Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đảo Plum

Đảo Plum - một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị được Tuần báo Publishers nhận xét: "Sức lôi cuốn… Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương… cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm...". *** Tác Giả Nelson DeMille: Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. *** “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated *** Tác giả: Nelson Demille. Dịch giả: Đỗ Thúy Thể loại: Trinh thám, hành động, có chút cổ điển, phần nhiều hiện đại “Một thế kỷ trước, người ta thi thoảng mới phải đứng trước những ngã ba của cuộc đời và phải chọn lấy một hướng đi. Hôm nay, chúng ta sống bên trong một tấm vi mạch với hàng triệu con đường mở ra và đóng lại trong mỗi một phần tỉ giây. Điều tệ hơn là có ai đó đang bấm những chiếc nút”. ĐẢO PLUM Khi may mắn được biết đến tác giả Nelson Demille qua hai cuốn tiểu thuyết “Phía sau thảm họa” và “Lửa hoang”, tôi thật sự ưa thích những câu chuyện ly kỳ của tác giả này. Do đó, tôi đã để dành cuốn “Đảo Plum” khá lâu trước khi quyết định lấy ra đọc để vượt qua quãng thời gian hơi buồn chán trong việc đọc sách. Cuốn “Đảo Plum” đã giúp tôi có quá trình đọc thật sự thú vị, cười rất nhiều, say mê theo dõi những đoạn phiêu lưu máu lửa của nhân vật, và cuối cùng khép sách lại với cảm giác thỏa mãn 130%. Nhân vật chính vẫn là thanh tra cảnh sát John Corey thuộc lực lượng cảnh sát New York, nhưng lần này không có cô vợ xin-lỗi-tôi-quên-tên-cô-ấy-rồi bên cạnh. Truyện chỉ đề cập thoáng qua đến vợ cũ của ngài Corey, được cho biết rằng nghề nghiệp là luật sư. Bối cảnh truyện bắt đầu khi John Corey đang ở nhà ông cậu tại vùng North Fork của bang Long Island, New York để dưỡng thương sau khi bị bắn. Cảnh sát trưởng của vùng đến nhờ John tham gia với vai trò tư vấn vào cuộc điều tra vụ án mạng đôi, nạn nhân là hai vợ chồng nhà Gordon – từng là bạn với Corey. Vợ chồng Gordon là hai nhà khoa học làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bệnh dịch động vật trên đảo Plum, thực chất cũng là nơi nghiên cứu về các mầm bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm để phục vụ tấn công hoặc phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh sinh học / chiến tranh vi trùng. Trong quá trình điều tra, John Corey có dịp gặp gỡ những điều dễ chịu: quen được cô cảnh sát xinh đẹp thông minh Beth Penrose và chuyên gia lưu trữ tư liệu Emma Whitestone, nhưng đồng thời cũng đụng độ những gã khó nhằn và nhiễu sự thuộc FBI và CIA. Vì tình bạn với hai nạn nhân đã bị sát hại, Corey bất chấp mọi trở ngại để truy tìm hung thủ, dù điều đó thật sự gian nan. Trong cuốn tiểu thuyết này chỉ có một yếu tố mang hơi hướm hiện đại là chiến tranh sinh học, những điều còn lại vẫn khiến tôi đoán định rằng đây là một truyện trinh thám cổ điển, có lẽ vì chất nam tính cổ điển đậm đặc toát ra từ nhân vật chính. Truyện cũng không thấy nói gì đến lấy dấu vân tay, xét nghiệm nhóm máu, điều tra hiện trường kỹ lưỡng như trong những cuốn của Jeffery Deaver. Nhận xét thẳng thắn thì nhịp truyện khá chậm, quá trình điều tra được mô tả chi tiết tỉ mỉ, không ít lần dừng lại ở những đoạn chém gió giữa nam chính với nữ chính 1 và nữ chính 2, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn kiên nhẫn + thích thú đọc từng đoạn đến hết, không lướt trang nào. Có lẽ vì giọng văn vừa nghiêm túc vừa hài hước, cách xây dựng quan hệ nhân quả đọc thấy rất hợp lý, xen kẽ giữa những đoạn suy luận sắc bén là những trường đoạn hành động rất gây cấn, đúng kiểu không thể buông sách xuống. Đầu sách có lời bình của Dan Brown rằng “Nelson Demille là một bậc thầy về tiểu thuyết trinh thám”, quả thật như vậy, tuy cuốn “Đảo Plum” không được nhiều người khen như “Phía sau thảm họa” hoặc “Lửa hoang” nhưng cá nhân tôi cho rằng chỉ riêng cuốn “Đảo Plum” cũng hấp dẫn hơn vài trong số những cuốn Dan Brown mà tôi từng đọc. Đọc cuốn này, tôi cũng thấy rằng không phải chỉ có tác giả kiêm chuyên gia hàng hải Clive Cussler là có thể tả đại dương một cách ấn tượng. Trong “Đảo Plum”, Nelson Demille đã khiến tôi (và chắc là hàng ngàn độc giả khác trước và sau tôi) khó có thể quên những trường đoạn tả cảnh hành động trên biển và trong bão biển. Dù không có lời nào trực tiếp nói rằng “thiên nhiên thật hùng vĩ và đáng sợ” nhưng trong từng khoảnh khắc người đọc vẫn sẽ cảm nhận rõ rệt thiên nhiên hùng vĩ và đáng sợ trong truyện này. “Chiếc Plum Runner lách qua eo biển hẹp vào một vịnh nước nhỏ, dường như được tạo ra không phải bởi Thượng Đế vạn năng mà là quân đoàn xây dựng, những người thích đặt những nét hoàn thiện vào những công trình của tạo hóa”. Qua những cuốn của Nelson Demille mà tôi từng đọc, tôi đã ấn tượng với tính cách của nhân vật John Corey. Đến cuốn “Đảo Plum”, nhân vật này đặc biệt thể hiện rõ nét sự ngang tàng, mạnh mẽ, vô cùng hài hước, galant với phụ nữ ngay cả khi tính mạng bản thân đang lâm nguy nhưng vẫn giữ vững bản chất “vô độc bất trượng phu”. Trong hai cuốn trước mà tôi đọc, John Corey có một người vợ cũng là cảnh sát, tính cách độc lập và xuất sắc không kém chồng. Trong cuốn này, có lẽ vì Corey đang chờ đơn ly dị và độc thân tự do quyến rũ nên nam chính chiếm 60% ‘thời lượng’ truyện. Tôi thích cách Corey rất hiếm khi kiềm chế khi bị hút về phía phụ nữ, đã thích thì tấn công dữ dội, nhưng khi quyết định không dính dáng đến nữa thì lạnh lùng như sông băng. Tuy như vậy sẽ khiến phụ nữ có chút đau lòng, vì hầu hết nữ giới luôn khao khát được khao khát, nhưng cá nhân tôi tán đồng những người đàn ông cương quyết trong tình cảm (và trong những chuyện khác), thà rằng cắt đứt từ khi chưa có gì còn hơn khiến dây tơ hồng vướng víu khắp các lối mình từng qua. ____ Có lẽ vì lý do này mà tôi bắt đầu thích nhân vật John Corey nhiều hơn cả Dirk Pitt, đang mấp mé thích hơn cả Jack Reacher! Hãy xem vài câu nói khá hay ho của John Corey: “Ngoại giao là nghệ thuật nói những thứ khốn nạn cho dễ nghe, cho đến khi tìm được một hòn đá”. “Thật khó khi bạn có nhiều câu hỏi vào lúc hai giờ sáng, bạn lại đang căng lên vì chất cà phê và không có ai muốn nói chuyện với bạn”. “Những người làm chính trị sợ bất cứ thứ gì mà họ không hiểu, mà họ thì lại chẳng hiểu được thứ gì”. Tôi cũng thích cả hai nhân vật nữ trong truyện: Beth Penrose xinh đẹp như người mẫu và can trường như chiến binh, Emma Whitestone tinh thông kim cổ và tự tin trong ..mmhh.. một lĩnh vực quan trọng + cần thiết của cuộc sống (tức là tình dục). Tôi tin rằng ngoài đời thực vẫn có những phụ nữ dù bị vết thương đạn bắn nhưng vẫn có thể trải qua nhiều giờ lao đao trên một chiếc tàu cao tốc giữa cơn bão biển để săn lùng hung thủ, nhưng khi đọc thấy nhân vật Beth Penrose thực hiện những điều đó, tôi vẫn vô cùng thán phục cô ấy. Cả hai nữ chính đều có thể đối đáp ngang hàng với một John Corey tếu táo trong mọi thời điểm (kể cả lúc sắp chết). Dù bản thân không thích hình tượng Mary Sue nhưng khi đọc “Đảo Plum”, tôi vẫn mơ mộng mình sẽ có được sự kết hợp những ưu điểm của cả hai nữ chính trong truyện. Vâng, tôi vừa tham lam vừa phi thực tế. Tuy từ nhỏ đã có niềm yêu thích đặc biệt đối với truyện trinh thám (từ khi tôi còn chưa biết sách chia ra nhiều thể loại và trinh thám là một trong những thể loại đó) nhưng do tham gia hội trinh thám khá muộn (4~5 năm sau khi thành lập) nên tôi đã bỏ lỡ không mua nhiều cuốn hay, trong đó có những cuốn của Lee Child và Nelson Demille. Tuy vậy, tôi rất may mắn được các anh chị trong hội quý mến và rộng lượng cho mượn thật nhiều sách, kể cả sách cũ hiếm, do đó tôi vẫn có cơ hội được đọc những cuốn không còn bán ngoài thị trường, chẳng hạn như “Đảo Plum”. Đây là một cuốn sách bản to, bìa cứng, đủ nặng để không thể nằm đọc, thuộc loại sách mà tôi rất thích ôm đọc đến khi mỏi cả tay. Truyện được dịch thuật tốt, trình bày ổn, cốt truyện và văn phong đều khiến tôi hài lòng. Điều buồn cười duy nhất là thiết kế bìa quá kỳ dị. (Sea, 10-2-2021) Xin cảm ơn chị N. đã cho em Biển mượn sách Cáo Biển Non Xanh *** Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill,chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. Mời các bạn mượn đọc sách Đảo Plum của tác giả Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lá Thư Buộc Tội - Erle Stanley Gardner
Hai người phụ nữ trong văn phòng Perry Mason là một sự kết hợp mèo và chuột. Ở cái nhìn đầu tiên, dường như bà Davenport đóng vai chuột. Nhưng chồng bà lại cho rằng bà đã tìm cách sát hại mình ... rằng bà ta đã từng giết người nên chẳng ngần ngại mà ra tay một lần nữa. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Della Street, cô thư ký riêng của luật sư Perry Mason, bước vào văn phòng của ông ta và nói, “Thưa, có hai bà ở phòng ngoài nói là họ xin được gặp ông ngay bây giờ đấy.” “Về chuyện gì vậy, Della?” “Họ đâu có chịu bàn với một nhân viên thư ký quèn như tôi.” “Vậy thì cứ việc bảo với họ là tôi không tiếp được nhé.” Cô thư ký nói, “Họ đến cả một bầu đoàn mà.” “Sao?” “Họ mang theo va-li, mắt cứ nhìn đồng hồ, rõ là đang có ý chờ đón xe lửa hoặc máy bay, nhưng cần gặp cho được ông trước khi đi.” Cảm thấy động tính hiếu kỳ, Mason hỏi, “Trông họ ra làm sao?” Della Street nói, “Bà Davenport trông nhút nhát như chuột. Bà này còn trẻ, ăn mặc giản dị, có vẻ lấm lét.” “Trạc bao nhiêu?” “Khoảng gần ba mươi.” “Và rụt rè như chuột?” Cô thư ký gật đầu. Mason nói tiếp, “Thế còn bà kia?” “Nếu tả bà này rụt rè như chuột thì phải tả bà Ansel kia là táo tợn giống như mèo vậy.” “Trạc bao nhiêu?” “Chắc trên năm mươi.” “Hai mẹ con chăng?” “Có thể lắm.” Mason nói, “Cô con gái hiếu thảo cưng yêu bao lâu nay phải chịu đựng với một ông chồng cực kỳ vũ phu. Người mẹ phải tỏ thái độ bực mình để cự lại, còn anh chàng thì cứ mắng nhiếc cô vợ thậm tệ đủ điều. Bà mẹ và cô con gái đang có ý định bỏ đi hẳn một nơi nào khác. Họ phải lo bảo vệ quyền lợi của mình chứ.” Della Street nói, “Có thể là như thế. Nhưng mà họ đến đây với cả một đoàn lỉnh kỉnh.” Mason nói, “Bảo với họ là tôi không tiếp các vụ kiện liên quan đến chuyện gia đình, họ nên tìm gặp các luật sư khác trước giờ máy bay cất cánh.” Della Street lộ vẻ miễn cưỡng. Mason cầm lấy những văn thư trong đống hồ sơ đánh dấu “khẩn” do Della Street vừa đặt sẵn trên bàn giấy. Ông nói lớn giọng, “Ý cô là muốn tôi tiếp hai bà này hả, để thỏa mãn chút hiêu kỳ của giới phụ nữ. Thôi, xin miễn đi, cô bé.” Della Street ngoan ngoãn lẹ bước ra khỏi phòng, khoảng hơn nửa phút thì quay trở về. Mason hỏi, “Sao?” Nàng đáp, “Tôi bảo với họ là ông không nhận các vụ liên quan đến chuyện gia đình.” “Thế họ nói gì?” “Cái bà rụt rè như chuột chẳng nói gì cả.” “Còn bà táo tợn như mèo?” ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #44 Lá Thư Buộc Tội của tác giả Erle Stanley Gardner.
Người Được Minh Oan - Erle Stanley Gardner
Người ta bày ra một bữa tiệc nhỏ trên một con thuyền để bàn bạc những vấn đề mua bán một hòn cù lao. Nhưng mọi việc không suôn sẻ. Ngay sau đó một người bị ngã xuống nước và mất tích. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jane Keller bước vào tòa nhà Ngân hàng lúc ba giờ kém năm phút và đứng xếp hàng trước một cửa giao dịch phía trên có treo bảng Gửi tiền và trả tiền - J-M. Một người mặc bộ com-lê màu xanh, đứng không xa cửa ra vào, hình như chỉ đợi dịp đó, lấy ở trong túi ra một chiếc ví đã xỉn màu vì đã dùng lâu ngày, và tiến lên về phía cửa giao dịch. Jane Keller đưa mắt lơ đãng nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường. Bà ta có vẻ sốt ruột. Dòng người xếp hàng phía trước tiến bước một cách chậm chạp. Jane Keller lại phải nhìn đồng hồ một đôi lần nữa và chau mày. Người mặc bộ đồ xanh đã tiến lại gần bà, đó là một người khoảng bốn mươi tuổi, vẻ mặt hoạt bát và dễ bị kích động. Một nhà sinh lý học sẽ xếp ông ta vào loại những người đấu tranh, nhưng là loại người đấu tranh một kiểu riêng: những người này không ngần ngại đánh lén, nếu họ thấy chắc chắn bằng cách đó đem lại lợi ích cho mình. Người đàn ông lúc này đứng ngang với Jane Keller. Ông ta lấy ra năm tờ giấy bạc một trăm đô-la từ chiếc ví cũ đưa cho người đàn bà bên cạnh. “Đây, thưa bà Keller,” người đó nói. Những ngón tay của người đàn bà nắm lấy những tờ giấy bạc một cách máy móc. Sau đó một cảm giác ngạc nhiên, giống như một người đang ngủ bị đánh thức bất chợt thể hiện trên nét mặt. Bà ta nhấp nháy mắt. “Không, nhưng ông đừng phiền lòng!” một người nào đó càu nhàu với người đàn ông mặc bộ com-lê xanh. “Ông không thể xếp hàng như mọi người hay sao?” “Cái gì vậy?” Jane Keller hỏi. “Ông muốn cái gì ở tôi?” “Tôi là Scott Shelby,” người đàn ông trả lời rõ ràng. “Và số tiền này là tiền trả theo hạn trong 5 tháng của tiền thuê để được quyền khoan thăm dò dầu hỏa trên mảnh đất thuộc sản nghiệp của bà, được qui định trong hợp đồng thuê mướn. Ông Shelby nhờ tôi gởi cho bà.” Người ta có thể nói là ông ta đọc một bản tường thuật đã học thuộc lòng. “Bà hãy ký vào giấy biên nhận. Chỗ này, nơi đã đánh dấu… Đây, chiếc bút máy.” Vừa nói ông ta vừa lấy một cuốn biên lai, mở ra và đưa tới trước mặt Jane Keller. “Nhưng… Tôi không hiểu,” bà ta lắp bắp. “Ông Shelby không có lợi ích gì trong việc này… ông ấy đã khước từ sử dụng những quyền của mình…” “Không bao giờ!” “Nhưng đúng. Chắc chắn là như vậy! Việc này thể hiện ở chỗ đã nhiều tháng nay tôi không nghe thấy nói về ông ấy.” “Có thể là như vậy. Đó là tại sao tôi nộp cho bà 5 tháng tiền trả theo hạn, với một trăm đô-la một tháng. Đúng là như vậy, phải không ạ?” “Vâng!… Đó là cái giá đã thỏa thuận. Nếu ông ấy muốn giữ lấy quyền của mình, thì ông ấy phải nộp tiền hàng tháng.” “Ồ! Không!” Người đàn ông cười như thể một ông giáo nhận ra một trong số học trò của mình không thuộc bài. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #27 Người Được Minh Oan của tác giả Erle Stanley Gardner.
Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt - Erle Stanley Gardner
Luật sư Perry Mason tiếp một cô gái tóc vàng tên là Diana Regis với một bên mắt bị đánh bầm tím, cô ta nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình vì cô bị người khác đánh và bị vu cho là ăn cắp... Từ đây, nhiều vụ rắc rối xảy ra, có một án mạng mà nạn nhân là bạn của Diana Regis. Cảnh sát nghi ngờ Diana Regis là thủ phạm vì có rất nhiều chứng cứ buộc tội cô ta. Một lần nữa, luật sư lại ra tay giúp cô gái và ông đã phát hiện ra nhiều bí ẩn đằng sau vụ án mạng này. Cô gái có vết bầm trên mắt sẽ mang đến cho bạn nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị với kẻ sát nhân không thể đoán trước cho đến khi đọc tới những trang cuối cùng. *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Perry Mason ra hiệu cho cô thư ký lại gần và nói sẽ: - Della, một cô tóc vàng với bên mắt tím bầm lúc nào cũng là một hình ảnh bất thường, trừ phi cô ta thuộc loại ‘quậy’. Cô ta có dáng như vậy không? - Tôi không nghĩ thế, - Della Street đáp – rõ ràng cô ta có mối lo sợ ghê gớm về một chuyện gì đó… Cô ta có giọng nói thật hay, hình như là được sửa giọng. - Đang ở phòng đọc sách à? - Vâng. - Ăn bận ra sao? - Giày đen, chân không tất, áo măng tô lông thú. Gấu áo ngủ lòi ra ngoài. Thế thôi, không còn gì trên người nữa. - Còn vết bầm? - Trông mà phát ghê. - Mắt phải hay trái? - Mắt phải. Cô ta có mớ tóc vàng nhạt, mắt xanh to, mi dài. Chịu khó trang điểm, có thể rất xinh gái nếu mắt không có vết bầm. Theo mắt ông nhìn thì ông đoán cô ta 22 tuổi nhưng theo tôi ít ra cũng 26. - Cô ta tên gì? - Diana Regia. - Cái tên thật kỳ quặc - Cô ta bảo tên cô ta đúng như thế. Dầu sao cô ta cũng đang ở tình trạng quá xúc động và hốt hoảng. - Mắt có đỏ không? - Tôi không để ý. Cô ta có dáng bồn chồn, lo lắng nhưng không phải loại phụ nữ mau nước mắt. Gặp trường hợp gay go, cô ta sử dụng trí óc nhiều hơn là nước mắt. - Thôi được. Tôi sẽ gặp để hỏi lý do gì cô ta tìm đến tôi. Ông mở cửa phòng đọc sách ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #25 Cô Gái Có Vết Bầm Trên Mắt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Băng Cướp Thụy Điển
221 khẩu súng máy biến mất khỏi kho vũ khí quân sự quốc gia. Mười vụ cướp tàn bạo. Một quả bom phát nổ ở Nhà ga Trung tâm Stockholm. Không nhân chứng nào tường tận chuyện đã xảy ra, giới cảnh sát như bị bịt mắt, cả đất nước chìm trong hoảng loạn… Đó không chỉ là những tình tiết trong Băng cướp Thụy Điển mà chính là chuỗi sự kiện gây chấn động đất nước này hồi đầu thập niên 1990, và giờ đây tất cả được thuật lại sống động dưới ngòi bút người anh em trai của ba tên cướp lừng danh. Khắc họa rõ nét và chân thực từng vụ cướp khét tiếng, đồng thời cũng đi sâu vào mối quan hệ gia đình phức tạp nhưng khăng khít, Băng cướp Thụy Điển là một trong những tiểu thuyết tội phạm đáng đọc nhất năm nay.  “Hoàn toàn điên rồ, hoàn toàn liều lĩnh, và hoàn toàn xuất sắc...” - Nordjyske Stiftstidende  “Độc nhất và choáng ngợp. Một trong những tiểu thuyết lôi cuốn nhất của năm.” - Nhà văn Stephen Booth  “Một cuốn sách sâu sắc... miêu tả và phân tích tâm lý tội phạm vô cùng khéo léo và thuyết phục.” - Diversioni “Sự hòa hợp hoàn hảo của thực tế và hư cấu.” - Skanska Dagladet *** Từ xưa đến nay, bạo lực và giận dữ chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề. Mahatma Gandhi từng nói “An eye for an eye only ends up making the whole world blind” (tạm diễn dịch: Nếu ai cũng báo thù bằng cách 1 mắt trả 1 mắt thì thế giới sẽ toàn là người mù). Bạo lực có thể nào xuất phát từ tình thương và sự che chở không? Nếu dựa vào thứ gọi là “tình cảm gia đình” mà tự cho mình cái quyền đối xử bạo lực với người thân thì Biển nghĩ hành động đó thật sai lầm, vừa hại mình vừa hại người, và chỉ đẩy mọi người vào cảnh chỉ còn thân thể tồn tại nhưng tâm hồn đã hoàn toàn mất đi. Đã lâu rồi mới có 1 quyển sách đem đến cho Biển nhiều cung bậc cảm xúc như thế. Tuy mới vài tuần trước, quyển “Trảng đất trống” của Robert Dugoni đã khiến Biển khóc 3 lần, nhưng chính quyển “Băng cướp Thụy Điển” này mới khiến Biển từ bất mãn, giận dữ chuyển sang thỏa mãn, rồi lại hoang mang suy tư đủ điều. Qủa thật, những quyển sách được viết bởi 2 tác giả có những nét rất đặc sắc so với những quyển được viết bởi 1 tác giả. Nếu như ở quyển “Dị chủng”, từng dòng chữ bình thường cũng đem lại cảm giác bất an bồn chồn, thì ở quyển “Băng cướp Thụy Điển”, từng chương sách đều khiến Biển cảm thấy 1 sự giận dữ ngấm ngầm. Tính ra thì Biển đọc quyển này suốt 3 tháng, từ tháng 3~5/2018, vì những đoạn đầu khiến Biển rất bất mãn & không muốn đọc tiếp. 1 người vợ bị chồng bạo hành, 1 người phụ nữ khác thì chấp nhận lìa xa con mình để sống chung / để yêu 1 người đàn ông, người mà đem đến cho cô nhiều ngày giờ căng thẳng hơn là những giây phút yêu thương và an toàn. Nhưng rốt cuộc Biển đã lướt qua cảm giác bất mãn ban đầu để theo dõi tiếp quyển sách, càng về sau câu chuyện càng lôi cuốn. Tuy đầu sách có 2 dòng mang tính chất rất đánh đố như sau “Điều này cũng chẳng lấy gì làm quan trọng. Nhưng cuốn sách này được viết dựa trên một câu chuyện có thật” thì Biển cũng không hoàn toàn tin là nó có thật. Nhưng dù có thật hay không thì đây vẫn là 1 câu chuyện rất ấn tượng. Tưởng như bạo lực tràn ngập các vụ cướp, nhưng cá nhân Biển lại tập trung vào những tình tiết mà tính nhân văn được hé mở, tập trung vào những khoảnh khắc mà sự thiện lương còn nguyên vẹn chưa bị đánh mất. Chính những khoảnh khắc ấy đã lôi kéo Biển tiếp tục đọc. Những câu chữ miêu tả tâm lý tuyệt vời, cứ như người đọc đang được ở cạnh và chứng kiến trực tiếp từng khung hình. Đọc xong quyển này và những quyển khác của các nhà văn Thụy Điển, Biển chợt tự hỏi : chẳng lẽ ở 1 đất nước thuộc Châu Âu văn minh lại có tỷ lệ tội phạm và bạo lực cao như vậy sao, hay đó chỉ là tiểu thuyết? Sách khá to, dày, đúng kiểu Biển thích. Bìa có màu sắc đẹp, thiết kế sáng tạo. Trình bày hoàn hảo, chữ in to rõ, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy. Nhã Nam đã thành công rực rỡ khi xuất bản quyển sách này. Biển không thuộc loại thích khen 1 cách quá mức như thế này, nhưng Biển buộc phải khen quyển “Băng cướp Thụy Điển” này vì không có chỗ nào để chê. Biển cho điểm 10/10 vì đây là 1 siêu phẩm xứng đáng với mức điểm đó, nhưng nếu kết cuộc của nó lạc quan hơn thì Biển sẽ cho điểm cao hơn, khoảng 14/10. Đây là 1 quyển sách xứng đáng có trên kệ của các mọt sách nói chung và các mọt trinh thám nói riêng. *** Bà Ariadne Oliver đi với người bạn ở cùng, bà Judith Butler, giúp chuẩn bị một bữa tiệc cho các trẻ em trong vùng, diễn ra vào buổi tối hôm ấy. Khung cảnh hoạt động chuẩn bị lúc này hết sức rộn rịp. Các bà các cô hăng hái đi ra đi vào, người kê bàn, người giúp chuyển những chiếc ghế nhỏ, bê lọ hoa, và rất nhiều quả bí ngô đặt vào những chỗ được định sẵn một cách có chủ ý. Hôm nay là tiệc Hallowéen cho các vị khách độ tuổi từ mười đến mười bảy. Tách ra khỏi đám người hối hả trong phòng, bà Oliver đứng dựa vào bức tường trống, săm soi nhìn trái bí ngô khổng lồ trên tay. “Lần gần đây nhất tôi nhìn thấy bí ngô,” bà nói, tay khẽ vuốt những sợi tóc muối tiêu vương trên vầng trán cao, “là ở Mỹ hồi năm ngoái - cả trăm trái ấy. Bày khắp trong nhà. Đời tôi chưa thấy nhiều bí ngô thế bao giờ. Mà kỳ thực,” bà nói thêm, vẻ trầm ngâm, “tôi chẳng phân biệt nổi đâu là bí ngô và đâu là bí đao. Đây là loại nào nhỉ?” “Xin lỗi, bồ,” bà Butler vội nói khi vấp phải chân bà bạn. Bà Oliver càng nép sát vào tường. “Là lỗi của tôi,” bà nói. “Tại tôi cứ đứng quẩn chân, chắn lối mọi người đi lại. Nhưng hồi đó họ tổ chức cũng hoành tráng lắm, bao nhiêu là bí ngô, hay bí đao gì đó. Đi đâu cũng thấy, trong cửa hàng cửa hiệu, rồi thì từ nhà ra ngõ, khắp mọi nơi, người ta còn thắp nến hoặc đèn bên trong trái bí, hoặc buộc dây treo chúng lên. Hết sức vui mắt. Nhưng dịp ấy lại không phải trang trí cho tiệc Hallowéen, mà là Lễ Tạ ơn. Tôi thì cứ thấy bí ngô là lại nghĩ đến Hallowéen, tức là cuối tháng 10. Lễ Tạ ơn muộn hơn nhiều chứ nhỉ? Có phải tháng 11 không? Tầm tuần thứ ba của tháng 11 gì đấy? Dẫu sao thì, lại nói, Hallowéen là ngày 31 tháng 10 phải không? Đầu tiên là Hallowéen, rồi sau đó là gì nhỉ? Lễ Các đẳng linh hồn à? Ngày ấy ở Paris người ta đến nghĩa trang và đặt hoa viếng mộ. Cũng không phải ngày lễ buồn thảm gì đâu. Ý là, cả trẻ con cũng đi viếng nữa, và chúng thích thú lắm. Đầu tiên mọi người phải ra chợ hoa và mua thật nhiều nhiều hoa đẹp. Chẳng hoa ở đâu trông đẹp mắt bằng hoa ở Paris bán ở chợ ấy cả.” Các bà các cô hối hả qua lại, thi thoảng lại vấp phải bà Oliver, nhưng chẳng ai nghe bà nói. Ai cũng quá bận với công việc đang làm. Đa số họ là các bà mẹ, có một vài bà cô chưa chồng tháo vát; cũng có những cậu trai mười sáu mười bảy trèo thang hoặc đứng lên ghế để treo đồ trang trí, bí ngô hoặc bí đao, hoặc treo những quả cầu màu sắc sặc sỡ ở ngang tầm mắt; còn các cô bé mười một mười lăm tuổi túm tụm thành nhóm cười khúc khích. “Rồi sau ngày Các đằng và viếng mộ ấy,” bà Oliver lại tiếp tục, khẽ tựa người xuống tay vịn ghế sofa nhỏ, “là đến Lễ Các thánh. Tôi nói có đúng không nhỉ?” Không ai trả lời bà. Bà Drake, một phụ nữ trung niên quý phái, cũng là gia chủ tổ chức bữa tiệc, cất tiếng tuyên bố: “Tôi không định gọi đây là tiệc Hallowéen gì cả, dù tất nhiên, nó đúng là như thế. Tôi sẽ gọi đây là bữa tiệc Trên Mười Một Tuổi. Để chỉ độ tuổi người tham dự, hầu hết là những người sắp học hết trường Elms* và tiếp tục học lên các trường khác.” Elms là trường nội trú nam nữ ở Colwall, Herefordshire, Anh, dành cho trẻ em từ 2,5 đến 13 tuổi. “Nhưng gọi thế không chính xác lắm, có đúng không, Rowena?” cô Whittaker nói, tay chỉnh cặp kính không gọng trên mũi, ra vẻ không tán thành. Cô Whittaker vốn là giáo viên trường làng, rất kỹ tính về chuyện đúng sai trong lời ăn tiếng nói. “Vì chúng ta đã bãi bỏ chế độ trên mười một tuổi từ lâu rồi mà.” Bà Oliver đang ngồi tựa vào tay ghế vội đứng dậy, tỏ vẻ hối lỗi. “Nãy giờ tôi chẳng giúp được gì cả, toàn ngồi đây nói chuyện linh tinh về bí ngô với bí đao.” Và cho phép chân mình ngơi nghỉ một lúc, bà nghĩ thầm, lương tâm hơi có chút bứt rứt, nhưng lại chẳng đủ cảm giác tội lỗi để nói to suy nghĩ ấy ra. “Tiếp theo tôi có thể giúp gì đây?” bà hỏi, rồi chợt thốt lên: “Mấy quả táo này đẹp quá đi mất!” Ai đó mới bưng một tô lớn đựng táo vào đặt trong phòng. Bà Oliver vốn rất mê táo. “Táo đỏ đẹp quá,” bà tấm tắc khen. “Ăn không ngon lắm đâu,” bà Rowenda Drake tiếp lời. “Nhưng được cái trông đẹp mắt và hợp với buổi tiệc. Chỗ táo này là để cho bọn trẻ chơi trò dùng miệng lấy táo trong thau nước. Chúng khá mềm nên dễ cắn hơn. Bưng tô này vào trong phòng đọc sách được không, Beatrice? Trò cắn táo này lúc nào cũng làm nước bắn tung tóe khắp sàn, nhưng thôi kệ, thảm phòng đọc sách đằng nào cũng cũ rồi. Ôi! Cảm ơn cháu nhé Joyce.” Joyce, cô bé mười ba tuổi người rắn rỏi, hăng hái bưng tô đựng táo lên. Hai quả bị rơi xuống sàn và lăn tới chân bà Oliver thì ngừng lại, như thể có ai vẩy đũa phép điều khiển chúng vậy. “Bà thích táo mà, phải không,” Joyce nói. “Cháu có đọc được là bà thích táo, hoặc có khi cháu nghe trên tivi người ta nói thế cũng nên. Bà chính là người hay viết truyện trinh thám đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bà Oliver đáp. “Chắc phải mời bà làm gì đó liên quan đến mấy vụ án mạng mới được. Bà dựng một vụ án mạng trong buổi tiệc tối nay và cho mọi người phá án đi.” “Không, cảm ơn cháu,” bà Oliver nói. “Đủ lắm rồi.” “Là sao ạ? Sao lại đủ lắm rồi?” “Ờ thì, ta từng làm thế một lần, và kết quả không thành công chút nào,” bà Oliver nói. “Nhưng bà đã viết rất nhiều sách,” Joyce hào hứng, “bà kiếm được rất nhiều tiền nhờ đó phải không ạ?” “Ở một chừng mực nào đó,” bà Oliver đáp, tâm trí lang thang trở về Inland Revenue. “Và bà có một thám tử là người Phần Lan nữa.” Bà Oliver thừa nhận. Một cậu bé khác trông có vẻ lãnh đạm, bà Oliver đoán hẳn phải hơn mười một tuổi, nói với vẻ nghiêm nghị: “Sao lại là Phần Lan?” “Ta cũng thường tự hỏi như thế,” bà Oliver thành thực trả lời. Bà Hargreaves, vợ người đánh đàn ống ở nhà thờ thở hổn hển bước vào phòng, tay bê một xô nhựa lớn màu xanh lá cây. “Cái này thì sao,” bà nói, “để chơi trò cắn táo ấy? Có vẻ màu mè rực rỡ đấy, tôi nghĩ thế.” Cô Lee, người bán thuốc theo toa bác sĩ, đáp: “Xô mạ kẽm thì tốt hơn. Thế mới khó lật. Bà định đặt cái này ở đâu đây, bà Drake?” “Tôi đã nghĩ trò cắn táo nên tổ chức trong phòng đọc sách. Tấm thảm phòng ấy cũng đã cũ rồi, và thể nào cũng có nước vương vãi cho xem.” “Được rồi. Vậy để chúng tôi bưng xô này theo luôn. Rowena, đây thêm một giỏ táo nữa này.” “Để tôi giúp,” bà Oliver xăng xái. Bà nhặt hai quả táo dưới chân lên. Gần như quên bẵng mất mình đang làm gì, bà đưa một quả lên miệng cắn và bắt đầu nhai rau ráu. Bà Drake đưa tay giật lại quả táo thứ hai và đặt trở vào giỏ. Cả phòng dậy lên tiếng nói chuyện ồn ào. “Vâng, nhưng giờ biết tìm đâu ra hoa mõm sói?” “Bà phải có hoa mõm sói đặt trong phòng đọc sách chứ, đấy chắc là phòng tối nhất nhà rồi.” “Không, chúng ta phải đặt hoa trong phòng ăn.” “Ta phải phủ cái gì lên bàn trước đã.” “Bàn đã bọc một lớp vải len tuyết dài, rồi lại phủ một tấm cao su lên nữa.” “Thế còn các tấm gương? Chúng ta sẽ nhìn được các ông chồng trong đó chứ?” Len lén cởi giày và vẫn khẽ nhai miếng táo trong miệng, bà Oliver lại thả người trở xuống chiếc sofa nhỏ và chăm chú quan sát căn phòng đầy người qua lại. Lúc này bà bắt đầu dùng đầu óc nữ tác giả của mình để suy nghĩ: “Giờ thì, nếu mình định viết một cuốn sách về tất cả những người này, mình nên viết gì nhỉ? Họ đều là những người tử tế, mình nghĩ là vậy, nhưng ai mà biết được?” Một mặt, bà cảm thấy thật thú vị khi không biết gì về họ. Tất cả đều sống ở Woodleigh Common, vài người bà có biết đôi chút qua lời kể của Judith. Cô Johnson - hình như có liên quan nhà thờ, nhưng không phải là em gái của mục sư. À không, cô ấy là em người đánh đàn ống mới phải, đúng rồi. Rowena Drake, hình như chuyên chỉ đạo các hoạt động chung trong vùng Woodleigh Common này. Và cả người phụ nữ đang thở hổn hển sau khi bưng cái xô nhựa lúc nãy, một cái xô xấu đến phát gớm. Bản thân bà Oliver vốn chẳng bao giờ ưa nổi đồ nhựa. Rồi bọn trẻ con và các cô cậu tuổi choai. Đến bây giờ tất cả chỉ mới là những cái tên trong đầu bà Oliver. Cô bé Nan này, Beatrice này, Cathie, Diana này và Joyce, một cô bé khoác lác và hay hỏi lung tung. Mình không thích cô bé Joyce này lắm, bà Oliver thầm nghĩ. Cô bé kia tên là Ann, trông cao ráo và kẻ cả. Rồi hai cậu thiếu niên, hình như thích thử các kiểu tóc khác lạ, chỉ có điều kết quả không được tốt đẹp lắm. Một cậu bé người nhỏ nhắn rụt rè bước vào phòng. “Mẹ bảo cháu đem những tấm gương này đến xem có dùng được không,” cậu nói, giọng như hụt hơi. Bà Drake đón lấy các tấm gương: “Cảm ơn cháu nhiều nhé, Eddy.” “Chỉ là gương cầm tay bình thường thôi mà,” cô gái tên Ann lên tiếng. “Có thật bọn cháu sẽ nhìn thấy mặt chồng tương lai trong đó không?” “Có đứa sẽ thấy, có đứa không,” Judith Butler đáp, vẻ bí hiểm. “Bà đã bao giờ thấy mặt chồng mình khi đến một bữa tiệc chưa ạ - ý cháu là những bữa tiệc như thế này này?” “Tất nhiên là chưa rồi,” Joyce đáp thay. “Có lẽ bà ấy đã thấy rồi,” Beatrice lên giọng kẻ cả. “Cái đó người ta gọi là giác quan thứ sáu,” cô bé nói thêm, giọng hài lòng vì mình thông thạo những từ ngữ hợp thời. “Cháu đã đọc truyện của bà,” Ann nói với bà Oliver, “The Dying Goldfish. Cuốn đó hay đấy ạ.” cô bé lịch sự tán dương. “Cháu lại không thích cuốn đó,” Joyce lên tiếng. “Không đủ máu me. Cháu thích những vụ án đổ máu thật nhiều ấy.” “Thế thì hơi bẩn,” bà Oliver nói, “cháu không thấy vậy sao?” “Nhưng rất ly kỳ,” Joyce đáp. “Cũng không hẳn,” bà Oliver nói. “Cháu đã chứng kiến một vụ án mạng đấy,” Joyce la lên. “Đừng có ăn nói hàm hồ vậy chứ, Joyce,” cô giáo Whittaker lên tiếng. Mời các bạn đón đọc Băng Cướp Thụy Điển của tác giả Anders Rosluno & Stefan Thunberg.