Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gatsby Vĩ Đại

Gatsby vĩ đại (nguyên tác: The Great Gatsby) là một kiệt tác của nhà văn F. Scott Fitzgerald người Mỹ, được xuất bản lần đầu vào 10 tháng 4, 1925. Tác phẩm được đặt trong bối cảnh của vùng Long Island ở Mỹ trong mùa hè năm 1922. Tiểu thuyết này viết về thời kỳ sống của chính tác giả. Sau cú sốc và hỗn loạn của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Mỹ bước vào thời kỳ thịnh vượng chưa từng thấy trong những năm 1920 do sự cất cánh của nền kinh tế. Cũng trong thời gian này, Luật cấm buôn bán và sản xuất rượu được ban hành, làm tăng lên các tội phạm có tổ chức. Mặc dù Fitzgerald, giống như Nick Carraway trong tác phẩm của mình, tôn sùng sự giầu có, nhưng ông không thấy thoải mái với xã hội coi trọng vật chất quá mức và đạo đức lại không đi cùng với nó. Gatsby vĩ đại không được ngưỡng mộ trong lần xuất bản đầu tiên, chỉ bán được ít hơn 25.000 cuốn trong suốt 15 năm khi Fitzgerald còn sống. Mặc dù nó đã được chỉnh sửa thành kịch và đưa lên phim ảnh của Hollywood trong năm 1925, nhưng nó hầu như bị lãng quên trong thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới lần II. Sau đó, tác phẩm được xuất bản lại vào năm 1945 và năm 1953, lần này tác phẩm nhanh chóng có được số lượng độc giả rộng rãi. Hiện nay nó được coi là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của người Mỹ. Là bức chân dung của “Thời đại Jazz” (Jazz Age, cái tên do chính Fitzgerald đặt cho thời kỳ 1918 - 1929), đại gia Gatsby nắm bắt vô cùng sâu sắc tinh thần của thế hệ cùng thời ông: những ám ảnh thường trực về thành đạt, tiền bạc, sang trọng, dư dật, hào nhoáng; song đồng thời là nỗi âu lo trước thói sùng bái vật chất vô độ và sự thiếu vắng đạo đức đang ngày một lên ngôi. Phất lên nhanh chóng từ chỗ “hàn vi”, Gatsby, nhân vật chính của câu chuyện, những tưởng sẽ có tất cả - tiền bạc, quyền lực, và sau rốt là tình yêu -, nhưng rồi ảo tưởng tình yêu đó tan vỡ thật đau đớn, theo sau là cái chết tức tưởi của Gatsby, để cuối cùng lập tức bị người đời quên lãng. Là lời cảnh tỉnh để đời của Scott Fitzgerald về cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”, Đại gia Gatsby được ví như một tượng đài văn học, một cánh cửa cần mở ra cho những ai quan tâm tới văn học và lịch sử tinh thần nước Mỹ thời hiện đai. Năm 2007, trong một cuộc bầu chọn 10 tác phẩm vĩ đại nhất của mọi thời đại do tạp chí Time tổ chức khảo sát lấy ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời, gồm các tên tuổi lớn như Franzen, Mailer, Wallace, Wolfe, Chabon, Lethem, King, Gastby vĩ đại được chọn vào top 10 kiệt tác văn chương vĩ đại nhất mọi thời đại. Kiệt tác này cũng được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông và các khóa giảng về Văn học Mỹ tại các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới. *** Tiểu thuyết viết về cuộc đời vinh quang và tủi nhục của Jay Gatz, tên gọi tắt của Gatsby, nhân vật chính trong tác phẩm. Chàng là người bình dị, xuất thân trong một gia đình nghèo và yêu say đắm Daisy Buchanan, một phụ nữ giầu có và xinh đẹp. Gatsby đã bất chấp những thủ đoạn mờ ám chiếm được một tài sản lớn nhằm chinh phục người đẹp. Thế nhưng, khi bước chân vào thế giới thượng lưu Mỹ ở vùng Long Island, chàng chỉ thấy những trò giải trí vô bổ, những thói lẳng lơ của người đẹp. Xã hội đó lợi dụng và hất cẳng chàng, Daisy cũng rũ bỏ chàng, khiến Gatsby thất vọng đi đến một kết cục kinh hoàng.Tiểu thuyết Gatsby vĩ đại của F. Scott Fitzgerald ghi lại tâm trạng mất mát, chán chường, chiều hướng của những giấc mơ vàng của tuổi trẻ bị tan vỡ trong thất bại ở "thời đại nhạc Jazz". Với giọng văn mỉa mai, trào lộng, ý nghĩa tinh tế, Fitzgerald đã thể hiện những suy ngẫm, những vấn đề của con người và thời đại mình. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald Mời các bạn đón đọc The Great Gatsby của tác giả F. Scott Fitzgerald.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mù Lòa - Jose Saramago
"Mù lòa" giống như câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Mù lòa là cuốn tiểu thuyết siêu thực, đa nghĩa, đầy ẩn dụ được nhà văn José Saramago viết năm 1995. Năm 2008, Mù lòa được chuyển thể thành phim và chiếu mở màn tại Liên hoan phim Cannes. Đó là câu chuyện hư cấu về một thành phố kỳ lạ - thành phố bỗng dưng hóa mù.  ... Căn bệnh mù trắng đã lan ra ngoài bốn bức tường của phòng giam, vỏ bọc của xã hội thành thị văn minh sụp đổ hoàn toàn và trở về trạng thái nguyên thủy man rợ. Toàn bộ cơ sở hạ tầng của thành phố bị phá hủy, mối liên kết giữa các cá thể trong cộng động sụp đổ hoàn toàn. Xác chết ngập đường, lương thực thiếu thốn, người nọ chiếm cứ nhà của người kia, ai cũng làm đủ mọi cách để sinh tồn, bất chấp việc chà đạp lên đồng loại… Chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng ấy, vợ ông bác sĩ - người sáng mắt duy nhất đã có lúc thốt lên mong muốn được mù như mọi người, “mù nhưng thấy”. Không phải bỗng dưng tác giả mở đầu cuốn sách bằng câu đề từ: “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát”. Lời đề từ như tiếng sấm truyền từ một cuốn sách cổ xưa để lại, khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, thảng thốt. Thì ra từ “thấy” đến “nhìn” và “quan sát” là cả một chặng đường dài về nhận thức mà không phải kẻ “mắt sáng” nào cũng làm được.  Mù lòa giống như một câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago đã cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Hơn hết, Mù lòa đặt ra cho người đọc những triết lý nhân sinh cần suy ngẫm qua lời vợ ông bác sĩ nói trong phần kết của tác phẩm: “Em không nghĩ chúng ta đã hóa mù, em nghĩ từ trước đến giờ chúng ta vẫn mù, Mù nhưng nhìn được, Những người mù có thể nhìn được, nhưng không thấy”. *** Jose Saramago sinh năm 1922 tại Azinhaga, thuộc tỉnh Ribatejo, Bồ Đào Nha. Tác phẩm của ông đầy chất huyền thoại và đa nghĩa, gợi lại cổ tích qua cách nhìn độc đáo về lịch sử, xã hội và con người. Văn của ông đi sâu vào chỉ tiết, châm biếm và dí dỏm, siêu thực và đầy ẩn dụ. Mãi đến năm sáu mươi tuổi ông mới được nhiều người biết đến qua tác phẩm Memorial do Convento (Ký ức về nhà tu kín, 1982). Tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi nhất của ông là O Evangelho Segundo Jesus Cristo (Phúc âm theo Chúa Jesus, 1991), bị Thứ trưởng Ngoại giao Bồ Đào Nha loại khỏi danh sách các tác phẩm đề cử giải Văn chương châu Âu. Ông nhận giải Nobel Văn chương năm 1998. Một số tác phẩm của ông gồm có: Manual de Pintura e Caligrafia (Cẩm nang hội họa và thư pháp, 1977), Viagem a Portugal (Du lịch Bồ Đào Nha, 1981) O Ano da Mortc de Ricardo Reis (Năm vua Ricardo băng hà, 1984), A langada de Pedra (Chiếc bè đá, 1986), História do Cerco de Lisboa (Trận bao vây Lisbon 1989), Todos os Nomes (Mọi cái tên, 1997), O Conto da llha Desconhecida (Chuyện hòn đảo vô danh, 1997), A Caverna (Hang động, 2001), O Homem Duplicado (Kẻ giống hệt, 2003), Ensaio sobre a Lucidez (Trong sáng, 2004), Don Giovanni ou O Dissoluto Absolvido (Don Giovanni hay Gã phóng đãng vô tội, 2005), As Intermitências da Morte (Thần chết tạm nghỉ, 2005), As Pequenas Memórias (Kỷ niệm ấu thơ, 2006), A Viagem do Elefante (Chuyến đi của con voi, 2008), Cain (2009). Mù lòa (Ensaio sobre a Cegueira, 1995) dịch từ bản tiếng Anh, Blindness, của Giovanni Pontiero, ông mất trước khi sửa xong bản dịch; Margaret Jull Costa hoàn tất việc sửa bản tiếng Anh; nhà xuất bản Harcourt, Florida, ấn hành năm 1999. “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát.” Mời các bạn đón đọc Mù Lòa của tác giả Jose Saramago.
Hội Những Trái Tim Cô Đơn - Elizabeth Eulberg
Dành tặng EEC thân yêu. Dành tặng đặc biệt đến Dav Pilkey, người đầu tiên khích lệ tôi viết cuốn sách này. Đều là lỗi của anh hết đấy nhé! Tớ, Penny Lane, trịnh trọng xin thề suốt cuộc đời còn lại sẽ không hẹn hò với đứa con trai nào nữa. Ừm, có lẽ mươi mười lăm năm nữa tớ sẽ cân nhắc lại lời thề này, khi tớ không còn sống ở Parkview, bang Illinois nữa, hoặc khi tớ học xong tại trường Trung học McKinley, nhưng lúc này tớ sẽ không dính líu gì đến tụi con trai nữa. Tụi nó chỉ biết nói dối, lừa phỉnh. Đấy, tất tần tật. Toàn là quỷ dữ. Đúng là vẫn có vài người tử tế, nhưng ngay khi bọn họ đạt được mục đích, họ sẽ đá đít bạn và chạy theo mục tiêu mới. Vì thế tớ chán ngấy rồi. Không hẹn hò gì nữa. Chấm hết. Yesterday "Love is such an easy game to play…" *** “Hài hước, ấn tượng. Một cuốn sách cần phải đọc và thích hợp với bất kỳ ai đã từng yêu – hay thề sẽ vĩnh biệt tình yêu” (Stephen Meyer). 16 tuổi, hâm mộ ban nhạc The Beatles, Penny Lane phát ốm với đám con trai và chán ngấy việc hẹn hò sau khi mối tình với cậu bạn thanh mai trúc mã tan vỡ, mối tình khiến cô cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. Bởi vậy cô nàng thề sẽ từ bỏ tình yêu và thành lập “Hội những trái tim cô đơn”, sẽ chỉ tập trung vào việc học và quan tâm tới bản thân mình. Nhưng Penny chẳng ngờ được là có bao nhiêu cô nàng cũng có tâm trạng giống mình và muốn gia nhập hội. Thậm chí cả những cô nàng trước giờ cô chưa từng nghĩ sẽ quan tâm tới nó cũng muốn tham gia. Và rồi có những điều không tưởng nổi đã xảy ra… Thế còn bạn, bạn sẽ làm gì khi bạn là thành viên sáng lập một cái hội chống-hẹn-hò nhưng lại bắt đầu rung rinh trước một anh chàng đẹp trai, dễ thương và quan trọng hơn cả anh ta rõ ràng là muốn hẹn hò với bạn? Đọc qua “Hội những trái tim cô đơn” thoạt tiên ta sẽ ngỡ cuốn sách viết cho lứa tuổi mới lớn và nó quá “trẻ” đối với những người đã trưởng thành, nhưng không hẳn vậy. Với văn phong thực sự hấp dẫn với những chủ đề xoay quanh tình bạn, tình yêu và cả những giá trị đích thực của bản thân mỗi người, Elizabeth Eulberg đã khiến mọi người cảm nhận được những điều thú vị và hấp dẫn mọi lứa tuổi trong tác phẩm của mình. “Hội những trái tim cô đơn” sẽ làm cho bạn đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác cùng với những chi tiết vui nhộn, đáng yêu. Một cuốn sách thú vị trong mùa Valentine dành tặng mọi lứa tuổi, những ai đã hẹn hò và cả những trái tim vẫn chưa tìm được nửa kia của mình. .... Mời các bạn đón đọc Hội Những Trái Tim Cô Đơn của tác giả Elizabeth Eulberg.
Hành Trình Tình Yêu - Katie Fforde
Lời thề từ bỏ đàn ông nhiều khi lại bị phá vỡ bởi chính những người đàn ông giàu lòng kiên nhẫn. Jo Edwards không bao giờ định sống trên một cái sà lan. Cô thậm chí không chắc là mình có thích thuyền hay không. Nhưng khi chồng cô đổi cô để lấy một một người mẫu trẻ hơn, cô nhận ra các lựa chọn của cô bị giới hạn một cách đáng lo ngại. Dora Hamilton không bao giờ lập kế hoạch trốn chạy trong đám cưới của chính mình. Nhưng khi ngày trọng đại đó đến gần, bàn chân lạnh lẽo của cô chẳng có dấu hiệu gì của sự ấm áp – và việc chấp nhận lời mời ẩn náu của Jo trên con tàu Ba Chị Em dường như là sự lựa chọn duy nhất. Khi Jo và Dora bắt đầu làm mới cuộc sống lộn xộn của họ, họ nhận ra cả hai cần có một cái nhìn thực tế để giúp họ ổn định. Nhưng, bất chấp lời thề từ bỏ đàn ông, họ không thể nào chống lại được sự can thiệp đầy kiên trì của anh chàng Marcus điển trai nhưng bí ẩn, cùng anh chàng Tom quyến rũ và giản dị, những người dường như quyết định giúp đỡ họ cho dù họ có thích hay không… *** Dora đặt mấy cái túi xuống và nhìn người phụ nữ đang vẫy tay với cô bên kia mặt nước. Theo hướng dẫn, cô đã bắt taxi từ nhà ga của cái thị trấn xinh xắn bên bờ sông Thames này và được thả xuống ở cổng bến thuyền. Rồi cô gọi điện thông báo mình đã tới. Bà chủ nhà mới của cô sẽ đón cô và dẫn cô vào trong. Cô vẫn nhận ra bà ấy, dĩ nhiên, nhưng mẹ người bạn thân nhất của cô đã thay đổi đôi chút so với lần cuối cô gặp bà. Bà đang mặc áo sơ mi khoác ngoài dài thòng và quần jeans thụng. Trước kia, bà thường mặc kiểu quần áo mà những phụ nữ tỉnh lẻ như mẹ cô hay mặc: váy, áo lụa, hoặc có thể là một cái áo phông ôm sát người, với áo len casơmia tròng ra ngoài. Tóc bà, vốn được chăm chút gọn gàng vì một tuần đến tiệm làm đầu một lần, bây giờ trông khá bù xù, xơ xác. Tuy nhiên, bà đang mỉm cười ấm áp, và Dora cảm thấy rốt cuộc việc tìm đến bà nương tựa có thể chẳng phải một ý kiến tồi. “Làm thế nào mà cháu xoay xở được với đống đồ này trên tàu hỏa thế?” Bà Edwards hỏi khi băng qua cây cầu tới chỗ Dora. Bà nhấc mấy cái túi “dùng được nhiều lần” căng phồng những chiếc áo len dài tay. “Và tại sao cháu lại cần chỗ áo len này? Đang là tháng Năm mà!” “Mẹ cháu nói ở trên thuyền lúc nào cũng lạnh,” Dora giải thích với vẻ áy náy. “Và những người đi cùng chuyến tàu đã giúp đỡ cháu nhiều,” cô nói tiếp, nhớ lại sự tốt bụng của họ đã gần như khiến cô òa khóc thế nào. Cô rất mong manh, điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể khiến cô xúc động. “Cô thực sự nghĩ rằng, nhìn chung thiên hạ vẫn tốt bụng hơn những gì người ta đồn thổi,” bà Edwards nói, lịch sự lờ đi lời nhận xét về cái lạnh và những con thuyền. “Giờ thì theo cô.” Dora đeo ba lô lên lưng và đi theo bà trên con đường dẫn đến một cái cổng thép cao. Bà Edwards rướn người về đằng trước và chạm vào một tấm kim loại. Cánh cửa kêu bíp bíp và bà đẩy nó ra. “Cô cất chìa khóa từ trong áo lót,” bà giải thích. “Tay cô lúc nào cũng bận xách thứ gì đó. Cô sẽ đưa cháu một chìa riêng, để cháu có thể ra vào tùy ý.” Bà liếc nhìn Dora. “Được không?” Dora gật đầu và theo bà Edwards xuôi theo lối đi bộ dẫn đến dãy cầu phao. Mỗi chiếc cầu phao đều cột một con thuyền. Mặc dù rất muốn nhìn chúng, Dora vẫn mừng vì bà Edwards không dừng lại - ba lô của cô quá nặng. Họ đã đi qua khoảng bốn chiếc thuyền, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, trước khi bà Edwards dừng lại cạnh một chiếc thuyền lớn sơn màu xanh lá cây đậm. “Đây là chiếc Ba chị em. Ban đầu nó có một cái tên Hà Lan, nhưng chẳng ai phát âm được, vì thế Michael, chủ sở hữu của nó, đã dịch tên nó ra như vậy. Đó là một cái tên phổ biến dành cho những con thuyền Hà Lan.” Bà Edwards quẳng mấy cái túi lên thuyền rồi nhảy phốc qua mạn thuyền với sự lanh lẹ không ngờ. Dora nghĩ mẹ cô sẽ phải cố hết sức mới làm được việc đó, nhưng rồi nhớ lại rằng mẹ cô đã luôn phải nỗ lực trong mọi việc, đó là một phần lý do tại sao cô ở đây. Bà Edwards quay lại, chìa tay cho Dora. “Đưa cô mấy thứ đó, rồi nếu cháu đặt chân ở kia, cháu có thể lên thuyền khá dễ dàng. Chỉ cần luyện tập một chút thì cháu sẽ nhảy lên nhảy xuống con thuyền này như một con cừu non thôi.” ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Tình Yêu của tác giả Katie Fforde.
Dấu Vết Của Mẹ - Marta Dzido
Kịch bản không có gì đặc biệt. Hai cô cậu học trò cuối cấp và cái thai không mong muốn, cuộc trốn chạy của chàng trai vô trách nhiệm. Cô gái cố gắng sống bình thường, quên đi cậu bạn và chạy trốn sự cô đơn… Nhưng Dấu vết của mẹ là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, với một sự già dặn đặc biệt, nhất là khi tác giả viết nó lúc chưa tròn hai mươi. Với dấu vết của mẹ, Marta Dzido đã bước vào hàng ngũ những nhà văn trẻ quan trọng nhất của Ba Lan. *** Năm 1956. Một mùa hè ngột ngạt. Hai người phụ nữ ngồi chờ trước phòng khám phụ sản. Một người rất trẻ, gần như một cô bé, vì ai cũng chỉ đoán cô mười tám tuổi là cùng mặc dầu cô đã hai mươi sáu tuổi - có hẹn đến phá thai. Cô có hai con nhỏ, một ông chồng lao phổi, không việc làm, không kế sinh nhai. Người phụ nữ thứ hai - già hơn, ăn mặc chỉn chu và lịch sự - bị vô sinh, tuy nhiên bà ta vẫn đến bác sĩ với hy vọng được giúp đỡ. Họ bắt đầu nói chuyện. Cô gái chờ làm thủ thuật nói rằng cô ta không thể có đứa con thứ ba, cô không biết phải xoay sở thế nào, rằng chồng cô sắp chết, rằng cô đã kiệt sức và rằng… Người không thể có con nói: - Em cứ để đẻ đi, chị sẽ nhận cháu bé, chị sẽ nuôi dạy nó, yêu thương nó… - Không, không thể như thế được - cô gái muốn bỏ cái thai nói. - Chị sẽ trả tiền cho em - người thứ hai nài nỉ. - Không mà, chị... - Nhưng chị sẽ trả thật mà. Nhiều… - và chị ta rút từ ví ra một tệp tiền. - Đây, em cầm đi, em cứ cầm rồi suy nghĩ, được không? - Xin chị để cho tôi yên - cô gái chờ làm thủ thuật nói. Cô ta đứng dậy rồi chạy khỏi bệnh viện. Sáu tháng sau cô ta sinh một bé gái. Hai mươi bốn năm sau bé gái ấy sinh một bé gái khác.   Năm 2000. Cô gái út trong số ba chị em gái đã lớn. Mặc dù đã hai mươi tuổi nhưng trông cô như một đứa trẻ con và không một ai có thể nghĩ rằng cô lại là mẹ của một bé gái mấy tháng tuổi. Lại một mùa hè ngột ngạt, và cô gái ngồi trong bệnh viện, chờ vào khoa phụ sản. Bây giờ để phá thai phải trả hai ngàn zloty. Ngồi cạnh cô là một phụ nữ ăn mặc chỉn chu và lịch sự, nhưng họ không chuyện trò gì. Cô gái đã hẹn với bác sĩ, người sẽ làm cái việc phá thai. Từ hai ngàn, anh ta giảm xuống tám trăm, có lẽ anh ta thấy thương cho cô. Cô ta đến chỗ bác sĩ với cái thai năm tuần tuổi và một đứa bé ba tháng tuổi trên tay, cô nói là bác sĩ của bệnh viện bảo cho con bú sữa mẹ đều đặn là biện pháp tránh thai tốt nhất. Rằng hoóc môn của thuốc tránh thai sẽ vào sữa và có hại cho đứa trẻ, còn đặt vòng thì lại quá sớm. Cô ta tin, vì bác sĩ cơ mà, nhất định phải biết thế nào là tốt nhất chứ. Và giờ đây cô đang mang thai, cái thai mà chỉ một tiếng nữa thôi sẽ không còn nữa. Khi mọi việc đã xong xuôi, cô gái như trút được gánh nặng, nhưng lại thấy xấu hổ vì không biết sẽ phải kể về chuyện này như thế nào và với ai. Cô không biết cái việc cô vừa làm xong được gọi là gì. Cô im lặng rất lâu, cho tới khi không giữ nổi nữa cô bèn viết sách. Về phá, nạo, vét, về phương pháp hút chân không, về sẩy thai, về tiết dịch và máu. Cô viết cuốn sách mà chỗ này chỗ kia còn khập khiễng, non nớt, lộn xộn, ngây thơ, một số câu bộc lộ vẻ ngoài kiêu căng của một nữ sinh trung học. Cô viết xong và lại thấy nhẹ nhõm. Cô mang cuốn sách đến nhà xuất bản, nhưng giám đốc nhà xuất bản, chị Beata S. nói với cô rằng không thể để thế được, rằng nếu đã viết cuốn sách về nạo phá thai thì cần phải có quan điểm rõ ràng, ủng hộ hay phản đối, và phải nói được điều đó một cách sáng sủa, dễ hiểu. Làm sao để độc giả không phải băn khoăn. Và nói chung là cần phải đầu tư thêm thời gian công sức. Nhưng cô gái đã không còn muốn nữa, cô cứ để cuốn sách nguyên xi như vậy, và mấy năm sau cô viết một cuốn sách khác. Lần này thì cuốn truyện thành công. Viết về thất nghiệp, về dân thủ đô hợm hĩnh ngạo mạn và về những cuộc hôn nhân thất bại. Cô gái xuất hiện trên báo chí và truyền hình, ở đấy cô không biết phải nói gì, mà họ thì hỏi đủ thứ - về nữ quyền, về giáo hoàng và về thế hệ gì gì đấy. Cô cười tươi, rụt rè nói: “vâng, vâng” hoặc là “không, không”. Không được một câu dài hơn. Cuối cùng người xuất bản, ông Piotr M. thuộc công ty đưa ra dự kiến: - Hay là chúng ta in cái cuốn về phá thai ấy? Nhưng cô gái do dự. Vì đã sáu năm rồi và có lẽ bây giờ tốt hơn nên viết cuốn mới chứ đừng có lôi mấy cái chuyện cũ rích ấy ra, không được đâu, mà cô cũng không muốn mất công vào đó nữa… Cuối cùng cô trả lời: - Nhưng đấy đâu có phải là văn chương hay ho gì… - Không sao - tiếng của người xuất bản trong ống nghe - nó chân thực và nói về một vấn đề quan trọng… - Nhưng em sợ - cô gái nói vào ống nghe - là mọi người sẽ hỏi đây có phải là viết về em không và có đúng là em phá thai không? - Đừng sợ, em có con cơ mà, đó là minh chứng tốt nhất cho việc em không phá thai… - Piotr M. nói. ... Mời các bạn đón đọc Dấu Vết Của Mẹ của tác giả Marta Dzido.