Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chữ A Màu Đỏ - Nathaniel Hawthorne

Đọc tác phẩm “Chữ A màu đỏ” của Nathaniel từ đầu tới cuối tôi đều cảm thấy trong mình tràn dâng những cảm xúc mãnh liệt. Cái cách kể chuyện và miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn độc thoại nội tâm gay gắt của người phụ nữ ngoại tình chính là những trang văn in dấu sâu đậm nhất trong tôi. Tôi đã phải tập trung tất cả mọi trí lực và cảm xúc của mình để theo dõi câu chuyện hấp dẫn này. Một câu chuyện cảm động về nghị lực, sự can đảm và tình yêu cuộc sống vô bờ bến của một người phụ nữ trót mang tội trong xã hội.  Với tôi, nó cũng thật sự là một câu chuyện quá đẹp giữa cuộc sống này, nó đem lại cho tôi nhiều tin yêu, nhiều mạnh mẽ và nhiều hi vọng. Những cuốn sách đã trải qua thăng trầm của thời gian để còn lại, để sáng hơn và đem đến cho những độc giả của hôm nay nhiều trải nghiệm sâu sắc hơn. Một câu chuyện về “Chữ A màu đỏ” khép lại, nhưng đã đem lại cho tôi cái nhìn thấu hiểu hơn đối với số phận và nghị lực của những người phụ nữ ngoại tình. Những người phụ nữ ấy không phải ai cũng xấu xa và đáng trách. Họ có những tâm tư thầm kín mà chỉ khi có được sự thấu hiểu và đồng cảm thực sự chúng ta mới có thể hiểu được. Đây là một trong số những câu chuyện nghiệt ngã nhất về số phận của người phụ nữ mà tôi đã từng được biết. Tôi đã đọc cuốn sách với tâm trạng bế tắc, đau đớn, hận thù và hoàn toàn bất lực. Ngay khi bắt đầu đọc “chữ A màu đỏ” tôi đã ngưỡng mộ cô. Tôi chăm chú theo dõi từng bước chân của chị trên hành trình mà chị đang đi. Tôi không rời mắt khỏi con người chị và những người xung quanh chị dù chỉ một giây phút. Và tôi đã nhận ra rằng ánh mắt của những người bên cạnh chị khi nhìn theo chị đã dần khác. Tôi không còn cảm thấy cái ánh mắt ngột ngạt hằn học và căm giận nữa. Tôi bắt gặp một ánh mắt yêu thương, tha thứ, và đồng cảm. Quả thực cuộc sống, tình yêu và sự hi sinh trong sáng của cô đã khiến cho cộng đồng không thể quay lưng với cô nữa. Cô sống giản dị, điềm đạm như biết bao nhiêu người đàn bà khác. Người đời không còn trách cô nữa. Tôi nghĩ đó là điều đương nhiên cô đáng nhận được với những gì mà cô đã trải qua. Tấm lòng nhân hậu đã khiến cho chữ A màu đỏ trên người cô trở thành một dấu vết phai nhòa của quá khứ xa xôi, mà hiện tại khi nhìn về phía cô gái đã từng mang tiếng ngoại tình, chửa hoang ấy người ta chỉ cảm tháy lòng yêu thương, vị tha, và một nguồn an ủi đồng cảm vô tận với số phận của những người phụ nữ trong xã hội này. *** Chữ A màu đỏ, tiểu thuyết của Nathaniel Hawthorne, xuất bản năm 1850, đã được nhiều nhà phê bình đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn học thế giới. Câu chuyện xảy ra ở Boston, thủ phủ ban Massachuselle (thuộc miền New England đông bắc nước Mỹ) trong những năm 1640, vào một thời mà xã hội miền này bị giam hãm trong vòng luật lệ và giáo lý nghiệt ngã của nhà thờ Thanh giáo. Một người phụ nữ tên là Hester Prynne, vì một đứa con hoang, đã bị kết án bêu trên bục tội nhân ba tiếng đồng hồ trước công chúng và chịu hình phạt mang một chữ A màu đỏ cài trên ngực cho đến hết đời. chữ A màu đỏ là dấu sỉ nhục về tội ngoại tình (chữ A là chữ đầu từ Adultery : tội ngoại tình). Không ai ngờ được rằng người bố của đứa con hoang ấy lại là người đảm nhiệm phần hồn của Hester Prynne, mục sư Arthur Dimmesdale, một giáo sĩ trẻ đầy tài năng, được con chiên ngưỡng mộ như một vị thiên thần. Hester Prynne chịu đựng nỗi nhục nhã đau đớn. Còn Arthur Dimmesdale, bị sự dày vò khủng khiếp của lòng hối hận, ngày một gầy mòn xanh xao. Thế nhưng quần chúng không hề hay biết gì cả, vẫn sùng kính anh như một vị thánh sống. Giữa lúc đó, xuất hiện thêm một nhân vật, hình thành đủ bộ ba trong diễn biến xung đột của câu chuyện. Đó là chồng của Hester, một con người tuổi đã xế chiều, khô lạnh, dị dạng, mà Hester không hề yêu. Lão đã sống cuộc đời lang bạt, nay vừa đến đây thì thấy vợ trên cái bục ô nhục. Lão bắt đầu một cuộc săn tìm kẻ tình địch để báo thù. Buộc vợ thề không bao giờ lộ tung tích của lão ra, lão đội cái tên giả Roger Chillingworthe, xuất hiện giữa cộng đồng Thanh giáo Boston với danh nghĩa là một thầy thuốc. Như vậy là tác giả Nathaniel Hawthorne đã bắt đầu câu chuyện ở chỗ mà phương sách xử lý cốt truyện cổ truyền thường kết thúc. Mối quan tâm của Hawthorne không phải là ở giai đoạn diễn biến một cuộc tình duyên éo le, mà là ở tâm lý của các nhân vật trong giai đoạn tiếp sau đầy khủng hoảng quyết liệt, và những vấn đề triết lý sâu xa rút ra từ những tình tiết trong cảnh huống ấy. Hester Prynne nhẫn nhục chịu đựng nỗi đau đớn ê chề trước sự ghê sợ khinh bỉ và nhục mạ của mọi người. Chị không bỏ đi nơi khác để làm lại cuộc đời, mà tiếp tục ở lại giữa mảnh đất đã ruồng rẫy chị, coi đó là một định mệnh. Chị giữ một phong cách giản dị khổ hạnh, tích cực lao động kiếm sống cho mình và cho đứa con gái nhỏ. Con người bị xã hội khinh rẻ đã thể hiện một tấm lòng nồng hậu và nhân đạo, tự nguyện làm một bà phước, tận tụy săn sóc cưu mang những người nghèo khổ, ốm đau. Sau những năm dài, cuộc sống trong sáng của chị đã biện hộ cho chị. Dần dần người ta có thiện cảm với chị, tha thứ cho lỗi lầm của chị. Chữ A màu đỏ chỉ còn là một dấu vết của quá khứ đã lùi xa về phía sau, biến thành một biểu tượng mang một ý nghĩa khác : ý nghĩa của sự tích cực, của lòng thương người, của nguồn an ủi. Trong suốt thời gian Hester Prynne triền miên chịu sỉ nhục thì mục sư Arthur Dimmesdale cũng triền miên day dứt, hối hận trong lòng. Sự hối hận thôi thúc anh bộc bạch tội lỗi, nhưng anh không đủ dũng khí, chỉ dùng được những lời ám chỉ để tự phê phán. Nhưng anh càng tự phê phán thì người ta lại càng kính trọng anh. Và anh thấy khổ sở tự ghê tởm mình. Quá trình dày vò dai dẳng ấy làm anh ngày càng héo hon tiều tụy. Lão Roger Chillingworthe từ khi xuất hiện ở Boston đã tiếp cận Dimmesdale, ngỏ ý muốn chữa bệnh cho anh. Những diễn biến đặc biệt trong sự đau ốm của thể chất và tâm thần anh làm lão sinh nghi, càng quyết tâm thâm dò, tìm hiểu. Nhân dân Boston vui mừng vì Thượng đế đã cho một vị bác sĩ y khoa lỗi lạc đến chăm sóc sức khỏe người mục sư mà họ xiết bao yêu quý. Người ta bố trí cho lão ở chung một nhà với Dimmesdale. Bằng sự sắc sảo của một đầu óc thông thái và quỷ quyệt, lão đã dần dần phát hiện và đi đến khẳng định anh chính là kẻ tình địch mà lão đang săn tìm. Thế là từ đấy lão bám sát anh, báo thù theo cách của lão, dùng mọi thủ đoạn kích động hành hạ cho Dimmesdale thêm đau đớn. Bảy năm đằng đẳng trôi qua với sự im lặng chịu đựng của Hester, với nỗi thống khổ khắc khoải trong tâm hồn Dimmesdale mà lão Chillingworth đã nhai xé cho ngày càng trầm trọng, khiến sức khỏe của anh suy sụp chỉ còn như ngọn lửa chập chờn sắp lụi tàn. Hester Prynne thấy giấu kính tông tích lão chồng cũ không phải là tránh được tai họa cho Dimmesdale, nên chị rút bỏ lời thề, nói cho Dimmesdale rõ sự thực. Hai người nhận thấy âm mưu báo thù của lão Chillingworth còn xấu xa hơn nhiều so với tội lỗi của họ. Họ bàn tính cùng nhau bỏ đi thật xa, làm lại cuộc đời. Nhưng Roger Chillingworth biết được ý đồ ấy. Vậy là chỉ còn một nơi để thoát khỏi tay lão : đó là bục tội hình. Ngay sau buổi thuyết giáo của Dimmesdale trong một ngày hội tụ tập đông đảo quần chúng, Dimmesdale gọi Hester và con gái cùng bước lên bục tội hình, nơi mà bảy năm về trước, Hester một mình chịu hình phạt. Đứng trên bục, Dimmesdale bộc lộ lỗi lầm của mình trước đám đông bàng hoàng sững sốt. Vượt qua được ngưỡng cửa của cuộc đấu tranh nội tâm ghê gớm, dành được chiến thắng trong cơn thống khổ cực độ, chàng mục sư trẻ gục xuống trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Hester Prynne. * Đọc Nathaniel Hawthorne, chúng ta tiếp xúc với một phong cách đặc biệt, với những diễn biến phức tạp, mãnh liệt trong chiều sâu tư duy, tâm hồn nhân vật. Tác giả kể chuyện, nêu những tình tiết xảy ra rồi phân tích, gợi lên những điều triết lý sâu sắc trong tâm khảm, trong tính cách của từng người, từng lớp người, hoặc của quảng đại quần chúng. Giá trị các tác phẩm của Nathaniel Hawthorne là ở sự phân tích tỉ mỉ, sâu rộng về nội tâm. Hawthorne thừa kế truyền thống nghiêm ngặt của nhà thờ Thanh giáo ; ông quan tâm đến cái mà các nhà thần học thường gọi là “tội lỗi vốn có” của loài người (original sin). Nhưng ông đả phá tính hẹp hòi, cố chấp và tàn ác của nhà thờ Thanh giáo New England. Những tác phẩm của ông thấm nhuần tính nhân đạo sâu sắc. Vấn đề tội lỗi là đề tài được lặp đi lặp lại trong nhiều cuốn truyện của Hawthorne nhưng sự chú ý của Hawthorne không phải là ở bản thân tội lỗi mà là tập trung vào tác động tâm lý do tội lỗi gây ra. Trước con mắt của Hawthorne, tội lỗi lớn nhất Chữ A màu đỏ không phải là tội ngoại tình của Hester Prynne, cũng không phải là tội của Dimmesdale, mà là tội của Roger Chillingworth đã xúc phạm vào cõi thiêng liêng trong tâm hồn Dimmesdale. Hawthorne đã miệt mài để hết tâm trí vào cuộc tranh luận kéo dài năm này sang năm khác về bản chất con người. Trong thế kỷ đương thời, có một dòng tư tưởng lãng mạn tích cực, nhấn mạnh rằng con người bẩm sinh là tốt. Quan điểm này, xuất phát từ Jean Jacques Rousseau và người đề xướng quan điểm này trong văn học Mỹ là Emerson. Hawthorne không lãnh đạm trước sức quyến rũ của tư tưởng tích cực này. Việc Hawthorne xử lý tính cách nhân vật Hester Prynne trong Chữ A màu đỏ tỏ rõ một tấm lòng đồng tình thương cảm. Hester là một phụ nữ cương nghị. Chị không hối hận về hành vi ngoại tình với mục sư Dimmesdale. Chị cũng không đồng tình với nỗi cắn rứt lương tâm của Dimmesdale. Chị nói với Dimmesdale : “Điều chúng ta đã làm có một tính thánh hóa của riêng nó”. Khi chị ngồi với chàng mục sư trong rừng, chị đã bứt chữ A màu đỏ ra khỏi ngực mình và vứt xuống đất. Việc Hester vứt cái dấu sỉ nhục ấy đi là sự “nổi loạn” của chị. Thế nhưng, câu chuyện cũng viện ra nhiều lý lẽ để bảo vệ luật pháp và lương tâm. Dimmesdale không còn tìm cách trốn đi như đã dự tính, mà trái lại, Dimmesdale đã bước lên bục tội hình, bộc lộ thẳng thắng lỗi lầm trước công chúng rồi chịu chết, yên tâm đã chiến thắng bản thân. Các tiểu thuyết của Hawthorne cho hư danh là mọi tội lỗi lớn, dù đó là để bảo toàn thanh danh mình (như Dimmesdale, đóng vai đạo đức giả suốt bảy năm trời). Con người chỉ có thể được “cứu vớt” nhờ sự khiêm nhường, chịu khuất phục ý trí của Đấng thiên liêng. Sự khiêm nhường là yếu tố hòa hợp, cân bằng trong mối quan hệ giữa người với người. Hawthorne đặc biệt nổi bật ở quan điểm về cái thiện và cái ác bên trong một con người. Trong nhiều truyện ngắn và truyện dài sáng tác cả trước và sau Chữ A màu đỏ, cũng như trong truyện này, Hawthorne đã luôn luôn nghiền ngẫm về những mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa cái tốt và cái xấu, về cái xu hướng hòa làm một hoặc đảo chỗ cho nhau giữa hai nhân tố ấy trong từng cá nhân. Dưới một bề ngoài mô phạm đạo đức, bên trong vẫn có những điều đáng hổ thẹn, thậm chí những vết nhơ và tội ác ; ngược lại, dưới cái bề ngoài tội lỗi bị khinh bỉ và bị lên án, lại có một tâm hồn nhân ái, vị tha. Một đặc điểm khác của Hawthorne là tài sử dụng thành thạo lối phúng dụ - tức diễn đạt ngụ ý (allegory) – và lối dùng hình ảnh tượng trưng (symbolism`. Phép diễn đạt ngụ ý và bằng tượng trưng của Hawthorne đặc biệt thành công trong câu chuyện về chữ A màu đỏ, mà nhiều đoạn đã lộ rõ ý của tác giả muốn mô tả thành một truyền thuyết. Mỗi địa điểm, mỗi nhân vật và mỗi sự kiện đều mang một ý nghĩa sâu rộng hơn. Bục tội hình – như một đoạn đầu đài – mang ý nghĩa của sự trừng phạt trong đoạn đầu câu chuyện, và mang ý nghĩa của sự chuộc tội trong đoạn cuối. Rừng hoang là một nơi mà con người sa vào con đường lầm lạc về mặt tinh thần đạo lý. Khóm tầm xuân trước cửa nhà tù, mụ già Hibbins, v.v…, đều mang một ngụ ý. Bản thân chữ A màu đỏ là tượng trung cho tội ngoại tình; ; nhưng còn hơn thế, nó tượng trưng cho mọi tội lỗi ; và khi người ta càng mở rộng tầm của nó ra xa thêm, thì nó lại tượng trưng cho tất cả mọi lỗi lầm và yếu kém ngăn trở sự vận động thỏa đáng của xã hội loài người. Và oái oăm thay, cái chữ A màu đỏ sỉ nhục ấy lại tiến đến chỗ biến thành một biểu tượng mang ý nghĩa khác hẳn : ý nghĩa của lòng nhân ái, của nguồn an ủi, ý nghĩa của chiếc thánh giá trên ngực người nữ tu sĩ, trước con mắt của những tín đồ Thanh giáo khắc nghiệt! Ở Hawthorne, sự sụp ngã của một con người là sự sụp ngã có phúc. Qua tội lỗi và đau khổ, con người đạt tới một chiều sâu tâm hồn và một chiều rộng nhãn quan, mà nếu không va vấp và chịu sự hành xác thì không thể nào đạt tới được. Nathaniel Hawthorne còn có một khả năng nhạy bén về thuật kết cấu câu chuyện (architectonic sense). Cấu trúc của truyện chữ A màu đỏ chặt chẽ. Bốn nhân vật (Hester Prynne, Arthur Dimmesdale, Roger Chillingworth, và bé Pearl) gắn chặt vào nhau trong cái mạng tơ vò của một cảnh huống cuộc đời dường như không thể nào có giải pháp. Việc tác giả sử dụng với một sự sắp đặt cố ý cái bục bêu tội nhân ở ba lớp chủ yếu của câu chuyện (đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn kết) tạo ra sự thống nhất về diễn biến một quá trình diễn biến phát triển chậm rãi nhưng không khoan nhượng đến điểm tột đỉnh là cuộc thú tội của Dimmesdale trước công chúng. Phong cách viết đi vào cõi nội tâm, phân tích những điều triết lý sâu sắc bên trong tinh thần của sự vật khả năng phát triển ý nghĩa của các hình ảnh tượng trưng, cộng với kỹ năng viết điêu luyện – tất cả những đức tính nói trên đã tạo nên cái hay đặc thù của Hawthorne và đã làm cho các tác phẩm của ông được đánh giá cao, gây được sức thuyết phục mạnh mẽ đối với những độc giả từ giữa thế kỷ 20 trở về sau. Hawthorne đã được xem là một nhà văn lớn, một trong những nhà viết tiểu thuyết có tài năng nhất trong nền văn học Mỹ. * Nathaniel Hawthorne sinh năm 1804 ở Salem, bang Massachusetts (miền đông bắc nước Mỹ) thuộc một dòng họ người Anh đã đến đây từ năm 1630 và đã góp phần tạo ra khu định cư đầu tiên của thuộc địa Anh ở miền này, mà những người thực dân Anh đầu tiên đặt tên là “nước Anh mới” (New England). Tại miền này, vào cuối thế kỷ thứ 17, tức khoảng 100 năm trước cuộc Cách mạng nước Mỹ, một số tín đồ Thanh giáo cuồng tín cho rằng con người có thể bán mình cho quỷ dữ và trở thành phù thủy. Thân sinh ra ông nội Nathaniel Hawthorne sống vào thời ấy, là một quan tòa Thanh giáo khắc nghiệt đã kết án treo cổ nhiều người bị gán cái tội ấy. Một trong những nạn nhân của ông đã phát một lời trù rủa độc địa cho ông ta và con cháu ông ta sau này. Những sự kiện này đã có ảnh hưởng lớn tới suy nghĩ của Nathaniel Hawthorne và tác động đến các sáng tác của ông. Bố của Hawthorne là một thuyền trưởng, chết trong một chuyến đi biển, lúc Hawthorne mới bốn tuổi. Tâm trạng đau buồn đã khiến người mẹ tự tách biệt khỏi xã hội, sống ẩn dật. Nếp sống đó cũng có ảnh hưởng tới Nathaniel Hawthorne sau này. Khi đang học ở trường đại học Bôdân (Bowdoin), năm 1828, Hawthorne đã bắt đầu tập viết văn và mang hoài bão muốn trở thành nhà văn lớn. Sau khi tốt nghiệp đại học trở về Salem, Hawthorne trong một thời gian dài vẫn giấu kín bút danh, đóng kín cửa đọc sách, nghiên cứu rèn luyện tư duy và khả năng văn học. Mùa hè, ông đi thăm nơi này nơi nọ trong miền New England, hòa mình vào quần chúng ở các phiên chợ và các cuộc tụ tập, quan sát, tìm hiểu cuộc sống. Trong quá trình tự đào tạo ông đã viết nhiều truyện ngắn, nhưng thường viết xong, ông lại hủy bỏ. Mãi đến năm 1837, ông mới cho ra mắt được cuốn sách đầu tiên mang tên ông. Đó là cuốn Những truyện kể lại vài lần (Twice told tales) tập hợp một số truyện ngắn mà ông đã viết trong những năm qua. Ông xin vào làm ở Sở Thuế quan Boston. Năm 1842, ông cưới vợ và về sống ở một ngôi nhà mục sư cổ tại Concord (cũng bang Massachusetts) trong bốn năm, tiếp tục viết. Một tập truyện ngắn ra đời cuối thời kỳ này với nhan đề “Những mảng rêu từ một ngôi nhà mục sư cổ” (Mosses from an Old Manse) 1846. Chính thời kỳ này đã được ông nhắc đến trong phần mở đầu cuốn Chữ A màu đỏ. Là một đảng viên dân chủ, ông được chính quyền Đảng Dân chủ của Tổng thống Polk cho vào làm ở Phòng Thuế quan Salem. Ba năm sau, Đảng Uých (Whig) lên cầm quyền, ông mất việc. Trong nỗi chán ngán, ông đã ngồi viết Chữ A màu đỏ. Hôm ngồi đọc lại bản thảo cuốn truyện đã hoàn thành này, nhiều lần ông ứa nước mắt. Phải tóm bắt được những giây phút như thế mới hiểu thấu được tâm hồn ông. Cuốn Chữ A màu đỏ đã lập tức làm ông nổi tiếng không những ở Mỹ mà ở cả nước Anh vốn khó tính đối với tác phẩm của các nhà văn Mỹ. Những năm tiếp theo vẫn là thời kỳ đỉnh cao cuộc đời sáng tác của Nathaniel Hawthorne. Ông đã viết cuốn Ngôi nhà bảy đầu hồi (The House of the Seven Gables) cũng là một tác phẩm trứ danh (1851), cuốn Câu chuyện tình ở Blithedale (The Blithedale Romance) (1852), một số truyện cho trẻ em như Cuốn sách kỳ diệu cho các bé gái bé trai (Wonder Book for Girls and Boys) (1852) và Những truyện kể về rừng rậm cho các bé gái bé trai (Tanglewood Tales for Girls and Boys) (1853). Năm 1853, Tổng thống Mỹ Franklin Pierce, bạn học cũ của Hawthorne, cử ông đi làm lãnh sự Mỹ tại Livơpun (Anh). Gia đình ông sang ở Anh từ 1853 đến 1858. Sau đó ông đi du lịch sang lục địa châu Âu. Trong thời kỳ này, Nathaniel Hawthorne viết thêm cuốn Thần Đồng nội bằng cẩm thạch (The Marble Faun) (1860). Đây là cuốn truyện viết hoàn chỉnh cuối cùng của ông, nói về cái thiện và cái ác trong lòng người. 1860, Hawthorne cùng gia đình trở về Mỹ. Những truyện ông viết về cuối đời đều dở dang, chất lượng sút kém. Một lý do nào đấy, không xác định được, đã làm khô cạn tài năng sáng tạo của ông. Nathaniel Hawthorne mất năm 1864, vừa tròn 60 tuổi. Sau khi ông mất, bạn bè tập hợp lại những đoạn bản thảo chưa hoàn thành, xuất bản một số cuốn : Septimius Pelion (1872), “Mối tình Dolliver” (1876), Bí mật của bác sĩ Grimghawe (1883) và Dấu chân tổ tiên (1883). Nói về sáng tác của Hawthorne, người ta không quên nhắc đến những tác phẩm ông viết cho trẻ em. Ông đã đưa một sắc thái hoàn toàn mới mẽ vào nền văn học phục vụ thiếu nhi. Không phải với phương pháp mượn một câu chuyện kể để răn dạy, thuyết giáo con trẻ, ông đã trân trọng viết cho thiếu nhi như viết cho người lớn, có chiều sâu tư tưởng và lực truyền cảm mạnh mẽ. Cuốn sách viết cho thiếu nhi của ông được nhiều người biết tiếng nhất là cuốn Những truyện kể về rừng rậm cho các bé gái bé trai (1853). Nhà văn lớn này đã cống hiến cho thiếu nhi, cũng như đã phục vụ cho người lớn, tài năng đầy chất thơ và tri thức sâu sắc của mình về bản chất con người. NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Chữ A Màu Đỏ của tác giả Nathaniel Hawthorne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thầy Lang - Tadeusz Dolega-Mostowicz
TADEUSZ DOLEGA MOSTOWICS (1898 - 1939) là nhà văn tài hoa của nền văn học cận đại Ba Lan. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn và thành công của ông diễn ra trong thời kỳ 20 năm tồn tại và phát triển của đất nước Ba Lan tư sản, giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, bị xóa hẳn tên trên bản đồ thế giới. Thời kỳ phức tạp nhiều chao đảo với mỗi thăng trầm ở trong nước và trên thế giới ấy đã được TADEUSZ DOLEGA MOSTOWICS lấy làm bối cảnh cho các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông: Thầy lang, Giáo sư Vin-tru-rơ, Đường công danh của Ni-cô-đem Đyz-ma. Khác hẳn với tác phẩm Đường công danh của Ni-cô-đem Đy-zma được viết bằng ngòi bút hiện thực phê phán kiệt xuất, Thầy Lang là tiểu thuyết tâm lý xã hội được sáng tác theo khuynh hướng của chủ nghĩa tình cảm. Nhân vật chính của tác phẩm là giáo sư tiến sỹ y khoa Vin-tru-rơ, một nhà phẫu thuật tài năng của Ba Lan thời bấy giờ. Đang ở trên đỉnh cao của danh vọng và quyền lợi thì một tai họa đột ngột xảy đến: vợ ông đã bỏ nhà ra đi với người yêu sau tám năm chung sống cùng ông, mang theo đứa con gái nhỏ duy nhất mà ông vô cùng yêu thương, để lại một bức thư vĩnh biệt, trong đó nàng thú thật rằng chưa bao giờ yêu ông. Quá đau khổ, giáo sư Vin-tru-rơ lang thang, ông bị bọn vô lại cho uống rượu say, cướp sạch quần áo, tiền bạc, đánh vào đầu, khiến ông bị mất trí nhớ, không nhớ mình là ai. Từ đó bắt đầu cuộc đời lang thang, phiêu bạt, chìm nổi của một con người bần cùng, vô gia cư, không chốn dung thân, không người thân thuộc, thậm chí không biết mình là ai, tên là gì, không biết mình sống để làm gì, sống cho ai. Nhưng những kỹ năng nghề nghiệp vẫn tồn tại trong con người mất trí nhớ của ông, nhất là khi cần cứu chữa cho người bệnh. Được nhận vào làm công cho người chủ cối xay bột Prô-cốp, giáo sư Vin-tru-rơ (dưới cái tên An-tô-ni Kô-si-ba) đã chữa cho con ông chủ khỏi tật, rồi ông chữa cho nhiều người khác, dần dần nổi tiếng là một thầy lang giỏi ở một vùng nông thôn. Và cuộc đời ông có lẽ sẽ trôi qua như thế nếu ông không gặp cô gái Ma-rư-sia đáng thương mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tình thương yêu giữa hai tâm hồn cô đơn ấy đã rọi một ánh sáng mới vào cuộc đời ông, khiến ông lại biết mình sống vì ai, vì cái gì. Nhưng rồi Ma-rư-sia và người yêu của cô là chàng trai Lê-sếch bị tai nạn. Để cứu cô gái, ông đã phải đánh cắp va-li đựng dụng cụ mổ của bác sỹ Pa-vơ-li-xki, kẻ vốn sẵn hiềm khích với ông. Ra tòa ông bị kết án ba năm tù. Nhưng nhờ sự vận động của Lê-sếch và luật sư Ko-rơ-trưn-xki, đến phiên tòa phúc thẩm, ông được xử trắng án. Cũng chính tại phiên tòa này, giáo sư Đô-bra-nhe-xki một học trò và cộng sự của ông ngày trước đã nhận ra rằng người thầy lang quê mùa có tài năng khó hiểu nọ chính là giáo sư Vin-tru-rơ bị mất tích mười ba năm về trước. Sau phiên tòa, trước nấm mồ của bà mẹ cô gái Ma-rư-sia, ông hiểu rằng cô chính là đứa con vô vàn yêu quý của mình. Nỗi xúc động đã giúp ông lấy lại trí nhớ. Cốt truyện cảm động ấy đã được ngòi bút tài hoa của TADEUSZ DOLEGA MOSTOWICS xây dựng thành một tác phẩm giàu tính nhân đạo và trữ tình. Tác phẩm góp một tiếng nói nghệ thuật nêu cao những chân lý nhân văn, khẳng định địa vị thiêng liêng của tình yêu của người với người. Tình yêu ấy, quý giá hơn tất cả, nhưng nó không bao giờ đến từ một phía, nó không thể được xây dựng nên bởi tiền tài hay địa vị. Hạnh phúc chỉ có thể có được khi con người đã phải trả giá bằng những dau khổ và đấu tranh, bằng những dằn vặt, những vật lộn với cuộc đời và chính bản thân mình. Song tác phẩm vẫn không thể thiếu những giá trị hiện thực phê phán, những giá trị này dường như lại được tôn thêm trong cái không khí trữ tình kia, mặc dù chúng nằm ở bình diện thứ hai, kín đáo hơn. Số phận con người trong xã hội cũ mới long đong, mới mong manh làm sao. Chỉ riêng cái nghịch cảnh trớ trêu của bản án sơ thẩm: kẻ cứu hai mạng người thì bị xử án ba năm tù còn kẻ gây tai họa cho họ thì chỉ chịu hai năm(?) đã giàu sức tố cáo với hệ thống pháp luật tư sản. Và "chứng quên" của giáo sư Vin-tru-rơ kia phải chăng là một hình ảnh đầy tượng trưng? Tác phẩm bằng đôi nét chấm phá nhưng cũng vẽ nên được đời sống khốn khổ, lạc hậu, thấp kém của những người nông dân nghèo Ba Lan thời ấy. Cái nhìn của tác giả đầy đồng cảm, xót xa và trân trọng với những con người ấy. Tuy nhiên, ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tác phẩm không tránh khỏi những hạn chế dễ thấy. Điều đáng nói nhất là những biểu hiện của một thứ triết học định mệnh trong việc mô tả và cắt nghĩa những hiện tượng xã hội. Mỗi con người trong Thầy Lang như sống trong sự vây bủa của một màng lưới vô hình nhưng vững chắc của số phận, trong đó mọi sự nỗ lực của về đại thể cũng chỉ là những vật vã vô nghĩa. Những yếu tố ngẫu nhiên cá lẻ được xâu lại bằng sợi chỉ số mệnh. Và cái "định mệnh xã hội" này đã thay "ông Tạo" dẫn dắt những bước đường của mỗi con người. Thấp thoáng đây đó, tác phẩm cũng biểu lộ những cái nhìn của chủ nghĩa tự nhiên. Những hạn chế đó không làm bạn đọc kém yêu mến Thầy Lang. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã được tái bản nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng và được đưa lên màn ảnh, đã chinh phục khán giả thế giới, trong đó có khán giả nước ta. NGUYỄN HỮU DŨNG ***  Quyển ''Thầy Lang'' còn có phần 2 ''Giáo Sư Wilczur' được dịch với tên ''Đánh mất tình em''. Trong phần này, giáo sư Vintrurơ khôi phục trí nhớ và trở về làm giám đốc bệnh viện. Thành công của ông đã làm nhiều kẻ ghen ghét. Điều đáng buồn là trong số đó có cả giáo sư Đôbranhexki, người trợ lý cũ đã từng giúp ông tìm lại trí nhớ. Với lòng tự trọng ông đã rời bỏ bệnh viện về làng quê nơi ông đã sống khi mất trí nhớ. Với sự yêu mến và giúp đỡ của dân làng, ông đã mở một bệnh viện nhỏ tiếp tục hành nghề phẫu thuật chữa bệnh. Trong phần này không còn xuất hiện cô con gái Marưsia của giáo sư. Hai cha con mới đoàn tụ sau một thời gian xa cách đáng lẽ phải thường xuyên gắn bó bên nhau. Thế mà Marưsia lấy chồng rồi định cư nước ngoài, không mấy khi về thăm giáo sư Vintrurơ. Niềm an ủi hiếm hoi là một cô bác sĩ trẻ đẹp, rất ngưỡng mộ giáo sư nên tình nguyện về làng quê sát cánh bên ông. Trong quá trình làm việc, giáo sư cũng có thiện cảm với cô. Nhưng với bản tính vị tha ông không nhẫn tâm để cô hi sinh tuổi trẻ bên mình nên đã tác hợp cho cô với một anh bác sỹ trẻ tuổi (cũng đẹp trai, trung thực nhưng mình hổng ưa anh này lắm). Xét tổng thể đọc được nhưng mình không thích phần này vì hơi vẽ rắn thêm chân, thậm chí còn làm mình mất thiện cảm với một số nhân vật ở phần trước như Marưsia, Đôbranhexki. Có bản dịch này ''Thầy Lang'', Nguyễn Hữu Dũng dịch. NXB Văn học, 2004. - 798 trang ( gộp in chung 2 truyện Thầy lang và Đánh mất tình em) *** Tađêus Đôuenga Môxtôvich (Tadeusz Dolega Mostowicz, 1898 - 1939) là nhà văn xuất sắc của nền văn học Ba Lan thời cận đại. Ông là tác giả của những tiểu thuyết tâm lý xã hội theo khuynh hướng tình cảm rất được ưa chuộng (Thầy lang, Giáo sư Vintrurơ), nhưng nổi tiếng nhất với các tác phẩm hiện thực phê phán đặc sắc: Đường công danh của Nikôđem Đyzma. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn của T.Đôuenga Môxtôvich diễn ra trùng với thời kỳ hai mươi năm tồn tại và phát triển của nước Ba Lan tư sản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, xâu xé, hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ thế giới, để rồi chẳng mấy chốc lại rơi vào nanh vuốt của bè lũ phát xít Đức. Chính thời kỳ giai cấp tư sản dân tộc non yếu được nắm tay lái con thuyền quốc gia vừa bị lọt vào cái “mắt bão” - vùng tạm thời yên tĩnh giữa những cơn bão táp hung bạo trên toàn thế giới, song không thiếu những rối ren phức tạp trong nước - là thời kỳ thuận lợi cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, thời kỳ những nghịch cảnh, những đảo lộn xã hội diễn ra liên tiếp, tập trung và sôi động hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là thời kỳ được T.Đôuenga Môxtôvich lấy làm bối cảnh cho quyển tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông.   *** Tác phẩm:  Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma Thầy Lang Giáo Sư Wilczur Mời các bạn đón đọc Thầy Lang của tác giả Tadeusz Dolega-Mostowicz.
Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma - Tadeusz Dolega-Mostowicz
Tađêus Đôuenga Môxtôvich (Tadeusz Dolega Mostowicz, 1898 - 1939) là nhà văn xuất sắc của nền văn học Ba Lan thời cận đại. Ông là tác giả của những tiểu thuyết tâm lý xã hội theo khuynh hướng tình cảm rất được ưa chuộng (Thầy lang, Giáo sư Vintrurơ), nhưng nổi tiếng nhất với các tác phẩm hiện thực phê phán đặc sắc: Đường công danh của Nikôđem Đyzma. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn của T.Đôuenga Môxtôvich diễn ra trùng với thời kỳ hai mươi năm tồn tại và phát triển của nước Ba Lan tư sản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, xâu xé, hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ thế giới, để rồi chẳng mấy chốc lại rơi vào nanh vuốt của bè lũ phát xít Đức. Chính thời kỳ giai cấp tư sản dân tộc non yếu được nắm tay lái con thuyền quốc gia vừa bị lọt vào cái “mắt bão” - vùng tạm thời yên tĩnh giữa những cơn bão táp hung bạo trên toàn thế giới, song không thiếu những rối ren phức tạp trong nước - là thời kỳ thuận lợi cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, thời kỳ những nghịch cảnh, những đảo lộn xã hội diễn ra liên tiếp, tập trung và sôi động hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là thời kỳ được T.Đôuenga Môxtôvich lấy làm bối cảnh cho quyển tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông. Đường công danh của Nikôđem Đyzma quả là hiển hách, đáng ngạc nhiên, bởi đó gần như là cuộc hội tụ của biết bao “ngẫu nhiên may mắn, bao “số đỏ”, đến mức khiến người đời phải chóng mặt, ngỡ ngàng. Ở chương đầu sách, y chỉ là một anh công chức cấp thấp ở tỉnh lẻ bị mất việc, đang lang thang tìm việc làm, túi rỗng không và chiếc dạ dày lép kẹp. Ấy thế mà tới những trang cuối sách y đã là một triệu phú cỡ lớn, chủ một cơ ngơi nông - công - nghiệp khổng lồ, chính khách số một của đất nước, người được chính tổng thống mời ra đảm nhiệm sứ mạng thành lập nội các mới, nhằm chèo lái con thuyền quốc gia qua cơn bão chao đảo! Cái gì đã khiến Nikôđem Đyzma leo nhanh và cao đến thế trên những bậc thang danh vọng của cuộc đời? Cái gì là nguyên nhân thật sự mở ra con đường công danh đầy huyền thoại của kẻ vô học “bất tài chi tướng” kia? Tại sao giữa lòng cái xã hội quý tộc - tư sản, với những thể chế ngỡ như chặt chẽ, với quy luật cạnh tranh khốc liệt kia lại nảy nòi một cái nỗi oái oăm nhường ấy? Nhà văn đã không đứng ra thuyết minh, trả lời và kết luận thay người đọc, nhưng qua bức tranh liên hoàn hiện thực mà ông đã dựng lên, người đọc nhận thức được rằng: nguyên nhân chính tạo nên bước đường công danh lừng lẫy của nhân vật kia chính là bởi cái xã hội đang sống chỉ có tôn ti, trật tự, luật lệ, kỷ cương về phương diện hình thức mà thôi. Còn bên trong, guồng máy của nó lại hoạt động bằng một loại “nhiên liệu” vạn năng duy nhất là đồng tiền. Trong cái xã hội ấy, ngài luật sư có uy tín nhất, đồng thời cũng là người bảo trợ cho Hội Bảo vệ gia đình (mặc dù là chuyên viên sừng sỏ nhất trong lĩnh vực ly hôn!) đã trắng trợn vòi tiền “công” vì lấy được lời chứng của những người đã chết. Trong xã hội ấy, người ta có thể thuê giết một mạng người với một trăm đồng bạc, có thể đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay, có thể dựng ra cả một tiểu sử huy hoàng để tô son trát phấn cho một anh dốt nát nhà quê đóng tuồng làm “người hùng”, làm “chính khách”, làm nhà “kinh tế thiên tài”... Cái xã hội mà ngay ở những cấp cao nhất của chính quyền, cũng chỉ là một lũ người dốt nát, bất lực, mâu thuẫn nhau, chỉ giỏi ăn chơi cãi vã. Cái xã hội mà “phương sách” hữu hiệu nhất là tiền cộng với lừa đảo, dối trá. Những nghịch cảnh của xã hội được lột trần đến lõa lồ trước mắt người đọc, bởi mấy ai ngờ rằng một “hội đồng” dâm của các vị phu nhân lá ngọc cành vàng, vợ con các “ông lớn”, lại có khả năng điều hành thật sự bộ máy quốc gia, đến mức tống cổ ngài thứ trưởng kiêm đổng lý văn phòng hội đồng bộ trưởng đi... Tàu, chỉ vì ngài sắp lật mặt nạ “người tình chung” của các bà! Xuyên suốt tác phẩm là hai quá trình có hướng ngược nhau, diễn ra đồng thời, ở một con người - đó là nhân vật chính: Nikôđem Đyzma. Y leo nhanh đến mức đáng kinh ngạc trên những bậc thang danh vọng, nhưng lại tụt dài về phương diện nhân cách, từ cái trong sạch của một con người bình thường xuống vũng bùn nhơ nhớp của những tội lỗi ghê gớm nhất. Ban đầu, dù thất nghiệp, đói rách, Đyzma vẫn còn lương tâm trong sạch, thấy cái phong bì của cậu bé bưu điện đánh rơi y còn thương tình gọi với theo để trả, nhặt được giấy mời đi dự tiệc (gửi một người khác), y mang đến tận nhà (bụng thầm mong được trả công vài đồng bạc), y biết đỏ mặt ngượng khi bịa ra một câu chuyện phạm tội vô hại kể cho một cô gái làm tiền. Thế rồi, chỉ qua một bữa tiệc mà y lấy hết gân cốt đến dự nhằm thỏa mãn cái đói, y đã nhảy một bước lọt vào xã hội thượng lưu, để ngấm dần vào người “độc dược” hiệu nghiệm lấy làm kim chỉ nam cho mọi hành vi đối nhân xử thế: lừa đảo. Không những y không hề ngần ngại khi lừa cơ cướp cả cơ nghiệp lẫn cô vợ xinh đẹp của ông chủ đã hết lòng đối xử tử tế với y, mà y còn không run tay khi thuê bọn lưu manh, giết một người ân nhân cũ để bịt đầu mối, không hề áy náy khi ra lệnh cho bọn cảnh sát đánh đập dã man một cô gái vô tội đã nặng lòng yêu y. Sở dĩ y tha hóa nhanh như thế về phương diện đạo đức chỉ bởi y đã tiếp xúc với những “tinh hoa” của giới cầm quyền. Xét về phương diện ấy, Đyzma cũng là một nạn nhân của xã hội tư bản - một nạn nhân “tự nguyện”. Sự trèo nhanh leo cao của y không phải là thành quả đạt được bởi những thủ thuật không mấy tinh khôn mà y đã học được ở các “tinh hoa” thượng lưu xã hội kia (như kiệm lời để giấu dốt, nhắc lại ý của người khác nhận rằng là của mình…). Mà có nguyên nhân sâu xa hơn: đó là sự mâu thuẫn giữa các giới cầm quyền, các cá nhân có thế lực trong guồng máy xã hội, đó là sự dốt nát trong đánh giá của các giới đó đối với Đyzma. Các vị đại diện cao cấp nhất của xã hội đã không có khả năng phân biệt thật giả, đã ngộ nhận về khả năng - thậm chí tài năng - của Đyzma, đã đưa y lên những địa vị cao sang, đã để y đánh lừa một cách “hào hiệp” nhất. Đúng như lời chàng công tử bá tước Pônimirxki gào lên kết thúc quyển sách: “Không phải hắn dắt mũi các người đâu! Chính các người đã bê cái đồ súc vật ấy đặt lên thành tượng đài! Chính các người! Hỡi lũ người đánh mất hết những tiêu chuẩn lý trí!”. Mỉa mai hơn, Đyzma được leo lên cao đến thế còn chính vì y đã làm thỏa mãn được dục vọng thấp hèn của các vị “phái đẹp” quý tộc trong những cuộc “hành lễ bí mật” mà thực chất là những cuộc hành lạc tập thể, những cuộc loạn hôn không tiền khoáng hậu. Trong các “tài năng” đã đưa Đyzma lên những địa vị cao sang, có “tài” đĩ đực! Trong số những nạn nhân khác của cái xã hội nhầy nhụa đó, người đọc còn nhận thấy một điều: Người càng có địa vị xã hội thấp hèn, thậm chí càng ở “dưới đáy” thì phẩm chất đạo đức lại càng trong sạch. Cô gái Manka dù phải bán thân nuôi miệng, nhưng vẫn ý thức được sự ghê tởm của cái “nghề” mà mình bắt buộc phải làm, vẫn giữ một tình yêu chân thật đối với Đyzma, và vẫn biết căm phẫn tột độ khi tình yêu ấy bị bội bạc. Dù bị đánh đập dã man, nhưng dẫu sao Manka cuối cùng cũng nhận ra bộ mặt thật của Đyzma. Đáng thương cho một phụ nữ xinh đẹp, yếu đuối mà lại muốn hưởng lạc như bá tước tiểu thư Nina, cho đến cuối cùng vẫn không hiểu rằng mình bị đánh lừa, vẫn không hiểu được bản chất người chồng “lý tưởng” và “lỗi lạc” của mình! Ý nghĩa tố cáo và phê phán của tác phẩm còn tập trung cao ở hình tượng chàng bá tước “điên” Pônimirxki. Chàng là nạn nhân của một trò lừa đảo đã khiến cha chàng khuynh gia bại sản, rồi lại trở thành nạn nhân của một vụ lừa đảo mới, còn trắng trợn hơn, đê mạt hơn. Không phải ngẫu nhiên tiếng nói gần với sự thật nhất, tiếng cười châm biếm sâu cay nhất đối với những nghịch cảnh xã hội lại được tác giả đặt vào miệng một người “điên”, một người “tâm thần”, vốn có một địa vị cao sang, một gia sản giàu có, một học thức uyên bác, nhưng rốt cuộc vẫn bị vứt ra một xó vườn, hay cùng lắm - làm đầy tớ dạy tiếng Anh cho chủ. Các yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ được sử dụng để xây dựng con đường công danh cho Đyzma đều hợp lôgích, không gây ấn tượng giả tạo, khiên cưỡng. Chất bi và hài được kết hợp hài hòa, trong đó cái hài được tập trung cao, tạo nên một tiếng cười mỉa mai, sâu cay đối với cả bộ máy nhà nước tư sản, từ cấp thấp lên cấp cao nhất. Nhà văn đã thể hiện một bộ mặt xã hội với những biểu hiện sinh động lạ thường qua một bút pháp tưởng như dửng dưng, khách quan mà sắc sảo, tinh tế. Người đọc Ba Lan còn hâm mộ tác phẩm của T.Đôuenga Môxtôvich vì nhà văn đã dựng lại hết sức sống động, hết sức thực từ ngôn ngữ, thói quen, phong tục, tập quán đến cảnh sinh hoạt và bầu không khí của xã hội thượng lưu quý tộc những năm 20 - 30. Do vô tình hay hữu ý, nhiều tác phẩm hiện thực phê phán thường sa vào chủ nghĩa tự nhiên trong phản ánh hiện thực xã hội. Trong Đường công danh của Nikôđem Đyzma T.Đôuenga Môxtôvich đã tránh được hạn chế này. Tác giả đã không khai thác những yếu tố thấp hèn hoặc kích thích ở những cảnh “gay cấn”, để một mặt duy trì mức độ chân xác của tính cách nhân vật, mặt khác tạo được hứng thú thẩm mỹ lành mạnh. Tác phẩm sử dụng nhiều yếu tố hư cấu nhưng rất thực, và tả được cái thực của xã hội, bởi lẽ nhà văn đã chọn những không gian thích hợp để những yếu tố hư cấu kia hiện ra trong những dáng vẻ thực của đời. Cũng như nhiều tác phẩm hiện thực phê phán khác, Đường công danh của Nikôđem Đyzma không tránh khỏi những nhược điểm khách quan do thời đại cũng như những nhược điểm chủ quan do nhận thức của tác giả. Mâu thuẫn xã hội mới được miêu tả ở tầng lớp trên, mâu thuẫn giai cấp mới chỉ lướt qua. Tác giả tập trung mô tả và phê phán cái xấu xa, cái phản động, nhưng chưa nêu được những phẩm chất tốt đẹp cũng tồn tại song song trong xã hội ấy. Xã hội trong tiểu thuyết đang chao đảo, nhưng rồi sẽ đi đến đâu, theo con đường nào… Thực ra, công bằng mà nói, đó cũng là những nhược điểm khó tránh nếu đặt tác phẩm và người viết trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình. Bằng những giá trị nghệ thuật lớn lao, tiểu thuyết hoạt kê của T.Đôuenga Môxtôvich đã phản ứng khá mạnh mẽ chống lại một xã hội lố lăng, qua đó gián tiếp bênh vực quyền tồn tại và phát triển của những con người lương thiện, trung thực. Chính vì vậy, ngay sau khi ra đời, Đường công danh của Nikôđem Đyzma liền được xem là một hiện tượng văn học đặc sắc ở Ba Lan. Tác phẩm được in lại nhiều lần và cũng được đưa lên màn ảnh ở Ba Lan, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Đọc Đường công danh của Nikôđem Đyzma và tìm hiểu thân thế sự nghiệp của T.Đôuenga Môxtôvich, người đọc Việt Nam không khỏi bất giác nghĩ tới Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) và chợt thú vị về những nét tương đồng giữa hai tác giả cũng như hai tác phẩm. Hai tác giả sống gần như đồng thời với nhau, ở hai phương trời xa cách nhau hàng chục nghìn cây số, song đều tài hoa sắc sảo, đều từ giã cuộc đời giữa tuổi sáng tạo rực rỡ, để lại cho đời những tác phẩm sống mãi. Chúng tôi hy vọng rằng, với bản dịch ra tiếng Việt trực tiếp từ tiếng Ba Lan này Đường công danh của Nikôđem Đyzma sẽ giúp bạn đọc nước ta làm quen với một nhà văn tài hoa của dân tộc Ba Lan, đồng thời xuyên qua cái nhìn đầy phê phán với những hiện tượng bệnh hoạn của xã hội tư sản, thêm trân trọng gìn giữ và phát triển những giá trị thật sự tốt đẹp đang quyết liệt đấu tranh chống các hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội phức tạp của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, góp thêm một tiếng nói nghệ thuật chống lại các biến tướng của chủ nghĩa cơ hội. Hà Nội, 01 - 1987 Hồng Diệu *** Tác phẩm:  Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma Thầy Lang Giáo Sư Wilczur Mời các bạn đón đọc Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma của tác giả Tadeusz Dolega-Mostowicz.
Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông
Xuyên suốt cuốn sách là một bản tình ca nhẹ nhàng, sâu lắng mà cũng không kém phần cảm động. Chuyện kể về tình yêu giữa Raip Efendi một người Thổ Nhĩ Kỳ có niềm đam mê với hội họa và Maria Puder - 1 họa sĩ người Do Thái với đôi mắt đen và làn da trắng muốt như tuyết, người mà Raip vẫn gọi là "Đức mẹ". Hai người họ gặp nhau ở Berlin và cũng tình cờ yêu nhau một cách say đắm cuồng nhiệt. Tuy ban đầu Maria có vẻ khá khắt khe, vạch ra ranh giới rõ ràng với Raip nhưng cô biết rằng bản thân đã yêu anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô luôn dằng xé cảm xúc bản thân vì cô đã mất niềm tin ở đàn ông từ lâu, chính Raip đã đem lại cho cô một hi vọng sống mới. Còn đối với Raip thì Maria thực sự là 1 "Đức mẹ" với đôi mắt đen rất khác biệt với các cô gái anh từng gặp, anh yêu cô bằng cả trái tim chân thành. Tuy nhiên cuộc đời rất không công bằng khi cướp đi mạng sống của Maria, khiến Raip phải chờ đợi suốt 10 năm trong vô vọng vì tưởng rằng cô đã phản bội anh để theo người đàn ông khác. Anh cưới vợ và sống một cuộc sống như người mất đi mọi tri giác, mọi cảm xúc của anh đã chết đi khi anh biết tin Maria vì sinh đứa con gái cho anh mà mất đi, để lại trong anh nỗi tuyệt vọng và dày vò suốt cuộc đời. Đến cuối đời anh vẫn sống trong sự cô đơn, bị sỉ nhục bởi chính người thân trong gia đình, anh chỉ tìm thấy sự bình yên khi ở bên Maria mà thôi. Một câu chuyện tình cảm động rất đáng để đọc. *** SABAHATTIN ALI sinh ngày 12 tháng 2 năm 1906 tại thành phố Egiơnidere, nay là thành phố Ardinê thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Bungari. Vào đầu thế kỷ này thành phố vẫn thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sau cuộc chiến tranh Bancăng ( 1912 - 1913 ), Bungari đã thu hồi mảnh đất ấy về mình. Năm 1927, sau khi tốt nghiệp trường trung học, Ali trở thành người thầy giáo nông thôn. Cuộc sống ở miền Iodơgađa ( Vùng trung tâm Anatôli ) đã làm cho ông kinh tởm. Những biến động lớn lao của xã hội hầu như không vang động được đến đây. Xung quanh vẫn là sự bóc lột tàn tệ, sự bất công, áp bức được khoác bộ mặt mới ngày càng tinh vi hơn, thâm độc hơn. Sự xung đột sâu sắc với cuộc sống xung quanh đã dẫn Ali đến ý nghĩ tự sát. Khó có thể nói được số phận của anh sẽ ra sao nếu như không có niềm an ủi duy nhất là văn học.  Vào cuối những năm 20 của thế kỷ, vì thiếu những giáo viên có kinh nghiệm, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã gởi một số giáo viên trẻ ra nước ngoài để học tập thêm. Lợi dụng cơ hội này như là một khả năng để thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt tù túng ở nông thôn và để tìm hiểu thêm về thế giới, Sabahattin Ali đã cố gắng thi đậu kỳ thi tuyển sinh. Năm 1928 anh được gởi sang Đức học tập, đầu tiên ở Pốtxđam, sau đó ở Berlin.  Cũng như nhiều thanh niên tiến bộ khác lúc bấy giờ, Ali mơ ước xóa bỏ sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân lao động. Anh đã cảm thấy điều ấy rất thấm thía ngay tại quê hương mình. Từ một đất nước lạc hậu, hoang tàn sau chiến tranh, Ali sang Đức là nhằm mục đích nắm vững kiến thức khoa học, văn hóa để phục vụ cho tổ quốc. Nhưng trong thời gian đó chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Đức đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng tiến dần đến việc nắm lấy chính quyền. Sự căm thù các giá trị tinh thần, văn hóa và nghệ thuật của bọn phân biệt chủng tộc và sô-vanh đã làm cho một số sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ đang học tập tại đó trở thành những người chống chủ nghĩa phát xít tích cực.  Một lần trong cuộc tranh luận, một người Đức theo chủ nghĩa xã hội - dân tộc đã xúc phạm đến lòng tự trọng của những sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ, Sabahattin Ali đã tát cho y một cái. Lợi dụng sự kiện này những người lãnh đạo hội kiều dân Thổ đã đưa Ali về nước. Đã từ lâu, người thực tập sinh bướng bỉnh cùng với những lời nhận xét cay độc, độc địa đối với bọn sinh viên Đức và Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa sô-vanh đã làm cho giới lãnh đạo để ý, khó chịu.  Bất chấp những kinh nghiệm cay đắng, Ali không hề có ý định dấu diếm những quan điểm chính trị của mình. Nhà văn, thường đọc thơ cho học sinh và đồng nghiệp nghe. Một trong những độc giả của anh lại là tên chỉ điểm của mật thám trá hình, qua sự tố giác của y, Sabahattin Ali bị bắt vào mùa hè năm 1938. Tòa án hình sự thành phố Kônhi đã xử anh 14 tháng tù giam vì tội "đã thóa mạ những nhân vật cao cấp của chính quyền ". Ali bị giam ở pháo đài Xinôp trên bờ biển Đen.  Tình bạn với những người cộng sản trong nhà tù Xinôp đã giúp Ali hiểu về chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc, khơi dậy trong lòng anh sự khát khao hiểu biết một cách khoa học những quy luật xã hội.  Vào đầu cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, trong đất nước Thổ Nhĩ Kỳ những thế lực đen tối bắt đầu ra sức hoành hành. Những tên phát xít người Thổ đã tổ chức những cuộc biểu tình và những vụ tàn sát đẫm máu. Các câu lạc bộ mà thực chất là các tổ chức phát xít được Berlin đài thọ đã ra sức truy lùng, theo dõi những trí thức yêu nước, tiến bộ để sau đó tìm cách thủ tiêu, giết hại. Vào năm 1939, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ còn tìm cách che đậy lập trường và thiện cảm của mình đối với chủ nghĩa phát xít, song hai năm sau, khi mà những chiến thắng tạm thời của Hitle ở mặt trận phía Tây làm xao động thế giới, thì chiếc mặt nạ của chính phủ cũng rơi ra. Thủ tướng Thổ lúc bấy giờ đã công khai lên tiếng " mong muốn tiêu diệt nước Nga Xô-Viết ".  Các tầng lớp nhân dân tiến bộ trong nước lúc đó đã phải đương đầu rất khó khăn với những thế lực phản động. Và trong cuộc đấu tranh này cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Sabahattin Ali : " Quỷ ám " đã giáng cho bọn phát xít bản địa một đòn đích đáng.  Trước đó tên tuổi nhà văn đã rất nổi tiếng qua những tác phẩm nói về những người công nhân, nông dân, những người thợ thủ công nghiệp và tầng lớp trí thức. Đó là tập thơ " Gió và núi " ( 1934 ), ba truyện ngắn : " Chiếc cối xay " (1935 ), "Arba " ( 1936 ), " Tiếng nói " ( 1937 ), cuốn tiểu thuyết "Uxup từ Kulzacka " ( 1937 ) và bây giờ là " Quỷ ám " (1940 ). Cũng theo lời Nazim Hikmet những tác phẩm trên đã làm cho Sabahattin Ali " trở thành thủ lĩnh của một trường phái văn học, mở ra một hướng đi mới trong văn xuôi Thổ Nhĩ Kỳ ". Hướng đi này trên quê hương nhà văn được gọi là : "Chủ nghĩa hiện thực xã hội."  Vào đầu những năm 40, một trong những chủ đề thu hút nhà văn là sự khủng hoảng trong ý thức cá nhân. Bằng kinh nghiệm sống của mình, Ali đã nhận thấy rằng chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản không thể dễ dàng từ bỏ những đặc điểm của mình dưới sự tác động của những yếu tố bên ngoài. Nhà văn đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn truyện vừa " Đức Mẹ mặc áo choàng lông ".  Có lẽ đây là tác phẩm tâm huyết nhất của nhà văn, chứa đựng ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nếu như không tính đến người dẫn truyện thì trong tác phẩm chỉ có hai nhân vật. Những nhân vật khác chỉ xuất hiện vài chỗ và cũng rất ngắn. Thành phố Berlin sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sự khủng hoảng kinh tế thế giới, những cuộc tranh luận của những sĩ quan Đức theo chủ nghĩa phục thù…toàn bộ những vấn đề này chỉ là một tấm phông cho những hoạt động của nhân vật chính, một thanh niên trí thức Thổ Nhĩ Kỳ trong câu chuyện bị hoàn toàn tách ra khỏi quê hương, sống trong thành phố Berlin xa lạ, không người thân thuộc. Người thanh niên đó cũng giống như Sabahattin Ali lúc còn trẻ mơ ước một tình yêu trong sáng, lành mạnh như là một biện pháp duy nhất để nhận thức cá nhân mình. Và một tình yêu như vậy đã đến với anh và nó đã chỉ cho anh thấy rõ hơn bản thân mình : một con người có cuộc sống nội tâm phong phú, có một tâm hồn trong sáng, cao thượng. Nhưng để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, để trở nên xứng đáng với tình yêu của mình thì tất cả những điều ấy hãy còn chưa đủ.  Cuốn truyện vừa của Ali cũng giống như một tác phẩm văn học chân chính khác là một bức tranh tổng hợp phức tạp về nhiều mặt của cuộc sống. Mọi người đọc có thể tìm thấy ở đó những điều bổ ích cho mình, còn chính tác phẩm đã trao cho độc giả chiếc chìa khóa để mở ra những điều lý thú khác mà trong cuốn sách không nói đến.  Đối với những người đọc tinh ý thì có thể nhận thấy nhân vật của tác phẩm mang nhiều nét của chính Sabahattin Ali lúc còn trẻ, đặc biệt là trong thời gian ông học tập tại Berlin. Một số nhà phê bình Thổ Nhĩ Kỳ dựa vào đó đã khẳng định rằng đây là tác phẩm tự thuật của nhà văn. Nếu như điều ấy là đúng thì chỉ đúng ở một điểm duy nhất : Sau nhiều năm, trở lại với những suy tư thời trai trẻ, Sabahattin Ali đã hoàn toàn đoạn tuyệt với những ảo tưởng ngây thơ của mình. Ông đã chỉ rõ rằng con người sống bằng những ước mơ lãng mạn của mình, dù cho đó là những ước mơ cao đẹp nhất, trong sáng nhất nhưng nếu không được củng cố bằng những tri thức thực tế của cuộc sống thì sẽ không có khả năng thay đổi được điều gì. Hơn nữa những ước mơ ấy có khi lại trở thành những cạm bẫy mà không dễ gì thoát ra nổi. Một tình yêu đôi lứa cao đẹp cũng chỉ có thể giúp cho nhân vật chính của chúng ta thoát khỏi sự vô nghĩa, đơn điệu trong cuộc sống của anh ta mà thôi.  Năm 1948, sau khi mãn hạn tù 3 tháng vì làm báo " Pasa nổi tiếng ", Sabahattin Ali đi đến quyết định cần phải rời khỏi Thổ Nhĩ Kỳ để tiếp tục cuộc đấu tranh. Ý nghĩ đầu tiên của ông là sang Bungari, đất nước nơi đã sinh ra ông và hiện đang có nhiều người Thổ sinh sống. Nhưng lý do quan trọng hơn cả là ở đó nhân dân đã và đang thực sự làm chủ vận mệnh của mình. Trong số những người bạn tù với Sabahattin Ali có một người tự xưng là đảng viên Cộng sản, anh ta hứa sẽ giúp nhà văn trốn ra nước ngoài. Nhưng thực chất đó là một kẻ khiêu khích do mật vụ cài vào.  Vào đầu tháng 3 năm 1948, Sabahattin Ali biến mất. Mãi đến vài tháng sau các báo mới đưa tin phát hiện thấy xác nhà văn trong khu rừng Karabain gần biên giới Bungari. Những người thân phải khó khăn lắm mới nhận được ra Sabahattin Ali.  Từ đó đến nay đã 38 năm trôi qua. Ngày nay những kẻ thù chính trị của nhà văn cũng phải thừa nhận rằng những sáng tác của ông đã trở thành những tác phẩm cổ điển trong nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng những tác phẩm và chính cuộc sống của mình, nhà văn đã và đang là tấm gương sáng chói cho một thế hệ nhà văn trẻ tiến bộ của Thổ Nhĩ Kỳ noi theo.  Hàng năm, người ta trao cho những nhà văn xuất sắc nhất giải thưởng cao quý mang tên Sabahattin Ali và đó là niềm tự hào của nền văn học tiến bộ Thổ Nhĩ Kỳ.   Mời các bạn đón đọc  Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông của tác giả Sabahattin Ali.
Cô Gái Mắt Nâu - Lisa Kleypas
Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Người Tình Hoạt Ngôn Smooth Talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Là một chuyên gia hôn lễ dày dặn kinh nghiệm, tôi đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho bất kì sự cố nào có thể xảy ra. Trừ bò cạp. Con quái vật cứ bò tới bò lui cạnh hồ bơi tự nhiên như nhà nó ấy. Trên đời này, còn thứ gì đáng nguyền rủa hơn bò cạp nữa chứ. Thường thì nọc độc của nó sẽ không giết chết bạn đâu, nhưng nó sẽ làm bạn thấy thà chết đi còn sướng hơn. Quy tắc đầu tiên để giải quyết những tình huống cấp bách là: không được mất kiểm soát. Nhưng con bò cạp đang bò như bay về phía này thì tôi còn hơi đâu mà quan tâm quy tắc hay là nội quy gì nữa chứ . Trong cơn hoảng loạn, tôi lục lọi túi xách, mà… trời đất quỷ thần ơi, cái túi nặng khủng khiếp, tới nỗi mỗi lần để ở ghế hành khách, cái nút báo động thắt dây an toàn trong xe tôi lại báo lên inh ỏi. Tay tôi rà qua cả tỷ thứ, nào là khăn giấy, bút bi, băng keo cá nhân, chai nước khoáng Evian, mấy thứ chai dưỡng tóc này nọ; rồi lăn khử mùi, nước khử trùng tay, lotion, bộ dụng cụ làm móng, trang điểm các kiểu; tới nhíp, hộp kim chỉ, chai hồ, tai nghe, kẹo ngậm, thanh sôcôla, các loại thuốc nhức đầu, đau bao tử,…còn có cả cây kéo, cây giũa móng, lược, chui bông tai, thun cột tóc, băng vệ sinh, thuốc tẩy vết ố, cây lăn quần áo, kẹp tăm, dao lam, băng keo hai mặt, và tăm bông nữa này. ... Mời các bạn đón đọc tập 4 của series Travis Family: ​Cô Gái Mắt Nâu của tác giả Lisa Kleypas