Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân

Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân, cũng như cuốn hồi ký nổi tiếng Thế giới những ngày qua của Stefan Zweig, mang đến bầu khí quyển của không gian văn hóa Áo-Hung vô cùng đặc thù vào thời điểm bước ngoặt đầu thế kỷ 20. Và nếu Zweig tự nhìn nhận như một “người châu Âu” thì Márai Sándor khẳng định mình là một đại diện cho tầng lớp thị dân đang hình thành; ông đã đi vào ngóc ngách đời sống tinh thần của một giai tầng, ca ngợi những phẩm chất nhưng không quên chế giễu những điều nực cười của môi trường sống xung quanh. Stefan Zweig cũng xuất hiện thoáng qua trong cuốn hồi ký sâu sắc và đặc biệt của Márai Sándor. Không chỉ có thành phố nhỏ Kassa quê hương và thủ đô Budapest, Márai Sándor còn dẫn dắt chúng ta đi qua những đất nước ông từng có thời gian gắn bó: Đức, Pháp, Ý và Anh, với những nhận xét đằm thắm, sâu sắc nhưng cũng có lúc tinh quái đến gây sửng sốt. Chặng đời của ông cũng gắn liền với con đường trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất của Hungary. Đọc cuốn hồi ký này, ta càng hiểu rõ con đường ấy nhiều chông gai đến mức nào. Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân đặc biệt hơn cả chính ở sự phô bày đầy chân thực và can đảm một tâm hồn phức tạp, không một chút toan tính giấu giếm hay “tô hồng” nào. Tính trung thực này khiến cuốn sách trở thành một hậu duệ xứng đáng của một dòng “bộc bạch” hay “tự thú” lừng danh trong lịch sử văn chương phương Tây, từ Thánh Augustin cho tới Jean-Jacques Rousseau, rồi Lev Tolstoy. Về Tác Giả: Márai Sándor họ Grosschmid, sinh ngày 11.4.1900, tại Kassa, Hungary, nay là Kocise thuộc nước Cộng hòa Slovakia. Năm 1923, Márai sang Paris, lưu lại năm năm. Năm 1926 ông bắt đầu hành trình dài ngày tìm hiểu vùng Cận Đông và viết cuốn Theo dấu chân các bậc thánh (Istenek nyomában), xuất bản năm 1927. Thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Márai là khoảng từ năm 1928 đến năm 1948, khi ông trở về sinh sống tại Hungary cùng vợ. Ông làm thơ, viết tiểu thuyết, dịch thuật, viết kịch bản và để lại gần một trăm đầu sách, trong đó có những tiểu thuyết nổi tiếng như Casanova ở Bolzano, Di sản của Eszte, Những ngọn nến cháy tàn, Nhật ký, Lời bộc bạch của một công dân… Márai cũng là bậc thầy của thể đoản văn, những suy niệm của ông bao giờ cũng mang âm hưởng triết lý, cô đọng. Márai được bầu là Viện sĩ Thông tấn năm 1942 và Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Hungary năm 1945. Từ 1948, ông sống lưu vong tại Ý và Mỹ. Tác phẩm của Márai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và ông được xếp trong số những nhà văn lớn nhất của châu Âu thế kỷ XX. “Và đến giây phút cuối cùng, cho tới khi còn được cầm bút viết nên con chữ, tôi muốn làm chứng rằng: đã có một thời và vài thế hệ mà ở đó trí tuệ đã ca khúc khải hoàn trước bản năng, và tin vào khả năng phản kháng của tinh thần… tôi đã thấy và đã nghe châu Âu, đã nghiệm sinh một nền văn hóa… liệu tôi có thể nhận được gì hơn từ cuộc đời?” - Márai Sándor Lời khen tặng dành cho tác phẩm: “Đây là cuốn tiểu thuyết về thế giới thị dân, nhưng cũng là tiểu thuyết gia đình. Nó là khúc tưởng niệm về một gia đình, gia đình nhà văn, và cũng là về giai tầng xã hội của gia đình ông. Nhưng đồng thời nó là tấm gương của sự trăn trở sâu sắc ở nhà văn […] để biến cải quá khứ và truyền thống gia đình theo “hình ảnh” của riêng mình. Vì thế nó cũng là một tiểu thuyết tâm lý, vì nó cho cảm nhận một cách trung thực quá trình đau đớn vật vã để đi tìm bản ngã, những cột mốc của sự khổ ải tâm hồn có vẻ như không thể giải thích nổi liên quan tới quá trình này. Nó cũng là sự thay đổi nội tâm liên quan tới sự tách rời khỏi gia đình, tới sự nổi loạn, sự phát triển cá tính…” - Dober Valéria “Cuốn tiểu thuyết của Márai Sándor đơn giả là hoàn hảo. Nó đưa ra những lý thuyết, những quan điểm để có thể mô hình hóa đúng thế giới, hơn nữa chúng có thể hiểu được, chấp nhận được đối với những người bình thường, cả đến hôm nay, tám mươi năm sau khi nó ra đời.” - Oláh Tibor *** Tiếp nối dòng “bộc bạch” hay “tự thú” lừng danh trong lịch sử văn chương phương Tây, cuốn tiểu thuyết “Lời bộc bạch của một thị dân” là một trong những tác phẩm được đánh giá là quan trọng nhất của nhà văn Hungary vĩ đại thế kỷ XX - Márai Sándor. Cuốn tiểu thuyết khắc họa thế giới thị dân giai đoạn mới hình thành với những chệch choạc ban đầu cùng không ít điều nực cười. “Lời bộc bạch của một thị dân “vừa là tiểu thuyết vừa có thể coi là một cuốn hồi ký của Márai Sándor. Ông viết về cuộc sống ở thành phố nhỏ Kassa của Hungary vào giai đoạn giai cấp tư sản thị dân bắt đầu hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ, với cả những chệch choạc của những bước tiến ban đầu và không ít điều lố lăng, nực cười. Nói như nhà phê bình văn học Hungary Oláh Tibor thì tác phẩm đã “đưa ra những lý thuyết, những quan điểm để có thể mô hình hóa đúng thế giới”. Cuốn sách dành một dung lượng lớn cho thời thơ ấu của nhân vật “tôi”, với những miêu tả cặn kẽ, sát thực; ẩn trong đó còn là cả những câu chuyện về các trạng thái tâm lý. Márai Sándor không bỏ qua cả những gì sâu kín, thậm chí là những suy nghĩ xấu xa. Cậu bé trong truyện lớn lên trong một gia đình tư sản gốc gác Saxon (Đức), có bố làm ngân hàng, khá sung túc. Gia đình cậu sống trong khu nhà xây để cho thuê đầu tiên tại thành phố, nơi cậu gắn bó máu thịt, trong tâm trí cậu chỉ có tòa nhà cho thuê này mới là “nhà mình”. Cậu bé có một tinh thần không yên ổn, có lúc bùng phát khiến cậu bỏ nhà đi không nguyên cớ. Sau đó, gia đình gửi cậu bé lên học nội trú ở thủ đô Budapest. Từ đây mở ra những miêu tả vô cùng chân thực về cuộc sống trong các trường học thời kỳ Áo-Hung, vừa nghiêm túc trang trọng vừa hà khắc và che giấu rất nhiều bí mật giữa thầy giáo và học trò, giữa người thế tục và các tu sĩ. Nhân vật trong cuốn sách lớn lên rồi ra nước ngoài, bắt đầu cuộc phiêu lưu đầy hoang mang của anh tại Đức rồi Pháp. Anh viết báo, đi làm phóng sự, giao tiếp với giới thượng lưu nhiều nước, quen biết nhiều nhân vật quan trọng, từng lâm vào cảnh túng bấn, khó khăn cùng cực, vợ anh từng lâm bệnh hiểm nghèo ở Paris trong cảnh quẫn bách. Sau những tháng ngày lênh đênh ở Ý và Anh, đến một ngày anh bỗng cảm thấy thôi thúc trở về cố hương, sống tại quê nhà, và khi ấy không điều gì có thể ngăn cản anh trở về. Dù vẫn vật lộn trong mớ bòng bong đầy hoang mang, nhưng giờ đây trong lòng anh đã dần hình thành một hướng đi, anh đã lờ mờ cảm thấy mình sẽ làm gì và sống ra sao tại quê hương. Márai miêu tả quá cụ thể nhiều con người, nhất là lại đưa ra nhiều nhận xét và chi tiết liên quan đến tôn giáo, chính trị nên Lời bộc bạch của một thị dân từng bị kiện, ấn bản chính thức sau này bị cắt đi không ít đoạn so với các ấn bản trước. Nhận định về tác phẩm này, nhà ngôn ngữ học Hungary Dober Valéria cho rằng: “Đây là cuốn tiểu thuyết về thế giới thị dân, nhưng cũng là tiểu thuyết gia đình. Nó là khúc tưởng niệm về một gia đình, gia đình nhà văn, và cũng là về giai tầng xã hội của gia đình ông. Nhưng đồng thời nó là tấm gương của sự trăn trở sâu sắc ở nhà văn để biến cải quá khứ và truyền thống gia đình theo “hình ảnh” của riêng mình. Vì thế nó cũng là một tiểu thuyết tâm lý, vì nó cho ta cảm nhận một cách trung thực quá trình đau đớn vật vã để đi tìm bản ngã, những cột mốc của sự khổ ải tâm hồn có vẻ như không thể giải thích nổi liên quan tới quá trình này. Nó cũng là sự thay đổi nội tâm liên quan tới sự tách rời khỏi gia đình, tới sự nổi loạn, sự phát triển cá tính…”/. *** Đây được coi là một cuốn sách kinh điển, theo lẽ dĩ nhiên mình sẽ đánh giá nó là một quyển sách kinh điển. Những giá trị to lớn của nó sẽ không được mình nói ra, vì mình đâu có đủ trình độ thâm sâu đó. Sau đây là vài ý kiến cá nhân về tác giả, nhắc lại là cá nhân. Mà xét cho cùng, đâu ai đọc ngoài mình. Mình thích cách tác giả nhìn nhận về quá khứ thời niên thiếu, tức là quyển I, với những hồi ức, sự quan sát tỉ mỉ, toàn diện và vô cùng chân thực về thời đại và tầng lớp của ông. Mình thích mọi thứ ở chương I, con người, số phận, những câu chuyện, ngôi nhà, những lời thú nhận phũ phàng. Và óc quan sát ấy làm mình khâm phục. Mình không thể nhớ được mình ăn cái gì hồi bé, nó chỉ như những mảnh ghép chắp vá của kỷ niệm. Thế nên khi Marai Sandor vẽ ra một thời kỳ chi tiết đến kinh ngạc về những con người xung quanh ông, thậm chí từ việc đi vệ sinh cho đến những quyển sách họ vẫn hay đọc, rồi ngôi nhà ngày bé, cha mẹ ông, gia phả nhà ông, rồi câu chuyện bỏ nhà trốn đi khi mới lớn,... mình đã rất vui khi được đọc nó. Nhưng chương II là một câu chuyện khác, đó là khi tác giả đã bắt đầu lớn hơn với một thế giới rộng lớn hơn các thành phố nhỏ thơ ấu, những quan sát, vốn sống, những nhận xét sắc sảo về các thành phố, con người, dân tộc khác ở châu Âu vẫn rất đáng để đọc. Cái mà mình không thích chính là tác giả, tính cách, con người, nội tâm tác giả (nếu đây được coi là một quyển hồi ký), mình không thích con người đó. Mình chưa thấy ai lại vô lý như vậy. Anh ta thà ăn ở một nhà tế bần với những người nghèo khổ khác (cho dù gia đình anh ta cũng thuộc dạng trung lưu có tiền) còn hơn ăn chung với những người lao động ở khách sạn nơi ông bác làm việc. Anh ta không chịu đựng được việc mình bị phân chia cùng hạng với những người làm thuê, coi đó như một sự xúc phạm. Và anh ta đổ lỗi cho giai tầng của mình. Anh ta nói ghét những người người suốt ngày la cà ở những quán café, trong khi chính bản thân cũng là một người như thế. Trong quyển II, phân nửa những gì tác giả làm là đi vào một quán café văn chương, đốt tiền bạc, đọc báo và chẳng làm gì hết. Anh ta không bao giờ thừa nhận sự quan trọng của tiền bạc, đúng là suy nghĩ của những người sung túc và không chịu cúi mình mà thực tế lấy một ngày. Thậm chí khi đói kém, anh ta đi ăn ở một nhà tế bần, anh ta nhờ vả gia đình, thậm chí là để vợ nuôi. Mình không thích kiểu người đó. Với mình, tác giả chỉ cố gắng làm ra vẻ thoát tục, anh ta không chịu tầm thường bản thân bằng việc chịu sự chi phối của tiền bạc. Nghệ thuật và tài năng quan trọng hơn. Anh ta còn là một kẻ vô trách nhiệm hiếm thấy. Mình không thấy anh này mảy may hối hận về tuổi trẻ bồng bột khi anh ngủ với nhiều cô gái, thậm chí là dắt họ trốn khỏi chồng rồi bỏ rơi họ. Rồi anh ta lấy vợ, một người cùng giai tầng với mình, anh ta có lẽ cũng chẳng yêu cô ta. Những gì mình thấy khi họ miêu tả cuộc hôn nhân là sau một vài nỗ lực làm người chồng có trách nhiệm trong một thời gian ngắn, anh này tiếp tục bỏ đi café, bỏ đi nơi khác vài tháng, vài năm, bỏ về nhà trong khi vợ vẫn đang ở Paris. Khi cuộc hôn nhân ở bên bờ vực phá sản, anh ta để vợ về nhà và cho cô tự quyết định lấy, không thèm níu kéo, không hỏi thăm, không một lời nào hết, anh để cô đi, kết quả ra sao cũng được. Anh ta đi khắp nơi, từ châu Âu đến Trung Đông, nói là vì trách nhiệm của người chồng là viết văn kiếm tiền. Tất cả chỉ là ngụy biện, anh ta chỉ quan tâm đến sở thích, đến mơ ước của bản thân, còn cuộc sống nghèo khổ của vợ, mong muốn của cô ta, nó đâu có ý nghĩa như mong muốn của anh. Mình thấy tội cho cô vợ, nhưng cô này tự chọn lựa việc gắn bó với tác giả đến cuối đời nên mình không dám ý kiến nữa. Mỗi khi tác giả làm một việc gì sai, anh ta thường đổ lỗi cho bệnh tâm thần và sự cô đơn cần thiết của một nhà văn. Rõ ràng anh ta nhận thức được mình là một người chồng không ra gì nhưng anh ta không đủ dũng cảm để nhận trách nhiệm. Là một người Việt Nam, mình thấy khó thông cảm cho những con người phương Tây cố gắng đổ lỗi cho mọi thất bại của họ cho những bệnh tâm lý nào đó mà chỉ có Sigmund Freud mới hiểu được. Nào đó tâm thần, nào là những vết thương thời thơ ấu, họ đốt cả đống tiền cho bác sỹ tâm lý và chẳng làm điều gì để thay đổi nó hết. Tác giả viết rất nhiều về trách nhiệm của nghề báo, về người cầm bút và trách nhiệm của bản thân, điều này làm mình khá nực cười. Mình đoán là tác giả là một nhà văn có đạo đức, dù gì ông cũng là người nổi tiếng và những tác phẩm của ông đều chỉn chu và phô diễn một tài năng không thể phủ nhận. Nhưng cái cách tác giả bỏ nhà đi mà không thăm hỏi những người anh bỏ lại, cách anh ta bỏ rơi những cô gái, những bạn bè của anh, anh đi xa vợ, anh ta thích cô đơn, anh ta là kẻ không có quyền nói về trách nhiệm của con người. Với mình, quyển I là vàng, quyển II là sự thất vọng. Cá nhân mình thích những con người tài năng và kiêu ngạo chút cũng không sao, như Mourinho chẳng hạn. Nhưng tài năng của Marai Sandor không thể che lấp một cá nhân yếu đuối, ích kỷ, hoang tưởng và thậm chí nhẫn tâm của ông.  Nhưng ít nhất đây là một "lời bộc bach", mình đoán tác giả không cần một đứa như mình nhận xét tiêu cực và cách làm người của ông, người ta đã là một tác giả tầm vóc thế giới. Cái ông ta đưa ra là một góc nhìn từ cuộc sống và cho dù góc nhìn ấy đúng hay sai, nó cũng đặc biệt. Chỉ là mình không thích những người như vậy và mình chưa đủ chín chắn để giữ nó trong lòng. Và còn cả tính khoe mẽ từ những từ nước ngoài chen vào một câu văn nữa.   Mời các bạn đón đọc Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Tù Thế Kỷ
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Người Tù Thế Kỷ của tác giả Nelson Mandela: Báo giới nhiều nước trên thế giới gọi ông là “Người tù thế kỷ”. Tên ông là NELSON MANDELA. Tổng thống nước Cộng hòa Nam Phi, chủ tịch Đảng Đại hội Dân tộc Phi của Nam Phi (ANC). Ông là vị tổng thống người da đen đầu tiên của nhà nước ở cực nam châu Phi. NELSON MANDELA bị chính quyền phân biệt chủng tộc tệ hại nhất trong lịch sử nước này nói riêng, ở châu Phi và thế giới nói chung, bắt khi đang lãnh đạo đội quân vũ trang của ANC  chống lại kẻ thù của các dân tộc trên vùng đất đau thương từng phải sống hơn 300 năm dưới chế độ Apartheid tàn bạo. Ông bị kết án tù chung thân và bị đày ra đảo Robben Island trên biển Đại Tây Dương suốt hơn hai thập niên. Từ trong nhà tù, NELSON MANDELA viết hồi ký về đời hoạt động của mình, về những cuộc chiến đấu của các chiến sĩ ANC và của các tầng lớp nhân dân bị áp bức Nam Phi mà ông là vị chỉ huy tối cao. Những trang gọi là hồi ký này trong thực tế là những bài học kinh nghiệm xương máu mà NELSON MANDELA và các đồng chí của ông mong muốn chuyển tận tay các chiến sĩ kiên cường trên tất cả các mặt trận chống lại kẻ thù. Những trang viết tâm huyết ấy đã vượt biển từ đảo Robben Island đến với đồng chí và chiến sĩ của ông trên đất liền, đến các Ban lãnh đạo ANC từ cơ sở đến trung ương, trong và ngoài nước, các đơn vị vũ trang luôn chắc tay súng trong trận chiến đấu không cân sức... và đã trở thành vũ khí sắc bén của ANC trong suốt hơn hai thập niên. Những dòng cuối cùng của tập hồi ký này được ông viết sau khi ANC giành thắng lợi với đa số tuyệt đối trong cuộc tuyển cử dân chủ theo chế độ phổ thông đầu phiếu đầu tiên trong lịch sử nước Nam Phi. Cuộc bầu cử này đã đưa NELSON MANDELA lên vị trí nguyên thủ của nhà nước Nam Phi mới. Hồi ký của NELSON MANDELA chia thành II phần, tuần tự từ buổi thiếu thời đến tuổi trưởng thành rồi đi theo “con đường tất yếu” của người chiến sĩ chiến đấu cho tự do và phẩm giá của con người. NELSON MANDELA gọi hơn 60 năm chiến đấu của ông là “con đường trường chinh dẫn đến tự do” và câu kết luận cuối cùng của tập hồi ký này khẳng định rằng “con đường dài ấy chưa kết thúc”. Nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh của NELSON MANDELA (18.7.1918 - 18.7.1998), chúng tôi biên dịch cuốn hồi ký này và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc, cuốn hồi ký được chia thành bốn phần lớn nhưng vẫn giữ được tính liên tục của các sự kiện, đồng thời bảo đảm tính trung thực và khách quan, chỉ lược bỏ bớt một số chi tiết cụ thể. Cuốn hồi ký của NELSON MANDELA đã được xuất bản ở nhiều nước và được bạn đọc hưởng ứng nồng nhiệt. Theo bình luận của nhiều tờ báo lớn ở phương Tây thì “Hồi ký của Nelson Mandela không chỉ nói về cuộc đời của một trong những nhân vật chính trị xuất sắc nhất của nửa sau thế kỷ 20 mà còn là một tác phẩm văn học đượm chất trữ tình... Nhiều người trên thế giới coi Nelson Mandela là một trong ít người nổi tiếng nhất thế giới còn sống. Hồi ký và những trang viết của ông thể hiện khá sắc nét điều bình thường đến giản dị và chính điều đó đã nâng ông thành “con người vĩ đại bình dân” với những kiến thức uyên bác của một nhà hàn lâm, là cơ sở đảm bảo cho sự hòa giải dân tộc, tránh được cuộc nội chiến đẫm máu cho các màu da, sắc tộc trên mảnh đất đầu đau thương nhưng hết sức kiên cường này. Hồi ký của Nelson Mandela là một bài thơ, một trường ca mà người đọc không thể dừng lại giữa chừng. Không một trang nào là người đọc hờ hững”. TS. Trần Nhu *** Tóm tắt Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" của Nelson Mandela kể về cuộc đời của ông, từ thời thơ ấu ở một ngôi làng nhỏ ở Nam Phi đến khi trở thành tổng thống của đất nước này. Mandela sinh ra trong một gia đình Xhosa thuộc tầng lớp trung lưu. Ông theo học đại học ở Đại học Fort Hare và Đại học Witwatersrand, nơi ông bắt đầu tham gia các hoạt động chính trị chống lại chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid. Mandela bị bắt giam vào năm 1962 và bị kết án tù chung thân. Ông bị giam giữ trong 27 năm trên đảo Robben Island, nơi ông phải chịu đựng những điều kiện sống khắc nghiệt. Trong thời gian bị giam cầm, Mandela tiếp tục hoạt động chính trị và trở thành một biểu tượng của phong trào đấu tranh chống Apartheid. Ông được trả tự do vào năm 1990 và lãnh đạo ANC giành chiến thắng trong cuộc bầu cử đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi vào năm 1994. Mandela trở thành tổng thống đầu tiên của Nam Phi không phải là người da trắng. Ông phục vụ trong hai nhiệm kỳ và tập trung vào việc hàn gắn đất nước sau nhiều thập kỷ chia rẽ. Review Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm lịch sử và văn học quan trọng. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp của Nelson Mandela, một trong những nhân vật chính trị nổi tiếng nhất của thế kỷ 20. Cuốn hồi ký được viết với giọng văn chân thành và giản dị. Mandela kể về cuộc đời của mình một cách thẳng thắn và trung thực, không né tránh những khó khăn và thử thách mà ông phải đối mặt. Cuốn hồi ký cũng là một bài ca về lòng dũng cảm và hy vọng. Mandela đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho tự do và phẩm giá của con người. Câu chuyện của ông là một nguồn cảm hứng cho mọi người trên thế giới. Đánh giá Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm xuất sắc về nhiều mặt. Nó là một tài liệu lịch sử quan trọng, một tác phẩm văn học hấp dẫn và một nguồn cảm hứng cho mọi người. Điểm cộng: Cuốn hồi ký cung cấp một cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp của Nelson Mandela. Cuốn hồi ký được viết với giọng văn chân thành và giản dị. Cuốn hồi ký là một bài ca về lòng dũng cảm và hy vọng. Điểm trừ: Cuốn hồi ký có thể hơi dài dòng và chi tiết ở một số chỗ. Kết luận: Cuốn hồi ký "Người tù thế kỷ" là một tác phẩm xuất sắc mà mọi người nên đọc. Mời các bạn mượn đọc sách Người Tù Thế Kỷ của tác giả Nelson Mandela.
Lạc Giữa Nhân Gian
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy: Nếu Trên đường rong ruổi là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận thì Lạc giữa nhân gian lại là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất."  *** Nếu Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy thì Trên đường rong ruổi lại là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất." *** Tóm tắt: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách tản văn của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy, được phát hành năm 2023.   Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Review: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy có lối viết giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc. Cô viết về những điều bình dị trong cuộc sống nhưng lại chạm đến trái tim người đọc. Những suy ngẫm của cô về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc rất đáng suy ngẫm. Phần Lạc giữa nhân gian là phần mà mình yêu thích nhất. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Những suy ngẫm của tác giả rất sâu sắc và đáng suy ngẫm. Tác giả viết về những vùng đất, những con người, những trải nghiệm mà cô đã gặp trên hành trình. Những chia sẻ của tác giả rất chân thành và gần gũi. Đánh giá: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Một số ý kiến đánh giá khác: Ý kiến 1: "Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho mình những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Mình rất thích cách viết của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy. Cô viết rất giản dị nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc." Ý kiến 2: "Mình rất thích những suy ngẫm của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Những suy ngẫm đó rất đáng suy ngẫm và giúp mình có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống." Ý kiến 3: Nhìn chung, Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. *** Đặng Nguyễn Đông Vy, sinh năm 1979, tại Khánh Hòa. Cô là cựu học sinh của trường THPT chuyên Lê Quý Đôn – Khánh Hòa. Đặng Nguyễn Đông Vy là một cái tên không mấy xa lạ với độc giả, đặc biệt là độc giả của các tờ báo hướng đến đối tượng tuổi mới lớn: Hoa Học Trò, Báo Sinh viên Việt Nam… Đặng Nguyễn Đông Vy còn là thành viên của gia đình “Vì ngày mai phát triển” báo Tuổi Trẻ. Với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và thuần hậu đặc biệt của mình, Đăng Nguyễn Đông Vy - người phụ nữ vừa làm báo vừa viết văn đã mang đến cho độc giả những sáng tác vô cùng sâu lắng, thú vị và độc đáo. Tác phẩm chính - Hãy tìm tôi giữa cánh đồng - NXB Trẻ - Làm ơn hãy để con yên (biên dịch) - NXB Trẻ - Những lối về ấu thơ (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn - Nếu biết trăm năm là hữu hạn (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn Mời các bạn mượn đọc sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy.
Lý Lịch Sự Vụ
“Lý lịch sự vụ” được viết từ năm 1822, từ chủ trương của Vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều, viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử. Sách gồm 2 bản, khổ 34 x 28cm, có 148 tờ tức 296 trang. Mỗi trang 12 dòng, mỗi dòng đủ có từ 32 đến 39 chữ, phạm vi ghi chép từ năm 1780 đến 1822. Một bản đã nộp vào Sử quán ngày 22 tháng 6 năm Nhâm Ngọ (1822), một bản lưu chiếu tại nhà riêng. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm. Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt, trong đó nổi bật là việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Tài liệu này cũng bảo lưu những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Đông phương Tổng trấn nước Anh, thư của vua Louis nước Pháp với nhà chức trách Việt Nam cũng như phúc tư của Việt Nam. Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngãi… Nguyễn Đức Xuyên sinh năm 1759 là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ (xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Năm 1780, ông theo tòng quân với Nguyễn Ánh, được làm đội viên đội cấm binh bảo vệ Chúa. 2 năm sau do có chiến công cùng toàn đội cấm binh truy kích quân Tây Sơn ở đồng Long Mạt nên được thăng làm nội đội Đội trưởng tòng quân tước Xuyên Đức hầu. *** Nguyễn Đức Xuyên (1759-1824) là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; tổ tiên vốn thừa hưởng được linh khí của núi sông, truyền thống của gia tộc và thời vận của đất nước, đã có nhiều võ công lừng lẫy dưới thời Lê Trung hưng.  Năm 1822, do chủ trương của vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử, Nguyễn Đức Xuyên đã viết bản hồi ký này, gọi tên là Lý lịch sự vụ… Cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm.  Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt:  Thứ nhất: Trong số các bản Lý lịch sự vụ của các trọng thần thực hiện theo lệnh của vua Minh Mạng, đến nay, chúng ta chỉ mới phát hiện được bản của Nguyễn Đức Xuyên.  Thứ hai: Việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Đó là những tờ truyền, tờ phó của bộ tham mưu Nguyễn Ánh, những chiếu, hịch, văn thệ sư, điều lệnh quân đội của Nguyễn Ánh, đều được viết hầu hết với lối văn Nôm có pha thành ngữ chữ Hán, vào cuối thế kỷ XVIII… Trong sách có chép lại những mật tấu của các cận thần như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, những mật chỉ, mật chiếu của Nguyễn Ánh. Điều đó có ích cho việc tiếp cận với sự thực lịch sử khi nghiên cứu về Gia Long và vương triều Nguyễn.  Thứ ba: Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngã  Tài liệu này tự nó có giá trị về các phương diện văn học, địa lý, đặc biệt là lịch sử cận đại, về các lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Mặt khác, sách còn chép lại những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Tổng trấn phương Đông nước Anh, vua Louis nước Pháp với nhà Nguyễn. Các văn bản này hầu hết do các viên quan người Pháp trong triều Gia Long dịch ra văn Nôm. Điều đó sẽ góp phần tìm hiểu về phương diện ngoại giao cũng như việc buôn bán với nước ngoài, trang bị quân sự và tình hình quan thuế buổi đầu triều Nguyễn.  Cuốn sách này sẽ dành cho độc giả quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Việt Nam giai đoạn nội chiến giữa Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu. Đặc biệt yêu mến tìm hiểu về lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Ảnh bìa là một trang trong bản gốc Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên.  +TRÍCH ĐOẠN HAY:  10. Trong quân không được đánh bạc, uống rượu. Như ở tại đồn mà đánh bạc thời bất luận quý tiện đều đánh 100 roi, lại thu bao nhiêu tiền mà thưởng cho người đứng ra tố cáo. Uống rượu ở đồn sở thì bị đánh 100 roi, lại truất xuống làm lính bếp. Khi lâm trận đối lũy mà đánh bạc, uống rượu thời bất phân quý tiện đều xử theo quân pháp thị chúng. Bằng như lễ ban thưởng trong quân thời cho tướng sĩ yến ẩm.  11. Gián điệp ở đất địch về, tướng hiệu cũng không được hỏi, gián điệp cũng không được nói, trừ thưa chào mà thôi. Việc không được phép nói mà kẻ ngoại nhân hay đặng, thời gián điệp thám thính đều xử theo quân pháp thị chúng, để nghiêm quân cơ. ”  Mời các bạn mượn đọc sách Lý Lịch Sự Vụ của tác giả Nguyễn Đức Xuyên & Trần Đại Vinh (dịch).
Lính Bay Tập 2
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 2 của tác giả Phạm Phú Thái.