cô đang bận nghĩ đến người đàn ông còn ở lại đằng kia. Ông ta làm gì trong rừng giữa đêm hôm khuya khoắt thế này ? Hiển nhiên là ông ta không muốn bị ai bắt gặp. Xe hơi của Alice bất thần vọt ra từ chỗ quẹo, đã khiến ông ta không kịp tìm chỗ núp. Tại sao ông ta bỗng tỏ ra dữ dằn và hăm dọa ngay khi cô vừa lượm được cái gói ? Liệu có phải là ông ta đã lấy trộm chính chiếc bình mà Bess đã say mê ngắm nghía, khi nó được trưng bày trong tủ kính của tiệm đồ gốm Dick Milltop ? Đồ gốm màu xanh lục ư ? Những móng rồng màu đỏ ư ? Đâu phải là một hòa sắc thường thấy ? - Chị không nghe em nói gì hết à ? - Bess gắt, bực bội thấy rõ. - Xin lỗi ! Mình đang bận nghĩ về cung cách kỳ lạ của người đàn ông nọ. - Làm ơn đi - Bess la lên với vẻ giễu cợt - Không lẽ chị định nói là chị lại vừa "đánh hơi" thấy một vụ án hình sự nữa ! Mưa đã ngừng rơi. Những vì sao sáng lấp lánh trên bầu trời đêm. Xe rốt cuộc đã lăn bánh trên đường phố của River City. Bess ngạc nhiên nhận thấy bạn mình đang cho xe chạy vào đường Bedford. - Ủa, đường này có cửa tiệm của Dick mà, chị định đến đó ư ? - Phải rồi - Alice đáp - Mình muốn ngó sơ qua tủ kính trưng bày sản phẩm của Dick xem sao. Lát sau, Alice đậu xe dưới cột đèn đường ngay trước một cửa tiệm giới thiệu và trưng bày các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ. Hai cô gái xuống xe và không tránh khỏi một thoáng lo âu, bắt đầu quan sát tỉ mỉ những bộ chén, đĩa, những lọ độc bình và những bộ đồ trà xếp thứ tự trên nền nhung đen. Hai cô hoài công tìm kiếm mà chiếc lọ độc bình Bess vừa nói vẫn không thấy đâu. Alice muốn vào bên trong nhưng cửa tiệm đã được khóa kỹ. - Lạy Chúa ! Chiếc bình đã bị đánh cắp mất rồi ! - Bess nói nhỏ. - Chớ vội đoan chắc. Biết đâu Dick lại chẳng đã cất nó ở một chỗ an toàn ban đêm. Dù sao ta cũng nên hỏi lại cho chắc ăn. Rảo bước, hai cô gái đến một nhà hàng và ở đó họ đã gọi điện được cho Dick. Một giọng đàn ông ngái ngủ trả lời họ. - Dick Milltop phải không ? - Alice hỏi - Đây là Alice Roy. Xin lỗi vì đã phải đánh thức anh giữa đêm khuya, nhưng vì có chuyện rất quan trọng. - Chuyện gì vậy ? - Đó là chuyện chiếc bình có hình rồng chạm nổi. Nó không còn ở trong tủ kính của cửa tiệm nữa. Có phải chính anh đã cất nó vào nơi nào khác không ? - Cái bình có hình rồng khắc nổi, cô vừa nói vậy hả ? Không ! Giọng Dick lo lắng. - Nó vẫn còn ở đó lúc tôi đóng cửa tiệm mà, - anh ta nói tiếp - Tôi chắc chắn là thế. Cô nói là nó không còn ở đó nữa hả ? Nhưng, nếu vậy thì... Chết tôi rồi ! - Anh hãy tới ngay cho; phần tôi, tôi sẽ báo cảnh sát giùm anh. - Cám ơn cô đã có nhã ý lo giúp tôi chuyện ấy. Chiếc bình ấy trị giá cả triệu đôla mà nó lại không thuộc sở hữu của tôi, thế mới chết chứ.  ! ... Mời các bạn đón đọc Nữ Thám Tử Nghiệp Dư: Alice và Chiếc Bình Cổ của tác giả Caroline Quine.
Hợp Âm Thứ Bảy - Lý Trà
Mã Tu Hòa đã từng tiếp xúc với rất nhiều hồ sơ tội phạm hung ác. Duy chỉ có người phụ nữ hàng xóm là anh không thể nhìn thấu, cô là người cứu mạng anh nhưng đồng thời cũng là nghi phạm trong một vụ kỳ án....Càng tiếp cận anh lại càng để ý cô. Còn đối với Cố Thất Hải thì Mã Tu Hòa chính là người trong lòng. Giữa trời rực lửa, anh nhẹ nhàng cầm tay cô và nói: "Chúng ta sẽ cùng nhau chạy thoát cùng nhau sống xót" Ngay tại thời điểm đó cô đã biết trong tim mình có anh. Mã Tu Hòa không hoàn mỹ, tính tình hay ghen, lại vô cùng háo sắc...nhưng điều đó chỉ đối với mình cô. Cuộc sống của anh đầy rẫy những nguy hiểm và tội ác nhưng vì anh cô nguyện ý tất cả. *** Mùa hè năm nay dường như tới sớm hơn những năm trước, dưới nắng hè chói chang, một mình Cố Thất Hải mang hai chiếc vali hành lý chuyển đến dưới tầng nhà trọ mới, bước chân có chút không vững, tiếng chuông điện thoại trong túi vang lên. Cô lau mồ hôi trên trán, lấy ra điện thoại xem, quả nhiên là bà chủ nhà gọi đến. Lần này Cố Thất Hải thuê nhà của một người phụ nữ trung niên hay sốt ruột. Cuộc gọi này chắc chắn là giục cô nhanh chóng lên phòng gặp bà. Cô cắn môi, kéo nhanh đồ đạc vào thang máy, một phút sau liền có mặt ở tầng 11. Đúng như Cố Thất Hải đóan, bà chủ nhà lòng đã nóng như lửa đốt đứng đợi cô trước thang máy. “Nhanh lên nào, tí nữa thím còn có hẹn đi chơi mạt chược nữa.” Bà chủ nhà nhanh chóng kéo Cố Thất Hải vào phòng 1102, vội vàng nói cho cô về mấy điểm cần lưu ý khi thuê nhà. Cố Thất Hải ngoan ngoãn đứng một bên lắng nghe, dù sao người đang gấp là chủ nhà nên bà cũng chủ động nói ngắn gọn. Sau một hồi nói chuyện, bà chủ nhà liền giao chìa khóa nhà cho Cố Thất Hải, thuận miệng hỏi: “Hình như cháu vẫn còn là sinh viên phải không? Tiền thuê nhà là do cha mẹ hỗ trợ sao?” Cố Thất Hải ậm ừ: “Cháu… Cháu đi làm thêm kiếm tiền.” Bà vỗ vỗ vai cô: “Người do A Diễn giới thiệu thím rất tin tưởng. Nhớ đúng thời hạn trả tiền cho thím, những chuyện khác cháu liền tùy ý.” Nói xong bà chủ nhà liền nhìn thời gian rồi vội vàng chạy vào thang máy rời đi. Cố Thất Hải nhớ ra, vừa rồi khi đi theo bà chủ nhà cô liền để lại hai vali đồ đạc ở trước cửa thang máy. Khi nãy vừa nghe bà chủ nói chuyện cô vừa chú ý động tĩnh ngoài hành lang. Trừ bỏ tiếng người về ở gian phòng bên cạnh cô đều không nghe thấy gì khác, nên cũng không lo lắng việc có người lấy trộm mất đồ. Cô định đi ra ngoài mang đồ vào, nào ngờ vừa mở cửa ra liền thấy hai chiếc vali đang nằm yên lặng trước cửa. Cô ngó ra bên ngoài, nơi này chỉ có ba căn hộ. Nhà cô ở là 1102, bên cạnh là số nhà 1101 và đối diện là 1103. Như vậy tiếng bước chân cô vừa nghe được là của chủ nhà 1101, có lẽ người đó vừa giúp cô chuyển hành lý đến trước cửa. Khi nào đó nhất định phải tìm cơ hội cảm ơn người ta mới được. Cố Thất Hải yên lặng nhớ kĩ chuyện này rồi bắt đầu chuyển đồ đạc vào nhà mới, bắt đầu sắp xếp mọi thứ. Một lúc sau, người cô nhễ nhại mồ hôi, vừa trải xong ga giường đột nhiên nghe thấy chuông báo tin nhắn vang lên. Là của người giới thiệu phòng. Hà Diễn hỏi cô: “Cảm thấy nhà mới thế nào?” ... Mời các bạn đón đọc Hợp Âm Thứ Bảy của tác giả Lý Trà.
Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi - Alexandra Marinina
Nữ thám tử Nastya Kamenskaya đối mặt với một vụ án giết người với nạn nhân là một phụ nữ lớn tuổi sống cô đơn một mình. Trong nhà có nhiều của quí nhưng kẻ gian đã không đúng đến. Từ cái chết của bà lão, Nastya tiếp tục đối đầu với nhiều cái chết khác, và dấu vết dẫn cô đến tận Ucraina với một tổ chức tội phạm và những âm mưu tưởng như không tưởng.. Huyễn hoặc của tội lỗi được đánh giá là một trong những tác phẩm hay của Alexandra Marinina, nếu bạn vượt qua được lối kể chuyện rề rà, những tình huống rối rắm đan xen để đi đến cái kết, bạn sẽ thấy mình không bỏ thời gian uổng phí. *** Nhìn vào căn phòng ấy, với cái xác người phụ nữ có tuổi nằm sóng sượt, có cái gì đó khơi dậy các câu chuyện của Dostoievsky. Án mạng người đàn bà làm nghề cho vay nặng lãi. Tuy vậy, theo các chứng liệu ban đầu, bà ta không làm chuyện cầm cố và không biến nhà mình thành hiệu cầm đồ. Hơn nữa, quang cảnh trong căn hộ xây từ thời Xtalin chứng tỏ sự dư dật và nguồn gốc quí tộc của chủ nhân. Nơi đây nhà bác học nổi tiếng, viện sĩ Smagorin đã từng sống, nhưng đó là lâu lắm rồi. Người đã khuất, Ekaterina Venediktovna Aniskovets, là con gái của ông. Đã ba lần kết hôn và ngần ấy lần đổi họ, nhưng chỗ ở thì không. Ở trong tòa nhà này, có lẽ bà sống lâu hơn tất cả các cư dân khác. Có điều căn hộ của bà vẫn còn là riêng, những căn khác đã từ lâu biến thành các căn hộ chung cư bị đổi chủ xoành xoạch. Họ hoặc được cấp hoặc mua nhà ở mới và chuyển đi, những người khác dọn đến nhờ sang đổi với người thân hoặc vợ hay chồng mình. Các cánh cửa căn hộ đều bị đục nham nhở để lắp chuông và giá gác danh thiếp, và chỉ có cửa căn hộ của Ekaterina Venediktovna có một cái chuông duy nhất và một bảng kim loại có đề Viện sĩ N.V. Smagorin. Viên giám định pháp y xem xét tử thi, chuyên viên chấp pháp hình sự thì bói toán trên các dấu vết. Án mạng hẳn là vụ lợi, được thực hiện với mục đích cướp của, vì căn hộ rất sang trọng bị xáo trộn đến dễ sợ. Thấy ngay là người ta muốn tìm kiếm cái gì đó. - Nạn nhân có bà con gì không ? - Dự thẩm viên Olshansky hỏi người hàng xóm được mời sang chứng kiến. - Tôi không biết, - người thiếu phụ mặc đồ thể thao đáp một cách thiếu quả quyết - Tôi mới ở đây không lâu, trọn nửa năm. Nhưng tôi được nghe rằng bà ấy không con cái gì. - Ai ở tòa nhà này có thể kể điều gì đó về bà Aniskôvets ? Ai đã sống lâu ở đây ? - Ôi, tôi chịu thôi - người hàng xóm lắc đầu. Ở đây tôi ít tiếp xúc với mọi người, tôi chỉ là người thuê phòng. Bà chủ mua căn hộ rồi cho thuê từng phòng. Tôi là dân tị nạn - bà này tiếp lời. - từ Tadjikistan. Ở đây mọi người tránh né tụi tôi như dịch bệnh, tuồng như chúng tôi có thể truyền nhiễm. Bởi vậy họ có chuyện trò gì lắm với chúng tôi đâu. Quả là vị hàng xóm này không được tích sự gì. Giờ thì phải đi lòng vòng từng căn hộ để gom góp đôi chút chứng liệu về người đàn bà có tuổi đã bị sát hại dã man bằng một vật nặng đập vào gáy. Với cư dân tòa nhà này, người quá cố Ekaterina quả thật đã hầu như không tiếp xúc , tuy vậy cháu chắt và người quen của bà không phải là ít. Là dân Matxcơva gạo cội, bà lớn lên ở đây. Tốt nghiệp phổ thông và đại học tổng hợp, rồi làm ở Bảo tàng Lịch sử. Và đã kết giao bè bạn ở mọi nơi. Tất nhiên đến hôm nay không phải tất cả họ đều còn sống. Nhưng dù sao số người còn có thể kể về nạn nhân vẫn khá nhiều. ... Mời các bạn đón đọc ​Huyễn Hoặc Của Tội Lỗi của tác giả Alexandra Marinina.
Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd - Agatha Christie
Ở làng King’s Abbot, vụ tự sát của bà góa Ferrars làm dấy lên đồn đoán rằng bà đã giết chồng, bị tống tiền và có quan hệ mờ ám với ông Roger Ackroyd, một người giàu có trong làng. Tối hôm sau, ông Ackroyd bị giết trong phòng làm việc trước khi phát hiện được ai là kẻ tống tiền người đàn bà góa. Thám tử lừng danh Hercule Poirot ra tay phá án, với sự trợ giúp của bác sĩ James Sheppard. Xuất bản lần đầu năm 1926, Vụ ám sát ông Roger Ackroyd nhanh chóng trở thành hiện tượng xuất bản và sau này được coi là tác phẩm kinh điển của dòng văn học trinh thám phổ thông, mở ra một kỷ nguyên mới cho văn chương thể loại này *** Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Bà Ferrars chết vào đêm hôm thứ năm, giữa hai ngày 16 và 17 tháng 9. Người ta gọi tôi đến vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ sáu, song tôi không thể làm gì hơn được nữa. Bà ta đã chết được mấy tiếng đồng hồ rồi. Vào khoảng 9 giờ hơn, tôi về đến nhà. Cửa đóng kín. Tôi lặng lẽ mở bằng chiếc chìa khóa riêng, treo áo và mũ ở phòng ngoài. Tôi đứng yên một lúc; một cảm giác nặng nề và lo lắng đè nặng lên tôi. Không biết cái gì sẽ xảy ra sau đây, chắc chắn là tôi không thể đoán được. Nhưng trong đầu tôi cứ quay cuồng một ý nghĩ rằng trong thời gian tới đây, sẽ có nhiều điều bất ngờ nữa xảy ra như cái chết của bà Ferrars. Như người ta thường nói: Những gì con người không hy vọng thì luôn luôn xảy đến. Trong bếp có tiếng cốc va chạm nhau lách cách và một giọng nói khô khan vọng ra, đó là giọng của chị gái tôi: Caroline. - Cậu đã về đấy à, James? Một câu hỏi vô nghĩa, nếu không phải là tôi thì còn là ai khác nữa cơ chứ? Tôi vẫn im lặng không muốn trả lời, chính bà chị tôi là nguyên nhân của sự im lặng này. Caroline là một người đàn bà rất thóc mách và thậm chí còn hơn thế nữa, nếu người ta đề cập đến một vấn đề hay câu chuyện nào đó ở ngoài cái nhà này, Caroline có thể tìm mọi cách để biết cho bằng được những câu chuyện không đâu ra đâu của thiên hạ, mặc dù bà ta vẫn chỉ ngồi ở nhà. Tôi không biết bà chị tôi làm việc đó như thế nào, chỉ biết là bà ấy làm được thôi. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao tôi phải câm miệng. Tất cả những điều tôi sắp phải kể cho Caroline nghe bây giờ, xung quanh cái chết của bà Ferrars, có thể là những điều mà toàn thị trấn này đã được biết cách đây một giờ đồng hồ rồi. Song, bà chị tôi lại luôn luôn muốn biết những cái gì mà những người khác không biết cơ, đó đâu phải là lỗi của tôi. Chồng bà Ferrars bị chết cách đây đã được hơn một năm. Mỗi khi nói về cái chết của ông Ferrars, Caroline vẫn hay khẳng định rằng: Ông Ferrars chết là do bị bà vợ đầu độc. Caroline khẳng định như vậy không dựa trên một chứng cứ hoặc lý lẽ nào và thường xuyên cãi lại khi tôi nói rằng ông Ferrars chết vì bệnh dạ dày quá nặng, thêm vào đó, ông ta còn có thói quen uống rượu mạnh nhiều một cách kinh khủng. Đây là một bằng chứng đúng đắn vì hậu quả của nó đối với bệnh này của ông Ferrars cũng giống như kết quả của một vụ đầu độc. Nhưng Caroline không bao giờ dựa trên cơ sở này để đánh giá lại về bà Ferrars cả, mà vẫn buộc tội bà ấy là một kẻ giết người. - Cậu chỉ cần quan sát kỹ là hiểu ngay bà ta là một người như thế nào - Caroline vẫn thường nói với tôi như vậy. Tôi vẫn do dự đứng ngoài phòng khách không muốn vào và đang suy nghĩ về tất cả những điều đó thì giọng nói gắt gỏng của bà chị tôi lại vọng ra: - Cậu đang làm gì ngoài ấy thế hả, James? Sao không vào đây mà ăn sáng đi? ... Mời các bạn đón đọc Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd của tác giả Agatha Christie.