Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trạm Dừng Chân Nơi Nhà Ga Tuổi Trẻ

"Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ" - Asai Ryo (tên tiếng Nhật: Nanimono) đã oanh tạc Nhật Bản như thế nào??? - Được tái bản nhiều lần, có hàng loạt các phiên bản khác nhau (như hình đấy các bạn, mà đó vẫn chưa phải là hết đâu :))) - Phim điện ảnh của cuốn sách cũng càn quét khắp các cụm rạp, gây xúc động mạnh tại xứ sở Phù Tang!!! *** Review Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ – Asai Ryo Ai trong chúng ta rồi cũng đều phải bước qua những năm tháng vô tư, hồn nhiên để đến với cánh cửa mới mang tên “trưởng thành”. Đó là chặng đường mà mỗi người đều nếm trải sự chênh vênh ở cái ngưỡng không còn trẻ mà cũng chẳng trưởng thành, không lạc lối nhưng cũng chẳng thể tìm cho mình một ngã rẽ riêng. Tôi đến với những trang sách của Asai Ryo vào một ngày Hà Nội mới chớm vào thu và khi chính bản thân mình cũng đang ở cái ngưỡng của sự trưởng thành. Đối với tôi, “ Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ ” là một điều gì đó hết sức đặc biệt. Cuốn sách ấy vừa giống như một lời thủ thỉ, tâm tình lại vừa như bức thông điệp truyền cho con người ta những bài học đầy ý nghĩa. “Tuổi trẻ của chúng ta luôn có một giai đoạn, mà lúc đó, chúng ta hoài nghi về chính bản thân mình. Không biết làm gì, không biết đi đâu, càng không biết mình là ai”. Đó chính là tuổi trẻ của những nhân vật mà nhà văn Asai Ryo đã xây dựng trong cuốn sách của mình. Đầu tiên có lẽ phải nhắc đến Takuto – cậu thanh niên ít nói, rụt rè, ngay đến cả lời tỏ tình với người con gái mình yêu cũng không dám nói. Bỏ qua những cơ hội bày tỏ để rồi đến cuối cùng anh và cô gái mình yêu lại trở nên xa cách mãi mãi. Mizuki thì luôn khiến người ta cảm thấy cô nàng đang tự thu mình vào một thế giới riêng mà khó ai có thể bước vào được. Tự ti vì gia cảnh, nghĩ rằng mình không thể nào sánh được với bạn bè, Mizuki tự xa lánh, tách biệt với thế giới xung quanh. Mizuki vui tươi, yêu đời bỗng trở thành một cô nàng chi li, tính toán trong các mối quan hệ. Tận sâu trong trái tim, cô không mong có ai đó sẽ mang đến hạnh phúc cho mình vì chẳng ai muốn dành trọn tình cảm cho một người chỉ biết nghĩ đến bản thân. Còn với Takayoshi – cậu quý tử luôn sống ỷ lại vào cha mẹ, cậu không muốn phải bỏ công sức để làm bất cứ điều gì. Được lớn lên trong căn nhà ấm áp, được chăm sóc tỉ mỉ trong từng bữa ăn,… tất cả khiến cậu thanh niên này trở nên lười biếng và phụ thuộc vào cái lồng yêu thương do cha mẹ tạo ra. Cuối cùng nhân vật mà có lẽ được nhiều người thích nhất là Kotoro – chàng trai với cá tính âm nhạc khác biệt mà mỗi lần lên sân khấu luôn nhận về “những ánh đèn flash của máy chụp hình chớp nhoáng sáng lòa sân khấu”. Đam mê là vậy, nhưng rồi đến khi hồi chuông cuối cùng của thời học sinh vang lên cũng là lúc Kotoro chia tay ban nhạc. Anh bạn phải vụt chạy đi tìm kiếm công việc làm ổn định thay vì cứ mải mê khao khát với ước mơ “rẻ tiền” ấy. Bốn con người với bốn câu chuyện riêng đã được ngòi bút của nhà văn Asai Ryo khéo léo sắp xếp để họ cùng gặp nhau ở một điểm hẹn mới trong cuộc đời. Công cuộc tìm kiếm việc làm của bốn cô cậu sinh viên được miêu tả sống động, chân thực theo đúng với tính cách, tâm lý của mỗi người. Để rồi, khi lướt qua câu chuyện của các nhân vật, có đôi lúc chúng ta lại tìm thấy hình ảnh của chính mình trong đó. Từng trang viết của nhà văn đều phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội, trong đó có cả những chông chênh của tuổi trẻ trong hành trình tìm kiếm bản thân. Thu mình trong lớp vỏ tự ti như Mizuki hay sống mãi với nỗi ân hận muộn màng như Takuto? Chọn lựa một hướng đi mới như Kotoro hay cứ mãi để cuộc đời phụ thuộc vào cha mẹ như Takayoshi? Câu hỏi đặt ra cho các nhân vật nhưng dường như bất cứ độc giả nào khi cầm trên tay cuốn sách cũng đang tự đi tìm câu trả lời cho chính bản thân mình. Khi còn bé ai cũng nhìn cuộc sống qua những lăng kính ngây thơ và hồn nhiên nhất. Cứ nghĩ rằng khi lớn lên rồi tự bản thân mình sẽ làm nên điều tuyệt diệu. Thế nhưng như Asai Ryo đã viết: “Cuộc sống chẳng khi nào là dễ dàng cả. Nếu đang cảm thấy dễ dàng, thì chắc chắn có người đang thay ta gánh chịu phần không dễ dàng ấy rồi”. Ai rồi cũng sẽ trưởng thành và sự trưởng thành đó chưa bao giờ là dễ dàng. Cạm bẫy, lừa lọc, vô cảm và thực dụng, tất cả khiến con người ta dường như trở nên yếu đuối hơn thế nhưng tuổi trẻ của ai chẳng cô đơn, mệt mỏi, thậm chí là bế tắc. Tất cả rồi sẽ bước qua như thế nào? Ngòi bút của Asai Ryo quả thực tài năng khi từng hơi thở, từng con chữ, từng mảnh ghép số phận trong cuộc hành trình tìm kiếm bản thân của những người trẻ đang lạc lối ấy đều được nhà văn góp nhặt và đưa vào câu chuyện của mình. Và có lẽ điều làm tôi thích nhất ở “ Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ ” chính là ở cảm xúc tự nhiên, chân thành mà tác giả mang đến. Không cần phải phê phán, chê bai, cuốn sách vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi những điều đơn thuần nhất. “Khi nỗ lực, người ta không để ý họ làm vì ai, làm vì điều gì. Nỗ lực không phải là lăn lóc trên Internet hay mạng xã hội. Mà nó đang ở ngay đây, trong chuyến tàu sắp sửa vào ga với máy sưởi chạy quá đà, giữa một ngày tháng Hai rét buốt”. Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc về những bài học đường đời đầu tiên giành cho tuổi trẻ, tác phẩm của Asai Ryo đã đoạt giải thưởng văn học danh giá nhất Nhật Bản – Naoki lần thứ 148 và chuyển thể thành bộ phim ăn khách Namimono. Cuốn sách đến từ xứ sở hoa anh đào đã trở thành hành trang quý giá trên mỗi chặng đường cho những ai đang và sẽ đi qua những năm tháng thanh xuân rực rỡ. Cảm ơn tác giả, cảm ơn vì những giá trị chân thành mà nhà văn mang đến cho các thế hệ bạn đọc! About The Author Thư Lê Thị *** Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ của Asai Ryo là một cuốn tiểu thuyết gây được tiếng vang lớn ở xứ sở hoa anh đào. Tác phẩm đoạt giải Naoki và đã được chuyển thể thành bộ phim điện ảnh ăn khách Nanimono (Tiếng Anh: Somebody - Ai đó) đang “oanh tạc” thị trường phim Nhật Bản. Ở Việt Nam, bản Việt ngữ cuốn sách được Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 2018. Có nhiều điều gợi lên cho chúng ta từ cuốn sách. Trong kí ức hay hiện tại, với một người đọc đã mang trong mình ít nhiều trải nghiệm, chúng ta thấy hiện về một hành trình đã đi qua, với những thăng trầm, buồn vui của tuổi trẻ, của thanh xuân say mê, sôi nổi đầy hi vọng, chán chường, tuyệt vọng cùng những lựa chọn chủ động và bị động. Có thể, ngay lúc này, chúng ta chợt nhớ đến một Đứa con đi hoang nay đã trở về của Andre Gide, Rừng Nauy của Murakami Haruki, Ở quán cà phê tuổi trẻ lạc lối của Patrick Mondiano… Cũng có thể, chúng ta nhớ đến những ngày trí thức tuổi trẻ với đầy hoài bão, khát vọng trong những truyện ngắn ám ảnh của Nam Cao, Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng hay những câu thơ giục giã đam mê của Xuân Diệu. Cũng có thể, chúng ta nhớ về Lưu Quang Vũ với những câu thơ của tuổi trẻ trong một thành phố chật chội, u buồn. Gần hơn nữa, chúng ta nhớ đến Những thiếu thời lơ lửng của Hạnh Nguyên, Tuổi thanh xuân đôi chuyến tàu đi lạccủa Lương Đình Khoa, Mộ phần tuổi trẻ của Hoàng Trọng Khang, Tôi ngồi đây chờ cơn bão tới của Nguyễn Hải Nhật Huy, những ám ảnh buồn bã trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Đinh Phương… Kí ức đan dệt trong nỗi hoài niệm về tháng ngày thanh xuân đã đi qua khiến cho cuốn sách Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ của Asai Ryo vừa giống như một trải nghiệm trực tiếp, vừa như một nguyên cớ, một vẫy gọi trở về. Chúng ta sẽ nói gì về cuốn sách này khi ngay ở đó, dường như thấp thoáng hình bóng của mình những ngày chưa xa? Tuổi trẻ, những lựa chọn để trưởng thành, cái ngưỡng mà bất cứ ai cũng phải đối mặt chính là ý niệm xuyên suốt của cuốn tiểu thuyết. Qua các nhân vật Takuto, Kotaro, Mizuki, Rika, Sawa, Takayosi,… một thế giới của người trẻ được tái hiện, chân thực và ám ảnh. Họ, những sinh viên đại học và nỗi băn khoăn trước những lựa chọn để dấn thân vào đời. Sự chua chát khởi đầu cuốn tiểu thuyết một cách lạnh lùng bằng những gặp gỡ, những chia rời, ngăn cách, sự bị động của con người trước xã hội, sự dối trá mà họ bắt buộc phải chấp nhận để bước vào cánh cửa trưởng thành. Tìm việc, đó là câu chuyện trung tâm, nhưng từ đó, mọi vận động nông sâu, rõ rệt hay mơ hồ của đời sống những người trẻ tuổi được hé lộ. Bản ES (Một dạng hồ sơ tuyển dụng) đã chứng thực cho những điều gian dối, khi các cô cậu sinh viên cố gắng trả lời một cách không trung thực về khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của mình. Chuẩn bị những dối trá, nghĩ, nói và làm những điều dối trá đến một lúc nào đó người ta không còn xem đó là dối trá nữa. Cái xã hội mà những người trẻ sắp dấn thân vào đã dung dưỡng cho thái độ, lựa chọn ấy. Và, trưởng thành là gì nếu không phải là một trạng thái bị hoài nghi trước bao điều dối trá. Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ quả thực đã gợi lên cho chúng ta những ưu tư không hề nông nổi. Tuổi trẻ, học tập, tình yêu, việc làm, sự trưởng thành, những mất mát, nhân cách, cách sống, sự thích nghi, năng lực, kinh nghiệm, lời nói và hiện hữu, sự trống rỗng, mất niềm tin, nỗ lực khẳng định bản thân, sự lựa chọn, sự từ bỏ, hoài nghi và xác tín, bám giữ hay buông xuôi,… chừng ấy có phải là quá nhiều luận đề cho một cuốn tiểu thuyết? Không, đây không phải tiểu thuyết luận đề, mà là một mô tả thật gần, thật trung thực những diễn biến của đời sống giới trẻ, trong trạng thái nguyên bản nhất. Chỉ có đối thoại và những suy tư, rất ít những trường đoạn trữ tình, miêu tả - vốn là đặc sản của tiểu thuyết lãng mạn. Bên cạnh đó, cuốn sách này, thông qua những suy tư và do dự, thông qua những lựa chọn của tuổi trẻ, chúng ta nhận ra đời sống đang hiện diện thế nào. Cuộc sống của các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết chất vấn lại lối sống của thế hệ, của những bao trùm giăng mắc mà họ đang vướng phải. Họ nghi ngờ rằng, có thể, với những gì đang diễn ra, họ thiếu đi phần con người, chỉ rập khuôn như máy móc. Thời đại công nghệ đẩy tuổi trẻ vào những lựa chọn bị động. Việc tham gia vào các mạng xã hội như Facebook, Twiter hay đắm chìm trong Internet đã lấy hết thời gian sống của tuổi trẻ. Họ buộc phải diễn tả mình thật ngắn gọn, bằng những từ khóa, bằng những kí tự giới hạn, họ phải đánh bóng mình bằng những status “chất lừ” trong khi có thể sự thực họ nhạt nhẽo, rỗng tuếch và vô cảm. Một khi, phải lựa chọn những ngôn từ ít ỏi để diễn đạt mình, tuổi trẻ thời công nghệ buộc phải loại bỏ đi nhiều từ ngữ khác. Mà, những từ ngữ bị loại bỏ, xem ra mới là những từ quan trọng làm nên sự hiện diện đích thực của con người. Thế có nghĩa là gì? Những ngôn từ quan trọng thực chất đã bị chôn vùi, đồng nghĩa với một bản thể, một thế hệ có thể đã bị đánh mất, bị lãng quên mặc dù vẫn hiện diện hàng ngày trong đời sống. Trạm dừng chân nơi nhà ga tuổi trẻ xác thực một thảm trạng về tính không trùng khít, không vừa vặn của những mảnh ghép tuổi trẻ. Những mảnh ghép không khít cứ bị ấn bừa vào nhau để rồi bung vỡ ở chính trung tâm của nó. Internet, facebook, Twiter… giống như những liều thuốc an thần, là chiếc đệm lười, là vỏ ốc để tuổi trẻ trú ngụ, ấn náu và trốn tránh. Họ - những người trẻ tuổi sẽ trở thành - trưởng thành như thế nào trong một thế giới đầy bị động như vậy? Cuốn tiểu thuyết của Asai Ryo đã mang đến cho người đọc, nhất là giới trẻ những suy tư thực chất, gần gũi với chính họ. Nhưng, không hề khuyên bảo hay dạy dỗ, cuốn sách như một người bạn, một “lời thủ thỉ, tâm tình” mà chạm đến những giật mình sâu kín của thế hệ. Và, sau tất thảy những điều bị động, bất ổn cuốn ta đi, một xác tín được thức tỉnh chính là: Ta chỉ có thể trở thành chính mình. Đó là một thông điệp quan trọng từ cuốn sách rất cần cho tuổi trẻ này. NGUYỄN THANH TÂM   Mời các bạn mượn đọc sách Trạm Dừng Chân Nơi Nhà Ga Tuổi Trẻ của tác giả Asai Ryo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn - Ma Văn Kháng
Tác phẩm Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn là sự tổng hợp, sự thu hút vào nó những thủ pháp của tiểu thuyết tư liệu - nghiên cứu, tiểu thuyết tự thuật và kỹ thuật dòng ý thức, bút pháp tượng trưng, v.v... Nếu ở những chương đầu của Đồng bạc trắng hoa xòe, ông tuân thủ lối viết của người kể chuyện biết hết, tác phẩm bị lấn át bởi một giọng điệu kể thì đến Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã là một thực thể sinh động biết bao: tác phẩm có nhiều tầng lớp ý nghĩa, chứa nhiều ẩn dụ nghệ thuật, hư và thực, tiềm thức, vô thức đan cài với ý thức sáng rõ có chủ đích; thế giới hiện thực hiện hữu và thế giới tâm linh, huyền thoại bổ sung vào nhau, nhòe mờ các ranh giới, mà tư duy trừu tượng muốn phân định rạch ròi. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn của tác giả Ma Văn Kháng.
Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng - Ngô An Kha
Tiểu thuyết "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" của Ngô An Kha sẽ đưa bạn đến với cuộc phiêu lưu của những người trẻ, tới một hành tinh mới lạ, hành trình đi tìm bản ngã hay ước mơ cuộc đời. Câu chuyện kể về hành trình đi tìm thế giới khao khát của 3 nhân vật: L, R, F. Ba người trẻ trong câu chuyện đều cảm thấy buồn chán, cô đơn, mất phương hướng trong cuộc sống. Họ có ước mơ nhưng đều gặp rắc rối với ước mơ của mình. Người có ước mơ nhưng bị xã hội cản trở, người mất dần ước mơ, người lại dang dở với quá nhiều mơ ước. Và họ đã cùng nhau đi tìm thế giới khao khát - một thế giới không có sự hiện diện của nỗi đau. Đó cũng là hành trình đi tìm giá trị bản thân mỗi người và trả lời cho câu hỏi “Chúng ta sống trên đời này để làm gì?”. Với không gian truyện hiện đại, lạ lẫm, cách xây dựng tình huống phong phú, với bối cảnh là nhiều địa danh nổi tiếng thế giới như Roma, Paris và Barcelona, "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" sẽ dẫn dắt chúng ta đến với những mảnh đất mới, khám phá văn hóa, con người cùng vô vàn điều mới lạ. Tác phẩm mang đến cho độc giả những phương châm và bài học sâu sắc trong tình yêu và cuộc sống. Khi đấu tranh giữa những ước mơ, khó khăn của cuộc đời, con người thường tìm về thế giới không có thực để trốn thoát. Nhưng nỗi thống khổ của con người là không thể tránh khỏi, có tối tăm mới có ánh sáng. Tối tăm sẽ dẫn đường, làm nền tảng của ánh sáng. Câu chuyện còn mang đến bài học về tình yêu mà ở đó, sự chân thành và thấu hiểu luôn chiến thắng. Ngoài ra, bằng các yếu tố khoa học, tác giả muốn ngợi ca những phát minh vĩ đại của loài người, đồng thời lên tiếng về hệ lụy của chúng đối với môi trường sống mà chúng ta đang rất cần bảo tồn, cải thiện. "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" tạo cảm hứng cho các bạn trẻ đang loay hoay đi tìm bản ngã, mục đích sống thêm động lực để trưởng thành và biết cách để vượt qua nỗi cô đơn. Quá trình đi tìm thế giới trong mơ của những người trẻ trong câu chuyện cũng là hành trình đi tìm lại vẻ đẹp tâm hồn và niềm tin yêu cuộc sống. *** Roma, 4 giờ 30 chiều. L ngước nhìn lên. Lỗ hổng trên trần nhà mở to. Trần nhà hóa thành trời xanh xanh ngắt, những đám mây trắng tinh bồng bềnh trôi. L đưa tay ra, chới với, anh muốn chạm vào một đám mây. Mọi chuyển động của L lúc này chậm rãi, chậm rãi. Những đám mây xa L quá, anh đưa tay với mãi, với mãi nhưng chẳng thể nào chạm đến được. L thu tay về, mười ngón tay dài đặt trên vầng trán cao, vuốt xuống đôi mắt lúc này đã nhắm nghiền, từ từ rà dọc cánh mũi, rồi qua miệng, đến lúc cả hai bàn tay đều yên vị trên ngực trái - nơi con tim anh vẫn uể oải, chầm chậm đập những nhịp không thành tiếng. Bỗng chốc, hình xăm bàn tay của Chúa và Adam trên lưng anh bật dậy, nổi lên thành hình thành khối, bay lơ lửng giữa không trung, bay lên miền mây trời vừa trắng vừa xanh trên cao kia. Anh vẫn chưa biết đây là mơ hay thực. Anh đang ở thế giới nào? Liệu đây đã phải là hành tinh Dương Vô Cùng chưa? L trở mình thức dậy giữa căn phòng tối, cửa sổ mở toang. Cứ vài phút, ô tô chạy qua hắt ánh đèn vàng lên bức tường đối diện mà mắt anh đang dán vào, giờ đây đó là thứ ánh sáng duy nhất. L đã ngủ được gần bốn tiếng, có lẽ đó là bốn tiếng dài nhất cuộc đời anh. Chợt nhận ra đã cận kề với việc muộn giờ diễn, L bật dậy như sóc, nhanh chóng mặc quần áo. Anh diện quần jeans cùng chiếc áo phông cổ tròn cỡ rộng quen thuộc, tất cả đều màu đen. Từ trước đến giờ, L hiếm khi mặc màu nào khác ngoài màu đen. L vội vã chải những sóng tóc dài buông xõa quá vai với chiếc lược bằng chính bàn tay gầy guộc của mình. Thế là xong, anh chỉ cần nhặt chiếc áo khoác da biker đen lên, và mang cây đàn guitar cùng màu trên vai là rời khỏi nhà được rồi. Quãng đường đến quán bar L thường đàn hát cách căn xép nhỏ anh ở trọ tầm hai bến tàu, nhưng L thích đi bộ. Anh bước trên những con đường đá của Roma đến nát cả đôi bốt cao bằng mắt cá chân. Ánh đèn vàng sáng lòa của khối nhà cao trung trung, của ô tô, của xe Vespa hắt lên lưng L, để lộ hình xăm bàn tay của Chúa và Adam hững hờ sau chiếc áo đen cổ rộng anh đang mặc. Tempo là một quán bar không lớn nhưng cũng không nhỏ nằm trong một con hẻm tại thủ đô nước Ý, mà phải rồi, những quán bar kèm không gian chơi nhạc như thế có bao giờ lớn đâu chứ. L chơi nhạc ở đây cũng đã được hơn năm năm rồi. Những ca khúc indie pop của anh kén người nghe đến oải. Dẫu rằng đó là thứ âm nhạc tuyệt đẹp, trong trẻo, khát khao và đầy đam mê. Khi L cất tiếng hát, giọng anh sang sảng, những quãng ngân dài sâu hun hút, tưởng chừng như bất tận. Nỗi niềm tự sự vang lên, thủ thỉ kể từng câu chuyện nhỏ. L không giấu giếm điều gì, khi anh hát, anh bộc bạch hết lòng mình. Anh hát với cả con tim, lòng nhiệt thành và đam mê cháy bỏng. Trái với những ca khúc đậm chất trữ tình, nội tâm mà anh sáng tác từ năm mười mấy tuổi, L là một chàng trai vui vẻ, hoạt bát, ở ngoài nói nhiều hơn nghĩ, và nghĩ nhanh hơn nói. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng của tác giả Ngô An Kha.
Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên - Ma Văn Kháng
Mười chín tuổi, thầy Quang Tình người miền xuôi xung phong lên dạy học ở một tỉnh miền núi. Ra đi như “cờ bay trong gió, như lửa thốc trong lò”, người thanh niên nọ đã đem hết niềm say mê lý tưởng, cuộc đời để làm công việc mang đến ánh sáng văn hóa cho con em các dân tộc. Sau một thời gian dạy học ở các làng bản, do đã tích lũy được nhiều kinh nghiêm và có uy tín trong nghề nghiệp, thầy Quang Tình được điều về dạy học ở trường Bổ túc Văn hóa Công Nông, nơi chuyên dạy văn hóa cho các cán bộ xã cơ sở nông thôn miền núi của tỉnh. Đứng đầu cơ sở giáo dục này là một người thô bạo, có thiên kiến nặng nề với những ai xuất thân từ các tầng lớp khác không phải là công nông. Giữa hai người bất đồng nối tiếp bất đồng, và kết quả là thầy Quang Tình bị sa thải, phải ra khỏi ngành. Vợ thầy cũng bị liên lụy. Ra khỏi ngành, nghề nghiệp không, tiền bạc không, đất đai không, lại vợ dại con thơ, sống thế nào đây? Thầy Quang Tình, sẵn ý chí bất khuất, bắt tay vào công cuộc mưu sinh vô cùng gian khó. Sau một thời gian phải làm cả những công việc nguy hiểm và bẩn thỉu, thầy quyết định học nghề mộc. Sẵn ý chí không chịu thua hoàn cảnh và tố chất khéo léo, cùng với lòng kiên trì, ham học hỏi, lần lần thầy đã nắm vững được kỹ thuật nghề mộc, vượt qua được tình trạng bị dồn vào bước đường cùng, nuôi được vợ con. Tuy nhiên quan trọng ở đây là thầy đã tìm ra con người mình. Tìm ra ở chính cái cuộc sống mà thầy đã rơi xuống. Sau những gì qua đi, còn lại là cốt cách thanh tao, nhân cách cao cả của thầy. Tiểu thuyết  không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống với những mảng màu sắc thái khác nhau, sinh động và hấp dẫn, mà còn phát ngôn một thái độ, một triết học nhân sinh, một quan niệm thẩm mỹ về cuộc đời, con người. Sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời cũng như khả năng quan sát thấu đáo của Ma Văn Kháng đã làm nên những trang văn tỉ mỉ, tinh tế, công phu. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên của tác giả Ma Văn Kháng.
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe của tác giả Ma Văn Kháng.