Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Bá Chủ Không Gian: Elon Musk, Jeff Bezos Và Công Cuộc Chinh Phục Vũ Trụ

Những Bá Chủ Không Gian: Elon Musk, Jeff Bezos Và Công Cuộc Chinh Phục Vũ Trụ MUSK VÀ BEZOS, hai tỷ phú với hai phong cách và tính khí vô cùng khác biệt, chính là những người đi đầu trong việc làm sống lại chương trình không gian Mỹ. Đầy táo bạo, Musk luôn tiến về phía trước, những thành công và thất bại của ông luôn là tâm điểm của sự chú ý. Ngược lại, Bezos luôn kín kẽ và thận trọng, dự án tên lửa của ông luôn phủ một lớp màn bí mật. Nhưng vẫn còn những người khác nữa. Giống như Bezos, Richard Branson hứa hẹn sẽ đưa các du khách vượt qua tận cùng của không gian để có thể nhìn thấy Trái Đất từ trên cao và trải nghiệm vài phút không trọng lượng. Paul Allen, nhà đồng sáng lập Microsoft, người đứng sau thiết bị vũ trụ thương mại đầu tiên bay ra ngoài không gian, hiện đang sản xuất chiếc máy bay lớn nhất từng thấy trên thế giới. Lớn hơn chiếc Spruce Goose (Con ngỗng Bảnh bao) của Howard Hughes, nó có khả năng “phóng tên lửa trên không” từ độ cao gần 11.000m – và cả một chiếc tàu con thoi mới, có tên là “Black Ice” (Băng Đen), cũng đang được bí mật phát triển. Những bá chủ không gian này đang cùng nhau đứng sau những thương hiệu lớn nhất thế giới – Amazon, Microsoft, Virgin, Tesla, PayPal – những thương hiệu đã làm gián đoạn các ngành từ bán lẻ đến thẻ tín dụng đến hàng không. Và giờ đây, họ đang đánh cược phần lớn khối tài sản khổng lồ của mình để đưa số đông ra ngoài không gian, vượt qua chính phủ trong hành trình phát triển du lịch không gian. Về cốt lõi cuốn sách Những Bá Chủ Không Gian, câu chuyện được châm ngòi bởi cuộc cạnh tranh mới nhen nhóm giữa hai nhà lãnh đạo của phong trào không gian mới này. Sự căng thẳng ngày một gia tăng trong những văn bản kiện tụng và trên Twitter, nhắm vào tầm quan trọng của những cuộc hạ cánh và sức đẩy của những tên lửa của mỗi bên, và thậm chí là cả cuộc cãi cọ về bệ phóng tên lửa. Musk, chú thỏ đồng ngạo mạn, đi tiên phong để người khác đi theo, trong khi Bezos, chú rùa chậm chạp và giữ kẽ, luôn hài lòng với việc tiến từng bước một trong cuộc đua mới chỉ vừa bắt đầu. NHẬN XÉT TỪ CHUYÊN GIA: “Một bản tường thuật chi tiết về thế hệ doanh nhân mới đang xoay vần chuyển đổi ngành du lịch không Một áng văn tuyệt vời về trí tưởng tượng và nỗ lực của con người lẫn dòng chảy không ngừng của ngành công nghiệp vũ trụ." – Financial Times “Một một câu chuyện thú vị đầy ắp thông tin và những tầm nhìn sắc bén. Một cuốn sách lấp lánh tài năng kể chuyện sắc sảo của Davenport.” - Walter Isaacson, New York Times “Những bí mật, những câu chuyện hậu trường chưa từng được tiết lộ về cuộc chiến tranh giành quyền kiểm soát ngành du lịch không gian mới nổi.” - The New Yorker *** TÁC GIẢ: Christian Davenport là cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này. Ông cũng là tác giả của những bài báo nổi tiếng về các vụ bắn tỉa ở khu vực DC, vụ bê bối nhà tù Abu Ghraib và các vấn đề chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ông đã nhận được giải thưởng Peabody cho tác phẩm của mình về các cựu binh bị chấn thương sọ não và từng thuộc nhóm các phóng viên lọt vào vòng chung kết đề cử Giải Pulitzer ba lần. *** ‘Những bá chủ không gian’ – làn sóng tỷ phú đua vào vũ trụ Tác giả Christian Davenport vẽ bức tranh toàn thể về làn sóng đua vào vũ trụ của những tỷ phú hàng đầu thế giới. Những kẻ chạy đua Được công chúng truyền thông nhắc đến nhất phải kể đến SpaceX của Elon Musk được thành lập vào năm 2002 với tham vọng rất rõ ràng là tìm một hành tinh khác để con người định cư – đó là sao Hỏa. SpaceX với sự xông xáo và mạnh miệng của Musk đã trải qua hết lần này đến lần khác phóng tên lửa thất bại, cạn sạch tiền, đứng trước nguy cơ phá sản, rồi lại được NASA tài trợ lần lượt 278 triệu USD và 1,6 tỷ USD, rồi lại phóng, rồi thất bại… Phải đến năm 2010, công ty mới có dấu mốc đầu tiên khi phóng thành công tên lửa Falcon 9 và 5 năm sau đó, Falcon 9 mới hạ cánh thành công lần đầu tiên. Gần đây nhất, vào 2h22 phút ngày 31/5 theo giờ Hà Nội, tên lửa Falcon 9 đưa tàu Crew Dragon lên quỹ đạo thành công từ bệ phóng 39A ở Trung tâm vũ trụ Kennedy của NASA tại Florida. Sự kiện này có một ý nghĩa quan trọng bởi sau 9 năm mới có tàu chở người lên vũ trụ đi từ đất Mỹ và lại được thực hiện bởi một doanh nghiệp tư nhân với mức chi phí thấp hơn nhiều so với các chương trình trước đây của NASA. Sớm hơn một chút, từ năm 2000, ông chủ của Amazon là Jeff Bezos cũng đã kín đáo mở một công ty hàng không có tên là Blue Origin, với blue – chấm xanh màu xanh nhạt chính là Trái Đất, và origin – đại diện cho nơi loài người bắt đầu, tuyên bố sứ mệnh “gieo hạt giống cho sự hiện diện lâu dài của loài người trong không gian”. Ngược lại với nguyên tắc hoạt động của SpaceX phải nhanh hơn, tăng tốc tối đa thì Blue Origin kiên trì đi từng bước một nhỏ để tiến đến đích. Công ty của Bezos cũng có những thành công nhất định khi phóng thành công tên lửa New Shepard ra ngoài không gian và hạ cánh thành công trong cùng một năm. Tuy vậy, Blue Origin vẫn chưa chính thức đưa bất cứ tàu không gian nào lên quỹ đạo. Một vị tỷ phú khác cũng đang bắt đầu tăng tốc trong cuộc đua này là Richard Branson với Virgin Galactic. Branson mua lại công nghệ đứng sau SpaceShipOne và quyết tâm tạo ra hãng hàng không vũ trụ thương mại đầu tiên trên thế giới với chuyến bay thương mại đầu tiên năm 2007. Dù phải đến năm 2019, Virgin Galactic mới đưa được hành khách đầu tiên lên không gian nhưng quyết tâm của Branson chưa bao giờ bị xóa bỏ. Và cũng không thể không nhắc đến Paul Allen, nhà đồng sáng lập của Microsoft với công sức bỏ ra tại Vulcan và con tàu SpaceShipOne. Khi SpaceShipOne nhận được Giải thưởng Ansari X, việc này đã chỉ ra rằng một công ty thương mại có thể đưa một người lên không gian. Quan trọng là họ có dám làm đến cùng hay không. Sau thành công của Richard Branson với thương vụ mua công nghệ của SpaceShipOne, Paul Allen cũng không thể ngồi yên và quyết định quay lại cuộc chơi. Chỉ trong vòng khoảng 20 năm, ngành công nghệ không gian của nước Mỹ cũng như của thế giới đã thay đổi hoàn toàn. Trước khi có những bá chủ không gian, người đọc có lẽ sẽ không tìm được ở đâu toàn cảnh một cuộc đua vũ trụ nhộn nhịp đến vậy. Hãy bắt đầu như một tỷ phú Đã qua rồi thời đại của Mỹ và Liên Xô cạnh tranh nhau trong cuộc đua vũ trụ thời chiến tranh lạnh chỉ vì mục đích chính trị tiêu tốn hàng tỷ đô la. Những bá chủ không gian thời hiện đại chạy đua lên vì sao vì mục đích tiền bạc, máu phiêu lưu và một cơ hội để đưa loài người đi xa hơn vào không gian mãi mãi. Nếu nhìn lại những đặc điểm chung của những kẻ tham gia cuộc đua này thì có thể nhận thấy hai điều. Thứ nhất, họ đều là những kẻ đam mê vũ trụ. Khi Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên Mặt Trăng, Branson mới là một thanh niên 19 tuổi, Allen 16 tuổi, Bezos thì 5 tuổi, Musk thậm chí còn chưa sinh ra, nhưng tất cả đều bị ảnh hưởng bởi mơ ước đặt chân lên Mặt trăng và các vì sao như bao cô bé cậu bé khác. Họ cũng đều là những người xuất chúng với trí tuệ hơn người, yêu thích các trò chơi và phim ảnh về vũ trụ như Chiến tranh giữa các vì sao, Du hành giữa các vì sao… Chính điều đó đã thôi thúc họ biến những điều viển vông thành hiện thực, thành lập ra hàng loạt những công ty không gian để đưa con người khám phá những vũ trụ. Nhưng điều quan trọng thứ hai, họ đều rất giàu và mong muốn còn giàu hơn nữa từ ngành này. Bezos có trong tay khoảng gần 2 tỷ đô khi thành lập Blue Origin nhờ vào sự phát triển của Amazon, Musk khiêm tốn với mức khoảng 500 triệu đô, Allen có số tiền khổng lồ từ Microsoft, còn Branson khi ấy đã là ông chủ của chuỗi các công ty Virgin. Phải giàu mới có thể theo đuổi những vụ phóng tên lửa hàng chục triệu USD mà biết trước rằng chúng có thể tiêu tan trong nháy mắt. Phải giàu thì mới nghĩ lớn được, và chính vì mang tư duy của người giàu nên mới muốn cắt giảm chi phí càng nhiều càng tốt. Và đó chính là cách nhanh nhất để trở thành một triệu phú trong ngành không gian. Hãy bắt đầu như một tỷ phú. Để tên lửa được tự do cất cánh Ngành công nghiệp không gian tiêu tốn rất nhiều tiền, đó là lý do tại sao trước giờ chỉ có các quốc gia với tiềm lực tài chính của mình mới dám thực hiện những sứ mệnh vươn ra ngoài vũ trụ. Sau thành công của nước Nga đưa người đầu tiên đi vòng quanh Trái Đất và con tàu Apollo 11 của Mỹ đổ bộ lên Mặt trăng, có biết bao đứa trẻ sau này mơ ước trở thành phi hành gia được khám phá bầu trời. Nhưng đáng tiếc thay, ước mơ đó thường chỉ dừng lại ở trong đầu mà khó có cơ hội thành hiện thực. Kể cả khi đứa trẻ đó có thể lực tương đối tốt và xuất chúng thì tần suất chúng được bay lên không gian cũng không nhiều bởi chi phí thì quá nhiều mà cơ hội lại quá ít. Từ năm 1997, Andy Beal, một tỷ phú trong ngành bất động sản đã thành lập công ty hàng không Beal Aerospace với kế hoạch “Tạo ra một tên lửa không tốn quá 200 triệu đô-la để phóng”. Với tiềm lực tài chính lớn, nhưng điều khiến Beal quyết định từ bỏ ngành này chính là sức ép của chính phủ. Sẽ không bao giờ có một ngành công nghiệp phóng tên lửa tư nhân nếu như NASA cùng chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục lựa chọn và tài trợ cho các hệ thống phóng. Chính phủ cần tránh sang một bên và để cho thị trường tự do cất cánh. Chỉ đến khi đó, sự độc quyền của NASA trong ngành không gian mới kết thúc và mở ra một nền kinh tế không gian mới. Khi Beal từ bỏ Elon Musk đã nhảy vào, kế thừa tư tưởng của ông và cũng từng phát biểu trước Quốc hội năm 2004. Để bất cứ người bình thường nào cũng có cơ hội nhìn thấy Trái Đất từ không gian, có ba cách Quốc hội cần làm và phải làm: tạo ra nhiều giải thưởng hơn để ngành có thể cạnh tranh giành lấy chúng, tập trung vào các phương tiện có thể cắt giảm chi phí lên không gian, đảm bảo sự công bằng trong hợp đồng đấu thầu chính phủ. Vì vậy, Những bá chủ không gian không chỉ là hành trình các công ty tìm tòi, khám phá, cải tiến công nghệ của mình, ổn định các nguồn lực cả về nhân sự và tài chính, mà còn là công cuộc đi tìm sự cạnh tranh công bằng với chính phủ trong lĩnh vực hàng không. Bay tới vô cực, và xa hơn nữa Cuốn sách Những bá chủ không gian của Christian Davenport có thể coi là một trong những cuốn sách quan trọng trong thập kỷ, là minh chứng rõ ràng nhất để con cháu chúng ta biết được các thế hệ đi trước đã nỗ lực hết sức mình để tìm kiếm tương lai cho nhân loại. Cuốn sách khép lại khi SpaceX thông báo dự định thực hiện hai sứ mệnh vận chuyển hàng hóa lên sao Hỏa trước năm 2022 còn Blue Origin muốn quay trở lại tiếp cận Mặt trăng và biến Mặt trăng thành nhà của con người, trước khi đến gần hơn với sao Hỏa. Dù được hình thành từ nhiều năm nhưng cuộc đua mới chỉ bắt đầu và còn tiếp diễn trên một hành trình dài không thể nhìn thấy trước, có thể là vài thập kỷ, thế kỷ nữa, thậm chí có thể kéo dài hơn cuộc đời của Bezos, Musk, Branson và Allen. Một cuộc đua vượt xa thậm chí cả những sự tưởng tượng của họ, sâu thẳm vào trong vũ trụ, đến một điểm tưởng chừng không có vạch đích. Nhưng đó không phải là lý do để những bá chủ không gian chùn bước trong ngày hôm nay. *** Với “đặc quyền” được tiếp cận trực tiếp cả bốn doanh nhân hàng đầu thế giới, cũng như những người thân cận nhất của họ, tác giả Davenport (cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này) đã đưa vào cuốn sách rất nhiều sự kiện chưa hề được biết đến, và đây chính là một trong những điểm hấp dẫn tuyệt vời của cuốn sách. Ngày 31/5 vừa qua, hàng triệu triệu người trên thế giới đã dán mắt vào màn hình ti vi hoặc liên tục bấm phím F5 máy tính hay các thiết bị di động để cập nhật tin tức về vụ phóng tàu vũ trụ chở người lên trạm vũ trụ quốc tế ISS của công ty tư nhân SpaceX do Elon Musk làm chủ. Và giây phút con tàu vũ trụ Crew Dragon hoàn thành việc kết nối với ISS, giúp hai phi hành gia của NASA có thể trượt vào khoang của trạm vũ trụ, bắt tay phi hành đoàn ISS khiến cả triệu trái tim rung lên. Với đội ngũ chuyên gia siêu việt của SpaceX, Elon Musk đã khiến giấc mơ chinh phục vũ trụ của loài người ở trong tầm với hơn bao giờ hết. Không chỉ  Elon Musk, nước Mỹ còn có tỷ phú Jeff Bezos, Richard Branson, Paul Allen(nhà đồng sáng lập Microsoft) cũng đang tham gia vào hành trình chinh phục vũ trụ. Và cuốn sách “Những bá chủ không gian - The space barons của tác giả Christian Davenport chính là bản tường thuật chi tiết và đầy hấp dẫn về cuộc đua thú vị này. Mở đầu cuốn sách bằng sự kiện tai nạn máy bay của Jeff Bezos khi đi tìm nơi đặt trụ sở của Công ty Blue Origin tại phía Tây bang Texas, Mỹ; “Những bá chủ không gian - The space barons” đưa ra câu chuyện hấp dẫn về các doanh nhân đang sở hữu những thương hiệu lớn nhất thế giới – Amazon, Microsoft, Virgin, Tesla, PayPal – đang đầu tư phần lớn khối tài sản khổng lồ của mình vào ngành công nghiệp vũ trụ, với mục tiêu trước mắt là phát triển ngành du lịch không gian và xa hơn là tìm ra hành tinh thứ hai cho sự sống của nhân loại.  Với “đặc quyền” được tiếp cận trực tiếp cả bốn doanh nhân hàng đầu thế giới này, cũng như những người thân cận nhất của họ, tác giả Davenport (cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này) đã đưa vào cuốn sách rất nhiều sự kiện chưa hề được biết đến, và đây chính là một trong những điểm hấp dẫn tuyệt vời của cuốn sách. Ví dụ như câu chuyện năm 2013 tàu vũ trụ Dragon có một bộ đẩy bị mắc kẹt khiến nó có nguy cơ không thể cất cánh được, trong khi SpaceX đã nhận được tiền để vận chuyển hàng hóa lên Trạm vũ trụ quốc tế ISS. Khi ấy, mặc dù có 60 năm kinh nghiệm về không gian vũ trụ, Lori Garver (Phó giám đốc của NASA), Bill Gerstenmaier (Giám đốc nhân sự NASA) và Michael Suffredini (người quản lý chương trình ISS) chỉ đóng vai trò cố vấn để các kỹ sư kiểm soát nhiệm vụ của SpaceX điên cuồng giải quyết vấn đề. Họ đã kiên nhẫn dạy cho các kỹ sư SpaceX cách câu cá, thay vì sốt ruột cầm lấy cần câu và bắt cá thay cho họ. SpaceX cuối cùng đã khắc phục sự cố về bộ đẩy, và tàu Dragon đã đến trạm ISS mà không gặp trở ngại nào.  Hay câu chuyện cải tiến để tiết kiệm tiền mà SpaceX đã thực hiện trong nhiều năm qua như: thay then đóng khoang hàng hóa trên tàu Dragon trị giá 1.500 đô-la bằng dụng cụ thay thế chỉ có giá 30 đô-la; lắp đặt máy điều hòa không khí thương mại đã được sửa đổi thay vì phiên bản đặc biệt dùng cho các tàu vũ trụ trị giá 3 - 4 triệu đô-la như thông thường...  Cuốn sách cũng cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết mới về Jeff Bezos. Giống như Elon Musk, Bezos đã quan tâm đến không gian và vũ trụ từ những ngày thơ ấu được chứng kiến cảnh tượng Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên Mặt trăng qua màn hình tivi, xem Star Trek nguyên bản và đọc các bộ sách khoa học giả tưởng đồ sộ tại thư viện gần nông trại của ông ngoại. Nhưng trong khi Musk muốn chinh phục và biến Sao Hỏa trở thành một bản sao lưu cho Trái đất, thì Bezos muốn bảo tồn Trái đất bằng cách thực hiện tất cả “công việc bẩn thỉu” của nhân loại trong không gian. Ông nói rằng Trái đất nên giống như một công viên quốc gia với các khu dân cư và công nghiệp nhẹ. Richard Branson, người sáng lập Virgin Galactic, cũng được khắc họa là nhân vật đầy táo bạo, dám chấp nhận mạo hiểm như chính con người ông  trong ngành công  nghiệp mới mẻ này.  Trong khi đó, Paul Allen, nhà đồng sáng lập Microsoft, người đứng sau thiết bị vũ trụ thương mại đầu tiên bay ra ngoài không gian, hiện đang sản xuất chiếc máy bay lớn nhất từng thấy trên thế giới. Lớn hơn chiếc Spruce Goose (Con ngỗng Bảnh bao) của Howard Hughes, nó có khả năng “phóng tên lửa trên không” từ độ cao gần 11.000m – và cả một chiếc tàu con thoi mới, có tên là “Black Ice” (Băng Đen), cũng đang được bí mật phát triển… Jeff Bezos trong vài trò ông chủ của Bule Origin Trong cuộc đua chinh phục không gian này, Musk và Bezos nổi bật hơn hết thảy với hai phong cách và tính khí vô cùng khác biệt. Đầy táo bạo, Musk được coi như chú thỏ đồng, luôn tiến về phía trước, những thành công và thất bại của ông luôn là tâm điểm của sự chú ý. Ngược lại, Bezos với hình tượng chú rùa nhẫn nại luôn kín kẽ và thận trọng, dự án tên lửa của ông luôn phủ một lớp màn bí mật.  Lén lút và trơn tru, Bezos hợp tác với các công ty hàng không vũ trụ lớn để tham gia vào trò chơi. Đúng với tính cách của mình, Musk kiêu ngạo đệ đơn kiện chính phủ, ngay cả khi ông cố gắng giành được các hợp đồng đó cho doanh nghiệp của mình. Những người khổng lồ trong ngành hàng không vũ trụ ban đầu coi Musk là một kẻ phiền toái, kẻ cắn mắt cá chân, nhưng Musk vẫn tồn tại và cuối cùng giành được các hợp đồng trị giá hàng tỷ đô-la với công việc vận chuyển hàng tiếp tế cho Trạm vũ trụ quốc tế. Và điều đặc trưng nhất của hai doanh nghiệp, 2 doanh nhân này là: ​​thất bại của Blue Origin được thông báo cho các phương tiện truyền thông sau khi nó đã xảy ra trên thực tế, trong khi thất bại của SpaceX xảy ra dưới ống kính rộng mở của hàng trăm máy quay truyền hình trực tiếp và ánh đèn flash sáng chói.  Với lối kể chuyện hấp dẫn tài tình, “Những bá chủ không gian” sẽ cung cấp cho bạn ngồn ngộn câu chuyện với các sự kiện hết sức chi tiết về các nhà lãnh đạo, công ty đã và thay đổi việc kinh doanh tên lửa và chinh phục không gian cho đến ngày hôm nay.  Và cả những bí mật, những câu chuyện hậu trường chưa từng được tiết lộ về cuộc chiến tranh giành quyền kiểm soát ngành du lịch không gian mới nổi này. Trong 15 năm qua, từ chuyến bay đầu tiên của SpaceShipOne giờ đây nhân loại đã có thể mơ đến viễn cảnh quỹ đạo Trái đất là địa điểm du lịch, giải trí mới; thậm chí là những chuyến di cư cứu loài người thoát khỏi thảm họa hủy diệt nếu không may thảm họa trong quá khứ lại lặp lại. Và bạn hãy dành ngay thời gian khám phá cuốn sách hấp dẫn “Những bá chủ không gian - The space barons này để biết rằng:  Quỹ đạo trái đất -  với nửa ngày lái xe thẳng lên - chỉ là khởi đầu. Tương lai ngoài vũ trụ bao la đang vẫy gọi chúng ta. “Những bá chủ không gian - The space barons” nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ các tờ báo hàng đầu nước Mỹ. Nhận xét về cuốn sách trên tờ New York Times, tác giả tiểu sử nổi tiếng Walter Isaacson viết: Những bá chủ không gian là một câu chuyện thú vị đầy ắp thông tin và những tầm nhìn sắc bén. Một cuốn sách lấp lánh tài năng kể chuyện sắc sảo của Davenport”.  Trong khi Financial Times nhận xét cuốn sác là “Một áng văn tuyệt vời về trí tưởng tượng và nỗ lực của con người lẫn dòng chảy không ngừng của ngành công nghiệp vũ trụ." Tác giả cuốn sách Christian Davenport là cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này. Ông cũng là tác giả của những bài báo nổi tiếng về các vụ bắn tỉa ở khu vực DC, vụ bê bối nhà tù Abu Ghraib và các vấn đề chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ông đã nhận được giải thưởng Peabody cho tác phẩm của mình về các cựu binh bị chấn thương sọ não và từng thuộc nhóm các phóng viên lọt vào vòng chung kết đề cử Giải Pulitzer ba lần. “Những bá chủ không gian” cùng với cuốn sách “Elon Musk: Tesla, SpaceX và sứ mệnh tìm kiếm một tương lai ngoài sức tưởng tượng” là một cặp đôi hoàn hảo để bạn đọc tìm hiểu về những đại nhân vật hàng đầu thế giới, cũng như những chuyển biến vĩ đại trong ngành khoa học vũ trụ của nhân loại trong 20 năm trở lại đây.   Đọc thêm: Những bá chủ không gian: Elon Musk đã làm gì để tên lửa đầu tiên của mình được NASA chú ý? Nguyễn Cường – Trạm đọc   Mời các bạn đón đọc Những Bá Chủ Không Gian: Elon Musk, Jeff Bezos Và Công Cuộc Chinh Phục Vũ Trụ của tác giả Christian Davenpor & Trần Thanh Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Đạo quân Trung Quốc thầm lặng - Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
Cuốn sách đầu tiên khảo sát sự tăng trưởng chưa từng thấy của đầu tư kinh tế Trung Quốc vào thế giới đang phát triển và tác động của nó ở các quốc gia tiếp nhận, đồng thời đưa ra bức tranh thực tế hiếm hoi về vai trò của người dân Trung Quốc bình thường trong cỗ máy tàn phá khủng khiếp là ‘China, Inc.’ Hai nhà báo thường trú tại Bắc Kinh Juan Pablo Cardenal và Heriberto Araujo đã đi xuyên thế giới từ năm 2009 đến năm 2011 để điều tra cách thức người Trung Quốc thực sự đang biến đổi thế giới đang phát triển theo ý họ. Những gì các tác giả phát hiện là câu chuyện con người, kinh tế, và chính trị, đang làm thay đổi tiến trình lịch sử và chưa bao giờ được khám phá, hoặc tường thuật sâu sắc và trên thực địa. "Đạo quân thầm lặng" theo các tác giả được tạo thành từ số đông người dân Trung Quốc bình thường làm việc trên khắp thế giới - trong ngành dầu mỏ ở Kazakhstan, khai khoáng tại Cộng hòa Dân chủ Congo, xây đập ở Ecuador, bán mạng che mặt ở Cairo - những người đang góp phần vào sự thống trị toàn câu của Trung Quốc và cũng để lại dấu ấn chẳng tốt lành. Tường thuật tại chỗ và tươi mới với ngòi bút xuất sắc, Đạo Quân Trung Quốc Thầm Lặng có đầy đủ lợi thế kinh nghiệm người ngoại cuộc của các tác giả nói tiếng Tây Ban Nha để khám phá ảnh hưởng của Trung Quốc ở nước ngoài trong tất cả các can dự nguy hiểm nhất của nó - chính sách ngoại giao, thương mại, doanh nghiệp tư nhân, và môi trường. *** “Không thể nhìn thấy người Trung Quốc… nhưng đâu cũng có.” Một nhân viên bán hàng Ai Cập ở Cairo nói về người nhập cư Trung Quốc trong thành phố Đối với hầu hết mọi người, ngày đó có lẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa, nhưng đúng 8 giờ 8 phút ngày 8 tháng 8 năm 2008, lịch sử đã sang trang.[1] Khoảnh khắc đó đã đánh dấu thời điểm bắt đầu lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh, lần đầu sự kiện loại này diễn ra ở một nước đang phát triển. Đó là sự kiện bị bao phủ trong tranh cãi và hoài nghi. Ngoài rủi ro do việc thiếu kinh nghiệm của nước tổ chức còn có lo ngại về tình trạng chính trị hóa cuộc tranh tài thể thao, hậu quả cuộc nổi dậy gần nhất trong vô số cuộc nổi dậy bị đàn áp ở Tây Tạng chỉ vừa xảy ra vài tháng trước, và nói chung, của bản chất độc tài của chế độ Trung Quốc. Tuy nhiên, mười tám ngày sau, đại hội thể thao kết thúc bằng một màn biểu diễn hoành tráng khác tương xứng với lễ khai mạc. Trung Quốc đã vượt qua bài kiểm tra cuối cùng: công tác tổ chức xuất sắc và lần đầu tiên nước này trở thành một cường quốc thể thao nổi bật, vượt qua Hoa Kỳ trong bảng xếp hạng thành tích. Song thắng lợi lớn nhất không diễn ra trên đường chạy điền kinh của sân vận động Tổ Chim khổng lồ hay trong bể bơi Olympic hình khối. Thắng lợi thực sự đã diễn ra trên màn ảnh nhỏ với hơn 2 tỷ người theo dõi sự kiện và chứng kiến hình ảnh tươi tắn và đáng yêu của một đất nước hiện đại, tự tin vào khả năng của mình: hình ảnh Trung Quốc thế kỷ 21. Olympic Bắc Kinh 2008 là một chiến dịch PR vô giá cho chế độ Trung Quốc. Sự kiện này không chỉ phục vụ cho việc đánh bóng hình ảnh chế độ trong mắt người dân nước này, mà còn cho thấy Trung Quốc xứng đáng với tầm uy tín quốc tế, giúp lập tức xóa sạch ký ức bi thảm về những chiếc xe tăng trên quảng trường Thiên An Môn, máu đổ ở Tây Tạng, và chà đạp nhân quyền hàng ngày. Các vị nguyên thủ quốc gia chỉ vài tháng trước đe dọa tẩy chay đại hội giờ đây bày tỏ tôn trọng đối tác Trung Quốc hơn bao giờ hết. Trên báo chí, giờ đây người ta chỉ quan tâm đến khía cạnh kinh tế của Trung Quốc, còn những chuyện bất công hay đàn áp xã hội, thật ngạc nhiên, bị gạt ra bên lề. Dường như sau một đêm Trung Quốc đã trở nên “đồng hội đồng thuyền với chúng ta.” Với những người như chúng tôi, từng sống ở Trung Quốc và, từ góc nhìn nghề báo của mình, vốn là những nhân chứng hàng ngày đối với sự lạm dụng, vượt quyền và những nỗi kinh hoàng của chế độ, nên trò khử trùng cho chế độ độc tài lớn nhất thế giới này là điều gì đó chúng tôi nhìn vào vừa ngạc nhiên vừa đau đớn. Chiều hướng đó chỉ tăng lên trong những tháng tiếp theo: sự phấn khích từ Thế vận hội, dịp đã tôn vinh gã khổng lồ châu Á, vừa lắng xuống kịp lúc Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư lớn thứ tư tại Hoa Kỳ, tuyên bố phá sản; ngày 15 tháng 9 năm 2008, chỉ ba tuần sau khi Thế vận hội kết thúc, đánh dấu sự khởi đầu cuộc khủng hoảng đe dọa làm sụp đổ hệ thống tài chính phương Tây. Tình trạng hỗn loạn do sự sụp đổ tài chính ở Hoa Kỳ và Châu Âu, gồm cứu trợ ngân hàng, đóng cửa hàng loạt doanh nghiệp và sa thải hàng triệu công nhân, không chỉ hôm nay vẫn nhìn thấy rõ mà sẽ còn mất nhiều năm nữa để những vết thương này lành hẳn. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, gần như không biết đến cuộc khủng hoảng, nhờ sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tài chính đã giúp ngăn chặn lây lan, và nhờ phản ứng nhanh chóng của Bắc Kinh để tránh suy thoái. Không chỉ thế, trong khi thế giới chung quanh sụp đổ, gã khổng lồ châu Á – với nhu cầu ngày càng tăng và dự trữ ngoại tệ vô hạn – đã nổi lên như chiếc phao cứu sinh giữa đống đổ nát của phương Tây, mua các khoản nợ và cho vay vốn chỗ này, chỗ kia và khắp mọi nơi. Trong chưa đầy một năm, uy tín và vị thế của Trung Quốc trên thế giới xoay 180 độ, từ một chế độ độc tài không đáng tin thành vị cứu tinh của nền kinh tế thế giới. Rõ ràng cán cân quyền lực trên thế giới đã bắt đầu nghiêng về phía Đông. Tháng 11 năm 2009 chúng tôi ngạc nhiên theo dõi Hồ Cẩm Đào và Barack Obama cùng nhau xuất hiện trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc đầu tiên của vị tổng thống này. Thái độ đấu dịu của nhà lãnh đạo Mỹ khi động đến các vấn đề khó chịu truyền thống đối với Bắc Kinh – như nhân quyền – vốn luôn đóng một vai trò nổi bật trong lịch trình ngoại giao của người tiền nhiệm của ông, là một dấu hiệu chắc chắn của sự trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trên vũ đài thế giới. Chỉ vài tuần trước, ông chủ mới của Nhà Trắng đã tiếp cận Trung Quốc với ý tưởng tạo ra G2, một trục Washington – Bắc Kinh để dẫn dắt các công việc của thế giới. Bắc Kinh đã nói không. Tại sao Trung Quốc phải hình thành một liên minh với Hoa Kỳ khi họ đã nắm được vai trò lãnh đạo thế giới trong tay? Với túi căng phồng và uy tín được tân trang, gã khổng lồ cảm thấy tràn đầy sức mạnh. Vì thế, ở giữa các cơ hội do sự đổ vỡ tài chính tạo ra, Trung Quốc bắt đầu bủa rộng lưới. Các khoản đầu tư trị giá hàng triệu đô la, các hợp đồng cung ứng dài hạn nguyên liệu thô, và việc thâu tóm tài sản trên khắp hành tinh cung cấp nhiều bằng chứng rằng cuộc chinh phục thế giới của Trung Quốc đã trở thành một thực tế, từ chỗ chúng tôi ngồi trong văn phòng của mình ở Bắc Kinh, dường như không thể chối cãi. Chúng tôi nhanh chóng bị qui mô của hiện tượng cuốn hút: Bản chất sự bành trướng của Trung Quốc trên khắp hành tinh là gì, một sự bành trướng dựa trên sự im lặng của tiền bạc chứ không bằng sức mạnh quân sự vẫn được các cường quốc khác trên thế giới sử dụng? Có phải quốc gia châu Á này thực sự đang thuộc địa hóa châu Phi? Quan hệ quân sự, kinh tế, hạt nhân giữa Bắc Kinh và Tehran chặt chẽ đến mức nào? Có phải gã khổng lồ này đang thực sự xóa sạch những cánh rừng ở Mozambique? Nước láng giềng Nga đang chịu đựng sự xâm nhập của Trung Quốc như thế nào? Vòi của Trung Quốc đã với xa tới Mỹ Latinh chưa? Lần lượt, những câu hỏi mài sắc tò mò của chúng tôi, nhưng dựa trên thông tin chúng tôi không thể rút ra được câu trả lời nào. Trong khi đó, ngày nào cũng viết về GDP và các biến số kinh tế vĩ mô khác của Trung Quốc đã trở thành thói quen gần như không thể chịu đựng nổi khi chúng tôi có thể nhìn thấy lịch sử đang chuyển dòng ngay trước mắt mình, ở các giếng dầu Angola, các mỏ sắt Peru và những khu chợ Trung Á ngập hàng “Made in China.” “Hãy trở lại với nghề báo thực sự và bắt đầu chúi mũi vào vấn đề này,” chúng tôi bảo nhau, tin rằng cuốn sách này chỉ có ý nghĩa khi tiến hành điều tra tại chỗ. Chúng tôi phải đi đến những nơi nhìn được rõ nhất dấu chân của gã khổng lồ – ở các nước đang phát triển. Nói cách khác, đã đến lúc đi châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, để tự mình nhìn thấy, va chạm và nếm trải cách thức Trung Quốc trở thành một thế lực toàn cầu. Hè 2009 đã gần kết thúc khi chúng tôi bắt đầu cuộc điều tra hai năm toàn tâm toàn ý. Tìm hiểu “thế giới Trung Quốc mới” khởi đầu như cuộc đánh cược, nhưng đã nhanh chóng biến thành nỗi đam mê, cùng với những trao đổi qua thư điện tử đầy ý tưởng điên rồ vào những giờ khuya khoắt trong đêm. Khi chúng tôi tiến tới và bắt đầu hiểu những vấn đề và bí mật cốt lõi của hiện tượng này, cuộc điều tra mở rộng thành nỗi ám ảnh. Thật may mắn, chúng tôi không phải là những người duy nhất quyết định khám phá thêm: Công ty phân tích truyền thông Mỹ Global Language Monitor trong tháng 12 năm 2009 đã công bố “sự nổi lên của Trung Quốc” là câu chuyện được theo dõi chặt chẽ nhất trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình và internet kể từ đầu thế kỷ, thậm chí hơn cả sự kiện 9/11 hay cuộc bầu cử tổng thống Obama. Đối với hai nhà báo chúng tôi, không có gì háo hức hơn việc theo đuổi “tin nổi bật của thập niên.” ... Mời các bạn đón đọc Đạo quân Trung Quốc thầm lặng của hai tác giả Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo.
Ánh Chớp Tư Duy - Mohammed Bin Rashidal Maktoum
Ánh Chớp Tư Duy - Lấy cảm hứng từ những phát biểu tại hội nghị cấp cao chính phủ năm 2013. "Công việc của chính phủ là mang lại hạnh phúc cho người dân." "Chính phủ tương lai sẽ mở cửa dịch vụ 24/7 suốt năm. Các lĩnh vực tư nhân làm được vậy, tại sao lĩnh vực công lại không thể? Chúng tôi muốn chính phủ của mình giống như một hãng hàng không, luôn sẵn sàng từng phút từng giây." "Chính phủ tương lai phải cạnh tranh và phải vượt qua khu vực tư nhân về chất lượng dịch vụ. Chúng tôi muốn chính phủ phải chào đón khách hàng chuyên nghiệp hơn cả khách sạn. Chúng tôi muốn chính phủ phải quản lý quy trình tốt hơn cả các hệ thống ngân hàng." "Một trong những bài học quan trọng nhất trong cả lịch sử cổ đại và hiện đại là sự tiến bộ của các quốc gia , con người và nền văn minh đều bắt đầu từ giáo dục. Tương lai của các quốc gia bắt đầu từ các trường học của họ." *** Vào tháng Hai năm 2013, Hội nghị thượng đỉnh Chính phủ được tổ chức tại UAE. Sự kiện này đã quy tụ nhiều quan chức và chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới, cùng chia sẻ nhãn quan sáng tạo về những cách thức mà các chính phủ có thể dùng để khiến các dịch vụ công trở nên hiệu quả hơn, hiệu năng hơn và tập trung vào người dân hơn.   Trong khuôn khổ hội nghị, tôi tổ chức một phiên hỏi-đáp tương tác. Đó là một buổi đối thoại đầy hứng khởi, cung cấp một cái nhìn tổng quan qua nhiều chủ đề, từ quản lý, lãnh đạo đến cuộc sống cá nhân cũng như những phương tiện và động lực giúp thực hiện những điều đó.   Nhờ vậy, tôi có cơ hội để giải thích và soi chiếu lại. Trong chừng mực nào đó, nó đã trở thành thời điểm để xác định các tư tưởng quan trọng, bao gồm những điều cốt lõi trong tầm nhìn của chúng tôi đối với quốc gia này. Vì thế, tôi cảm thấy chúng tôi cần một cuốn sách để ghi lại những ý tưởng và luận bàn thêm về cuộc đối thoại này.   Cuốn sách này chứa đựng nhiều phạm vi chủ đề và các ý tưởng quan trọng khác nhau. Nó bao gồm nhiều chủ đề chưa thể thảo luận do sự hạn chế về thời gian, cùng những điều mà tôi muốn mở rộng thêm trong một số câu trả lời của mình.   Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tôi muốn làm rõ rằng tôi không phải là một nhà khoa học. Tôi cũng không nghĩ tôi là một nhà triết học thông thái. Mục đích của “tuyển tập những kinh nghiệm, ý tưởng và suy nghĩ” này chỉ đơn giản là vì phụng sự cho đất nước chúng tôi, mang lại nhiều hạnh phúc cho người dân của chúng tôi.   Chúng tôi cầu nguyện Đấng Allah phù hộ cho sự thành công trong sự nghiệp phụng sự đất nước và người dân.   Mohammed bin Rashid Al Maktoum  *** Mới cách đây không lâu, tôi gặp một người nhóm khoảng 500 nhà điều hành quốc tế đến từ các công ty lớn nhất trên thế giới trong một hội nghị tại Dubai. Khi được mời phát biểu, tôi nói với họ là tôi sẽ kể ba câu chuyện, trong đó tóm tắt ba đặc điểm quan trọng nhất của các nhà lãnh đạo kinh doanh.   Câu chuyện đầu tiên diễn ra vào năm 1985 tại Dubai. Một hãng hàng không kiểm soát khoảng 70% của lưu lượng đường bay ở sân bay Dubai đã yêu cầu chúng tôi phải chấm dứt chính sách mở cửa bầu trời, không cấp quyền cho bất kỳ hãng hàng không nào khác hoạt động trên sân bay Dubai. Họ ra tối hậu thư, cho chúng tôi một tuần để thực hiện. Nếu không, họ đe dọa sẽ rút khỏi sân bay và chúng tôi sẽ mất gần 70% lưu lượng chuyến bay đến Dubai.   Chúng tôi từ chối yêu cầu của họ với một lý do đơn giản: Chúng tôi tin rằng sự cạnh tranh và không bảo hộ mậu dịch là điều lành mạnh nhất cho đất nước chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi đã thuê hai máy bay và tạo ra một hãng hàng không mang tên Emirates. Trong một khoảng thời gian ngắn, họ đã buộc chúng tôi phải lập hãng hàng không của riêng mình, một hãng hàng không mà hiện nay được xếp thứ ba trên thế giới.   Bài học đầu tiên chính là sự cạnh tranh luôn làm cho bạn mạnh mẽ hơn và tốt đẹp hơn. Chỉ có những kẻ yếu đuối mới sợ phải cạnh tranh. Đất nước chúng tôi tốt lên bởi vì nó luôn rộng tay chào đón sự cạnh tranh. Nhân viên của chúng tôi tốt lên bởi vì mỗi người đều phải cạnh tranh với nhiều người khác. Đường sá của chúng tôi tốt lên bởi vì chúng tôi muốn vượt qua đường sá ở các nước khác. Ngay cả cơ quan chính phủ của chúng tôi cũng trở nên tốt hơn khi chúng tôi tổ chức nhiều giải thưởng khác biệt nhằm khuyến khích việc cạnh tranh cho vị trí đầu tiên.   Câu chuyện thứ hai diễn ra vào đầu năm 1970. Một nhóm các nhà đầu tư đến gặp tôi và yêu cầu tôi khuyên can cha tôi thực hiện một dự án mà ông đã đặt hết tâm trí của mình vào đó. Dự án đó chính là cảng Jebel Ali.   Nhiều thương gia cho rằng dự án này là không cần thiết và sẽ là gánh nặng cho Ngân khố vì chi phí quá lớn. Tôi đã có một buổi nói chuyện ngắn với cha mình, cầu mong Allah phù hộ linh hồn ông. Sau một lúc im lặng, ông nói với tôi rằng ông đang xây dựng một điều gì đó cho tương lai, một điều mà chúng tôi sẽ không thể xây dựng nếu chờ đợi thêm nữa. Ngày nay, cảng Jebel Ali vẫn là cảng tạo lớn nhất toàn cầu và được xếp vào Top 10 cảng hàng hải bận rộn nhất thế giới. Nó có hơn 60 bến tàu lớn và một khu tự do mậu dịch với hàng ngàn công ty. Hơn nữa, kinh nghiệm của chúng tôi trong lĩnh vực này đã giúp chúng tôi có đủ điều kiện vượt qua 60 cảng khác trên thế giới.   Bài học từ câu chuyện này là chúng ta nên trang bị cho mình một tầm nhìn dài hạn, tham vọng lớn và khả năng nhìn xa trông rộng. Nếu không có tầm nhìn để định hướng đường đi và không có tham vọng vô giới hạn, chúng tôi không bao giờ có thể xây dựng một tương lai tươi sáng cho thế hệ mai sau.   Câu chuyện thứ  ba diễn ra vào năm 1999 khi chúng tôi xem xét xây dựng một khu kinh doanh riêng dành cho các công ty công nghệ. Chúng tôi gọi dự án là Thành phố Internet Dubai. Đầu tư ban đầu tương đối khiêm tốn, nhưng ý tưởng ngày càng phát triển với tham vọng bao trùm cả các lĩnh vực chuyên ngành khác như truyền thông, giáo dục và nhiều hơn nữa. Ngày nay, khu vực này có 4.500 công ty và 54.000 nhân viên, biến Dubai trở thành một thành phố sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ.   Điều này cho chúng ta thấy rằng sự sáng tạo và những ý tưởng tốt có thể xây dựng các quốc gia và thể chế. Tương lai thuộc về những người tạo ra ý tưởng. Hôm nay, UAE là quốc gia duy nhất trong khu vực chính thức được công nhận là một nền kinh tế dựa trên tri thức và đổi mới.   Mục tiêu của chúng tôi là được xếp hạng trong số các quốc gia hàng đầu trên thế giới. Với sự giúp đỡ của một tầm nhìn dài hạn, khả năng cạnh tranh cao, sáng tạo và đổi mới, chúng tôi chắc chắn có thể đạt được điều đó.  ... Mời các bạn đón đọc Ánh Chớp Tư Duy của tác giả Mohammed Bin Rashidal Maktoum.
Nguồn Gốc Nhãn Hiệu - Al Ries & Laura Ries
Trong mấy năm gần đây, một thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên với tần suất lớn và được coi như một vấn đề đáng chú ý trong marketing hiện đại tại Việt Nam là “brand” (nhãn hiệu) và “branding” (xây dựng nhãn hiệu). Trên thế giới, nhãn hiệu không phải là một vấn đề mới. Năm 1990, Viện Nghiên cứu Marketing của Mỹ đã tiến hành một cuộc thăm dò với đối tượng là khoảng 50 hãng quảng cáo hàng đầu về những vấn đề họ quan tâm thì câu trả lời nhận được là: tài sản nhãn hiệu. Nhãn hiệu không phải là sản phẩm, nó là sự nhận biết trong không gian và thời gian, là những gì được tạo ra trong tâm trí và trái tim của người tiêu dùng. Một khi các sản phẩm đã đạt đến mức độ hầu như không thể phân biệt được bằng tính chất, đặc điểm và công năng sử dụng thì nhãn hiệu là yếu tố duy nhất tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm. Nhãn hiệu giúp người ta có sự tin tưởng và cảm thấy an toàn với quyết định mua của mình. Theo thống kê tại Mỹ, bình quân trong một ngày người tiêu dùng tiếp xúc với khoảng 6.000 hoạt động quảng cáo, và mỗi năm có tới hơn 25.000 sản phẩm mới ra đời. Trong một thế giới như vậy, nhãn hiệu là yếu tố giúp người tiêu dùng không bị lẫn lộn, giúp họ vượt qua những lựa chọn ngày càng đa dạng khi mua một sản phẩm hay dịch vụ. Uy lực của nhãn hiệu không chỉ giới hạn trong thị trường hàng hóa tiêu dùng mà thậm chí còn quan trọng hơn trong thị trường hàng hóa sử dụng (công nghệ phẩm). Có thể nói nhãn hiệu là một thứ tài sản vô hình nhưng lại chứa đựng một sức mạnh hữu hình, khi nó quyết định sự lựa chọn của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ, thậm chí còn tác động đến sự thành bại của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một hướng đi đúng trong xây dựng nhãn hiệu luôn là một thách thức đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Chỉ một bước đi sai lầm trong việc lựa chọn chiến lược phát triển nhãn hiệu mà một tập đoàn lớn như IBM đã bỏ lỡ nhiều cơ hội xâm nhập vào các thị trường mới; trong khi với một cách tiếp cận việc xây dựng nhãn hiệu đúng đắn, một nhãn hiệu mới như Google đã vượt qua Yahoo! để ngay lần đầu tiên xuất hiện đã chiếm lĩnh vị trí thứ 38 trong danh sách 100 nhãn hiệu mạnh nhất thế giới do Interbrand bình chọn năm 2005 (năm 2006 đã vượt lên đứng vị trí 24 với giá trị nhãn hiệu lên đến hơn 12 tỷ đô la). Không ở đâu xa, ngay ở nước ta, có thể thấy nhãn hiệu và việc xây dựng nhãn hiệu có vai trò quan trọng đến thế nào đối với mỗi doanh nghiệp, có những nhãn hiệu điển hình đã vượt ra khỏi biên giới địa lý để đến với thị trường quốc tế như cà phê Trung Nguyên hay món phở Việt Nam… Trong Nguồn gốc nhãn hiệu, các chuyên gia về marketing Al Ries và Laura Ries đã áp dụng thuyết tiến hóa nổi tiếng của Darwin cho quá trình xây dựng nhãn hiệu. Kết quả là một chiến lược có tính sáng tạo và cực kỳ hiệu quả trong việc tạo nên các sản phẩm mới, xây dựng các nhãn hiệu thành công và đạt được tăng trưởng trong kinh doanh đã ra đời. “Những cây sồi cao lớn thường mọc lên từ những hạt giống bé nhỏ”, đó là một câu ngạn ngữ Latin nổi tiếng. Những nhãn hiệu lớn mạnh nhất trên thế giới đều xuất phát từ những ý tưởng rất nhỏ bé. Những nhánh sản phẩm lớn mạnh nhất đều có khởi nguồn từ những chiếc mầm nhỏ. Vậy, trong những mầm xanh và những nhánh sản phẩm của một cây sản phẩm, nhánh nào, mầm nào sẽ sống sót và phát triển, nhánh nào sẽ héo tàn và bị loại bỏ? Theo thuyết tiến hóa của Darwin, nguyên tắc nền tảng của tiến hóa là sự tồn tại của những loài có khả năng thích nghi nhất. Cuộc đấu tranh giữa những cá thể có thể cải tiến các loài trong một giai đoạn kéo dài. Darwin tin rằng tất cả sinh vật sống đều phải đấu tranh khắc nghiệt để sinh tồn và quá trình này sẽ loại bỏ loài động, thực vật nào mang những yếu tố không thể thích nghi được với môi trường. Nguyên tắc cơ bản thứ hai của quá trình tiến hóa bắt nguồn trực tiếp từ nguyên tắc thứ nhất. Đó là nguyên tắc khác biệt hóa. Hai nguyên tắc của tự nhiên vừa nêu trên cũng có thể áp dụng cho lĩnh vực marketing. Cuộc đấu tranh giữa các cá thể (các nhãn hiệu) sẽ làm các loài phát triển. Cuộc đấu tranh giữa các loài (các chủng loại hàng) sẽ thúc đẩy các chủng loại hàng ngày càng khác biệt nhau. Nếu kết quả của hoạt động marketing chủ yếu hướng đến việc bảo đảm đưa đúng sản phẩm đến đúng khách hàng vào đúng thời điểm với giá cả làm hài lòng cả hai bên doanh nghiệp và khách hàng, thì kết quả của hoạt động xây dựng và quản trị nhãn hiệu, trong một góc tiếp cận vừa hẹp hơn vừa chuyên nghiệp hơn, hướng đến việc xây dựng, duy trì và phát triển một tài sản vô hình trong dài hạn, gắn với một quan điểm rõ ràng về văn hóa và chiến lược kinh doanh, không chỉ đòi hỏi một tham vọng lớn, một quyết tâm cao, một tầm nhìn rộng của giới lãnh đạo doanh nghiệp, mà còn đòi hỏi khả năng tìm kiếm những cơ hội xây dựng những nhãn hiệu mới và năng lực tổ chức được một bộ phận tác nghiệp sắc sảo vận dụng linh hoạt các kỹ thuật xây dựng nhãn hiệu. Những phân tích tình huống phong phú trên nhiều lĩnh vực thị trường trong cuốn sách này sẽ giúp người đọc có một cái nhìn đa chiều hơn về việc đó. Việc so sánh quá trình xây dựng nhãn hiệu với các quy luật sinh học và thuyết tiến hóa của Darwin - những lý thuyết của một ngành khoa học hoàn toàn khác - có vẻ là một ý tưởng khá mới mẻ và táo bạo. Tuy nhiên dưới ánh sáng của các quy luật này, việc xây dựng nhãn hiệu trở nên vô cùng rõ ràng và đơn giản. Trong Nguồn gốc nhãn hiệu, các tác giả đã đưa người đọc xuyên suốt quá trình hình thành và duy trì một nhãn hiệu: từ việc những ý tưởng mới được phát triển như thế nào, tầm quan trọng của việc là nhãn hiệu đầu tiên và việc tạo ra một chủng loại hàng hóa mới cho đến việc định vị nhãn hiệu để cạnh tranh, vai trò của Quan hệ công chúng (PR), việc bảo vệ nhãn hiệu và khả năng nhận biết thời điểm nên từ bỏ một nhãn hiệu hiện đang tồn tại. Với những phân tích và so sánh thực tế, dễ hiểu, với văn phong dí dỏm và khối lượng thông tin dồi dào, Nguồn gốc nhãn hiệu thực sự là cuốn sách không thể thiếu về chủ đề này. * Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Nguồn gốc nhãn hiệu của tác giả Al Ries và Laura Ries, hai nhà chiến lược và tư vấn marketing nổi tiếng thế giới, tác giả của nhiều cuốn sách kinh điển về quản trị marketing. Trong Tủ sách AlphaBiz/Marketing và Bán hàng, cùng với những cuốn đã xuất bản như 22 quy luật vàng trong xây dựng nhãn hiệu, 11 quy luật vàng trong xây dựng nhãn hiệu trên Internet của cùng tác giả, trong thời gian tới Công ty Sách Alpha sẽ xuất bản cuốn P&G, 165 năm xây dựng nhãn hiệu thương mại của Trường Quản trị Kinh doanh Harvard… Nhượng quyền thương hiệu và cấp li-xăng (Franchising & Licensing), Cuộc chiến nhãn hiệu (Brand Warfare) và nhiều cuốn sách có giá trị khác. Với tủ sách này, chúng tôi mong muốn cung cấp những kiến thức kinh doanh thực tế và hữu ích, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về nhãn hiệu và việc xây dựng nhãn hiệu ngày càng tăng của các doanh nhân, những người làm trong lĩnh vực kinh doanh, những nhà nghiên cứu, các sinh viên ngành quản trị kinh doanh và marketing cũng như độc giả quan tâm, qua đó đóng góp phần nào vào quá trình xây dựng và phát triển các nhãn hiệu Việt Nam. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của độc giả để có thể tiếp tục giới thiệu các ấn phẩm ngày càng chất lượng hơn. LÊ TƯỜNG VÂN Công ty Sách Alpha *** Bộ Sách PR Xây Dựng Thương Hiệu & Doanh Nghiệp gồm có: 1. Tập trung để khác biệt, tác giả: Al Ries, Laura Ries; 2. Nguồn gốc nhãn hiệu, tác giả: Al Ries, Laura Ries; 3. Sáng tạo, tác giả: Marty Neumeier, 4. Đảo chiều, tác giả: Marty Neumeier, 5. Khoảng cách, tác giả: Marty Neumeier, 6. Quản trị thương hiệu, tác giả: Patricia F. Nicolino, 7. Chiến lược thương hiệu châu Á, tác giả: Martin Roll, 8. Quản trị thương hiệu cá nhân và công ty, tác giả: Hubert K. Rampersad. *** 23 năm đã trôi qua kể từ ngày cuốn sách đầu tiên của Al Ries: Cuốn Định vị: Cuộc chiến giành chỗ đứng trong tâm trí khách hàng (Positioning: The battle for your mind) được xuất bản. Thật trùng hợp, 23 năm cũng là khoảng thời gian từ khi Charles Darwin hoàn thành chuyến đi lịch sử trên con tàu HMS Beagle tới ngày ra đời cuốn sách vĩ đại của ông. Thời gian đã sàng lọc mọi ý tưởng và quan niệm để chúng trở nên tinh tế và chọn lọc hơn! Và dẫu cho đã có hàng ngàn trang viết về nhãn hiệu thì chúng tôi tin rằng tầm quan trọng của vấn đề này vẫn cần phải được nhắc lại một lần nữa. Chúng tôi tin rằng vẫn tồn tại những nguyên tắc cốt yếu đang hoạt động mà chưa từng được tách bạch, định nghĩa hay giải thích. Chúng tôi cũng tin rằng nguyên tắc này mang tính nền tảng tới mức mà chỉ có một phép so sánh duy nhất có thể xứng tầm với nó, nằm trong cuốn sách nổi tiếng về sinh học của Darwin, cuốn Nguồn gốc các loài. Đó là quy tắc về biến dị, quy tắc có sức chi phối thế giới mạnh nhất nhưng người ta lại hiểu về nó ít nhất. Những điều xảy ra trong tự nhiên cũng xảy ra trong thế giới hàng hóa và dịch vụ. Mọi chủng loại hàng rốt cuộc đều sẽ biến đổi để tạo thành hai hay ba chủng loại hàng mới, như vậy sẽ liên tục tạo ra các cơ hội để xây dựng nhãn hiệu. Tác động tương tác giữa tiến hóa và biến dị là hình mẫu giúp chúng ta hiểu được thế giới nói chung và thế giới nhãn hiệu nói riêng. Thuyết tiến hóa đã được đông đảo mọi người thừa nhận, nhưng chỉ riêng thuyết tiến hóa không thể giải thích được sự đa dạng, phong phú của muôn loài cư ngụ trên mặt đất, kể cả những loài kỳ dị nhất. Nếu không có biến dị thì bản thân sự tiến hóa không thể tạo ra một thế giới phong phú, trong đó có vô số sinh vật từ những loài đơn bào tới những loài có kích thước khủng long. Thế giới của nhãn hiệu cũng như vậy. Nhãn hiệu đã “tiến hóa” để trở nên mạnh hơn và thống trị thị trường nhưng chính sự biến đổi đã tạo điều kiện cho ra đời những chủng loại hàng mới và những nhãn hiệu mới. Việc so sánh quá trình xây dựng nhãn hiệu với những quy luật sinh học có vẻ lạ lùng nhưng chúng tôi thiết nghĩ rằng không có phép so sánh nào giải thích việc xây dựng nhãn hiệu lại rõ ràng và đơn giản hơn thế.   Mời các bạn đón đọc Nguồn Gốc Nhãn Hiệu của tác giả Al Ries & Laura Ries.
Lên Gác Rút Thang - Ha-Joon Chang
Hiện nay, các nước đang phát triển phải chịu sức ép lớn từ các nước đã phát triển cũng như từ việc thiết lập chính sách phát triển quốc tế do chính các nước đã phát triển kiểm soát trong việc áp dụng những "chính sách tốt" và "thiết chế tốt" nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của những quốc gia này. Theo chương trình nghị sự này, “những chính sách tốt” là những chính sách được người ta soạn cho nhiều quốc gia dưới tên gọi: đồng thuận Washington, bao gồm chính sách kinh tế vĩ mô giới hạn, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế, tư nhân hoá và giảm bớt sự can thiệp của nhà nước. "Những thiết chế tốt" về cơ bản chính là những thiết chế của các quốc gia phát triển, đặc biệt là các quốc gia Anglo-America, trong đó có: chế độ dân chủ, bộ máy hành chính tốt, bộ máy tư pháp độc lập, quyền sở hữu tư nhân (bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ) được bảo vệ một cách chắc chắn; và các thiết chế tài chính cũng như quản trị công (trong đó có ngân hàng trung ương độc lập về mặt chính trị) phải minh bạch và hướng theo thị trường. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau của tác phẩm này, đã có những thảo luận sôi nổi về việc các chính sách và thiết chế được đề nghị có thích hợp với các nước đang phát triển hiện nay hay không. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên là, nhiều người phê bình, tức là những người nghi ngờ về khả năng ứng dụng của các khuyến nghị này vẫn tin rằng các chính sách và thiết chế “tốt” đó đã được các quốc gia đã phát triển áp dụng khi những nước này còn đang phát triển. Ví dụ, hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng Anh quốc đã trở thành cường quốc công nghiệp đầu tiên trên thế giới vì đã thực hiện chính sách tự do kinh doanh (laissez-faire policy), trong khi nước Pháp lẽo đẽo theo sau vì áp dụng các chính sách can thiệp. Tương tự như vậy, nhiều người tin rằng việc Hoa Kỳ từ bỏ chính sách thương mại tự do và ủng hộ luật thuế xuất nhập khẩu Smooth-Hawley ngay vào giai đoạn ban đầu của cuộc Đại khủng hoảng (1930) là "hành động chống thương mại hết sức dại dột có thể thấy được và gây ấn tượng sâu sắc nhất"- đấy là lời của ông Bhagwati, một nhà kinh tế học ủng hộ thương mại tự do nổi tiếng. Một ví dụ khác về niềm tin cho rằng các quốc gia đã phát triển đạt được tình trạng kinh tế của mình bằng các chính sách và thiết chế tốt là lời tuyên bố được người ta nhắc đi nhắc lại rằng không có quyền sở hữu bằng sáng chế hay các quyền sở hữu trí tuệ cá nhân khác thì những quốc gia này sẽ không thể tạo ra được những ngành công nghệ làm cho họ trở thành thịnh vượng. Trung tâm luật quốc gia về thương mại tự do Trung Mỹ nằm ở Hoa Kì đã từng tuyên bố rằng "Tài liệu lịch sử ở các nước đã công nghiệp hoá, tức là những nước đã bắt đầu như là nước đang phát triển, chứng minh rằng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những công cụ mạnh nhất để phát triển kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu và phổ biến công nghệ mới cũng như văn hoá nghệ thuật". Nhưng, có đúng là những chính sách và thiết chế được khuyến nghị cho các quốc gia đang phát triển là những những chính sách mà các quốc gia đã phát triển từng sử dụng khi còn là những nước đang phát triển hay không? Chỉ nhìn bên ngoài, dường như đã có một vài bằng chứng lịch sử nói rằng không phải như thế. Một vài độc giả có thể biết rằng nước Pháp trong thế kỷ XIX – trái ngược với bản chất của nó trong thế kỷ XVIII hay thế kỷ XX – là nước rất bảo thủ và là quốc gia chủ trương không can thiệp vào thị trường. Chúng ta cũng có thể đã biết rằng thuế xuất nhập khẩu ở Hoa Kì là cao, ít nhất là sau cuộc Nội chiến. Chắc hẳn, một số người đã từng nghe nói rằng mãi đến năm 1913 Ngân hàng Trung ương Mỹ, tức là Hội đồng dự trữ liên bang (FEB) - mới được thành lập. Thậm chí một vài người trong chúng ta có thể biết rằng Thụy Sĩ đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu về công nghệ trên thế giới vào thế kỷ XIX dù không có luật về bằng sáng chế. Sau khi có những bằng chứng chống lại quan điểm chính thống về lịch sử của chủ nghĩa tư bản như thế, cần phải hỏi rằng phải chăng vì một lý do nào đấy, các nước đã phát triển đang tìm cách che dấu "bí mật dẫn đến thành công của họ". Tác phẩm này tâp hợp các yếu tố khác nhau từ những tài liệu lịch sử trái ngược với quan điểm chính thống về lịch sử của chủ nghĩa tư bản và cung cấp một bức tranh đầy đủ và dễ hiểu về những chính sách và thiết chế mà các quốc gia đã phát triển từng sử dụng khi họ còn là những nước đang phát triển. Nói cách khác, tác phẩm này bàn về : “Đâu là nguồn gốc thật sự của sự giàu có của các quốc gia?” *** Ha-Joon Chang đã tung ra một tác phẩm phê phán có tính khiêu khích đối với những lời thuyết giáo của các nhà kinh tế học dòng chính dành cho những nước đang phát triển: “Hãy làm như tôi nói chứ đừng làm như tôi đã làm”. Tác phẩm này đòi hỏi người ta phải chú ý. Charles Kindleberger, Giáo sư danh dự, Đại học MIT, Mỹ Ha-Joon Chang đã khảo sát một số lượng lớn tài liệu lịch sử để rút ra những kết luận rất quan trọng và đầy thú vị về các thiết chế và quá trình phát triển kinh tế. Không chỉ xem xét lại bối cảnh lịch sử, Chang còn sử dụng nó nhằm khẳng định rằng cần phải thay đổi thái độ đối với những thiết chế được đề xuất cho các nước đang phát triển. Cả những diễn giải lại lịch sử lẫn những lời biện hộ cho chính sách trong Lên gác rút thang đều là những vấn đề đáng được các nhà kinh tế học, sử học và những người làm chính sách quan tâm. Stanley Engermann, Giáo sư Lịch sử Kinh tế, Đại học Rochester, Mỹ Người ta “luôn luôn biết” rằng các nền kinh tế hàng đầu – khi các nền kinh tế này còn chưa được thịnh vượng như hiện nay – đã sử dụng những chính sách được nhà nước quản lí nhằm công nghiệp hóa, sau đó lại nói với những nước nghèo hơn rằng ĐỪNG làm như vậy, nghĩa là những nước giàu có hiện nay bảo các nước nghèo áp dụng quan điểm của đường lối tự do. Nhưng phải đến khi Chang bắt tay thực hiện nhiệm vụ thì kiến thức mà mọi người đều biết này mới được ghi bằng giấy trắng mực đen. Lên gác rút thang là một thành tựu khoa học và là tác phẩm mà các nhà hoạch định chính sách ngành trong thế kỷ XXI cần phải đọc. Lance Taylor, Giáo sư Kinh tế, Đại học New School, Mỹ Trong đóng góp sắc sảo, đầy kiến thức và độc đáo vào môn kinh tế chính trị quốc tế này, Ha-Joon Chang đã đưa lịch sử kinh tế vào trung tâm của cuộc tranh luận về tự do hóa thương mại, ông khẳng định rằng các nước đang phát triển không được bỏ qua những công cụ chính sách mà châu Âu và Mỹ đã từng sử dụng trong quá trình phát triển của họ. Chúng ta cần phải cảm ơn ông vì đã trình bày luận cứ này với sức thuyết phục và sự khéo léo hiếm có như vậy. John Toye, Giáo sư Kinh tế, Đại học Oxford, Anh Đây là tác phẩm độc đáo và có tính khiêu khích, một đóng góp rất có giá trị vào cuộc tranh luận về phát triển hiện nay. Không có ai đồng ý hết với tất cả các luận cứ của Chang. Thực ra, nhiều người sẽ không đồng ý với phần lớn những điều ông trình bày. Tuy nhiên, tác phẩm được xây dựng trên một nền tảng vững chắc và được khẳng định một cách đầy thuyết phục, ngay cả những người không đồng ý cũng khó có thể phủ nhận. Tác phẩm này sẽ trở thành tâm điểm của một cuộc tranh luận rộng rãi và sôi nổi, nhờ đó làm phong phú thêm lí thuyết về phát triển và nêu ra thách thức đối với chính sách hiện nay. Peter Evans, Giáo sư Xã hội học, Đại học California, Berkeley, Mỹ *** Cha mẹ tôi thường kể rằng một trong những bài hát đầu tiên tôi được học hồi bé ở Hàn Quốc vào thập niên 1960 là bài “Người chiến binh can trường của Trung đoàn Mãnh Hổ”. Tôi phải hát bài hát này chứ không được học các bài đồng dao cho tuổi thơ, vì thủa ấy khúc chiến ca này vang lên hàng ngày trên mọi kênh truyền thông Hàn Quốc, làm lời ngợi ca những người lính Hàn Quốc dũng cảm bảo vệ thế giới tự do. Tuy nhiên, thực tế mà tôi nhận thức được khi lớn lên lại phức tạp hơn rất nhiều. Quyết định tham gia chiến tranh của Hàn Quốc có khi được thúc đẩy bởi mong muốn kiếm nhiều ngoại tệ bằng cách “xuất khẩu” binh lính. Thêm nữa, binh lính Hàn Quốc có thể là dũng cảm, nhưng họ cũng là những kẻ khét tiếng bạo tàn. Việc Hàn Quốc chiến đấu bên cạnh người Mỹ làm nhiều người nghĩ rằng Hàn Quốc chỉ là bù nhìn của Mỹ, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Mỹ sai bảo, trong đó có việc áp dụng mô hình kinh tế thị trường tự do, kinh doanh tự do, và thương mại tự do mà sau Thế chiến II Mỹ đã cố gắng thúc đẩy bằng mọi cách. Nhưng thực tế Hàn Quốc đã không phát triển theo mô hình kinh tế của Mỹ. Hàn Quốc và các nền kinh tế “thần kỳ” khác ở Đông Á – đặc biệt là Nhật Bản và Đài Loan – đã phát triển kinh tế bằng cách áp dụng thuế xuất nhập khẩu và các phương tiện bảo hộ thương mại khác, cũng như các khoản trợ cấp chính phủ, hạn chế về đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và những quy định khác nhằm phát triển các “ngành công nghiệp non trẻ” của mình, để đương đầu với những đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn. Điều thú vị hơn là, như cuốn sách này đã chỉ ra, ngay cả Mỹ cũng không sử dụng mô hình “Mỹ” khi nước này phải phát triển nền kinh tế của mình. Trên thực tế, Mỹ chính là nước đã phát minh ra ý tưởng về “nền công nghiệp non trẻ” – và người phát minh ra thuật ngữ này lại là ông Alexander Hamilton, Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của nước Mỹ. Thật vậy, cuốn sách này chỉ ra rằng hầu như tất cả các nước giàu có hiện nay – nước Anh thế kỷ XVIII, mà Alexander Hamilton đã sao chép, Hàn Quốc cuối thế kỷ XX – đều đã đạt được sự phát triển kinh tế, trong giai đoạn ban đầu, nhờ vào chủ trương bảo hộ và nâng đỡ các ngành công nghiệp trẻ non trẻ của chính phủ. Tác phẩm này cũng nhấn mạnh cách thức mà các nước đó đạt được cái gọi là những thiết chế “tiêu chuẩn quốc tế”, mà họ yêu cầu các nước đang phát triển hiện nay áp dụng, sau khi họ đã trở thành những nền kinh tế phát triển, chứ không phải khi họ còn là những nền kinh tế đang phát triển. Nói cách khác, những điều các nước giàu có bảo các nước đang phát triển làm khác xa những thứ họ đã làm khi còn ở trong giai đoạn tương tự như thế trong quá khứ. Hiện nay, Việt Nam đang ở một thời điểm vô cùng quan trọng. Trong ba thập kỷ qua, bất chấp những vết sẹo của mấy thập kỷ chiến tranh phản đế còn hằn sâu, đất nước đã có những tiến bộ đáng kể về kinh tế. Trong thời gian này, Việt Nam đã chuyển từ một trong những nước nghèo nhất thế giới thành một nước có thu nhập trung bình. Đó là một thành tựu đáng tự hào. Nhưng, Việt Nam vẫn là nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp và còn phải làm rất nhiều điều nếu muốn trở thành một nền kinh tế phát triển thực sự. Trong quá trình đó, Việt Nam phải vượt qua những sản phẩm “dễ dãi” mà các bạn đã sản xuất rất thành công trong ba thập kỷ qua – gạo, cà phê, và các sản phẩm thâm dụng lao động – để chuyển sang những hoạt động sản xuất và dịch vụ phức tạp hơn. Trong quá trình đưa sự phát triển kinh tế của mình lên một tầm cao mới, Việt Nam cần phải có thái độ thận trọng trước học thuyết chính thống về thị trường tự do, thương mại tự do, đang được các nước giàu có quảng bá, và cần phải học những bài học đích thực từ lịch sử, mặc dù không thể sao chép một cách chính xác kinh nghiệm lịch sử. Những bằng chứng lịch sử được trình bày trong cuốn sách này chỉ ra rằng, sử dụng các lực lượng thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nhưng muốn phát triển kinh tế thành công thì phải có sự can thiệp một cách hiệu quả của nhà nước và mở cửa nền kinh tế một cách từ từ. Tôi hi vọng rằng cuốn sách này sẽ là một nguồn thông tin hữu ích cho Việt Nam trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển của mình. Ha-Joon Chang Cambridge, tháng 9 năm 2014 Mời các bạn đón đọc Lên Gác Rút Thang của tác giả Ha-Joon Chang.