Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trong Rừng Nho - Ngô Tất Tố

Là tiểu thuyết dã sử về nữ sĩ Hồ Xuân Hương, lần đầu được nhà in Mai Lĩnh xuất bản, đúng vào thời kỳ có những biến động lớn của lịch sử dân tộc. Bản thảo chưa kịp phổ biến rộng, đã phải "khiêm nhường" nằm ẩn khuất trong im lặng, nên được ít người biết đến, không như các tác phẩm khác của họ Ngô, chúng ta sẽ bắt gặp ở đây một ngòi bút hư cấu tài hoa, phóng túng, làm rõ những nét đặc sắc trong cuộc đời Bà Chuá thơ Nôm, cả đời tư và những bài thơ "tương truyền" mà chỉ bà mới làm được. Những sinh hoạt văn hóa, khoa cử của kinh thành Thăng Long, vào những năm cuối thế kỷ 19; cũng được Ngô Tất Tô tái hiện một cách chân xác, sinh động. Chúng ta thấy hiện rõ trong tác phẩm hình ảnh Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ đang thử phá hết những cái đạo đức giả, chấp nhận cuộc chơi " với ông hiền, ông thánh"; vạch rõ những thứ lễ nghi chế độ của các ông đặt ra cho đàn bà, con gái... rặt là những cái xiềng xích trói buộc. Trong lần in này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn vẹn tiểu thuyết dã sử "Trong rừng nho" cùng bạn đọc, hoàn toàn tôn trọng những gì mà Ngô Tất Tố đã thể hiện về nữ sĩ họ Hồ. *** Đêm ấy không có trăng. Phố phường Hà Nội đã theo cảnh tượng trời đất, biến thành một vật đen xì. Vũ trụ thu lại vùng ánh sáng của mấy cây đình liệu. Gió bấc ào ào thổi. Chín, mười ngọn lửa lớn bằng chín mười cái bịch, hết thảy điên cuồng lồng phách như muốn lìa những bó đuốc nứa, nhẩy vọt lên tầng mịt mù. Quang cảnh trường thi hôm nay càng rộn ràng hơn mấy hôm trước. Dưới lớp ngói ống của nhà "thập đạo", xiêm áo xen với cờ quạt, thấp thoáng hiện trước bóng đèn lồng. Trong những gian chòi canh lơ lửng gác ở lưng trời, hiệu trống cái đi đôi với hiệu thanh la, thong thả đưa những giọng oai hùng trịnh trọng. Ngoài dãy phên nứa hùng vĩ như bức tường thành quây kín bốn "vi" nền trường, đội lính trú phòng rầm rập theo vó ngựa của viên giám trường đề điệu, tiếng nhong nhóng của nhạc ngựa hóa lộn tiếng dình dình của trống quân. Trên nếp cửa tiền, một bức hoành biển dài dằng dặc như chiếc thuyền thoi, nghênh ngang nằm gối đầu vào đôi đồng trụ. Với bông hoa sen chỉnh chọe kết ở chính giữa và đôi trái găng lủng lẳng treo ở đôi đầu, làm "diềm" phủ trên mép biển dường muốn phô vẻ thắm của tấm nhiễu điều. Với màu sơn son lóng lánh in ánh lửa sáng choang: cái khung chữ nhật, như có ý khoe nét vàng của bốn chữ "Tân hưng thịnh điển." Từ mặt tiền qua phía tả đến mặt hậu, cũng như từ mặt hậu qua phía hữu đến mặt tiền, bốn cửa ở bốn góc đều ngỏ thênh thang. Mấy cái khung bảng chứa hàng mấy nghìn tên người cùng ngảnh cái mặt "rán giấy" ra đường, như đương ngóng các thầy sĩ tử. Mấy chiếc ghế tréo cao chín mười bậc cùng duỗi bốn chân đứng cạnh các cửa, như đương đợi mấy ông khảo quan. Hai cửa của vi tả vi hữu ở đằng sau, cũng như hai cửa của vi giáp vi ất ở đằng trước, toán lính kiểm soát đã chực ngoài cửa bằng dáng bộ nghiêm trang. Tấm áo nẹp xanh thân đỏ gọn gàng nấp dưới chiếc nón dấu sơn quang dầu. Những sợi dây tòng của tay thước khảm trai, bông bênh rủ trên miếng ban kiên sạc sỡ. Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào tự nẻo xa xa đưa lại, học trò các nơi tới tấp kéo đến cửa trường. Gió bấc thổi càng dữ. Những cây đình liệu cháy càng nỏ. Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người đông như đám hội. Có người đến bảy tám mươi tuổi, mái tóc bạc phất phơ xòa dưới nón sơn. Cũng có người mới độ mười bốn, mười ba, hồng mao còn ngất nghểu ngóng trên vành khăn nhiễu. Có người mặt non mơn mởn chỉ vào trạc mười tám đôi mươi. Cũng có người râu dài lê thê, ít ra phải năm sáu chục tuổi. Có người ra tuồng kiết xác, cái thân gầy guộc co ro sưởi trong mảnh áo đơn. Cũng có người rất mực phong lưu, áo bông quấn sù sù, hàm răng vẫn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu, khuỷu tay còn đủ sức thích bên kia, gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng có người cất cổ không lên, lều, chiếu đều bị lôi xềnh xệch ở mặt đất. Vênh cái mặt dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu. Dúm trên trán những nét lo âu, ấy là người lao đao trường ốc. Đủ các nhân vật. Đủ các bộ dạng. Đêm càng khuya, học trò kéo ra càng nhiều. Ai vào vi nào, lật đật tìm đến cửa vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người trang thức cùng một lối như nhau: sườn này cái chõng tre và bộ gọng lều, sườn kia thì bó áo tơi và cuộn áo lều hoặc một đôi chiếu cói, trên ngực quả bầu be và chiếc ống quyển, dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ vật nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thẩy xúm lại và đu lên cổ các ông thư sinh. Hình như trời bắt bao nhiêu ông cống, ông đồ, trước khi bước lên đường công danh, đều phải tập làm anh phu tải. Kẻ chen vào, người đẩy ra, kẻ du đi, người kéo lại, dưới bóng lửa sáng, đám người bị dồn dập, bị xô đẩy, cồn cộn như lớp sóng nước triều. Tiếng gọi nhau, tiếng hỏi nhau, tiếng mắng nhau, tiếng cãi nhau, tiếng lầm rầm, nói chuyện với nhau, các thứ tiếng ấy hợp lại, thành một cái vọng ầm ầm, bốn khu cửa trường giống như bốn cái chợ lớn. Sang đầu canh tư, các cây đình liệu đều cháy già một nửa. Tàn nứa đỏ ối theo ngọn gió bấc tản mác bay khắp giữa trời. Rồi từ từ, nó rơi xuống đám đầu người, xuống quãng đất không, xuống những nơi xa tít, nếu nó không bị tắt ở bóng tối. Trong nhà thập đạo, trống khẩu gióng, kiểng đồng, nện đủ ba hồi chín tiếng, các bóng đèn đều bị lay động, các ông quan trường cắt nhau mỗi người xuống mỗi vi. Bốn ông ngự sử đem hết chức trách đàn hặc lên bốn chòi canh. Hai ông phân khảo tiến ra cửa hai vi tả hữu với cái quyền "nửa nội nửa ngoại. Ông phó chủ khảo theo biển "phụng chỉ" đến cửa vi ất. Còn cửa vi giáp, vẫn là phần ông chánh chủ khảo trông nom. Hai hàng đèn lồng lấp ló soi hai bên đường, một đôi lọng vàng nghiêm chỉnh rước lá cờ "khâm sai" đi đằng trước đường, ông chủ trường thi và cái mũ cánh chuồn, cái hốt ngà voi, cái đai kim tuyến, cái áo thủy ba, cái hia rát con bướm vàng bằng bạc, khúm núm núp dưới bốn chiếc lọng xanh chóp bạc, thong thả đi từ nhà thập đạo ra cửa trường. Cũng như mấy ông phó khảo phân khảo ở các cửa kia. Ông chánh chủ khảo vâng mệnh lệnh tôn nghiêm của lá cờ vua ban, khoan thai bước lên mặt ghế tréo và ngồi chỉnh choẹ vợi một chồng quyển thi của học trò. Lọng vàng lọng xanh lại lần lượt làm theo phận sự. Nghĩa là bốn cái lọng xanh cùng che vào ông chủ khảo, hai cái lọng vàng thì che cho lá cờ "khâm sai". Tiếng ầm ầm ở khu đất của trường tự nhiên im bặt, mấy nghìn con mắt đều đổ dồn vào viên đại thần đứng đầu khảo quan. Bỗng như phá bầu yên lặng: "Báo oán giả tiền nhập! Báo ân giả thứ nhập! Sĩ từ thứ thứ nhập!" - Dứt mấy tiếng loa chiếu lệ, ậm ọc ở trên chòi canh. Người lính đứng cạnh ghế tréo của ông chủ khảo theo miệng người lại phòng cầm sổ cũng đứng chỗ ấy, bắc loa đọc tên họ học trò. Một tiếng dạ bật lên trong đám đông. Một người thiếu niên liều mạng lách qua "vòng vây, đệ các đồ đạc kềnh càng đến khu đất trước ông chủ khảo. Toán lính kiểm soát bắt đầu làm việc. Họ giở bỏ áo tơi và cuốn áo lều, họ dòm những cái chõng, chân chõng, họ ghé vào ống đựng quyển và quả bầu be đựng nước, họ lần giải lưng và vuốt các gấu áo gấu quần, họ cởi tung cả bộ gọng lều, rồi họ lục soát đến cái tráp sơn. Ngoài một thoi mực, một cái nghiên, vài cái bút, một cái dùi vở, một tập giấy bản và mấy cái bánh giò, mấy cái bánh dầy, vài cái chả trâu, vài miếng cơm nắm, vài miếng thịt rang, trong tráp không có vật gì khả nghi. Người thiếu niên ấy được phép lĩnh quyển thi của người lại phòng, và tung tăng đi vào trong trường với các đồ đạc lúc lích, vấn quanh vai quanh cổ. Đến lượt người khác theo tiếng loa gọi tiến vào. Người này cũng không có sách thạch bản hay văn cũ chữ kiện chi hết, nhưng các đồ lặt vặt không đựng bằng tráp mà đựng bằng yên, và trong cái yên lại thêm một bộ bàn đèn thuốc phiện. Thuốc phiện không phải vật bị cấm, người ấy cũng được lĩnh quyển vào trường. Người lính cầm loa lại gọi đến tên người nữa. Cũng không có thứ gì gian lậu, nhưng ở trong tráp người ấy lại có một dầm con. Thì ra ông có chứng đi kiết, phải dùng thứ khí giới ấy để vùi cái bã văn chương xuống nền lều, nếu khi làm văn chẳng may bệnh phát. Mang dầm vào trường không có tội gì. Người ấy được qua cứa trường như hai người kia, sau khi đã nhận quyển thi bỏ vào ống quyển. Tên người khác nữa được nhắc lại trong miệng loa đồng. Các vật cần dùng của người này không khác gì của mấy người trước. Riêng có thứ đồ đựng nước không phải là quả bầu be mà là một cái lọ sành rộng miệng. Ngạc nhiên, người lính kiểm soát thò que khoắng dưới trôn lọ, tức thì ở trên mặt nước có vật tròn tròn nổi lên. Càng lấy làm lạ, người lính kia vội vớt vật ấy ra bửa ra xem. Té ra một mớ giấy bản viết chữ nhỏ hơn con kiến, người ta đã vo tròn lại và trát một lượt sáp ong ở khắp chung quanh. Của phi pháp liền bị tịch thu, và cái tội "mang sách vào trường" tức khắc đưa học trò gian ngoan ra khỏi nơi thi cử. Người lại phòng, người lính cầm loa và bọn lính kiểm soát lại tiếp tục làm việc như thường. Chừng nửa canh năm, sương mù ở các cây đình liệu đã lui xuống gần mặt đất, ánh sáng cũng biến ra sắc úa vàng. Đám người và đám lều chõng đã chuyển hết ba phần tư vào trường, khu đất ngoài trường chỉ còn lơ thơ vài trăm học trò, tiếng ồn ào dần dần êm dịu. Mặt trời mọc, các cây đình liệu cũng vừa cháy hết, vũ trụ đã khôi phục cảnh tượng xinh đẹp và mông mênh của ban ngày. Trong miếng đất giáp với cửa trường, một chàng trai trẻ thơ thẩn đợi sự - khám xét của bọn lính kiểm soát. Bộ mặt tuấn tú cố chọi vẻ kiều diễm với ánh nắng buổi mai. Đôi mắt long lanh như muốn hút cả sơn hà thành quách. Quần áo đồ đạc chàng ấy không có thứ gì phạm cấm, chỉ duy cái ngực sao lại nở nang mẩy lớn, hơi khác với ngực người thường. Lục hết cái món linh tinh, cố nhiên bọn hạnh kiểm soát không quên soát cái chỗ mà họ đã nghi ngờ đó. Vừa thục tay vào lần trong áo chàng ta, thì người lính ấy lập tức rút luôn tay ra, dáng bộ giẫy nẩy giống như đụng phải nước nóng. Những người gần đó hau háu nhìn chàng tuổi trẻ bằng đôi mắt ngờ vực, có kẻ bảo chàng ấy giắt nhiều sách vở giấy má trong mình, có kẻ lại đổ trong mình chàng ta hẳn có hung khí hoặc phù chú chi đó. - Bẩm quan lớn, người này không phải đàn ông. Sau tiếng trình giật giọng của người lính kiểm soát, ông chủ khảo trọ trẹ gắt gỏng: - Sao mi hay Bẩm quan lớn, con thấy... Rồi ngập ngừng, người lính như không dám nói nốt. - Mi thấy cái chi? Người lính lại ngập ngừng: - Bẩm con thấy... Sự thông minh của chủ khảo đã do sự ngập ngừng đó mà biết được cái người lính đã thấy, ngó mặt người trẻ tuổi, ông ấy hỏi một cách nghiêm nghị: - Có thật mi là đàn bà không? Đích thực đàn bà, người ấy không dám chối cãi. Lệnh nghiêm từ trên ghế tréo đưa xuống. Người đàn bà ấy phải bỏ chiếu, lều, chõng, tráp ở cửa trường, theo luôn sợi thừng của lính kiểm soát để đi ra dinh tổng đốc. Trong đám đông, những ông sĩ tử còn đợi tiếng gọi, xôn xao người nọ hỏi người kia: - Cô ả nào mà to gan thế - Quê quán chị ta ở đâu, có ai biết không? - Cô ta ở phường Khán Xuân, chứ đâu. - A! Cái cô ái nam ấy ư? - Phải, chính cô ái nam ấy đấy! - Hoài của nhỉ! người thế mà ái nam! - Cô ả học hành khá lắm phải không? - Chẳng khá lại dám giả trai đi thi? Giỏi lắm đấy chứ, kém gì nàng Văn Tú Tài? - Các ông dám khen nó giỏi, tôi thì tôi cho là đồ đ...,"Nữ ngôn bất xuất", chữ sách để đâu? Một người con gái đã có đọc sách mà dám len lỏi vào thi với đám con trai, thì còn biết danh giá là cái gì nữa. Dầu hay! "Tám vạn ngậm tư" cũng là đồ bỏ. - Chẳng những đồ bỏ mà thôi, lại còn cái tội "khi quân" nữa chứ. Giả làm con trai đi thi đó là khi quân chứ gì! Rồi các ông xem, chị ta được "giảo giam hậu là nhẹ, nếu tội ấy vào người đàn ông thì phải "trảm quyết". Cứ thế, người ta cứ chĩa vào mặt người con gái mà cãi vã với nhau mãi như thế. Mặc cho những tiếng mỉa mai, những lời khen ngợi bay ngoài lỗ tai, cô gái lạ đời cứ việc đi qua trước mặt mọi người bằng dáng bộ thản nhiên. Mặt trời lên cao. Ánh nắng đã làm tan bớt giá rét. Khu đất ngoài trường dần dần vắng teo. Câu chuyện "thi gian" của cô ả ái nam, nửa theo các ông học trò vào trong vi giáp, nửa đi với bọn hàng quà hàng bánh ra các phố phường. ... Mời các bạn đón đọc Trong Rừng Nho của tác giả Ngô Tất Tố.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngọn Lửa Enna - Shannon Hale
Ngọn lửa Enna là phần tiếp theo của Công chúa chăn ngỗng - một câu chuyện huyễn hoặc và mơ mộng về vương quốc Bayern, nơi con người có thể sở hữu phép thuật, sống giao hòa với thiên nhiên nhưng cũng đầy sân si, yêu ghét, cũng tồn tại những cuộc đấu tranh giữa người hiền và kẻ dữ để giữ gìn hòa bình cho vùng đất và mang lại hạnh phúc cho con người. Enna - người đã từng giúp sức cho công chúa chăn ngỗng giành lại ngôi vị - cùng anh trai Leifer trở về quê nhà sau khi mẹ mất. Nhưng Enna được sinh ra không phải để sống một cuộc đời bình thường. Khi anh trai Leifer, mang về nhà một tấm da dê huyền bí dạy cách tạo ra ngọn lửa - không cần tia lửa, không cần đá lửa - Enna không thể quyết định sức mạnh này là thứ cô muốn dành cho chính mình, hay là thứ nên được dập tắt mãi mãi. Và khi Bayern, đất nước của họ, xảy ra chiến tranh, cô gái buộc phải quyết định. Enna chưa bao giờ hình dung một ngọn lửa do năng lượng ấm áp của những sinh vật sống mang lại có thể phá hủy mọi thứ cô yêu quý, nhưng cô phải cứu chính bản thân mình và Bayern trước khi ngọn lửa nuốt luôn toàn bộ con người cô. Đây là câu chuyện mới, rất độc đáo và cuốn hút của Shannon Hale, nó được xem như phần tiếp theo của Công chúa chăn ngỗng đã từng được bạn đọc chào đón nồng nhiệt. Truyện dành cho độc giả trẻ, và những ai yêu thích thể loại văn học fantasy. *** Bộ sách Câu chuyện về vùng đất Bayer gồm có: - Công Chúa Chăn Ngỗng - Ngọn Lửa Enna - Bí mật của Dòng sông *** Shannon Hale sống cùng với chồng và con ở gần thành phố Salt Lake, bang Utar. Bà đã được trao tặng gài thưởng Newbery Honor với cuốn sách Học viện công chúa, Cuốn sách của một ngàn ngày. Ngoài ra, loạt sách viết về vùng đất tưởng tượng Bayern đã thu hút hàng triệu đọc giả trên toàn thế giới và giành được nhiều giải thưởng khác. Bà cũng là tác giả của tiểu thuyết Austenland và một tiểu thuyết đồ họa chung với chồng, Sự trả thù của Rapunze.   Mời các bạn đón đọc Ngọn Lửa Enna của tác giả Shannon Hale.
Anders Sát Thủ Cùng Bè Lũ - Jonas Jonasson
Tác phẩm hài hước theo phong cách sâu cay quen thuộc, mà vẫn hết sức nhân văn. Ba nhân vật bị xã hội gạt xuống đáy: Một nữ mục sư bị bạo hành từ nhỏ và ép theo con đường mình không muốn; tên lưu manh làm cho một khách sạn tình yêu, và tên sát thủ. Bộ ba căm thù xã hội này tìm mọi cách để kiếm tiền, bất kể thủ đoạn, báng bỏ vào đức tin và trục lợi từ lòng nhân ái. Trớ trêu thay, những thủ đoạn ấy dù giúp chúng kiếm được nhiều tiền nhưng rồi cũng của thiên trả địa. Cho đến một ngày chúng cũng quyết định làm hòa với cuộc đời và con người. *** Jonas Jonasson tên đầy đủ là Pär-Ola Jonas Jonasson sinh ngày 6/7/1961 là một nhà báo người Thụy Điển, nổi tiếng với tác phẩm bán chạy Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất. Sinh ra và lớn lên tại vùng Vaxjo ở miền Nam Thụy Điển, cha là một tài xế xe cấp cứu và mẹ là nhân viên y tế, sau khi tốt nghiệp Đại học Gothernburg, Jonasson đã làm cho tạp chí Smålandsposten cho đến năm 1994. Năm 1996, ông mở công ty truyền thông OTW và khá thành công. Đến năm 2003, ông bị đau cột sống và bắt đầu stress. 2005 ông bán công ty truyền thông OTW và năm 2007 ông làm đám cưới với một phụ nữ người Na Uy và chuyển đến Thụy Sĩ để sinh sống. Ở đây ông hoàn thành tác phẩm lâu nay ấp ủ: Ông già trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất ( The Hundred-Year-Old Man Who Climbed Out the Window and Disappeared). Cuốn này được xuất bản ở Thụy Điển năm 2009 trở thành cuốn sách bán chạy nhất thế giới với hơn 4 triệu bản in. Cuốn sách thứ 2 của ông Cô Gái Mù Chữ Phá Bom Nguyên Tử (The Illiterate Who Knew How to Count) được xuất bản tại Thụy Điển năm 2013, được NXB Trẻ phát hành tại Việt Nam năm 2014. Mời các bạn đón đọc Anders Sát Thủ Cùng Bè Lũ của tác giả Jonas Jonasson.
Bọn Đạo Chích - William Faulkner
Tiểu thuyết Bọn đạo chích (The Reivers, 1962) kể câu chuyện phiêu lưu khôi hài về ba kẻ trộm xe và thói mê đua ngựa ở thôn quê đầu thế kỷ Hai mươi qua cái nhìn ngây thơ của một đứa trẻ. Tác phẩm được dịch từ bản tiếng Anh của Nhà xuất bản Vintage International, New York, tháng Chín 1992. Đây là tác phẩm cuối cùng và cũng là một trong hai tác phẩm giành giải thưởng Pulitzer của William Faulkner. *** William Faulkner (1897-1962) là một tiểu thuyết gia người Mỹ. Đoạt Giải Nobel Văn học năm 1949, hai giải Pulitzer năm 1955 và 1963, ông là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế kỷ 20. Những sáng tác của Faulkner gây ảnh hưởng sâu rộng lên văn chương châu Mỹ La tinh, Pháp, Nga... nếu không muốn nói là toàn cầu. Nhắc tới ông, không thể không kể đến tứ đại kỳ thư nổi tiếng: -    Âm thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury -1924) -    Khi tôi nằm chết (As I lay Dying - 1930) -    Nắng tháng Tám (Light in August -1932) -    Absalom, Absalom! (1936) Một số tác phẩm khác đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Hoa Hồng Cho Emily Cọ Hoang Bọn Đạo Chích ... Mời các bạn đón đọc Bọn Đạo Chích của tác giả William Faulkner.
Tôi, Charley Và Hành Trình Nước Mỹ - John Steinbeck
Sau khi đọc xong quyển “Tôi, charley và hành trình nước Mỹ “, tôi đã phải thốt lên rằng: TÔI YÊU VIỆT NAM! Chắc mọi người thấy lạ lắm nhỉ? Rõ ràng đây là một quyển sách viết về nước Mỹ cơ mà! Nhưng không, mọi người cứ thử đọc quyển sách này đi rồi mọi người sẽ hiểu tại sao tôi lại nói như vậy. Một quyển sách hay là khi nó truyền cho người đọc một điều gì đó, một sức mạnh tâm linh của cảm xúc chẳng hạn. Và như thế, John Steinbeck đã truyển cho tôi cảm xúc về tình yêu Việt Nam. Hẳn đây là một tác dụng vĩ đại của quyển sách mà ngay đến cả tác giả - người đã viết ra nó cũng không ngờ: nó khiến cho tôi yêu Việt Nam hơn! “Tôi, charley và hành trình nước Mỹ” không dừng lại ở chữ hành trình, quyển sách vượt xa ý nghĩa của từ ấy. Đó là một cuộc phiêu lưu, một cuộc phiêu lưu mà tác giả phải rong ruổi khắp những nẻo đường từ Bắc Dakota cho đến Nam Texas, từ California quay trở về New York để đi tìm một hài của nước Mỹ thật sự. Mỗi nơi ông lái chiếc Rocinante đi qua là một nét vẻ ngọt ngào, đầy đủ hương vị, âm thanh và màu sắc lên bức tranh mà ông đang ôm ấp, bức tranh mà ông quyết chí phải vẻ ra, đó là bức tranh về nước Mỹ. Mỗi trang văn là những sợi tơ bạc óng ánh của những suy nghĩ chất chứa, tất cả đan lại để tạo nên những chiêm nghiệm sâu sắc và đa chiều về nước Mỹ. Đọc quyển sách này cũng giống như bật nút bần của một chai rượu vang, nó khơi dậy trong tôi hình ảnh của chính đất nước mình. Và từ đó một khao khác trở thành một gã lang bạt thứ hai được châm ngồi bùng nổ: tôi cũng muốn làm một cuộc hành trình như thế! Tôi thấy đất nước Việt Nam mình thật đẹp, và sẽ tuyệt vời biết bao nếu như được trải lòng ra trên những trang sách. Biết đâu được, nhiều năm về sau có một cuốn sách khác với tên gọi: “Tôi, Charley và hành trình Việt Nam”, nếu như thế thì quả thật là phải cảm ơn quyển “Tôi, charley và hành trình nước Mỹ” vì nó đã khơi nguồn cho tôi cảm xúc này. Và cuối cùng, không nghi ngờ gì hết, đây là một quyển sách hay! *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902-1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Sinh ra trong một gia đình chủ xưởng bột mì ở Salinas, California, John Steinbeck học ở Đại học Stanford. Thuở thiếu thời, ông phụ giúp việc trong nông trại, thu hái nông phẩm, và chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học Hy Lạp cổ điển, Kinh Thánh và văn học châu Âu cổ điển ngay trong những ngày niên thiếu. Năm 1918 John Steinbeck hoàn thành bậc học trung học. Từ năm 1920 đến 1925 ông chọn môn văn học Anh và sinh vật học hải dương ở trường đại học Standford. Trong cuộc đời ông đã làm rất nhiều nghề nghiệp khác nhau, đặc biệt là việc hay tiếp xúc với người lao động đã tích lũy những tư liệu hết sức phong phú cho công việc sáng tác của ông sau này. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Of Mice and Men (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là The Grapes of Wrath (1939); đoạt giải Pulitzer (năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Ở tuổi 58, sau một thời gian sống ở nước ngoài, nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel văn học John Steinbeck quyết định tái khám phá đất nước mình. Ông lái một chiếc xe bán tải có cabin trên thùng xe, cùng con chó Charley rong ruổi khắp nước Mỹ. Đó là một hành trình gần mười ngàn dặm mà John Steinbeck gọi là hành trình “đi tìm nước Mỹ”. John Steinbeck đối diện với nhiều hoàn cảnh, sự kiện, con người trong suốt chuyến đi. Ông tìm thấy sự đa dạng của người Mỹ và phong cảnh nước Mỹ, nhưng cũng tìm cách khái quát nên những nét chung. Ông cũng phải đối diện với nhiều vấn đề của bản thân, chủ yếu là nỗi cô đơn và vấn đề sức khỏe. Nhà văn đã luôn đứng về phía những người lao động, đã thấy tổ quốc mình tồn tại không phải ở các địa danh mà trước hết, và quan trọng nhất, ở những con người đã lựa chọn mảnh đất này làm nơi sinh sống và, dù khác nhau, đều chỉ đang cố gắng thực hiện một hành trình tồn tại xứng đáng nhất. Một số tác phẩm của tác giả John Steinbeck được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Tôi, Charley Và Hành Trình Nước Mỹ Chùm Nho Phẫn Nộ Của Chuột Và Người Phía Đông Vườn Địa Đàng Thị Trấn Tortilla Flat Trăng Lặn Viên Ngọc Trai ... Mời các bạn đón đọc Tôi, Charley Và Hành Trình Nước Mỹ của tác giả John Steinbeck.