Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 2 (H. P. Blavatsky)

MỤC LỤC

Quyển 2

VŨ TRỤ KHỞI NGUYÊN LUẬN

PHẦN 2. SỰ TIẾN HÓA CỦA BIỂU TƯỢNG KÝ TRANG TIẾT 1 - BIỂU TƯỢNG KÝ VÀ BIỂU Ý TỰ... 15

Các Thần thoại và các Truyền thống đều có ý nghĩa Tìm mua: Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 2 TiKi Lazada Shopee

Lịch sử - Biểu hiệu và Biểu tượng khác nhau - Biểu hiệu là một loạt các hình vẽ giống như đồ thị, được thuyết minh theo lối ẩn dụ. Lịch sử nội môn ẩn tàng trong

Biểu tượng - Mãnh lực Pháp thuật của Âm thanh -

Ngôn ngữ Bí nhiệm, nay được gọi là Biểu tượng ký.

TIẾT 2 - NGÔN NGỮ BÍ NHIỆM VÀ CÁC CHÌA KHÓA CỦA NÓ… 30

Các học giả đã từng giải được Ngôn ngữ Đại đồng của

Cổ nhân - Các Văn kiện cổ truyền được viết bằng Ngôn ngữ Đại đồng - Các Nghi thức và các Giáo điều của Ai

Cập vẫn còn duy trì Giảng lý chính yếu của Giáo lý Bí nhiệm - các học giả khám phá ra Hệ thống Hình học và

Số học của các kích thước của Đại Kim Tự Tháp - Phép

Cầu phương của Hình tròn - Rốt cuộc Chân lý phải ưu thắng - Moses và Chiếc Bè bằng cây cỏ chỉ mô phỏng theo vua Sargon - Nền tảng Con số Huyền linh của khoa Vũ trụ Khai tịch Huyền linh - Gốc tích của các

Biểu tượng Cổ truyền - Sự Sáng tạo ra nhiều Adam -

Các Giống dân “Quỷ Vương”.

TIẾT 3 - CHẤT NGUYÊN LIỆU NGUYÊN THỦY VÀ TƯ TƯỞNG THIÊNG LIÊNG. 62

Siêu hình học Tây phương không đạt được Chân lý - Trừ phi được xác định bằng Vô số biểu lộ của chất liệu Vũ Trụ, Tư Tưởng Thiêng Liêng không xác định được - Thiên Ý Hồng Nguyên không tồn tại trong khi có chu kỳ Hỗn Nguyên của Vũ Trụ - Toàn thể Vũ trụ là một Hão Huyền - Chất Nguyên Thủy là gì? Hậu Thiên Khí và Lửa Vũ Trụ - Vũ Trụ Khai Tịch của Thần Trí (Manas) - Thất Đại - Các Thần Linh trong Sáng Thế Ký - Toàn bộ Càn Khôn xuất phát từ Đấng Tam Phân - “Sinh Hỏa” - Ether của Khoa học - Toàn bộ Càn Khôn xuất phát từ Tư Tưởng Thiêng Liêng - Huyền bí học vẫn còn nắm giữ Chìa khóa giải tất cả mọi Vấn đề của Thế giới.

TIẾT 4 - HỒNG NGUYÊN KHÍ: THƯỢNG ĐẾ: VŨ TRỤ. 96

Không gian bao hàm và là Thể của Vũ Trụ với Bảy Nguyên khí - Hồng nguyên khí trở thành Linh Hồn Vũ Trụ - Tam giác Sơ Thủy - Khai sinh ra Thần trí - Húy Danh - Tứ Đại Sơ Thủy - Sự sùng bái Vũ Trụ (Cosmolatry)

TIẾT 5 - VỀ THƯỢNG ĐẾ ẨN TÀNG, BIỂU TƯỢNG VÀ CHỮ VIẾT TƯỢNG HÌNH.. 111

Các Prajãpatis (Thiên Đế) và các Tộc Trưởng - Đại Thánh Dung và Tiểu Thánh Dung - Bảy Mật Tự cấu thành danh xưng của Thượng Đế - Linh Hồn Vũ Trụ được coi như là Thần Trí của Tạo Hóa - Ý của các Con thú và các Cây linh thiêng - Biểu tượng của các Quyền năng Sáng tạo - Bảy mươi Đấng Kiến Tạo - Liệu đã từng có một sự Thiên khải Vũ Trụ sơ thủy hay chưa? - Thiên Nga dùng như là Biểu tượng của Tinh Thần - Biểu tượng học Cổ truyền.

TIẾT 6 - VŨ TRỤ NOÃN.. 131

Quả Trứng tiêu biểu cho Vũ Trụ và các thể hình cầu của nó - Quả Trứng và Chiếc Bè - Mười con số Linh Mục Lục thiêng của Vũ Trụ - Biểu tượng về các Thần Nguyệt Tinh và Nhật Tinh - Bốn Con thú Linh thiêng tiêu biểu cho Bốn Nguyên khí thấp nơi Con Người - Các Con Rắn bốc Lửa - Quả Cầu có cánh - Quả Trứng sinh ra Tứ đại (Four Elements) - Tất cả các vị thần Ai Cập đều lưỡng phân - Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận của Bắc Âu (Scandanavian Cosmogony) - Bốn Con Sông của vườn Địa Đàng được tượng trưng bởi Khối vuông.

TIẾT 7 - CÁC NGÀY VÀ ĐÊM CỦA BRAHMÃ (PHẠN THIÊN).. 150

Thiên kiếp (Kalpa) hiện tại là Varãha (Hóa thân Heo rừng) - Các Hóa thân biểu hiệu các Chu kỳ Chủ yếu và Thứ yếu - Ba chu kỳ Hỗn Nguyên chính (Pralayas) - Một Chìa khóa giải Thánh kinh Do Thái Bí giáo (Kabala) - Mười bốn vị Bàn Cổ trong thời hạn của một Đại Chu Kỳ (Mãha Yuga) - Đêm Vũ Trụ giáng lâm - Chu kỳ Chánh Pháp (Satya Yuga) bao giờ cũng đứng đầu trong số Bốn Thời đại và Chu kỳ Mạt Pháp bao giờ cũng sau rốt - Các Hiền Triết Moru và Devãpi tái lai.

TIẾT 8 - HOA SEN DÙNG NHƯ LÀ MỘT BIỂU TƯỢNG VŨ TRỤ.. 170

Hoa sen tiêu biểu cho sự Sáng tạo và sự Sinh hóa - Thiên Ý chuyển từ Trừu tượng sang Cụ thể - Thượng Đế Sáng Tạo là Tư tưởng làm cho Hữu hình - Thuyết thần nhân đồng hình của Cổ Do Thái - Ý nghĩa Nội môn của Tội lỗi sa đọa trong Sáng Thế Ký - Ý nghĩa Linh thiêng của chữ “M”.

TIẾT 9 - MẶT TRĂNG, NGUYỆT THẦN, PHOEBE. 185

Mặt Trăng được nhân cách hóa - Các vị thần Nhật Tinh và Nguyệt Tinh, các Giống dân và các triều đại - Chìa khóa Tâm lý giải Biểu tượng Mặt Trăng - Con Số Kép, Thư Hùng - Một ẩn dụ trích từ Thánh kinh Zohar - Biểu tượng Mặt Trăng thật là phức tạp, Chìa khóa Tâm lý của nó - Trạng thái Lưỡng phân của Mặt Trăng - Các nghi lễ Nguyệt Tinh dựa vào sự Hiểu biết về Sinh lý học - Mặt Trời và Mặt Trăng được coi như là các vị Thần Thư Hùng sinh hóa ra Trái Đất - Đức Mẹ Đồng Trinh và Nữ Thần Ngẫu Tượng - Sự sùng bái Mặt Trăng thật là xưa cũ như Trái Đất - Mặt Trăng được công nhận như là Biểu tượng của mọi Đức Mẹ Đồng Trinh.

TIẾT 10 - SỰ SÙNG BÁI CÂY CỎ, RẮN VÀ CÁ SẤU. 219

Quả của Cây Minh Triết - Rắn và Rồng có nghĩa là các Đấng Minh Triết tức các Cao đồ được Điểm Đạo thời xưa - Rắn Biểu tượng của Điểm Đạo - Các nhà Huyền bí học thấu triệt được các ý nghĩa Sơ thủy của Cây Trường Sinh và Thập Giá - Cây Trường Sinh bắt rễ từ Thiên Đàng - Những con Rắn và Rồng bảy đầu thời xưa tiêu biểu cho Bảy Nguyên khí trong Thiên nhiên và nơi Con Người - Con Sấu và Con Rồng của dân Ai Cập - Ý nghĩa của Thất Linh hỏa (Seven Fires), Thất Huyền Âm (Seven Vowels) v.v.. được tượng trưng bởi Bảy Đầu của Con Rắn vĩnh cửu.

TIẾT 11 - QUỶ VƯƠNG ĐỐI NGHỊCH VỚI THƯỢNG ĐẾ... 235

Thiện và Ác, liệu có thể có Hai cái Tuyệt đối vĩnh cửu được không? - “Satan” đã được nhân hình hóa như thế nào - Hữu sinh tất Hữu hoại - Thiện và Ác là hai phương diện của cái Duy Nhất cũng Như nhau - Ác biểu thị tính Phân cực của Vật Chất và Tinh Thần - Các Cao đồ Chánh đạo và Tà đạo - Cuộc Chiến đấu giữa các vị Thần - Hai trạng thái của Vishnu - Các Thần lực Sáng Tạo các Thực Thể sống động và Hữu thức - Kim Tự Tháp Đen và Trắng.

TIẾT 12 - THẦN PHỔ HỌC VỀ CÁC THẦN LINH SÁNG TẠO.. 260

Huyền giai Thần lực - Đấng Sinh hóa ra Vũ Trụ không phải là vị Thần Tối Cao - Huyền điểm là Đơn vị từ đó phát sinh ra toàn bộ Hệ thống Số học - Các Tạo vật trong Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận Ấn Độ - Thượng Đế

Mục Lục

Huyền Âm - Các Từ ngữ đồng nghĩa với Thượng Đế - Các Quyền năng nữ tính trong Thiên nhiên - Bí nhiệm của Âm Thanh - Ánh Sáng, Âm Thanh và Số Mục là ba nhân tố Sáng tạo - Số luận của Pythagoras - Mẹ của các vị Thần - các Kim Tự Tháp thật là xưa cũ - Thiên Thần, Tổng Thiên Thần, Thiên Thần Vương Tước, Thiên Thần Đức Hạnh, Thiên Thần Tự Trị, Thiên Thần Vương Vị, Tiểu Thiên Thần, Thiên Thần Tối Cao - Các vị Thần trong Vũ trụ - Các Giai đoạn Biểu lộ - Danh xưng Bất khả tuyên đọc - Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận của Khổng Tử - Bảy và Mười bốn Chu kỳ tồn tại - Các Biểu tượng của Bí nhiệm U minh - Chỉ có Thượng Ngã là Thiêng Liêng và Thượng Đế.

TIẾT 13 - BẢY TẠO VẬT... 302

Bảy Tạo vật của Thánh kinh Purãnas - Bát nguyên (the Ogdoad) - Con người biết “Suy tư” đầu tiên và Một, Ba và Bảy Huyền Âm - Các tạo vật Chủ yếu và Thứ yếu - Toàn Linh Trí và Thiên Trí đang Hoạt động tích cực - Nhiều lời Giải thích Chân Lý Độc Nhất Vô Nhị - Các Thiền Định Đế Quân là Khối Tập Hợp của Bản Nguyên Trí - Bảy Tạo Vật: (1) Hành Toàn Linh Trí (Mahattattva), cuộc Tự tiến hóa bản sơ; (2) Các Nguyên khí Sơ cấp tức các Tanmãtras (Cơ bản kích lượng); (3) Ngã thức (Ahamkãra) tức quan niệm về cái “Tôi”; (4) Hàng loạt bốn giới Hành khí Sơ cấp - Cơ sở của các Giác quan; (5) Tạo vật Con thú câm; (6) Các nguyên kiểu của Giống dân thứ Nhất (nhân loại); (7) Con người - Các Đấng Thiên Tôn (Kumãras) là ai - Các Tu sĩ khổ hạnh Trinh khiết không chịu sáng tạo ra Con người Vật chất - Tầm quan trọng của số Bảy.

TIẾT 14 - TỨ ĐẠI (TỨ HÀNH). 334

Các Hành là Lớp vỏ Hữu hình của các Thần Linh Vũ Trụ - Các Hành thuộc Tinh Thần và Thể Chất trong các Thần lực của Thiên nhiên - Dân Atlante thấu hiểu được các hiện tượng của Tứ Đại - Thánh Paul tin tưởng nơi các Thần Linh Vũ Trụ - Jehovah là một vị Thần của các Hành - Nữ thần Astarte và Đức Mẹ Mary - Mọi Hành đều có bản chất lưỡng phân - Các lực vật lý là khí cụ của các hành.

TIẾT 15 - VỀ QUAN THẾ ÂM VÀ QUAN ÂM.. 353

Thủy và Chung của Vũ Trụ tự nhiên và biểu lộ - Các Thần chú tạo ra một tác dụng Pháp thuật - Quan Thế Âm là một Hình hài của Nguyên khí thứ Bảy của Vũ Trụ, tức Thượng Đế xét về mặt huyền học - Quan Âm là nguyên khí Âm trong Thiên nhiên.

PHẦN 3. PHỤ LỤC

TIẾT 1 - LÝ DO TẠI SAO CÓ CÁC PHỤ LỤC NÀY. 361

Không có mâu thuẫn giữa Huyền bí học và Khoa học chính xác bất cứ khi nào mà Khoa học chính xác vẫn được dựa vào Sự kiện không thể công kích được - Các Thần lực là các Thiên Thần và các Thần Linh - Mặt Trời vừa là Vật Chất vừa là Tinh Thần - Mặt Trời ban cấp Sự sống cho Thế Giới Vật Chất; Mặt Trời Tinh Thần ẩn tàng cung ứng Cuộc sống và Ánh sáng cho các cõi Tinh Thần và Tâm Linh.

TIẾT 2 - NHÀ VẬT LÝ HỌC HIỆN ĐẠI ĐANG CHƠI TRÒ “BỊT MẮT

BẮT DÊ” (BLIND-MAN’S BUFF). 371

Khoa học phải học hỏi xem thực sự thì Vật Chất, Nguyên Tử, Ether (Ê-te) và Lực là thế nào - Ánh sáng có phải là một Thể hay không? - Các Giả thuyết mâu thuẫn - Các quan điểm về Cấu tạo của Ether - Nhà Huyền bí học nói rằng Thiên nhiên tạo tác ra chính mình.

TIẾT 3 - LỰC HẤP DẪN CÓ PHẢI LÀ MỘT ĐỊNH LUẬT KHÔNG?.. 387

Mục Lục

Các quan điểm của Khoa học về Trọng lực - Pythagoras và Plato nói về các Tinh Quân - Vô cực điện (Fohat) và Trí thông tuệ cấp năng lượng cho và hướng dẫn lưu chất điện Sinh Lực Vũ Trụ - Các Thần lực trong Thiên nhiên và các Cá thể Thông tuệ - Thuyết Chân không vũ trụ của Newton - Chuyển động không ngừng - Từ khí Vũ Trụ - Quan niệm của Kepler về các Lực Vũ Trụ - Nguyên nhân của sự quay.

TIẾT 4 - CÁC THUYẾT VỀ SỰ QUAY TRONG KHOA HỌC... 408

Các giả thuyết về Nguồn gốc của Sự quay, về Nguồn gốc của các Hành Tinh và các Sao chổi - Các Nghịch lý của Khoa học - Lực là các Thực Tại.

TIẾT 5 - CÁC MẶT NẠ CỦA KHOA HỌC.. 422

Vật lý hay Siêu hình học? - Giáo lý và Nguyên lý Huyền bí học nơi Spiller - Các định nghĩa về Lực của Khoa học - Lực và Chất liệu trong Huyền bí học - Lực là gì? - Các nhà Huyền bí học gọi Nguyên Nhân của Ánh Sáng, Nhiệt, Âm Thanh, Sự Cố Kết, Từ Khí v.v… là một Chất liệu - Bảy Huyền Xạ của Mặt Trời - Nhân và Quả - Thế nào là một Nguyên Tử? - Bốn mươi chín Linh Hỏa Bản Sơ được nhân cách hóa; Quan hệ của chúng với các Thần thông nơi Con Người cùng các Mãnh lực Vật lý và Hóa học - “Nguyên lý Kết tập” trong Hệ thống Triết học (Triết hệ) (in the Vishishtãdvaita System of Philosophy).

TIẾT 6 - MỘT NHÀ KHOA HỌC CÔNG KÍCH LÝ THUYẾT VỀ LỰC CỦA KHOA HỌC. 455

Nhiều Khoa học gia Anh quốc giảng dạy hầu hết là Giáo lý Huyền bí học - Tinh Thần và Linh Hồn của Vũ Trụ.

TIẾT 7 - CUỘC SỐNG, LỰC HAY TRỌNG LỰC... 466

Một mình Lực hấp dẫn không đủ để giải thích Chuyển động của Hành tinh - Các Lưu chất hay các Bức xạ của Mặt Trời truyền thụ Mọi Chuyển động và khơi hoạt Mọi Cuộc Sống trong Thái Dương Hệ - Mặt Trời là Kho chứa sinh lực - Thuyết Phiếm Thần hay là Thuyết Độc Thần? - Bảy Giác quan Hồng Trần - Cây Trường Sinh - “Ether thần kinh” là gì? Một nấc thang Thất phân chân chính.

TIẾT 8 - LÝ THUYẾT VỀ THÁI DƯƠNG HỆ... 488

Mặt trời là Tâm của Thái Dương Hệ - Các Nguyên tố mà ta biết hiện nay không phải là các Hành Nguyên Thủy - Hóa học tiến gần tới lãnh vực Huyền bí trong Thiên nhiên hơn là các Khoa học khác - Các khám phá của Giáo sư Crookes biện minh cho các Giáo lý Huyền bí học - Các Thuật ngữ Hóa học và Khởi nguyên của các Thần Linh - Quyền năng điều động Nguyên tử - Ý nghĩa của Dực Xà Trượng (Caduceus) của thần Mercury - Trạng thái Laya (trung hòa) và Điểm Zero - Huyền bí học nói rằng Vật Chất vốn Vĩnh Cửu và chỉ trở thành Nguyên tử một cách định kỳ - Các “Nguyên tử số” chủ yếu - Các Đấng Thông Tuệ và các Đấng Chủ trì các Chơn Thần và Nguyên tử.

TIẾT 9 - THẦN LỰC SẮP TỚI. 514

Nhân và Quả của Điện vũ trụ - Âm thanh là một Quyền năng Huyền bí - Keely là một nhà Huyền bí học Vô thức - Ý nghĩa Huyền bí của một Trung hòa điểm -

Nhân loại có liên hệ về mặt tâm linh với các nhóm

Đấng Thiền Định - Tại sao Keely không thể đẩy mạnh các Khám phá của mình đến Mục tiêu hợp lý - Dĩ thái lực không được dùng cho các Mục đích thương mại và

Giao thông - “Vril” là một Lực Thực sự - Các khám phá quá sớm của Keely.

TIẾT 10 - VỀ CÁC HÀNH NGUYÊN TỬ.. 537

Khi được dùng về mặt Siêu hình học, từ ngữ Hành có nghĩa là Con người Thiêng liêng Phôi thai - Các Linh

Mục Lục

Hồn Nguyên Tử là các Biến phân xuất phát từ Đấng Duy Nhất - Ẩn dụ về “Vùng đất hứa” - Chơn Thần theo Giáo lý của Điểm Đạo đồ thời xưa - Hành giả Vĩnh cửu - Các Đức Phật trong Ba cõi thấp (Three Worlds) - Các Thiền Định Phật và Bảy Con của Ánh sáng - Phàm ngã và Chơn Ngã - Các Chơn Thần Thiên Thần, Chơn Thần Nhân Loại và các Ngôi Sao Tổ Phụ - Vị trí của Thiên Vương Tinh và Hải Vương Tinh - Nguồn gốc Hành Tinh của Chơn Thần theo giáo lý của phái Ngộ Đạo - Sự sa đọa tuần hoàn của chư Thần - Bản chất của Jehovah.

TIẾT 11 - TƯ TƯỞNG CỔ TRUYỀN VỚI HÌNH THỨC HIỆN ĐẠI... 561

Hóa học và Huyền bí học - Roger Bacon có một Chìa khóa giải được Chân ý nghĩa của Pháp thuật và Thuật luyện đan - Nguyên tử không thể tách rời khỏi Tinh

Thần - Tam Nguyên trong Nhất Nguyên - Khởi nguyên của các Hành - Thánh kinh Purãnas chống lại

Hội Hoàng Gia.

TIẾT 12 - BẰNG CHỨNG KHOA HỌC VÀ NỘI MÔN BIỆN MINH CHO

VÀ CHỐNG LẠI THUYẾT TINH VÂN HIỆN ĐẠI. 579

Thuyết Tinh vân Sai - Mặt Trời và các Hành Tinh có chung một Nguồn gốc - Nhiệm vụ của nhà Huyền bí học là xét về Linh Hồn và Tinh Thần của Không gian Vũ

Trụ - Cần phải Nghiên cứu toàn bộ Hệ thống Vũ Trụ

Khởi Nguyên Luận Nội Môn - Các thần lực là các

Trạng thái của Cuộc sống Đại đồng Vũ Trụ Duy nhất -

Các quan điểm của một Thánh Sư về các Thuyết khoa học - Các Tinh vân là gì? - Thuyết Tinh vân và các

Giáo Lý Bí Nhiệm - Vũ trụ hữu hình của chúng ta là

Thể xác của một Càn Khôn Thất Phân - Thế nào là Vật

Chất Bản Sơ? - Sự chọn lọc tự nhiên và Thuyết tiến hóa của Đông phương.

Giáo Lý Bí Nhiệm

12

TIẾT 13 - CÁC THẦN LỰC LÀ CÁC CÁCH THỨC CHUYỂN ĐỘNG

HAY LÀ CÁC ĐẤNG THÔNG TUỆ?.. 603

Các hiệu quả của Vật Chất Bản Sơ biểu lộ qua các Đấng

Thông Tuệ được mệnh danh là các Thiền Định Đế

Quân v.v… - Khoa học ắt phải thừa nhận các Đấng

Thông Tuệ này - Toàn Linh Trí là Linh Quang (Fohat) do Thượng Đế xạ ra - Các Hiện tượng trên Trần Thế là các trạng thái của Bản Thể lưỡng phân của các Thiền

Định Đế Quân Vũ Trụ - Luật Tương Tự là Chìa khóa đầu tiên để giải nan đề của Thế giới - Các Loại Người khác nhau - Các Giác quan khác nhau trong các Thế giới khác - Vạn vật đều có Chu kỳ sống của mình: Địa

Cầu, Nhân Loại, Mặt Trời, Mặt Trăng, các Hành Tinh, các Giống Dân v.v…

TIẾT 14 - CÁC VỊ THẦN, CHƠN THẦN VÀ NGUYÊN TỬ... 620

Vũ trụ đầy dẫy các Sinh linh vô hình, Thông tuệ - Chỉ có các Điểm đọa đồ và các Thánh nhân cao cấp nhất mới quán triệt được các Bí nhiệm của Thiên nhiên - Ai thấu đáo được các Bí nhiệm của chính Trái Đất chúng ta, cũng sẽ thấu triệt được Bí nhiệm của mọi Hành Tinh khác - Điểm Toán học - Vũ Trụ Tuyệt Đối Lý Tưởng và

Càn Khôn vô hình mặc dù đã biểu lộ - Chơn Thần được coi như là Đỉnh của Tam giác đều biểu lộ, “Từ Phụ” -

Không gian là Thế giới Chân thực - Mười điểm của

Pythagoras - Tam giác Lý tưởng - Chơn Thần và Nhị

Nguyên - Các Linh Hồn Nguyên Tử và cuộc Hành hương cá biệt của chúng - Sự thăng giáng của Chơn

Thần đã Biệt lập ngã tính - Hóa học của Tương lai -

Nội môn Bí giáo bao hàm toàn bộ phạm vi Tiến hóa từ

Tinh Thần tới Vật Chất - Thực tượng của Oxy, Hydro,

Nitro - Các thuyết của Leibnitz - Bản chất của Chơn

Thần - Các vị Thần là các Bức xạ của Thiên nhiên

13

Mục Lục

Nguyên Thủy - Các Nguyên tử là loại Chuyển động giữ cho Vòng Sinh Tử Luân Hồi quay mãi.

TIẾT 15 - SỰ TIẾN HÓA TUẦN HOÀN CỦA NGHIỆP QUẢ.. 665

Nghiệp quả là Luật duy nhất chi phối Thế giới Hiện tồn

- Các nhà Huyền bí học cũng tôn trọng Cuộc sống thú tính ngoại cảnh của Con người giống như là Bản Chất

Tinh Thần Nội Tâm của y - Quan hệ Nội môn của các

Chu kỳ nghiệp quả đối với Luân lý Đại đồng Vũ trụ -

Không Ai có thể thoát khỏi Vận mệnh khống chế y -

Nghiệp quả là Luật bù trừ - Các biến đổi Địa chất vĩ đại chẳng qua chỉ là Khí cụ để hoàn thành một vài Thiên ý tác động một cách định kỳ - Các loại Chu kỳ và Tiểu chu kỳ - Nghiệp quả Báo ứng (quả báo) - Các lời Tiên tri xưa và nay - Chiêm tinh học là một Khoa học.

TIẾT 16 - HOÀNG ĐẠO CÓ NGUỒN GỐC XA XƯA. 690

Hoàng Đạo trong Thánh kinh - Hoàng Đạo có nguồn gốc xa xưa - Các Đấng Cứu Thế, các Đấng Hóa Thân và các cung Hoàng Đạo - Chư Thần và các Chu kỳ của dân Chaldea Judea - Hoàng Đạo của Ấn Độ có nguồn gốc xa xưa - Các kết luận của Khoa học - Chu kỳ Mạt

Pháp bắt đầu - Các phương pháp thiên văn Ấn Độ với các biện minh.

TIẾT 17 - TỔNG KẾT LẬP TRƯỜNG... 727

Thế nào là Ether, Vật Chất, Năng Lượng? - Vũ Trụ Vật

Chất vẫn chẳng được hiểu biết bao nhiêu - Các Giáo lý

Nội môn ở Ai Cập và Ấn Độ đều như nhau - Bên ngoài biên giới của Thái Dương Hệ có các Mặt Trời khác và

Mặt Trời Trung Ương Bí Nhiệm - Trong Huyền bí học,

Fohat là Chìa khóa giải các Biểu tượng và các Ẩn dụ của mọi Thần thoại - Vô cực điện ẩn dưới nhiều danh xưng - Huyền thoại là Lịch sử.

CÁC CHÚ THÍCH BỔ SUNG. 743

THƯ MỤC SÁCH THAM KHẢO. 746Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "H. P. Blavatsky":Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 2Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 3Tiếng Nói Vô ThinhChìa Khóa Minh Triết Thiêng LiêngThiên Nhiên Huyền BíBí Quyết Thông Thiên Học

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 2 PDF của tác giả H. P. Blavatsky nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay (Bùi Văn Chấn)
CÁI NÔI CỦA ĐẠO HỒI: BÁN ĐẢO Ả RẬP TRONG THẾ KỶ 6 VÀ 7. Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi. Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7. Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v… Tìm mua: Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay TiKi Lazada Shopee Tất cả đều được Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về Muhammad cũng như về đạo Islam. 1. Về địa dư: Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay. 2. Dân cư: Bán đảo Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục (Arab means Nomad). Người Ả Rập và Do Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó, phát sinh danh từ “Semites” để gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là “con cháu của Shem” (Semites: Descendants of Shem). Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả Rập tại Iraq, Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng. Ngôn ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông. 3. Chính Trị và Tôn Giáo: Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul) làm thủ đô. Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành “Công Giáo”, tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập. Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập. Đến năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này. Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập. 4. Phong Tục Tập Quán: Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là “những người con của sa mạc” (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt. Người Ả Rập ít trồng trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán đặc biệt: a. Tục trả thù: Để có thể sống còn trong những điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là “muruwah” bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của bộ lạc. Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt. Trong những thời kỳ đói kém hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ. Những người Ả Rập du mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách hợp lý mà thôi. b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide) Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất. Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movabal property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc. c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa. Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision). Trước khi có đạo Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống như người Do Thái. Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này. Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn. d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride’s Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết. Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ! e. Tục giết gái chửa hoang Các cô gái Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi tục lệ này là “Giết người vì danh dự” (Honor Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi. Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay PDF của tác giả Bùi Văn Chấn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thất Giác Chi (Satta Bojjhanga)
Lời Mở Đầu Kinh điển Phật Giáo, gồm ba tạng, luôn luôn nhắc đến những yếu tố của sự giác ngộ mà Ðức Thế Tôn đã nhiều lần giảng giải, trong nhiều trường hợp khác nhà Trong bộ Tăng Nhứt A-Hàm (Samyutta Nikaya, Maha Vagga) có một phần đề tựa là Bojjhanga Samyutta ghi lại những bài thuyết giảng của Ðức Phật về những Giác Chi (Bojjhanga). Phần này có ba bài Kinh mà từ thời Ðức Phật người Phật tử thường được tụng như một loại kinh để bảo vệ (paritta hay pirit) chống lại sự đau khổ, bịnh hoạn, hay một bất hạnh nào của đời sống. Danh từ Bojjhanga bao gồm hai phần: bodhi và anga. Bodhi bao hàm ý chứng ngộ, hay nói một cách chính xác, là sự hiểu biết sâu sắc liên quan đến sự chứng ngộ Tứ Diệu Ðế, bốn Chơn Lý Cao Quý, tức là Chơn Lý Cao Quý về sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về nguồn gốc của sự khổ, Chơn Lý Cao Quý về sự chấm dứt khổ, và Chơn Lý Cao Quý về con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ. Anga có nghĩa là yếu tố, hay tay chơn (chi). Do đó, Bodhi + anga (bojjhanga) là những yếu tố của sự giác ngộ, hay những yếu tố của tuệ minh sát, hay của trí tuệ. Danh từ nầy thường được dịch là Thất Giác Chi. Tìm mua: Thất Giác Chi TiKi Lazada Shopee "Bojjhanga! Bojjhanga! Bạch hóa Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ dạy, lời dạy nầy có thể được áp dụng đến mức nàỏ" Một thầy tỳ-khưu bạch hỏi Ðức Phật như vậỵ "Bhodaya samvattantiti kho bhikkhu tasma bhojjhanga ti vuccanti". "Nó dẫn đến giác ngộ, nầy tỳ-khưu, vì lẽ ấy nó được gọi như thế". Ðó là lời giải đáp vắn tắt của Ðức Bổn Sư ( trong Samyutta Nikaya). Ở một đoạn khác Ðức Phật dạy: "Nầy chư Tỳ-khưu, cùng trong một cái nhà nóc nhọn, tất cả những cây kèo đều đâm vào góc nhọn, đều nghiêng về góc nhọn, đều châu đầu vào góc nhọn, và trong tất cả sườn nhà, cái góc nhọn được xem là điểm chánh. Cùng thế ấy, nầy chư Tỳ-khưu, thầy tỳ-khưu trau dồi và chuyên cần phát triển bảy yếu tố của trí tuệ cũng thiên về Niết-Bàn, nghiêng về Niết-Bàn, hướng về Niết-Bàn như vậy". Bảy yếu tố ấy là: 1. Niệm (Sati) 2. Trạch Pháp (Dhammavicaya) 3. Tấn (Viriya) 4. Hỉ (Piti) 5. An (Passadhi) 6. Ðịnh (Samadhi) 7. Xả (Upekkha) Ở đây xin ghi lại một trong những bài Kinh về Thất Giác Chi (Bojjhanga). Bài nầy bắt đầu như sau: "...Ta có nghe như vầy: Một thủa nọ, Ðức Thế Tôn ngự trong thành Vương Xá (Rajagaha), tại Trúc Lâm (Veluvanna), chỗ nuôi sóc. Lúc ấy Ðức Ðại Maha Kassapa lâm bịnh, Ngài lâm trọng bịnh. Vào lúc hoàng hôn Ðức Phật rời khỏi trạng thái vắng lặng của Ngài, đến thăm Ðại Ðức Maha Kassapa (Ma-ha Ca-diếp), ngồi lại, và ngõ những lời trí tuệ sau đây: "Nầy Kassapa, hôm nay con đau thế nào? Con có nghe đau đớn quá lắm hay không? Con chịu nổi không? Sự đau đớn có thuyên giảm không, hay vẫn đang tăng thêm? Có dấu hiệu nào cho thấy bớt không, hay vẫn thêm? -- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, con rất đau đớn. Con không thể nào chịu nổi. Thật là đau đớn vô cùng. Không có dấu hiệu nào thuyên giảm mà càng lúc càng đau thêm. -- Nầy Kassapa, bảy yếu tố của sự giác ngộ ấy mà Như Lai đã giảng giải tường tận, Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi đã được trau dồi và phát triển đầy đủ, bảy giác chi này đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. Bảy yếu tố ấy là gì? 1. Niệm. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. 2. Trạch Pháp... 3. Tinh Tấn... 4. Hỉ... 5. An... 6. Ðịnh... 7. Xả. Nầy Kassapa, pháp nầy Như Lai đã giảng giải tận tường, đã trau dồi và đã phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ, tâm niệm đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. Bảy giác chi nầy, quả thật vậy, nầy Kassapa, Như Lai đã giảng giải tận tường. Như Lai đã trau dồi và phát triển đầy đủ, và khi mà được trau dồi và phát triển đầy đủ thất giác chi nầy đưa đến chứng ngộ trọn vẹn, trí tuệ toàn hảo, đến Niết-Bàn. -- Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, bảy yếu tố ấy là Thất Giác Chi! Bạch Hóa Ðức Thế Tôn, quả thật vậy, đó là Bảy Yếu Tố Giác Ngộ!" Ðó là những lời của Ðức Phật và tiếp theo là lời của Ðại Ðức Maha Kassapa đón mừng tiếp nhận những lời vàng ngọc của Ðức Thế Tôn. Liền sau đó Ðại Ðức Maha Kassapa hết bịnh. Lúc bấy giờ bịnh tình của Ðại Ðức Maha Kassapa liền tan biến". (Samyutta Nikaya V, trang 79) Bài Maha Cunda Bojjhanga Sutta, một trong ba bài kinh đã được nhắc đến ở phần trên, ghi rằng một lần nọ chính Ðức Phật lâm bịnh và Ðại Ðức Maha Cunda đọc Kinh Bojjhanga, Thất Giác Chi. Sau đó bịnh tình của Ðức Phật liền tan biến. (Samyutta Nikaya V, trang 81). Tâm của con người ảnh hưởng đến thân một cách rất sâu xa và vô cùng kỳ diệu. Nếu ta để tâm buông lung tác hành và duyên theo những tư tưởng ô nhiễm và tồi tệ tâm có thể gây nên tai hại không thể lường được, đến mức độ có thể giết chết một chúng sanh. Tuy nhiên, tâm cũng có thể chữa khỏi một chứng bịnh của thể xác. Nếu ta gom tâm mạnh mẽ vào những tư tưởng chơn chánh, với sự hiểu biết chơn chánh, thì thành quả mà tâm có thể đạt đến thật vô cùng rộng lớn và sâu xa "Tâm không những gây bịnh mà còn có thể chữa bịnh, một bịnh nhơn lạc quan có nhiều hy vọng được chữa trị dễ dàng hơn người luôn luôn lo âu và sầu muộn. Trong những trường hợp đã được ghi nhận, có nơi cho thấy đức tin cũng chữa được hầu như tức khắc những chứng bịnh thuộc cơ hữu" (Aldous Huxley - Ends and Means - London 1946. Trang 259). Giáo Pháp của Ðức Phật - gọi là Phật Pháp - là những lời dạy sáng suốt, đầy trí tuệ. Những ai có nguyện vọng thành đạt sự giác ngộ, trước tiên nên hiểu rõ ràng những trở ngại đang chặn ngang con đường đưa đến giác ngộ. Theo sự hiểu biết chơn chánh của Ðức Phật, đời sống là khổ. Và sự khổ nầy nương tựa trên vô minh (avijja). Vô minh là thọ cảm những gì không đang được thọ cảm, tức là điều bất thiện. Lại nữa, Vô Minh là không nhận thức được bản chất cấu hợp của năm uẩn, là không nhận thức được những căn và những trần (giác quan và đối tượng của giác quan) và bản chất thật sự của chúng, là không nhận thức được tánh cách rỗng không và tương đối của tứ đại (đất, nước, lửa, gió), không nhận thức được bản chất trọng yếu của những khả năng kiểm soát giác quan (ngũ căn), không thể nhận thức tánh cách thực tiễn, không thể sai lầm, của Tứ Diệu Ðế. Và năm pháp triền cái, tức năm chướng ngại tinh thần, là chất dinh dưỡng cho (hay làm duyên tạo nên) cái vô minh ấy. Năm pháp được gọi là triền cái, hay chướng ngại, vì nó hoàn toàn đóng lại, cắt lìa, và chặn ngang. Năm pháp nầy gây trở ngại cho sự hiểu biết con đường giải thoát ra khỏi đau khổ. Ðó là tham dục (kamacchanda), oán ghét (vyapada), dã dượi hôn trầm (thinamiđha), phóng dật lo âu (uddhacca kukkucca), và hoài nghi (vicikicca). Cái gì nuôi dưỡng năm triền cái nầy? Thân bất thiện nghiệp, khẩu bất thiện nghiệp, và ý bất thiện nghiệp (tini duccaritani) nuôi dưỡng năm pháp nầỵ Còn ba bất thiện nghiệp nầy lại được nuôi dưỡng bằng giác quan không thu thúc (indriya asamvaro). Không thu thúc và sân thâm nhập vào sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Không thu thúc lục căn vì thiếu giác tỉnh, không niệm, không hay biết đầy đủ (asati asampajjanna). Theo đoạn kinh đề cập đến vấn đề dinh dưỡng; để đối tượng bị lôi cuốn đi mất, để sự hiểu biết về ba đặc tính của kiếp sinh tồn (vô thường, khổ, vô ngã) thoát ra khỏi tâm, lãng quên thực chất của sự vật, là lý do làm cho ta không thu thúc lục căn. Chính trong những lúc không nhận thức bản chất vô thường, khổ, vô ngã của sự vật ta tự buông lơi cho bao nhiêu loại tự do thân, khẩu mặc tình tạo bất thiện nghiệp và để cho trí tưởng tượng mặc tình trôi chảy theo dòng tư tưởng bất thiện. Thiếu hay biết đầy đủ là: 1. Thiếu sự hay biết đầy đủ về mục tiêu (sattha sampajjanna); 2. thiếu sự hay biết về tánh cách thích nghi (sappaya sampajjann); 3. thiếu sự hay biết về phương sách (gocara sampajjanna); 4. thiếu sự hay biết về tánh cách sáng suốt, không si mê (asammoha sampajjanna). Khi ta làm việc gì mà không có mục tiêu chánh đáng, khi ta nhìn sự vật và có hành động không giúp tăng trưởng điều thiện, khi ta làm điều gì không thuận lợi cho sự cải thiện, khi ta quên Giáo Pháp (Dhamma) tức là quên phương sách chơn chánh mà ta đang cố gắng thành đạt, khi ta bám víu vào những vật một cách si mê, mà ta lầm tưởng là đáng được ưa thích, đẹp đẽ, trường tồn, hữu ngã, khi ta làm như vậy là ta nuôi dưỡng sự không thu thúc lục căn. Nằm bên dưới lớp thiếu tâm niệm và thiếu sự hiểu biết đầy đủ, có sự suy tư không chơn chánh (ayoniso manasikara, chăm chú không chánh đáng). Kinh điển ghi rằng suy tư không chơn chánh là tư tưởng sai lầm, đi ra ngoài con đường chơn chánh, có nghĩ là xem cái vô thường là thường còn, cái khổ là vui thích, vô ngã là linh hồn trường cửu, thiện xem là bất thiện, cái xấu, trái lại, thấy là tốt. Cuộc lặn hụp kéo dài mãi mãi trong vòng luân hồi bắt nguồn từ suy tư không chơn chánh. Suy tư không chơn chánh càng gia tăng, lớp si mê càng gia tăng, và càng bám chặt hơn vào kiếp sinh tồn. Vô minh đã hiện hữu, toàn khối đau khổ do đó cũng phát sanh. Vậy, người suy tư nông cạn cũng tựa hồ như chiếc thuyền trôi giạt theo chiều gió, như đàn cừu bị cuốn trong giòng nước lũ, như bò mang ách, mãi mãi xuôi ngược trong vòng luân hồi. Kinh sách cũng dạy rằng một niềm tin không trọn vẹn (assaddhiyam) nơi Phật, Pháp, Tăng là điều kiện phát triển suy tư không chơn chánh. Và không có niềm tin trọn vẹn vì không nghe Chơn Lý, Giáo Pháp (Dhamma). Cuối cùng không được nghe Chơn Lý vì không đến gần bậc thiện trí, không kết hợp với người tốt (asappurisa samsevo). Rốt cùng, sự thiếu bạn lành (kalyana mittata) là lý do căn bản sanh ra những tệ hại trên thế gian. Và ngược lại, nền tảng và chất dinh dưỡng của điều tốt là tình bằng hữu trong sạch, kết bạn với người lành, người cho ta thức ăn làm bằng chất liệu của Giáo Pháp cao thượng, những gì tạo cho ta niềm tin nơi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Khi ta có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo ta sẽ có suy tư sâu xa và chơn chánh, có tâm niệm và sự hay biết đầy đủ, có thu thúc lục căn, có thân, khẩu, ý thiện nghiệp, có tứ niệm xứ, có bảy yếu tố của sự giác ngộ và có trí tuệ đưa đến giải thoát, tuần tự điều nầy kế tiếp điều kia.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thất Giác Chi PDF của tác giả Satta Bojjhanga nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thần Thánh Trung Hoa (Khuyết Danh)
Mục lục Bảo Sanh Đại Đế Cửu Thiên Huyền Nữ Đình Phước Táo Quân Huyền Thiên Thượng Đế Tìm mua: Thần Thánh Trung Hoa TiKi Lazada Shopee Nam Cực Tiên Ông Ngọc Hoàng Đại Đế Nguyên Thủy Thiên Tôn Nữ Oa Nương Nương Quan Thánh Đế Quân Tài Thần Tam Quan Đại Đế Tây Vương Mẫu Thái Thượng Lão Quân Thái Tuế Thành Hoàng Thập Điện Diêm La Vương Thiên Hậu Nương Nương Thổ Địa Nghi Thức Khai Kinh Tụng Kinh Minh Thánh Văn Xương Đế Quân THẦN THÁNH TRUNG HOA Bảo Sanh Đại Đế BẢO SANH ĐẠI ĐẾ Bảo Sanh Đại Đế còn gọi là “Ngô Chân Nhân”, “Ngô Chân Quân”, “Đại Đạo Công”, “Ân Chủ Công”, “Chân Nhân Tiên Sư”, “Hoa Kiều Công”, “Anh Huệ Hầu Ngô Công Chân Tiên” …Việc xưng hô tuy không đồng nhất, là do nhiều đời vua chúa phong tặng tôn hiệu khác nhau, vì tất cả đều thờ phụng Ngài là thần tiên. Bảo Sanh Đại Đế, họ Ngô, tên Bản, tự Hoa Cơ, hiệu Vân Đông. Ngài sinh ra vào năm thứ tư Thái Bình Hưng Quốc triều nhà Tống, tại làng Bạch Tiêu, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến. *Ngài là hậu duệ của Thái Bá Hoàng Đế triều nhà Châu, đóng đô ở Kim Lăng, huyện NGÔ, nên lấy theo đó làm họ. Truyền được 31 đời đến thời Chiến Quốc thì nước chư hầu Ngô bị diệt vong, hoàng tộc hoặc chết hoặc bị phân ly tứ tán khắp nơi. Trong đó có một chi chạy đến ở tại huyện Lâm Chương, đạo Hà Bắc, tỉnh Hà Nam. Dòng họ nầy nhiều đời ăn chay niệm Phật, làm phước bố thí cho bá tánh. Được chín đời, có người tên Ngô Thông, cưới vợ là Huỳnh Thị, nhân chạy giặc đến làng Bạch Tiêu, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến thì định cư ở đó. Đây chính là thân phụ của Đại Đế vậy. Vì thế, sau nầy lấy nơi sanh trưởng của Đại Đế là làng Bạch Tiêu làm quê quán. *Như đã nói trên, tổ tiên nhiều đời của Đại Đế đã từng tu nhân tích đức, bố thí cứu giúp bá tánh vô số. Riêng Ngài Ngô Thông, sau nầy được truy phong là “Hiệp Thành Nguyên Quân”, cũng là người hiền lành, cần kiệm làm ăn, vui vẻ siêng năng hành thiện cứu đời nhiều năm, tên tuổi và công đức của Ngài vang danh hắp chốn. Còn mấu thân Huỳnh Thị, truyền thuyết là “Ngọc Hoa Đại Tiên” đầu thai giáng thế, tính tình hiền hậu hòa nhã, trinh thục, đã có nhiều công quả ở kiếp trước, đời nầy lại chăm lo tích đức càng nhiều hơn. Một đêm nọ, bà đang say giấc nồng, nằm mộng thấy sao Tử Vi đầu thai vào mình, tỉnh giấc thì biết là có mang. Đến năm thứ tư Thái Bình Hưng Quốc nhằm năm Kỷ Mão, bà Huỳnh thị chuyển dạ đau lưng đang nằm nghỉ, hỏang hốt nhìn thấy nào là Thái Bạch Kim Tinh, Nam Lăng Sứ Giả, Bắc Đẩu Tinh Quân… hộ tống một vị Tiên Đồng, đến phòng của bà nói:“Đây là sao Tử Vi ở thượng giới mà trước đây đã giáng thế đầu thai vào bà đó”. Hôm ấy là giờ Thìn ngày rằm tháng ba âm lịch, chính là ngày mà đức Ngô Bản giáng sanh. Lúc bấy giờ, mùi hương lạ bay thơm khắp nhà, háo quang tỏa rực, lại thấy Tiên Ngũ Lão và Tam Thai Khôi Tinh hiện thân bái hạ. Bên ngoài, trên trời có hoa năm sắc rơi xuống vô số phủ che hết căn nhà. Dân chúng ai ai cũng cho là điềm kỳ lạ, có thoại khí lành tốt chắc chắn không phải việc bình thường. *Ngô Bản từ nhỏ đã tỏ ra thông minh mẫn tuệ, biểu hiện tính cách có tâm đạo là không chịu ăn thịt. cá. Rồi khi lớn lên, không chịu cưới vợ, luôn tỏ ra phẩm hạnh khác với người đời. Đến tuổi trưởng thành, Ngài đã thông suốt các sách, xem qua liền nhớ. Ngài đọc hàng ngàn quyển sách đủ loại, kể cả Địa Lý, Lễ Nhạc và Hành Chính. Nhưng chú ý nhất là sách vở về Y thuật của Huỳnh Đế và các y gia khác. Ngài ra sức nghiên cứu và đã đính chính nhiều chỗ sai sót của các sách y học đời trước. Về phương diện bào chế thuốc, Ngài đã ra công chế tạo được nhiều dược phẩm kỳ diệu, có giá trị chữa bệnh rất hiệu quả.Ngô Bản thường bày tỏ ý chí của Ngài là “cứu thế giúp người”.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Khuyết Danh":Thần Thánh Trung HoaNói Nhiều Không Bằng Nói ĐúngBao Thanh Thiên - Thất Hiệp Ngũ NghĩaBuổi Tàn ThuCác Sự Tích Của Người Nhật BảnGiáo Trình C++Hôn Nhân Không Lựa ChọnHuyền Thoại Mạn Đà LaNguyễn Du (1766-1820)Sự Tích Cây Huyết Dụ TrướcSự Tích Con Sư TửSự Tích Phật A Di Đà Và Bảy Vị Bồ TátSự Tích Phật A-Di-Đà Bảy Vị Bồ TátThánh Tông Di ThảoTiết Đinh San Chinh TâyTrạng QuỳnhTruyện Kể Danh Nhân Lịch Sử Trung QuốcVạn Huê Lầu Diễn NghĩaYên-Tử Cư-Sĩ -Trần Đại-SỹĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thần Thánh Trung Hoa PDF của tác giả Khuyết Danh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Thân Mật - Cội Nguồn Của Hạnh Phúc (Osho)
Mục lục Lời nói đầu Điều quan trọng trước hết: abc về thân thiết..Bắt đầu tại chỗ bạn đang vậy..Đích thực..Lắng nghe bản thân mình..Tin cậy bản thân mình Thân thiết với người khác: bước tiếp theo..Bị thấy..Nhu cầu về riêng tư..Nối quan hệ, không thân thuộc..Mạo hiểm để chân thực..Học ngôn ngữ của im lặng Bốn cạm bẫy..Thói quen phản ứng..Mắc kẹt vào an ninh..Đấm bóng..Giá trị giả Tìm mua: Thân Mật - Cội Nguồn Của Hạnh Phúc TiKi Lazada Shopee Công cụ cho biến đổi..Chấp nhận bản thân mình..Để bản thân mình mong manh..Vị kỉ..Kĩ thuật thiền Trên đường đi tới thân thiết Đáp lại câu hỏi Về Osho Lời nói đầu Mọi người đều sợ thân thiết - nó là điều khác dù bạn nhận biết về nó hay không. Thân thiết nghĩa là phơi bày bản thân bạn trước người lạ - và chúng ta tất cả đều là người lạ; chẳng ai biết ai. Chúng ta thậm chí còn là người lạ với bản thân mình bởi vì chúng ta không biết chúng ta là ai. Thân thiết đem bạn tới gần người lạ. Bạn phải vứt bỏ tất cả mọi phòng thủ; chỉ thế thì thân thiết mới là có thể. Và nỗi sợ là ở chỗ nếu bạn vứt bỏ tất cả mọi phòng thủ, tất cả mặt nạ của bạn, ai biết người lạ sẽ làm gì với bạn? Chúng ta tất cả đều che giấu cả nghìn lẻ một thứ, không chỉ với người khác mà với bản thân mình, bởi vì chúng ta đã được nuôi dưỡng bởi nhân loại ốm yếu với đủ mọi loại kìm nén, cấm đoán, kiêng kị. Và nỗi sợ là ở chỗ với ai đó là người lạ - và điều đó chẳng thành vấn đề, bạn có thể đã sống với một người trong ba mươi năm, bốn mươi năm; tính lạ chẳng bao giờ biến mất - người ta cảm thấy an toàn hơn khi giữ chút ít phòng thủ, chút ít khoảng cách, bởi vì ai đó có thể tận dụng điểm yếu của bạn, nhược điểm của bạn, mong manh của bạn. Mọi người đều sợ thân thiết. Vấn đề trở nên phức tạp hơn bởi vì mọi người đều muốn thân thiết. Mọi người đều muốn thân thiết bởi vì nếu không bạn một mình trong vũ trụ này - không bạn bè, không người yêu, không ai bạn có thể tin cậy được, không người nào bạn có thể mở tất cả các vết thương của mình ra. Và vết thương không thể được chữa lành chừng nào chúng còn chưa được mở ra. Bạn càng che giấu chúng, chúng càng trở nên nguy hiểm hơn. Chúng có thể trở thành ung thư. Một mặt thân thiết là nhu cầu bản chất, cho nên mọi người đều khao khát nó. Bạn muốn người khác thân thiết để cho người khác vứt bỏ phòng thủ của họ, trở thành mong manh, cởi mở tất cả các vết thương của người đó, vứt bỏ tất cả các mặt nạ và cá tính giả của người đó, đứng trần trụi như người đó vậy. Và mặt khác, mọi người đều sợ thân thiết - bạn muốn thân thiết với người khác, nhưng bạn không muốn vứt bỏ phòng thủ của mình. Đây là một trong những xung đột giữa bạn bè, giữa người yêu: Không ai muốn vứt bỏ phòng thủ của mình, và không ai muốn tới trong trần trụi và chân thành, cởi mở hoàn toàn - vậy mà cả hai đều cần thân thiết. Chừng nào bạn còn chưa vứt bỏ tất cả những kìm nén và cấm đoán của mình - cái vốn là món quà của tôn giáo của bạn, văn hoá của bạn, xã hội của bạn, bố mẹ của bạn, giáo dục của bạn - bạn sẽ không bao giờ có khả năng thân thiết với ai đó. Và bạn sẽ phải lấy bước đầu. Nhưng nếu bạn không có kìm nén hay cấm đoán nào, thế thì bạn cũng không có vết thương nào. Nếu bạn đã sống một cuộc sống đơn giản, tự nhiên, sẽ không có sợ hãi thân thiết, chỉ có niềm vui vô cùng của hai ngọn lửa tới gần nhau thế, chúng gần như trở thành một ngọn lửa. Và sự gặp gỡ này cực kì hài lòng, thoả mãn, hoàn thành. Nhưng trước khi bạn có thể đạt tới thân thiết, bạn phải lau sạch ngôi nhà mình hoàn toàn. Chỉ con người của thiền mới có thể cho phép thân thiết xảy ra. Người đó chẳng có gì để che giấu. Tất cả những điều làm cho người đó sợ rằng ai đó có thể biết, bản thân người đó đã vứt bỏ rồi. Người đó chỉ có trái tim im lặng và yêu thương. Bạn phải chấp nhận bản thân mình trong tính toàn bộ của mình. Nếu bạn không thể chấp nhận bản thân mình trong tính toàn bộ của mình, làm sao bạn có thể trông đợi ai đó khác chấp nhận bạn được? Và bạn đã từng bị mọi người kết án, và bạn đã học chỉ mỗi một điều: tự kết án mình. Bạn cứ che giấu nó; nó không phải là cái gì đó đẹp đẽ để trưng bày cho người khác. Bạn biết những điều xấu đang giấu kín trong mình, bạn biết điều ác đang bị giấu kín trong bạn, bạn biết tính thú vật bị giấu kín trong bạn. Chừng nào bạn còn chưa biến đổi thái độ của mình và chấp nhận bản thân mình như một trong những con vật trong sự tồn tại... Từ con vật - animal không xấu. Nó đơn giản nghĩa là sống động; nó bắt nguồn từ anima. Bất kì ai đang sống động đều là con vật. Nhưng con người đã được dạy, "Bạn không phải là con vật; con vật ở xa dưới bạn. Bạn là con người." Bạn đã được cho sự cao siêu giả dối. Sự thực là, sự tồn tại không tin vào cao siêu và thấp kém. Với sự tồn tại, mọi thứ đều bình đẳng: cây cối, chim chóc, con vật, con người. Trong sự tồn tại, mọi thứ đều tuyệt đối được chấp nhận như nó vậy; không có kết án. Nếu bạn chấp nhận tính dục của mình vô điều kiện, nếu bạn chấp nhận rằng con người và mọi sinh linh trên thế giới là mong manh, rằng cuộc sống là sợi chỉ rất mảnh có thể bị đứt vào bất kì lúc nào... Một khi điều này được chấp nhận, và bạn vứt bỏ bản ngã giả tạo - của việc là Alexander Đại đế, Mohammad Ali ba lần vĩ đại - bạn đơn giản hiểu rằng mọi người là đẹp trong cái bình thường của mình và mọi người đều có nhược điểm; chúng là một phần của bản tính người bởi vì bạn không được làm từ thép. Bạn được làm từ thân thể rất mảnh mai. Khoảng thân nhiệt của cuộc đời bạn là giữa ba sáu độ và bốn ba độ, chỉ bẩy độ là toàn thể khoảng nhiệt cuộc sống bạn. Xuống thấp dưới nó và bạn chết; vượt lên hơn nó và bạn chết. Và cùng điều đó áp dụng cho cả nghìn lẻ một thứ trong bạn. Một trong những nhu cầu cơ bản nhất là được cần tới. Nhưng không ai muốn chấp nhận rằng "chính nhu cầu cơ bản của tôi là được cần tới, được yêu mến, được chấp nhận."Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Osho":Cân Bằng Thân TâmCuộc Sống Tình Yêu Tiếng CườiĐạo Ba Kho Báu - Tập 1Đạo Ba Kho Báu - Tập 2Đạo Ba Kho Báu - Tập 3Đạo Ba Kho Báu - Tập 4Dũng Cảm - Vui Sống Hiểm NguyKhông Nước Không TrăngKinh Kim CươngKinh Nghiệm Mật TôngCon Đường Mây TrắngNhận Biết - Chìa Khóa Sống Trong Cân BằngSách Về Cái KhôngSáng Tạo - Khơi Nguồn Sức Mạnh Bên TrongThân Thiết - Tin Cậy Bản Thân Mình Và Người KhácThiền - Tự Do Đầu Tiên Và Cuối CùngTình Yêu - Tự Do - Một MìnhTrưởng Thành - Trách Nhiệm Là Chính MìnhTừ Bi - Việc Nở Hoa Tối Thượng Của Tình YêuTủ Thuốc Cho Linh HồnTừ Thuốc Tới ThiềnVui Vẻ - Hạnh Phúc Tới Từ Bên TrongCuộc Hành Hương Nội TạiHạnh Phúc Tại Tâm10 Mẩu Chuyện ThiềnĐạo - Con Đường Không LốiĐạo: Đường Vô Lộ - Tập 1Đạo: Đường Vô Lộ - Tập 2Nhạc Cổ Trong Rặng ThôngThuyền RỗngThân Mật - Cội Nguồn Của Hạnh PhúcZorba PhậtChiều Bên Kia Cái BiếtYêu - OshoLuận Về Cuộc Đời - 365 Ngày Khai Sáng Tâm HồnBát Nhã Tâm Kinh OshoTrò Chuyện Với Vĩ NhânBí Mật Của Những Bí Mật - Tập 1: Bài Nói Về Bí Mật Của Hoa VàngBí Mật Của Những Bí Mật - Tập 2: Bài Nói Về Bí Mật Của Hoa VàngHoa Sen TrắngTrực Giác Siêu LinhKinh Nghiệm TantraThực Tại - Kẻ Tội Đồ Vĩ Đại NhấtVedanta - 7 Bước Tới SamadhiKỷ Luật Của Siêu Việt - Tập 1Kỷ Luật Của Siêu Việt - Tập 2Kỷ Luật Của Siêu Việt - Tập 3Kỷ Luật Của Siêu Việt - Tập 4Bước Trong Thiền, Ngồi Trong ThiềnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thân Mật - Cội Nguồn Của Hạnh Phúc PDF của tác giả Osho nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.