Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Mật Bức

        Natalia Alecsandrovna sinh ra ở Leningrad (hiện giờ là Saint Peterburg). Tốt nghiệp đại học kĩ thuật điện Leningrad. Bà đã từng là kĩ sư, lập trình viên, nhà báo của đài phát thanh Saint Peterburg và làm ở bộ phận tiếng Nga đài BBC.           Là tác giả của một loạt các truyện trinh thám, được xuất bản ở nhà xuất bản “Eksmo” trong seri “những tác phẩm Nga bán chạy nhất”, đồng thời là tác giả của những truyện trinh thám hiện thực ăn khách nằm trong tuyển tập các truyện trinh thám của nhà xuất bản “Olma-Press” và nhà xuất bản “Nheva”. Số lượng bản in các tác phẩm của bà ước tính khoảng ba triệu bản.           Natalia Alecsandrovna có một khả năng kiếm có trong việc nhận biết những điều bất thường trong cuộc sống hằng ngày. Văn phong đặc biệt giản dị và phong cách luôn thay đổi đã cuốn hút những nhà phê bình văn học hiện đại. Các mẩu truyện trinh thám của bà luôn kì dị và nhiều màu sắc, những người anh hùng hết sức giản dị và dễ gần, tình tiết cuốn hút và bất ngờ. Tư liệu cho các câu truyện đó được lấy từ những chuyến tham quan nước ngoài của bà và chồng. Sức tưởng tượng và khả năng làm việc của nữ văn sĩ gần như không có giới hạn, bà đã cho ra đời không dưới sáu mươi tiểu thuyết các thể loại.           Câu chuyện dưới đây với tựa đề là “Bí mật bức “Tuần tra đêm” là tác phẩm thứ hai trong bộ hai tác phẩm đã viết của bà. Cuốn thứ nhất với tựa đề “Code de Vinci” kể về cuộc tìm kiếm bức tranh “Madonna Litta” của Starugin và nữ cộng sự - một nữ nhà báo trẻ tuổi. Câu chuyện thứ hai kể về cuộc phiêu lưu của Starugin xung quanh những bí ẩn của bức tranh “Tuần tra đêm”…                                                                                        Dương An *** Lời nhà xuất bản           Một âm mưu táo bạo muốn phá hủy kiệt tác của thiên tài Rembrandt- bức tranh “Tuần tra đêm”.           Một vụ tự tử không giải thích nổi của hung thủ, kẻ có những hiểu biết về những điều huyền bí…           Bí mật gì ẩn giấu sau những lá bài Taro cổ?           Bí ẩn gì phía sau những phép màu trong tấm vải tranh kiệt tác của danh họa Hà Lan vĩ đại…           Để tìm kiếm đáp án, nhà phục chế nổi tiếng Starugin đã đến Praha. Thành phố huyền bí, trung tâm của những truyền thuyết Trung Cổ và của sự mê hoặc, dường như không chịu tiết lộ những bí mật của nó. Ai và vì cái gì đã giết những bản sao của các nhân vật chính trong bức tranh của Rembrandt. Bí ẩn gì trong tâm hồn người phụ nữ đã giúp đỡ Starugin trong chuyến đi đầy hiểm nguy của anh? Liệu có phải dòng máu phù thủy đang chảy trong người cô ta…           Một cuốn truyện trinh thám huyền bí đầy lôi cuốn!                                                                         Lidia Alecsandrovna nhắm mắt trong giây lát. Tất nhiên, điều này là không được phép, nhưng sự chuyển động không ngừng của đám đông phía trước khiến cô cảm thấy chóng mặt. Hôm nay ở bảo tàng Hermitage (*) đã có một sự ồn ào không thể tưởng tượng nổi, đặc biệt là ở đây, nơi cô đang trực – phòng Nhicolaiskii. (* Hermitage: Bảo tàng quốc gia Nga Hermitage là một trong những triển lãm nghệ thuật và bảo tàng lớn nhất, lâu đời nhất, quan trọng nhất và nổi tiếng nhất trong lịch sử văn hóa nhân loại thế giới. Những bộ sưu tập đồ sộ của Hermitage được trưng bày trong sáu tòa nhà lớn, mà tòa nhà lớn nhất là Cung điện mùa đông, thời trước cách mạng tháng Mười là nơi ở chính thức của Sa hoàng Nga. Những điểm nổi bật của bảo tàng Hermitage là những tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo, Leonardo da Vinci, Rubens, Van Dyck, Rembrandt, Poussin, Claude Lorrain, Watteau, Tiepolo, Canaletto, Canova, Rodin, Monet, Pissarro, Renoir, Cezanne, Van Gogh, Gauguin, Picasso, Matisse,… Ngoài ra còn rất nhiều tác phẩm nổi tiếng khác, bao gồm những đồ dùng trong hoàng cung, một loạt các đồ kim hoàn của Faberge – một nhà kim hoàn Nga nổi tiếng thế giới, và vô số các đồ kim hoàn cổ từ Đông Âu và Bắc Á.) Điều đó thật dễ hiểu, hôm nay người ta đã mở triển lãm một bức tranh- một bức tranh đặc biệt. Nó nổi tiếng không chỉ khắp châu Âu, kiệt tác “Tuần tra đêm” của danh họa Rembrandt. (Về Rembrandt : http://en.wikipedia.org/wiki/Rembrandt_Harmenszoon_van_Rijn ) Đúng là một sự kiện gây ấn tượng mạnh mẽ. “Tuần tra đêm”, bức tranh vốn chưa từng rời khỏi bảo tàng ở Amsterdam, đã thực hiện một chuyến chu du đầy bất ngờ qua một loạt thành phố châu Âu. Người ta muốn kỉ niệm sự kiện tác giả của bức tranh – Rembrandt van Rijn tròn bốn trăm tuổi. Madrid, Florences, Praha, và cuối cùng là Saint Petersburg… Dễ dàng đoán được, ngày hôm nay, buổi trưng bày đầu tiên, bảo tàng đông đến không thể chen nổi. Lidia Alecsandrovna mở mắt ra. Đám đông phía trước đã dày đặc đến không thể chịu nổi. Giọng nói đều đều của cô hướng dẫn viên át đi tiếng xì xào của đám đông:           - Cái tên “Tuần tra đêm” được đặt bởi Rembrandt chỉ bởi vì trong rất nhiều năm, bức tranh đã bị phủ một lớp bồ hóng từ lò sưởi than trong phòng họp của Đại đội dân quân Amsterdam. Thực sự mọi chuyện trong tranh diễn ra vào ban ngày, và ban đầu bức tranh mang tên: “ Sự khởi hành cùa đội cảnh binh dưới sự chỉ huy của Đại úy Frans Banning Cocq và Trung úy Willem van Ruytenburg”. Chỉ sau khi phục chế vào năm 1889 mới hiện ra lớp sơn ban đầu của bức tranh, và lúc đó người ta mới hiểu được ý tưởng của Rembrandt… (*Dân quân - những người khỏe mạnh đủ tiêu chuẩn để khi cần có thể được gọi để bảo vệ thành phố hay dập tắt bạo loạn*) Cô nhân viên day day ngón tay lên thái dương. Cô cảm thấy khó thở, không khí trong gian phòng đã ngột ngạt như ở vũng lầy. Trong góc phòng, một chàng trai bảo vệ đang đứng nhìn đám đông một cách lười biếng, chốc chốc lại nói gì đó vào chiếc máy bộ đàm màu đen. Lidia Alecsandrovna cố gắng khích lệ bản thân giữ trấn tĩnh. Một cậu bé tám tuổi tiến đến rất gần bức tranh, và cô nghiêm khắc nhắc nhở cậu bé lùi lại. Cô vẫn chưa hết khó chịu, giờ lại có thêm dự cảm bất thường, tuồng như có chuyện gì đó sắp xảy ra. Cô chưa từng bao giờ có linh cảm. Được giáo dục một cách kĩ lưỡng theo chủ nghĩa duy vật, cô hoàn toàn phản đối những gì thuộc về thần bí, và lúc này cô đang cố gắng loại bỏ cảm giác tồi tệ này. Để trụ được, cô lấy từ trong túi một lọ thuốc, đổ ra lòng bàn tay một viên nhỏ màu trắng và cho vào miệng.  Và đúng vào giây phút đó đã xảy ra chuyện mà cô sợ hãi nhất, việc mà thỉnh thoảng cô vẫn thấy trong những cơn ác mộng. Từ dòng người vô tận, một người nổi bật lên – một khuôn mặt trắng toát như thể đang đeo mặt nạ thạch cao, đôi mắt to đen và sâu hoắm, giống như hai cửa sổ trong bóng đêm. Lidia Aleksanđrovna không nhận ngay ra được đó là một bộ mặt phụ nữ. Cô chỉ cảm thấy rằng, linh cảm khó chịu lúc này đang trở thành hiện thực. Cần phải làm gì đó để có thể ngăn điều khủng khiếp sắp diễn ra, nhưng cô bỗng thấy toàn thân nặng như chì. Cô không thể nhúc nhích được, thậm chí không thể rời mắt khỏi bộ mặt trắng vô cảm kia… Ác mộng khủng khiếp của Lidia sắp trở thành hiện thực… Cô thường nghe các đồng nghiệp già kể rằng, vào khoảng hai mươi năm trước, tức vào năm 1985, một kẻ điên rồ đã mang theo một lọ axit và dao găm vào gian triển lãm tranh Rembrandt. Hắn hỏi nhân viên ở đó xem bức tranh nào giá trị nhất, và những người phụ nữ khi đó đã không nghi ngờ gì chỉ cho hắn bức “Danaju”. Tên điên khùng tiến đến gần bức tranh, hắt axit lên đó và như một con thú điên cuồng dùng dao đâm không ngừng lên bức tranh. Lidia đã có lúc cố thử hình dung cảm giác của những đồng nghiệp đó, khi mà tận mắt chứng kiến thảm kịch xảy ra, tưởng tượng rằng, họ đã phải trải qua cảm giác, dường như trước mặt họ là cái chết của một thiên tài thế giới… Và bây giờ chuyện đó đang xảy ra với cô! Người phụ nữ với bộ mặt trắng bệch vô cảm đang cố tách ra khỏi đám đông và từng bước tiến dần đến bức tranh. Viên thuốc trong miệng cô bắt đầu phát huy tác dụng. Lidia thở hắt ra, dường như đã xua hết những cảm giác khó chịu. Cô hô toáng lên và bắt đầu lao đến chỗ kẻ điên khùng. Trong tay kẻ lạ mặt là một thứ gì đó nhọn và sáng lấp loáng. Tiếng hô của cô được hơn mười người hưởng ứng, nhưng những vị khách tham quan hoảng hốt đã giạt sang hai bên, mở rộng lối đi cho kẻ điên rồ. Chỉ còn mình Ladia đang lao đến chỗ cô ả. Từ góc phòng, chàng trai bảo vệ mặc complê đen lao tới, nhưng anh ta còn ở rất xa. Lidia bị vấp, nhưng cô gượng đứng lên. Kẻ điên rồ bị vướng vào cô, ả cố gắng đẩy cô ra xa, đồng thời vươn tay cầm dao về phía bức tranh, cố gắng đâm thẳng xuống mặt vải… Cùng lúc đó, một người bảo vệ chạy tới nơi, anh ta nhanh chóng bẻ quặt tay cô ả ra sau và hét thất thanh vào máy bộ đàm… Mời các bạn đón đọc Bí Mật Bức "Tuần Tra Đêm" của tác giả Natalia Aleksandrovna.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.
Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.
Ngôi Nhà Số 12 - John Milne
Nancy bốn mươi sáu tuổi, một người phụ nữ trầm lặng, cô đơn, sống cô độc trong ngôi nhà và mớ tài sản do cha mẹ cô để lại. Chẳng có người bạn nào bên cạnh, Nancy đến Eastbourne để nghỉ dưỡng và kiếm bạn mới. Và cô đã gặp được Henry John, xấp xỉ ngũ tuần, góa vợ và đang sống cùng người em Isobel Jones trong một thị trấn nhỏ gần London. Cuộc gặp gỡ với Henry đã khiến Nancy nghĩ rằng từ nay cô sẽ không bao giờ phải cô đơn nữa. Nhưng Nancy đâu ngờ rằng, sau hôn lễ lặng lẽ, một cuộc đời bi đát hơn đang chờ đợi cô trong ngôi nhà mang số 12 đại lộ Rừng Sồi... Tình tiết nhanh, ngắn gọn, John Milne một lần nữa mang đến độc giả một bí ẩn mới đậm chất John Milne như đã từng gặp trong các tác phẩm như Con mèo đen, Đường hầm, Oliver Twist,... Liệu văn phòng thám tử Terry Mason và những người bạn của mình có phát hiện ra được bí mật đen tối trong ngôi nhà số 12? Liệu Nancy có thoát khỏi căn nhà u ám đó trước khi quá muộn hay chịu nằm chờ chết trong tuyệt vọng? Tất cả còn chờ các bạn độc giả cùng khám phá. *** Những nhân vật trong truyện Nancy Robert là một thiếu phụ bốn mươi tuổi. Cô ta đã sống cùng gia đình nhiều năm ở Ấn Độ. Đến năm 1970, gia đình cô chuyển sang nước Anh sinh sống. Cha mẹ cô giờ đây đã chết. Nancy trở thành một người phụ nữ trầm lặng và cô đơn. Henry John xấp xỉ tuổi ngũ tuần và góa vợ. Vợ hắn đã mất một năm trước đây. Isobel Jones trạc tuổi Nancy. Cô ta sống với anh trai mình là Henry John trong một thị trấn nhỏ gần London. Terry Mason là một người làm công tác văn phòng nhưng anh ta không thích công việc của mình. Anh ta luôn muốn trở thành thám tử. Một ngày nọ, Terry được hưởng một số tiền từ di chúc của người cậu quá cố, và giờ đây Terry Mason đã lập một văn phòng thám tử tư. Sheila Williams là bạn của Terry Mason trong nhiều năm. Cô ta làm việc cho một văn phòng môi giới bất động sản. Bill Evans là một người giao sữa. Anh ta lái một chiếc xe chở sữa đi đến các căn hộ để giao sữa vào mỗi sáng sớm. Tom Matthews là một cậu bé bán báo mười ba tuổi. Cậu ta cũng giao báo đến các hộ trong khu phố vào mỗi sáng sớm. Bob Wilkinson là một người bạn của Terry. Anh ta làm việc tại Sở Xã Hội. Gordon Burgess là bạn của bạn Terry. Anh ta làm việc tại Tòa Thị Chính.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Số 12 của tác giả John Milne.