Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tìm Mình Trong Thế Giới Hậu Tuổi Thơ

Tìm mình trong thế giới hậu tuổi thơ dẫn người đọc vào thế giới của người trẻ trên dưới hai mươi tuổi, lứa tuổi không còn trẻ con, nhưng cũng chưa thực sự là người lớn. Trong thế giới đó có những run rẩy của va chạm thân thể lần đầu, có lấp lánh của tình yêu, có những đêm dài, những chuyến đi xa, những hoang mang và băn khoăn hiện sinh. Nhưng bao trùm lên tất cả, như một tấm màn lớn, là nỗi đau. Nỗi đau từ sự cô đơn của đứa con vẫn được xã hội khen là “trưởng thành” và “ngoan,” từ sự trống rỗng nội tâm của đứa trẻ lớn lên trong một gia đình lạnh lẽo, từ sự tuyệt vọng của người trẻ bị giam cầm trong nhà tù mang tên tình yêu cha mẹ. Vang lên như những bài hát khi buồn đau khi dữ dội, những chân dung trong cuốn sách cùng các phân tích tâm lý học của tác giả sẽ khiến cha mẹ, thầy cô và tất cả những ai có người trẻ trong cuộc sống của mình phải thức tỉnh, phải ngồi xuống lắng nghe con em mình và suy ngẫm về bản thân, để học cách chữa lành và yêu thương đích thực. *** 1. “TÔI MUỐN MỌI NGƯỜI BIẾT RẰNG CÓ NHIỀU ĐỨA TRẺ VẪN ĐANG CHỐNG CHỌI TỪNG NGÀY ĐỂ LỚN LÊN THÀNH NGƯỜI TỬ TẾ” (Phương Anh, 20 tuổi, bỏ đại học)* Bạn đã xem Gordon Ramsay chửi như điên trong bếp, đúng không? Fuck! Fuck! Fuck! Fuck! Gordon Ramsay trong Master Chef ấy. Tôi cũng nóng tính như vậy. Hôm trước tôi rẽ qua tiệm bánh, nơi tôi làm bán thời gian kể từ khi bỏ Đại học Thương Mại để học làm bánh và quản lý nhà hàng. Tôi sẽ không kể là bố mẹ tôi phản ứng như thế nào, nhưng khi cấp Hai bạn học trường điểm và cấp Ba chuyên Chu Văn An thì bạn có thể đoán là chuyện bạn đi học nghề nó kinh khủng với bố mẹ như thế nào. Đến giờ tôi vẫn phải nói dối bạn bè của bố mẹ để giữ sĩ diện cho họ. Chỗ tiệm bánh tôi đang làm cũng có tới bảy, tám đứa bỏ đại học hoặc bảo lưu. Tôi hơi giật mình, “Có nhiều đứa giống mình vậy à?” Chưa bao giờ tôi hối hận. Từ khi học nghề tôi biết trân trọng lao động hơn. Tôi không ngại việc. Tôi chấp nhận một mức lương bèo bọt hay một công việc nặng nhọc nếu như tôi được học hỏi. Và tôi không phàn nàn khi phải đợi đồ uống lâu ở nhà hàng nữa, tôi biết là họ đang rất bận, họ đang rất cố gắng. Vậy là hôm đó tôi tới tiệm bánh, và thấy một cái bánh được làm rất cẩu thả. Tôi hỏi bọn chạy bàn, đứa nào làm bánh, rồi cầm cái đĩa lừ lừ vào bếp, đứng trước mặt nó. “Đ. con mẹ mày, làm cái đĩa bánh thế này à?” Nó giương mắt lên, “Làm sao?” “Làm sao cái con c.! Mày đéo biết nhìn à? Đ.m. mày mày xếp thế này à, mày vẽ thế này à? Mày có vấn đề gì không đấy?” Nó đổ cho đứa phục vụ làm đổ bánh khi bê ra. Tôi gọi đứa phục vụ vào, nó ngơ ngác, “Ơ không, em đi bình thường mà…” Tôi quay ra đứa làm bánh, “Bây giờ mày bỏ một trăm nghìn mày mua một cái đĩa bánh mà nhìn hình thức nó xấu, ăn vào nó đéo ra cái gì, mày có chịu được không? Không, đúng không? Mày tiếc tiền, đúng không? Mày có quay lại không? Không bao giờ!” Tôi chửi to lắm, bọn ở ngoài cũng sợ luôn. Ngoài anh sếp ra thì tôi là chủ lực ở tiệm bánh. Mỗi lần làm một loại bánh mới thì tôi sẽ đích thân mang ra giới thiệu cho khách. Hoặc khi có khách phàn nàn thì cũng lại phải tôi ra nói chuyện với họ. “Tại sao bây giờ cái bánh nó lại bé thế này?” Khách hỏi. Bọn nhân viên sẽ ú ớ. Tôi sẽ tỏ ra chuyên nghiệp, “Bọn em cắt giảm kích thước của bánh là để tăng lượng topping lên và cái size bánh sẽ phù hợp hơn, khi mà anh ăn hết cái đĩa bánh này thì bla… bla…” Khi bánh ế hoặc gần hết đát mà cần đẩy thì tôi cũng được cử ra để nói. Tôi là người hoạt ngôn. Hồi cấp Ba tôi đã hay đứng ra gánh team. Chữ này trong game ra, nghĩa là mình đứng ra cáng đáng, chèo lái cho team. Tôi học tốt văn sử địa nên trong các tiết đó tôi hay giơ tay hỏi cái này cái nọ, làm cô bận rộn, bọn còn lại làm việc riêng. Tôi vừa được học vừa giúp cho bạn ngủ. Tôi cũng hay bị cho là bướng. Hồi lớp 11 tôi bị tụt một bậc hạnh kiểm vì hay đánh son. Cô giáo nhắc liên tục, “Phương Anh xóa son đi.” Cô cho rằng do tôi mà bọn con gái trong lớp đánh son theo. Ở trường nhiều đứa ghét tôi, chúng nó bảo xinh thế mà học chuyên thì thế nào cũng chạy điểm. Tôi tự cho mình có một chút nhan sắc: da trắng, tóc dài, dáng cao ráo, chỉ có bắp chân thì hơi to, tôi không thích bắp chân to mặc dù nó rất tốt khi mình tập võ. Nhưng nhiều đứa lại quý tôi vì tôi hay lên tiếng. Hồi đầu cấp Ba, có thằng trong lớp tôi rất phá phách. Một hôm, cô giáo nói, “Anh lên đây, anh viết bản kiểm điểm cho tôi.” Nó bỗng đứng dậy, xồng xộc lao tới, giật cái ghế nhựa lên. Cả lớp cuống quýt, “Thôi, mày! Thôi, mày!” Tôi nhảy lên bục giảng, đứng trước mặt nó, quát, “Mày định làm gì thế?” Cô giáo sợ chạy ra chỗ khác. Tôi xách cổ nó, đẩy ra, “Mày về chỗ ngồi!” Tôi biết là nó sợ tôi. Trước đó, có lần ngoài sân trường nó cầm con chuột chết gí vào bọn con gái làm chúng sợ chạy chết khiếp, có đứa còn phát khóc. Đợi lúc nó không để ý tôi tới gần, giật con chuột rồi nhét vào trong áo nó. Nó hét, “Đ.m. mày làm cái gì đấy.” “Đ.m. mày không chịu được sao mày trêu những đứa kia?” Lúc đó là giờ thể dục, nó vớ cái vợt cầu lông quật. Tôi né. Hai đứa giằng co cái vợt, nó ngã xuống, tôi bẻ gãy cái vợt, nó là vợt đểu, vụt liên tiếp vào người nó. Mọi người đứng kín xung quanh cổ vũ, “Phương Anh cố lên! Phương Anh cố lên!” Sau lần đó thì tôi bắt vía được nó. Mắng đứa nhân viên kia xong, tôi tập trung vào làm một mẻ su kem. Giờ đây thì chỉ có mỗi trong chuyện làm bánh là tôi có thể dõng dạc tuyên bố mình đầy nhiệt huyết, tôi yêu nó nhất trên đời. Tôi đã thử hai mẻ, nhưng đều phải bỏ đi vì nó không được phồng. Đến lúc gần hết ca, lôi mẻ bánh ra thì tôi thở phào, người mềm nhũn ra vì mệt. Anh sếp chắp tay trước tôi như là vái sư phụ. Tôi nhớ rõ vì hôm đó anh ấy nhận được một túi nấm và một túi đá ship từ Sài Gòn ra. “Phương Anh đâu, lấy kéo ra đây,” anh ấy bảo, rồi cắt túi ra kiểm tra. Mọi người ngỡ ngàng, “Uầy, anh Thành chơi đá.” Anh ấy cầm một cây nấm, “Chúng mày… Hôm nay Phương Anh làm tốt, anh sẽ thưởng cho Phương Anh.” Giơ điện thoại raĐây là lô bánh thứ ba của tôi. Đây là thành phẩm lần nướng thứ hai. Bạn có thấy sự khác nhau? Khó nhất của việc làm bánh là cảm nhận được nhiệt độ của cái lò và thay đổi nó. Chuyển ảnh Còn cái bánh này là Saint Honore. Cái này là Eclair. Còn cái này, tôi dùng nho đen không hạt, bột than tinh tre và đường bột để tạo điểm nhấn. Tôi rời tiệm bánh thì trời đã tối. Tôi lái xe chậm chậm, những sợi tóc bay lượn sóng. Những ký ức liên quan tới con đường bắt đầu trở về, tất cả cùng một lúc. Mỗi kỷ niệm như một trang sách, vô số trang cứ chồng mãi, chồng mãi lên nhau. Tôi biết là mình say cần bởi trước đó tôi đã nhìn vào màn hình có con bướm mà anh sếp gí vào mặt tôi. “Khi nào em thấy con bướm vỗ cánh bay đi thì lúc đó em phê rồi đó.” Suy nghĩ của tôi rời con đường thẳng và bắt đầu phủ kín không gian đa chiều. Hình ảnh tôi rời quán cafe với Dũng, cảnh tôi ngồi sau xe của anh, chúng chồng chéo lên nhau. Tất cả đã qua, tôi cảm thấy thật buồn. Tôi nhớ cái lần tôi và anh ấy ăn chung một cái bánh và sững sờ. Nó ngon kiểu mộc mạc. Tôi nói với Dũng, ôi, cái vị ngọt này vừa vặn, nó chỉ dừng ở đầu lưỡi thôi, nó không bị ngọt quá, còn cái kết cấu này, tại sao lại ra được cái kết cấu này nhỉ, bình thường bánh phô mai thì phải có vị như thế này nhưng sao cái này lại có một vị khác, và tại sao sự xuất hiện của nó lại đặc biệt… Cái bánh trông bình thường đến tầm thường nhưng bên trong thì có rất nhiều bất ngờ. Hồi mới quen nhau, chúng tôi đi tàu tới Quảng Bình chơi. Không hôn, không sex, chỉ là bạn thôi, nhưng tôi có cảm giác mình có thể sống với người bạn này cả đời. Khoang ngủ của chúng tôi ở trên cùng, rất thấp, nên bọn tôi ra chỗ rửa tay của toa ngồi chơi, trêu nhau, rồi đứng ở cửa sổ vẫy tay chào người đi đường. Cả ba ngày tôi không chạm tới cái điện thoại, chúng tôi hút cần liên tục. Buổi tối tôi say rượu, Dũng đợi tôi nôn hết xong mới dìu tôi về phòng. “Em đi được, em đi được,” tôi luôn miệng nói, nhưng vấp chảy máu ngón chân cái. Xong rồi tôi lại nôn tiếp lên giường, Dũng nói, “Oh shit.” Vậy là chúng tôi ngủ cùng nhau trên giường của Dũng. Anh ấy gãi gãi vào đầu tôi để tôi ngủ. Ngày thứ ba, ngày cuối cùng, chúng tôi mặc đẹp để lượn phố biển. Dũng mặc áo sơ mi trắng và quần skinny, đi giày converse đen trắng kiểu old school. Dũng rất để ý tới ăn mặc, ra đường thì phải đẹp, không cần lồng lộn lên, nhưng phải có style gì đấy. Tôi nói, hôm nay anh muốn em mặc cái gì, rồi chúng tôi cùng nhau tìm đồ cho tôi. Cuối cùng tôi mặc cái áo phông đen của anh ý, đi cùng quần bò đen. Chúng tôi lượn biển và ngồi ở một quán cafe kiểu bảo vệ môi trường, không ống hút. Một con phố đơn giản, mọi người đang sống cuộc sống của mình, không có trung tâm thương mại, không ai cắm mặt vào điện thoại. Trông họ không giàu có, nhưng tôi yêu cuộc sống của họ, nó hiền hòa, không giống cuộc sống ở thành phố lớn khiến người ta cứ phải căng thẳng. Buổi sáng cuối cùng thì chúng tôi có hôn nhau. Bọn tôi nằm cạnh nhau, anh ấy xoa xoa đầu tôi, rồi tự nhiên môi chạm nhau. Tôi thấy vui vui, trong tôi không dâng lên cảm xúc yêu đương, nhưng tôi hơi bối rối và tự hỏi, “Ơ, như thế này là thế nào nhỉ?” Anh ấy bảo, “Cứ nên để mọi thứ tự nhiên.” Đến khi về Hà Nội thì chúng tôi làm tình. Thực ra tôi đang trong giai đoạn không thiết gì tới sex, thậm chí còn hơi sợ. Nhưng Dũng đã làm tôi thay đổi. Hôm đó chúng tôi nằm cạnh nhau trong phòng của anh ấy, nghe nhạc, hút cần. Tôi nghĩ, “Nếu bây giờ làm tình thì mình chỉ làm tình được với anh ấy thôi.” Tôi xin lỗi, tôi ăn nốt miếng bánh. Ăn bánh Tôi mất trinh năm lớp Mười một. Ở tuổi mười bảy, nhu cầu tình dục là lẽ tự nhiên. Hormone của mình nó đẩy lên, nó làm mình muốn có những hoạt động đó. Tôi và bạn trai - tôi quen nó được hơn một tháng, rất thích nó mặc dù biết sẽ không lâu dài với cậu ta - “hành sự” trong một quán cafe phim. Tôi thấy hồi hộp và hiếu kỳ. Không được hướng dẫn bao giờ, chúng tôi mất rất nhiều thời gian với cái bao cao su vì không biết mặt nào là đúng. Tôi thấy đúng là thốn. Thốn là dở khóc dở cười. Vừa buồn cười vừa xấu hổ, giống như bạn bị bóng đá vào chỗ kín ở ngay sân trường ấy. Hồi đó bạn cùng lớp của tôi đã có quan hệ tình dục hết rồi, trừ thằng Minh. Nó là nerd. Thỉnh thoảng tôi lại trêu nó, “Chén đi! Yêu đứa nào đó rồi làm chuyện đó đi. Trải nghiệm ở tuổi này thì không phải là sớm nữa, nếu để muộn quá thì ông lại thành một thằng thiếu kinh nghiệm…” Thế mà cô giáo chủ nhiệm của tôi còn dặn dò, “Các em có thích nhau thì chỉ nên dừng lại ở mức nắm tay thôi bởi vì các em còn quá nhỏ. Vấn đề tình dục nó rất là nhạy cảm và các em chưa đủ bản lĩnh để đối mặt.” Cả lớp nhìn nhau. “Thế nên là,” cô lại nói tiếp, “nếu như các bạn nữ có bị gạ gẫm thì hãy khéo léo từ chối.” Khôi hài chết mất! Khi hai người có tình cảm với nhau thì làm tình sẽ rất thăng hoa. Tôi đã từng trải qua cái thăng hoa đó và tôi rất trân trọng nó. Ngược lại, năm ngoái tôi quay lại làm tình với một bạn trai cũ, sau khi hai đứa đã chia tay nhau được một năm. Lúc đó tình cảm đã vơi đi nhiều rồi, nên rất là chán. Những va chạm rất là bản năng. Cho nên tôi không mặn mà với tình một đêm hay lên Tinder chat vu vơ để lên giường với ai đấy. Nó không xấu, nhưng nó trần tục. Tôi vẫn hay khuyến khích mọi người là hãy đến với tình dục bằng cảm xúc. Nhưng thực ra tình dục không phải là cái quan trọng nhất. Cảm giác hai người có khi ở cạnh nhau, đó mới là cái quan trọng nhất. Tôi nhớ mãi lần tôi và Dũng ngồi ở ven hồ Tây. Chúng tôi im lặng, nhìn ra hồ và hơi mỉm cười, điếu cần chuyển từ tay người này tới tay người kia. Chả có gì xảy ra cả, mà tôi thấy hạnh phúc, buồn cười thế. Ký ức đầu tiên về bố mẹ đánh nhau là khi tôi năm tuổi. Tôi đơ ra nhìn, miệng vẫn đầy cơm, không khóc, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Hồi cấp Hai thì ban đêm tôi hay bật dậy vì nghe tiếng mẹ gọi từ phòng bên, “Phương ơi, cứu mẹ!” Mở cửa phòng, tôi thấy hoặc bố đang túm tóc mẹ, hoặc mẹ nằm dưới chân giường, bật đèn lên thì thấy người mẹ tím tái. Có lần tôi gắt, “Điên à, tại sao lại hành người ta như thế? Con mệt lắm rồi, để cho con ngủ!” Mấy năm sau thì thỉnh thoảng ban đêm hai mẹ con phải dựng nhau dậy vào bệnh viện vì bố say rượu ngã xe, phải khâu cằm vá má. Những gì tôi chứng kiến khiến tôi có thái độ… tôi nên gọi nó là gì nhỉ… Chai lì? Bình tĩnh? Bố mẹ đánh nhau - bình thường. Máu me - bình thường. Bố đấm, mẹ cào, phi đồ vào nhau, phang nhau, thụi, kẹp cổ, giữ chân các kiểu. Hồi nhỏ thì tôi để cái Linh, em gái tôi, ở tầng một, chạy lên tầng hai để can, “Thôi, thôi, thôi, thôi… Bố mẹ thôi đi.” Tôi lao vào thì bị hất ra. Đến khi bố mẹ buông nhau ra tôi mới khóc nức lên, khóc vì bất lực và tuyệt vọng. Sau này thì chỉ họa hoằn tôi mới can thiệp, còn nếu là lý do vớ vẩn thì tôi kệ. Có hôm hai người cãi nhau xem đẻ tôi ở phòng nào. “Phòng ba.” “Phòng bốn.” Một lúc sau thì, “Anh hâm à?” “Cô điên à?” Lúc sau nữa thì lao vào nhau, “Mày thích gì?” Vừa bi vừa hài. Cho nên là tôi giữ thái độ dửng dưng. Nhưng tôi có nhớ cảm giác cay đắng trong lòng lúc phải viết cái đơn nói nguyện vọng muốn ở với bố hay mẹ, khi hai người ra tòa. Sau đó thì mẹ rút đơn ly dị lại. Một tuần sau, tôi đang ở trên lớp thì mẹ gọi tới, hét ầm lên trong điện thoại. “Bố mày lấy chìa khóa xe máy của tao, rồi khóa cửa nhốt tao trong nhà. Mày về đây mà giải quyết.” Thế là tôi phải về nhà để “giải quyết”. Rồi mẹ chuyển ra nhà khác, cái Linh ở với mẹ, tôi đi lại giữa hai nhà. Mà tôi biết cách né đòn của thằng bạn cùng lớp là do bị bố mẹ đánh nhiều quá. Cũng nhờ tránh đòn nhiều mà khi bắt đầu học võ tôi tiến nhanh. Bố mẹ tôi lôi về hàng chục cái roi mây rất dẻo, cất mỗi nơi một chiếc, tiện chỗ nào lôi ra chỗ đó. Tôi phải lục lọi tìm để vứt chúng đi. Bố thì phần lớn là đánh có lý do chính đáng, tôi về muộn hay gì đó. Còn mẹ thì nhiều khi đánh vì mẹ cần chỗ xả. Mình áp bức người yếu thế để trút cơn giận. Qua mắt mẹ thì tôi nhận biết được điều đó. Sau này thì tôi phản kháng lại. Hôm trước, không nhớ to tiếng vì lý do gì, mẹ vớ cái chổi xỉa vào tôi. Tôi giật nó, ném ra chỗ khác, phản xạ rất thuần thục. Tôi cảnh báo, bây giờ mà đánh thì không biết ai đau đâu mẹ nhé. Thế là mẹ thách thức, “Mày đánh tao đi, đánh luôn đi xem nào!” Tôi bảo, “Không, con học võ không phải để làm mấy trò này, mẹ đòi đánh con xong giờ lại còn thách con đánh lại. Dở hơi!” Mẹ tôi đi lên tầng hai, nói với cái Linh, chị mày là con mất dạy, chị em mày tự đi mà bảo nhau. Tôi nói, “Để cho nó học, có gì thì xuống đây mẹ con mình giải quyết.” Mẹ gọi với xuống, “Mày thu dọn hết quần áo sách vở cút về ở với bố mày đi.” Tôi và mẹ không nói chuyện với nhau một thời gian. Nhưng mẹ mình thì làm sao mình thù mãi được. Từ nhỏ tôi đã thấy lúc nào cũng bấp bênh. Tan trường tôi vừa đạp xe về vừa tự hỏi hôm nay ở nhà có chuyện gì không đây. Giữa mùa hè mà nhà tôi lạnh như cái nhà hoang, không có một tiếng cười, “Ừ, đời mẹ thất bại rồi, đời mẹ chỉ đến thế này thôi,” mẹ nói cùn. “Con cao siêu, con giỏi, con có năng lực thì con kiếm việc, cưới chồng, rồi sống cuộc đời hạnh phúc đi.” Bố thì bảo, “Bố mẹ chu cấp cho con tiền ăn học, còn thì không thể cho con hơn được, chỉ có thế thôi…” Tôi phải chấp nhận chứ sao bây giờ? Từ nhỏ tôi đã quen với việc không có bố mẹ ở bên. Buổi sáng tỉnh dậy, móc ví bố lấy tiền ăn sáng rồi đạp xe đi học. Chiều về nhà, có hay không có ai cũng không quan trọng nữa, không buồn, không nhớ, không gì cả, tôi cứ đứng ở cửa nhìn người qua lại, ánh mắt vô hồn. Giờ đây, cảm xúc của tôi với bố mẹ là một thứ khó tả. Tôi không trách, nhưng bảo là thương thì tôi cũng không thương. Nó là một thứ dửng dưng, không sâu sắc, không lạnh nhạt. Và không âu yếm như là cái cách con cái vẫn bình thường nhìn bố mẹ. Tôi muốn tự lập, tự chu cấp để đỡ gánh nặng cho bố mẹ, thế thôi. Thực ra nhiều lúc cái căm ghét nó trỗi dậy trong đầu mình, nhưng sau đấy tôi lại nghĩ, về mặt tâm linh thì tôi đã lựa chọn bố mẹ tôi, tôi đã tự chọn khó khăn cho mình, nên là tôi sẽ phải tiếp tục giải quyết. Có lần tôi ăn cơm ở nhà thằng Minh. Mọi người nói chuyện tự nhiên lắm, cứ ăn uống, chia sẻ với nhau, cười cười nói nói bình thường. Tôi đờ người ra kinh ngạc, thấy như mình đang xem một bộ phim tình cảm gia đình, “Ừ, đã hai mươi tuổi rồi mà mình không biết cái cảm giác hạnh phúc nó như thế nào,” trên đường về, tôi hơi lo lắng, “vậy thì mình có phát triển bình thường được không nhỉ?” Không được yêu thương từ nhỏ, tôi thấy mình giống cái cây bị thiếu chất dinh dưỡng từ dưới gốc, nên lên trên nó yếu đuối, còi cọc. Lúc nào mình cũng có cảm giác phải vượt giông vượt gió để đến được với sự sống. Nó cứ bị quật ngã liên tục ấy. Lúc ở nhà Minh, tôi thấy bao nhiêu tự tin bay đi đâu hết. Tôi rụt lại bên trong, thấy mình lạc lõng, mình vui cho bạn nhưng mình cũng bị đẩy ra xa. Từ tiệm bánh về đến nhà, tôi nhìn cái Linh đang hí hoáy vẽ và thấy thương nó quá. Từ khi học võ thì tôi ít nổi giận với nó hơn, mặc dù nhiều lúc nó vẫn dở hơi. Từ hai năm nay mẹ phó mặc nó cho tôi hoàn toàn. Tuần trước, nó khóc và gọi điện cho tôi là nó đang chui trong nhà vệ sinh ở trường vì sợ bị đánh. Giữa trưa, tôi đi xuyên qua thành phố, giả vờ với bảo vệ là phải đưa chìa khóa để được vào trường nó. Tôi gọi thằng bé dọa đánh ra. Nó sợ xanh mặt. “Mày đánh cái Linh đấy à, tại sao mày đánh nó?” “Nó chửi em.” “Bây giờ thế này nhé, nó là con gái, mày là con trai. Nó chửi mày thì mày phải chửi nó chứ tại sao mày lại đánh nó. Giờ chị to hơn, chị đánh mày nhé?” Nó rúm lại. Tôi quay sang bảo cái Linh, “Em có chửi bạn không?” Nó gật đầu. Tôi bảo nó xin lỗi. Rồi tôi bảo thằng kia xin lỗi cái Linh. “Ok, xong chưa?” Nó gật đầu. “Giờ thì biến!” Nhưng có nhiều lúc cái Linh giúp lại tôi. “Chết rồi, chị lại nhớ anh Dũng rồi,” tôi thừ ra. “Nhớ nhiều không?” “Hình như hơi nhiều.” “Thôi, chị quên người ta đi, người ta không phải là người yêu chị đâu.” Nó lấy điện thoại ra khỏi tay tôi và xóa các ảnh của Dũng đi. Tôi bảo, “Ừ nhỉ, người ta không quan tâm tới mình nữa thì mình cũng không phải quan tâm tới người ta. Chị cám ơn Linh.” Ngồi không một lúc thì tôi ỉ eo, “Linh ơi, đi chơi đi, đi chơi đi, chị đang buồn.” Nó buông bút, thở dài. Nó mới lớp Chín nhưng tôi cho nó chở tôi trên xe máy chạy dọc hồ Tây, và nghe nó kể về thằng bạn trai của nó. Chúng nó mới chỉ hôn hít nhau. Hôm trước, tôi nhìn vào mặt hai đứa và dặn là những chuyện liên quan tới yêu đương, tình dục thì phải hỏi tôi, tôi sẽ tư vấn. Tôi biết là sẽ không cấm được chúng nó. “Chuyện ấy cũng không đáng ngại hay xấu hổ, nó là nhu cầu hết sức cơ bản, chỉ là mình nên chuẩn bị để đối mặt với nó tốt hơn.” Hai đứa đỏ mặt lên, “Vâng, chúng em nhớ rồi, có gì chúng em sẽ hỏi chị.” Cái Linh thả tôi xuống đi bộ, rồi phóng lên phía trước. Tôi ngồi xuống cái ghế đá chỗ tôi gặp thằng Minh cuối tuần trước. Hôm đó hai đứa ngồi tựa lưng vào nhau, hút cần. Mặt trời rọi nắng từ trên cao. Bên hông tôi là cuốn sách mới mua, Công thức nấu ăn tặng con gái. Tác giả dạy con gái nấu ăn trong những ngày tâm trạng, cô ý viết rất dịu dàng, đơn giản, đọc mà thấy buồn lắm. Tôi và Minh cùng nhắm mắt và tưởng tượng mình đang đi trên bờ biển. Bờ biển của nó có nhiều người, còn của tôi thì chỉ có cây cối và mình tôi. Tôi hiểu vì sao. Minh đầy đủ về mặt gia đình, nhà nó vui vẻ, nên nó thoải mái hòa nhập vào đám đông. Tôi thì có quá khứ không hạnh phúc, cuộc sống hiện tại xô bồ, nên tôi chọn cỏ cây cho bình an, dịu mát. Nó lớn lên trong một môi trường tốt đẹp, ở quê không khí trong lành, mọi người thân thiện. Trong môi trường của tôi thì người ta coi tiền bạc và sĩ diện là cực kỳ quan trọng. Nó đã có hạnh phúc rồi thì càng dễ có hạnh phúc trong tương lai. Còn tôi phải biến khổ đau thành hạnh phúc, ăn vào toàn cái xấu nhưng phải lọc ra cái tốt. Tôi hay nói chuyện với nó, nhưng nó cũng không thể hiểu hết được mọi thứ. Tôi chỉ có vài ba kỷ niệm đẹp. Một là ngày đầu tiên của đợt thi đại học. Tôi kéo một vài người bạn về nhà nghỉ trưa, và thấy bố mẹ đang cùng nhau nấu ăn trong bếp, đợi tôi. Trong tôi dâng lên một cảm giác ngọt ngào, sung sướng. “Hôm nay mình là nhân vật chính, mình được quan tâm.” Một lần khác, tôi kể với mẹ là mình bị mẹ của bạn trai gọi điện tới bắt hai đứa bỏ nhau, nếu không cô ấy sẽ nói với hiệu trưởng, vì cô ấy là bạn của hiệu trưởng. Mẹ im lặng mấy phút, tôi đã tưởng mẹ không quan tâm thì mẹ quay ra bảo, “Tao mà biết chuyện thì con ấy chết.” Con ấy là cô kia. Tôi cảm thấy được an ủi, được bảo vệ và hôm sau khi kể lại cho Minh thì có lén chùi một giọt nước mắt. Một lần nữa, tôi về nhà bố buổi trưa. Bố nấu cơm cho tôi ăn, nghe tôi kể về dự định đi thực tập của mình và khuyến khích tôi đi xa. Lúc tôi ra cửa thì trời vẫn mưa. Hai bố con đứng ngắm mưa, cùng lặng lẽ hút thuốc, không ai nói gì. Tôi cảm nhận được tình cảm bố dành cho mình. Nó ấm áp, nhưng là một hơi ấm muộn mằn và rất mỏng so với cái trống trải, lạnh lẽo bên trong tôi. Minh rít điếu cần và nói nhiều khi nó cảm thấy có lỗi vì nó thì quá đầy đủ về tình cảm, trong khi bạn bè xung quanh đều có cuộc sống rất phức tạp, đổ vỡ. Tôi bảo, “Đúng rồi đó, ông cảm thấy có lỗi đi.” Trên đường về, nhìn thấy một con chó chạy lũn cũn bên cạnh chủ, tôi bật khóc. Không tới mức nức nở, mà chỉ rơm rớm. Tôi vốn khó khóc. Không phải tôi chủ đích nén cảm xúc, mà là cảm xúc không chịu bật ra. Cho nên tôi rất đồng cảm với một anh người mẫu chuyển giới trong The Face Vietnam. Trong đoạn thử thách đóng phim, mọi người đều vào diễn rất ngon lành, nhưng anh ấy bảo luôn với các giám khảo Minh Hằng và Trấn Thành là, “Em không khóc được nên em không thể hoàn thành phần thi này.” Trấn Thành hỏi, “Tại sao em không thể khóc được?” Anh ấy kể về cuộc sống khó khăn của mình, từ nhỏ phải ở với bà ngoại, năm mười bốn tuổi bà mất thì anh ấy phải tự bươn chải, va vấp. Anh ấy thiếu thốn tình cảm, trở nên chai sạn, nuốt hết cảm xúc vào trong. Thật là thương cho những người như anh ấy. Đến cả cái cách giải tỏa con người nhất mình cũng không làm được. Lúc nào cũng trơ lì, lúc nào nhìn vào người ta cũng thấy mình cười nói, đi lại. Cho nên là lúc Dũng phũ với tôi khiến tôi hơi khóc một tí thì tôi nghĩ bụng, à hóa ra cũng có người đẩy được cảm xúc của mình đến mức đấy. Chỉ có một lần tôi tức tưởi, đó là khi bố và mẹ đùn đẩy nhau trả tiền học cho tôi, hai người lại không nói chuyện trực tiếp với nhau mà toàn qua tôi. Lúc đó tôi cảm thấy mình như một cục nợ bị đẩy qua đẩy lại. Đôi khi tôi thèm mình có thể khóc nức nở, khóc thật đã, để nó làm sạch những cái u uất bên trong. Nhưng giống như cái anh trong The Face, tôi không làm được vậy. Nhiều lúc phê cần, tôi buồn vô cùng, người mềm nhũn ra, đầu gục xuống bàn, nhưng mắt vẫn ráo hoảnh. Cùng lắm tôi chỉ rơm rớm như lúc này, khi thấy con chó chạy bên cạnh chú, hay khi thấy hai ông bà già nắm tay nhau đi trên đường, và sự thèm khát được yêu thương, nỗi tủi thân, trỗi dậy. Tôi lấy tay lau nước mắt. Cái sự rơm rớm này, nó không triệt để, nó làm tôi mệt và rấm rứt. Nó không giải tỏa được sự tuyệt vọng ở trong tôi. Có lần tôi hỏi Dũng, “Em nhìn nhận anh là người giao tiếp tốt, biết cách sử dụng ngôn từ để giải quyết cảm xúc của người khác. Có bao giờ anh ghét bản thân không? Có bao giờ anh khó chịu vì tiếng Việt của anh rất tốt không?” Tôi hỏi, bởi anh ấy cũng hoạt ngôn như tôi, cũng dễ thuyết phục người khác như tôi. Anh ấy bảo, “Có! Mình dễ dàng nắm bắt được tâm lý của người khác, khôn khéo điều khiển họ, vì mình đã trải qua rất nhiều thứ. Nhưng mình đọc được người ta mà người ta không hiểu được mình. Mình xoa dịu được cảm xúc của người khác, nhìn vẻ mặt mãn nguyện của họ, nhưng lòng mình trống rỗng.” Tôi cũng thấy như vậy đó. Chúng tôi đều khao khát được người khác chạm vào, nhưng lại dè chừng, cảnh giác. Tôi đã cố thủ từ bé tới lớn, tới mức tôi quên mất mình đang làm vậy, để không ai làm đau được mình. Tôi muốn mình bước ra xã hội thì hiên ngang một chút, để không có ai thương hại mình. Nhưng đến khi gặp được người mình thích thì tôi hoang mang. Mình muốn hạ áo giáp xuống, muốn được dựa vào họ, muốn được lắng nghe mà không cần họ phải khuyên bảo gì. Nhưng… họ lại có thể làm mình đau. Họ trở nên có giá trị với mình, rồi bỏ mình mà đi. Mình sẽ sống sót như thế nào với các ký ức? Tôi đã thấy quá nhiều dối trá quanh mình, nếu mình sống trong hoài nghi thì mình sẽ tuyệt vọng, nhưng nếu mình tin họ thì khi phát hiện ra họ dối trá mình lại đau khổ hơn. Giờ đây, cái đau trong tôi không phải là kiểu đau quằn quại, rên rỉ, mà là một dạng lãnh cảm. Tôi không còn lo lắng, sợ hãi nữa khi mẹ nổi giận. Tôi bình thản quá, bình thản đến mức mệt mỏi, bạn ạ. Tôi ghét cái cảm giác trơ lì này, nó làm mình trống rỗng. Ở chỗ tập Muay Thai có tới năm, sáu người thích tôi, toàn là người có vợ rồi. Tôi luyện cách đối đáp để tránh những lời trêu ghẹo, ong bướm vớ vẩn mà vẫn giữ được thái độ mềm mỏng với họ, một việc khá áp lực. Chẳng vẻ vang gì khi có nhiều người thích mình. Họ thích mình nhưng mình vẫn thấy cô đơn, bạn có hiểu cảm giác đó không, vì không ai khiến mình rung động. Tôi sợ mình bị chai sạn. Quá lâu không nảy sinh tình cảm hoặc có quan hệ quá nhiều đều có thể làm mình chai sạn. Cuộc sống sau này của tôi sẽ ra sao? Liệu tôi có tìm được bến đỗ không, hay tôi cứ lang thang mãi. Người khác thì nhẹ nhàng bước chân vào tình yêu, còn tôi thì lo sợ, mặc dù tôi không phải là một kẻ thiếu bản lĩnh. Không sợ sao được, cả một thời thơ ấu tới giờ cuộc sống đã trống rỗng, mệt mỏi, kết hôn xong lại không hạnh phúc nữa thì đúng là địa ngục. Có nhiều điều cám dỗ vẫy gọi tôi lắm, chỉ một cái gật đầu là cuộc sống của tôi đổi hướng. Dạt nhà, hút chích, trở thành chị đại đầu gấu, trộm cắp vặt, quên đi ngày mai, quên đi bản thân, không cố gắng nữa. Ôi, những lời mời mới hấp dẫn làm sao, trong khi cuộc sống của tôi thì bế tắc. “Mày sống thế mà vẫn chịu được à? Bỏ mẹ nhà đi.” “Mày qua nhà tao ở, rồi chúng mình đi đâu đấy.” Đã có những lần tôi về nhà, đóng gói sách vở. May mà những lúc đấy tôi có cô Thủy, cô giáo văn cấp Ba của tôi. Cô vừa sắp xếp hai trăm cái áo dài trong tủ quần áo của mình vừa nghe tôi kể chuyện gia đình, rồi bỗng buông một câu gì đó khiến tôi phải dừng lại và suy nghĩ. May mà tôi có thằng Minh, thỉnh thoảng nó quẳng cho tôi một cuốn sách, “Ê, bà đọc đi!” Gần nó, tôi thấy mình trở nên trong sáng, cuộc sống của tôi trở nên phong phú hơn. Và tôi lại tự nhủ, bấy giờ mình cần học, cần một công việc, cần chăm sóc bản thân, không để nó trôi tuột đi. Tôi muốn bạn hiểu là tôi đã rất, rất cố gắng để không buông trôi. Tôi muốn mọi người biết rằng có nhiều đứa trẻ vẫn đang chống chọi từng ngày để lớn lên thành người tử tế.   Im lặng rất lâu   Bạn mời tôi tới nhà làm bánh cho gia đình bạn? Tôi sẽ rất vui. Tôi cảm thấy rất ấm áp khi được chăm sóc người khác. Đến giờ tôi vẫn nhớ những lúc mắt đối phương sáng rực lên khi ăn đồ tôi nấu. Họ ăn, ăn, ăn, tôi hỏi, “Ngon không anh?” Họ im lặng và ăn cho tới hết sạch. Tôi nhìn họ ăn và thấy hạnh phúc. Chúng ta sẽ bàn với nhau về buổi đó nhé. Tôi sẽ làm cả bánh mì nữa. Làm bánh mì khó hơn bánh ngọt nhiều. Nó là đỉnh cao và khởi nguồn của rất nhiều thứ. Những lỗ khí không tròn trịa, không đều đặn, nhưng nhìn chúng mình cứ như bị hút vào. Khi cầm dao cắt một ổ bánh mì to, nó giòn và phát ra những tiếng tách tách theo từng nhát cứa của mình, khiến trong lòng mình thấy vui lắm. Căn nhà tương lai của tôi, nếu như tôi có nhà, sẽ thơm lừng mùi cà phê và mùi bánh mì nướng mỗi sáng. Với tôi, như thế là cuộc sống đấy. Mời bạn đón đọc Tìm Mình Trong Thế Giới Hậu Tuổi Thơ của tác giả Đặng Hoàng Giang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn của tác giả Philip Delves Broughton. Tôi không định đến Trường Kinh doanh Harvard (HBS) để viết sách về những gì trải qua. Thực ra, sau mười năm làm báo, tôi đến nơi này để thoát khỏi nghiệp viết lách, để không còn moi móc chuyện ngoài đời đưa lên những trang báo. Tôi muốn học về kinh doanh để làm chủ vận mệnh tài chính và quan trọng hơn, làm chủ thời gian của mình. Tôi đã quá mệt mỏi với việc phải kè kè chiếc điện thoại di động hay suốt ngày bị sếp hoạnh họe. Tôi hy vọng tấm bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA) sẽ giúp tôi hiểu biết nhiều hơn về hoạt động của thế giới và có nhiều lựa chọn hơn cho cuộc sống của mình. Thực ra, tôi viết cuốn sách này không phải để “vạch áo cho người xem lưng”. Xét về nhiều mặt, tôi yêu quý hai năm ở Harvard. Các bạn học của tôi rất lịch thiệp và ân cần. Hầu hết giảng viên trong khoa tận tụy truyền cho sinh viên niềm say mê môn học. Cơ sở vật chất và con người đều rất tốt. Chẳng có chỗ nào quan sát chủ nghĩa tư bản tốt hơn nơi này. Đối với tôi và với những người tôi biết, Harvard đã làm thay đổi cách nhìn nhận tương lai và cơ hội bằng con đường kinh doanh. Nhưng đó cũng là thời kỳ căng thẳng hơn tôi nghĩ rất nhiều. Khối lượng bài học nặng nề, nhất là trong những tuần đầu tiên, chúng tôi phải đánh vật với các lĩnh vực chuyên môn của kinh doanh như tài chính, kế toán, điều hành, marketing và ứng xử trong tổ chức. Vài tháng sau, bản thân áp lực tìm việc, một công việc “thích hợp”, đã là một quá trình giáo dục riêng, vượt xa những gì xảy ra trong lớp học. Cuốn sách này là nỗ lực mô tả trải nghiệm của tôi và các bạn học trong cái nôi của chủ nghĩa tư bản này. Sau khi đọc lại nhật ký hai năm ở Harvard, tôi ngạc nhiên trước cảm xúc nảy sinh từ những gì đã trải qua. Tôi đã cho rằng thời gian học ở trường kinh doanh sẽ là một thời kỳ vô tư, chỉ có học và chuẩn bị chuyển nghề. Nhưng chúng tôi đã trò chuyện nhiều về khát vọng và cuộc sống tương lai cho mình và gia đình. Điều đó được thể hiện rõ trong cuốn sách này, bên cạnh những gì chúng tôi học được, những gì các diễn giả nổi tiếng diễn thuyết và những quyết định về công việc của chúng tôi… Cơ hội học ở HBS là một món quà quý giá. Năm 1960, mới chỉ có 5.000 người tốt nghiệp MBA từ các trường của Mỹ. Đến năm 2000, con số này tăng lên hàng trăm nghìn. Hiện nay, có đủ các loại khóa học MBA: khóa học điển hình toàn thời gian hai năm tại trường hoặc các khóa học bán thời gian, trực tuyến, buổi tối hay từ xa. Số lượng người đăng ký học MBA tại Trung Đông, Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng vọt. Những người có bằng MBA có xu hướng hưởng lương cao hơn và công việc tốt hơn. MBA ba chữ cái quý báu này trở thành tấm vé “vào cửa”, trong một số trường hợp còn là điều kiện tiên quyết, để thành công trong kinh doanh. Tôi học tại HBS từ năm 2004 đến 2006. Cho tới thời điểm đó, trong số các cựu sinh viên của trường gồm có Tổng thống Mỹ, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, Thị trưởng New York, chưa kể CEO của các tập đoàn lớn như General Electric, Goldman Sachs và Procter & Gamble (P&G). Theo danh sách Fortune 500 thì cựu sinh viên HBS chiếm tới 20% số những người đảm nhiệm các vị trí cao nhất trong công ty. Trong các quỹ đầu tư cũng đầy những MBA của Harvard. Mỗi khi trở lại trường, họ được tiếp đón như những ông hoàng. HBS cho rằng những đức tính cần có để thành công trong kinh doanh cũng cần thiết cho tất cả các ngành khác như chính trị, giáo dục, y tế và nghệ thuật. Tôi không xuất thân từ giới kinh doanh và về bản năng, tôi phản đối quan điểm doanh nhân có thể điều hành mọi thứ. Quan điểm này xuất hiện liên tục trong hai năm qua và lý giải vì sao một cuốn sách viết về tấm bằng MBA ở Harvard lại là mối quan tâm của đông đảo bạn đọc, không chỉ những người đã có hay muốn có bằng MBA. Ngôn ngữ, thói quen và phong cách lãnh đạo được dạy trong khóa học MBA ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Các trường dạy kinh doanh không chỉ sản sinh ra các nhà lãnh đạo trong kinh doanh. Các khóa học MBA còn quyết định cách sống, giờ giấc làm việc, các kỳ nghỉ, nền tảng văn hóa, sự chăm sóc y tế mà chúng ta nhận được và cả nền giáo dục cho con cháu chúng ta. Từ năm 2000, ngài Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh đã có những quyết định quan trọng về mặt lịch sử và toàn cầu. Tóm lại, tấm bằng MBA, nội dung của nó và mạng lưới những người sở hữu tấm bằng này là rất quan trọng. Và nó có tham vọng để trở nên quan trọng hơn nữa. Cuốn sách này thể hiện quan điểm cá nhân tôi. Không một MBA nào có thể đại diện cho 900 sinh viên niên khóa 2006 của HBS. Mọi điều trong cuốn sách này đều đúng như tôi mô tả. Nhưng tôi đã đổi một số tên nhân vật và các chi tiết liên quan vì hai lý do: thứ nhất là vì sự riêng tư. Lớp học của HBS là một môi trường học tập an toàn, một nơi để thử và sai. Các bạn cùng lớp không biết tôi sẽ viết về những điều chúng tôi đã trải qua. Lý do thứ hai là việc thay đổi đó cho phép tôi mô tả trung thực những gì trải qua mà không phải lo lắng về danh tiếng của những người tôi yêu quý và khâm phục. Các giáo sư, vì vị thế thầy giáo của họ là công khai, cũng như các diễn giả từng đến nói chuyện, sẽ xuất hiện đúng như trong thực tế. Tôi dự định kết hợp các cách tiếp cận này để cung cấp một bức tranh chân xác về thời gian tôi ở HBS. Khi khóa học của chúng tôi kết thúc vào tháng 6 năm 2006, chúng tôi nhận được một bức thư ngỏ của thầy hiệu trưởng Jay Light. Ông viết: “Khi các bạn hòa vào đội ngũ cựu sinh viên HBS khắp nơi trên thế giới, tôi hy vọng các bạn tiếp tục giữ liên lạc với trường, chia sẻ suy nghĩ và quan điểm về những năm học ở đây”. Đây là suy nghĩ và quan điểm của tôi. *** Tóm tắt Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" của tác giả Philip Delves Broughton là một cuốn sách tự truyện kể về trải nghiệm của ông khi học MBA tại Trường Kinh doanh Harvard (HBS) từ năm 2004 đến năm 2006. Broughton là một nhà báo, và ông đã viết cuốn sách này để chia sẻ những suy nghĩ và quan điểm của mình về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Review Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Nhập học HBS Trong phần này, Broughton kể về quá trình nộp hồ sơ và trúng tuyển vào HBS. Ông cũng chia sẻ những suy nghĩ và cảm xúc của mình khi bắt đầu học tại đây. Phần 2: Học tập tại HBS Trong phần này, Broughton mô tả những trải nghiệm học tập của mình tại HBS. Ông nói về các lớp học, các giảng viên, các bạn học và những bài học mà ông đã học được. Phần 3: Ra trường HBS Trong phần này, Broughton kể về quá trình tìm việc và bắt đầu sự nghiệp của mình sau khi tốt nghiệp HBS. Đánh giá Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" là một cuốn sách thú vị và hấp dẫn. Broughton là một người viết giỏi, và ông đã kể câu chuyện của mình một cách chân thực và lôi cuốn. Cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Ưu điểm Cuốn sách được viết một cách chân thực và hấp dẫn. Broughton là một người viết giỏi, và ông đã chia sẻ những suy nghĩ và quan điểm của mình một cách sâu sắc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Nhược điểm Cuốn sách có thể hơi dài dòng và chi tiết. Kết luận Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến HBS, kinh doanh hoặc thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn của tác giả Philip Delves Broughton.
Đúng Việc - Một Góc Nhìn Về Câu Chuyện Khai Minh
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Đúng Việc - Một Góc Nhìn Về Câu Chuyện Khai Minh của tác giả Giản Tư Trung. Nhiều năm trước, tôi có dịp lang thang trên quảng trường Trafalgar ở thủ đô London của nước Anh. Đây là quảng trường được xây dựng để kỷ niệm chiến thắng của hải quân Anh trong trận chiến Trafalgar lừng danh do Đô đốc Nelson chỉ huy. Nằm ngay vị trí trung tâm của quảng trường là một chiếc cột cao 52 mét mà ở trên đỉnh cột là bức tượng vị đô đốc tài ba đứng sừng sững giữa trời. Nhưng điều khiến tôi chú ý nhất không phải là bức tượng sừng sững đó, mà là một dòng chữ ở tấm điêu khắc gần chân cột: “England expects that every man will do his duty”. (Tạm dịch: Nước Anh mong muốn mỗi người sẽ làm tròn công việc/ bổn phận của mình) Đó chính là lời hiệu triệu nổi tiếng mà đô đốc Nelson đã gửi cho hạm đội của mình trước trận Trafalgar. Nhưng tôi nghĩ, chọn khắc dòng chữ này ở một trong những vị trí được xem như “trái tim” của nước Anh; người Anh không chỉ đơn thuần muốn kỷ niệm một trận chiến mà có lẽ muốn gửi gắm vào đó nhiều thông điệp hơn thế. Mỗi công dân Anh (và cả những người không phải là người Anh) khi đứng trước những dòng chữ này hẳn sẻ ít nhiều suy tư về những “công việc” hay “bổn phận” của mình: chúng là những gì, và mình đã làm chưa; nếu đã làm thì đã làm đúng và làm tốt những công việc ấy hay chưa? “Công việc của mình” – Mấy chữ trên tấm phù điêu về trận chiến Trafalgar năm ấy cũng đã ít nhiều bắt đầu gợi lên và gieo vào trong tôi những suy tư về mình, về thời cuộc, và đặc biệt là về những “trận chiến” diễn ra ở ngay xử sở của mình. Những suy tư đó đã thực sự thôi thúc tôi muốn viết một điều gì đó về “công việc”, về làm đúng và làm tốt “công việc”, về những “trận chiến” liên quan đến bản chất và chân giá trị của mọi vấn đề. Đó không phải là những trận chiến hữu hình giữa người với người, giữ gươm với súng như trong quá khứ; mà là những trận chiến giữa cái đúng và cái sai, giữa khai minh và vô minh, giữa cõi phàm và cõi thiêng, giữa cái cao đẹp và cái thấp hèn của con người. Những cuộc chiến vô hình ấy cũng khốc liệt và có sức tàn phá khủng khiếp không kém bất kỳ cuộc chiến hữu hình nào: Các thang giá trị trong xã hội bị đảo lộn; con người bị cuốn vào những vòng xoáy hỗn mang, nghi ngờ chính những điều đã từng được coi là chân – thiện – mỹ; công việc nào, lĩnh vực nào, ngành nghề nào, vấn đề nào cũng có những vấn đề được xem là “vấn nạn chưa có lời giải”.  Bất kỳ ai chứng kiến và cảm nhận những điều đó hẳn cũng sẽ đau đáu một câu hỏi nhân sinh như tôi: Căn nguyên của những gì đang diễn ra trong xã hội này, căn nguyên của những vấn đề con người ngày nay đang gặp phải là gì và do đâu?  Có rất nhiều lý do! Mỗi người sẽ chọn một cách lý giải, một cách giải mã riêng, tùy theo góc nhìn của mình. Và “đúng việc”, “sai việc”, cũng như chuyện định nghĩa lại mọi thứ và trả lại chân giá trị cho mọi vấn đề là góc nhìn và cách tiếp cận mà tôi chọn cho mình trong cuốn sách này. Tôi cho rằng, những thực trạng mà chúng ta nhìn thấy ngày nay của con người, của gia đình, của tổ chức và của xã hội là bắt nguồn sâu xa từ việc có quá nhiều thứ chưa được trả lại chân giá trị vốn có của nó và có quá nhiều người chưa hiểu đúng và làm tốt những “công việc” của mình. Vậy đâu là chân giá trị của mọi vấn đề, đâu là những “công việc” quan trọng nhất và nếu những “công việc” đó được hiểu đúng và làm tốt thì mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn và xã hội cũng sẽ được vận hành một cách văn minh” Những “công việc” quan trọng nhất mà ai cũng phải làm trong đời, chính là: làm người, làm dân và làm việc. Khi mà những “công việc” này không được coi trọng và có quá nhiều người không làm đúng việc của mình (tức là làm sai việc) thì những gì mà chúng ta đang chứng kiến (như dân gian vẫn thường nói vui là “người không phải người, dân không phải dân, lãnh đạo không phải lãnh đạo, thầy không phải thầy, nghệ sĩ không phải nghệ sĩ, trí thức không phải trí thức, doanh nhân không phải doanh nhân, hay đại học không phải đại học, hiệp hội không phải hiệp hội…”), âu cũng là chuyện không đáng ngạc nhiên mấy! Bởi lẽ, lựa chọn “đúng việc” hay “sai việc” của mỗi người trong từng “công việc” ấy sẽ làm nên chính họ, cũng như làm nên xã hội mà họ sinh sống. Bởi lẽ, con người thì khác với muông thú và cỏ cây; con người tự do thì khác với con người nô lệ hay con người công cụ; công dân thì khác với thần dân hay nô dân; ca sĩ thì khác với thợ hát; nghệ sĩ thì khác với chiến sĩ; trí thức thì khác với trí nô; nhà báo thì khác với hồi bút; sử gia thì khác với sử nô; nhà quản trị thì khác với kẻ cai trị; doanh nhân thì khác với trọc phú hay con buôn… Nhưng làm sao lựa chọn nếu không hề biết đến sự tồn tại của những lựa chọn, không rõ đâu là sự khác biệt giữa chúng và đâu là “mình” giữa các lựa chọn đó? Làm sao có thể làm “đúng việc” khi chưa biết đâu là cái “đúng”? làm sao “làm ra chính mình”, làm sao “hãy là chính mình” khi chưa biết “đâu là mình”... Đó chính là những trăn trở đã dẫn đến những nội dung bàn trong cuốn sách này. Tuy vậy, cần làm rõ ràng, mục đích của cuốn sách này là để gợi mở và tranh luận chứ không phải để kết luận và thực hiện, để đặt vấn đề chứ không phải giải quyết vấn đề, để đặt ra các câu hỏi nhằm tìm kiếm câu trả lời chứ không phải là để khẳng định một chân lý (bởi lẽ không ai được phép độc quyền chân lý). Vì với một đề tài quá rộng và quá lớn như vậy, làm sao có câu trả lời nào có thể gói gọn được tất cả? cũng như làm sao có một định nghĩa về “đúng” vừa vặn với tất cả mọi người, mọi thời và mọi nơi? Nhưng ít nhất, bằng việc đặt ra những câu hỏi nhân sinh và liên tục, tra vấn mình về nó, ấy là lúc chúng ta có thể tiến gần hơn đến với câu trả lời, đến với việc tìm ra điều gì là “đúng” cho riêng mình, cho xứ sở của mình và cho thế gian này. Và đây chính là hành trình đi tìm chân lý, đi tìm chân giá trị và cũng là hành trình của muôn đời. Có người bạn hỏi tôi, có bao nhiêu là việc cần phải làm, vì sao lại ngồi lọ mọ viết cuốn sách này. Tôi trả lời rằng, tôi muốn viết cuốn sách này trước hết và chủ yếu là vì tôi thích “thích chia sẻ, bàn luận và học hỏi về việc “đúng việc”, về bản chất và chân giá trị của những vấn đề căn cốt của cá nhân, gia đình, tổ chức và xã hội).  Bên cạnh đó tôi cũng cho rằng, thay đổi đến từ “TÔI” của mỗi người là con đường tốt nhất dẫn đến sự thay đổi chung của xã hội, đúng như tuyên ngôn bất hủ của bậc hiền triết Mahatma Gandhi: “You must be the change you wish to see in the world” (Tạm dịch: “Chính bạn phải là sự thay đổi mà bạn muốn nhìn thấy trong cuộc đời”). Nghĩa là, khi mỗi người (trong chúng ta) tự thay đổi chính bản thân mình trước, tự làm đúng và làm tốt “công việc” của mình, thì xã hội sẽ thay đổi theo chứ không trông chờ vào ai cả. Với quan điểm này, chúng ta có thể thấy rằng hành trình “tự lực khai hóa” (theo cách nói của nhà canh tân văn hóa Phan Châu Trinh) của mỗi người chính là con đường tốt nhất để mình tốt hơn, đồng thời cũng góp phần đổi thay xã hội mà mình đang sống. Do vậy, cũng có thể xem “Đúng việc” như là một người bạn đồng hành của tôi trên hành trình “Tự lực khai hóa” của mình.  Ngoài ra, như rất nhiều thành viên khác của cộng đồng, tôi cảm thấy mình còn có trách nhiệm công dân trong việc cất lên một tiếng nói, góp vào một giải pháp để thúc đẩy nhanh hơn hành trình tìm kiếm những cái đúng, tìm kiếm một “hệ điều hành” ưu việt hơn không chỉ cho riêng mình mà còn cho xứ sở của mình. Với riêng tôi, ngoài sở thích cá nhân, hay sự thôi thúc bởi trách nhiệm công dân, đó còn là trách nhiệm làm nghề (của một người làm giáo dục) nữa. Cuốn sách này đã được viết với tâm thế ấy, và với ý niệm rằng công việc quan trọng nhất (và có thể nói là công việc/ nghề nghiệp duy nhất) của mỗi người trên cõi đời này, không gì khác chính là “nghề làm người”, như nhà tư tưởng vĩ đại thời khai minh Jean Jacques Rousseau từng khẳng định. Có thể tiếp tục chi tiết hóa “nghề làm người” này bằng nhiều mảng việc nữa, mà trong đó “làm dân” và “làm việc” là hai phần việc quan trọng bậc nhất. Đó cũng là lý do vì sao mà ba chương chính của cuốn sách sẽ xoay quanh những câu chuyện “đúng việc” về “Làm người”, “Làm dân” và “Làm việc”. Tôi cũng dành riêng một chương thứ tư để bàn về việc “Làm giáo dục”, không chỉ bởi đó là công việc hay mối quan tâm của riêng tôi; mà còn bởi vì tính ảnh hưởng sâu sắc của giáo dục đến con người ấy được thụ hưởng hay bị “nhào nặn”. Phần cuối cùng chính là Lời kết cho những gì mà tôi đã chia sẻ. Trong quá trình tích lũy nhận thức và phát kiến ý tưởng của riêng mình về những vấn đề trên, tôi có chịu sự ảnh hưởng và học hỏi của nhiều nhà tư tưởng, nhà nghiên cứu, học giả … của thế giới cũng như của Việt Nam mà độc giả có thể bắt gặp xuyên suốt cuốn sách này. Nếu một ý tưởng, luận điểm, câu chữ… nào đó của cuốn sách có sự tương đồng với ý tưởng, luận điểm, câu chữ của một ai khác mà tên nhân vật đó không được dẫn như ở những phần khác, mong quý vị hãy hiểu rằng đó là một sơ suất không cố ý, một sự trùng hợp tình cờ hoặc một sự nhập tâm một cách vô thức của tôi và thứ lỗi cho sơ suất đó. Tôi cũng rất mong nhận được những sẻ chia, những góp ý, những ý kiến bàn luận của quý vị để câu chuyện “Đúng việc” có thể được hoàn thiện hơn và được tiếp nối ngoài khuôn khổ của cuốn sách.  Cũng nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Tri thức đã xuất bản cuốn sách, cảm ơn những bậc thức giả mà tôi rất kính trọng đã chia sẻ, ủng hộ và góp ý với tôi để hoàn thiện cuốn sách này, trong đó đặc biệt là cảm ơn những chia sẻ kiến thức hết sức quý báu của Nhà nghiên cứu Triết học Bùi Văn Nam Sơn và những góp ý vô cùng quý giá của Giáo sư Nguyễn Văn Trọng về bản thảo. Và tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới bạn Nguyễn Thúy Uyên Phương, một người cộng sự lâu năm mà tôi vô cùng quý mến đã giúp tôi lược đi và biên tập một số phần của cuốn sách này. Có thể nói, trong những ngày tháng bộn bề công việc, nếu không có sự hỗ trợ của bạn thì tập sách này khó có thể ra đời như tôi mong muốn. Tôi cũng cảm ơn những người đồng nghiệp đã cùng tôi san sẻ công việc của cơ quan để tôi có đôi chút tĩnh lặng cho chuyện viết lách.    Và đặc biệt, xin cám ơn quý vị đã đón nhận những chia sẻ của tôi. Quá trình viết cuốn sách này đã cho tôi cơ hội nhìn lại chính tôi và thế giới quanh tôi. Và tôi hy vọng rằng quý vị cũng sẽ tìm thấy đâu đó trong những câu chuyện chung mang tên “Đúng việc” này một câu chuyện riêng của chính mình. *** “Đúng việc-Một góc nhìn về câu chuyện khai minh” đã đồng hành sâu sắc cùng hành trình tự vấn của mỗi người, dù đó là ai trong suốt chặng sống của mình. Đúng như tác giả bày tỏ, “mục đích của cuốn sách này là để gợi mở và tranh luận chứ không chứ không phải để kết luận và thực hiện, để đặt vấn đề chứ không phải giải quyết vấn đề, để đặt ra câu hỏi nhằm tìm kiếm câu trả lời chứ không phải để khẳng định một chân lý…” Và bằng cách đặt ra câu hỏi “trúng”, câu hỏi trọng tâm cho hành trình của đời người trong tất thảy những vai trò ta mang, trong mối quan hệ với chính bản thân, với gia đình, đất nước…, tác giả để người đọc tự mình tìm, thấy và lựa chọn cho mình cách sống với một nguyên tắc giản dị: “Đúng việc”. Sách có 4 phần: Làm người; Làm dân; Làm nghề; Làm giáo dục. Mỗi phần có những mục nhỏ đi thẳng vào những vấn đề thiết thực quanh trục chính thế nào là “đúng việc”. Đó là “Làm người là… làm gì?”, “Làm thế nào để có được năng lực làm người?”, “Tại sao phải bàn về làm dân?”, “Làm việc cũng là làm người”, “Nhà trường”, “Nhà giáo”, “Gia đình”, “Người học”… “Ta là sản phẩm của chính mình” Cuốn sách mở đầu bằng những câu chuyện quanh việc “làm người”-điều tưởng hiển nhiên với những ai đã được sinh ra trên đời. Tác giả cũng không đi vào cung cấp một định nghĩa toàn vẹn mà hướng vào trọng tâm của ý nghĩa làm người, từ đó chỉ ra một trong những điều giúp cho con người trở nên khác biệt chính là “lẽ sống”, và sau nữa có một “lẽ” khác chỉ có con người mới hiểu và mới chiến đấu vì nó, đó là “lẽ phải”. Để có được giá trị xuyên suốt, vượt thời gian này và làm người đúng nghĩa thì cần trang bị cho mình “túi văn hóa” và “túi chuyên môn” bên cạnh “túi vật chất” (dường như đang trở thành túi tham, vô độ). Nhưng hành trình làm người là hành trình tự vấn không ngừng nghỉ và cuộc sống loài người là cuộc sống cũng đầy những mâu thuẫn, giằng xé. Bằng ngòi bút sẻ chia và cái nhìn đa chiều, giàu tương tác, nhà giáo Giản Tư Trung dẫn dắt câu chuyện cơ bản “Làm người” tới việc nhận ra “Ta là sản phẩm của chính mình”. Trong đó mô hình quản trị cuộc đời ta có 5 cấu phần: Tìm ra chính mình; Khai phóng bản thân; Giữ được chính mình; Sống với chính mình, Làm ra chính mình. Trong sự vận động nhanh chóng và dữ dội của đời sống, con người không khỏi hoang mang vì ý nghĩa sự sống và việc lựa chọn cách sống của mình để có được hai chữ “hạnh phúc”. Cuốn sách này chỉ ra một cách giản dị lối ra cho những loay hoay vốn thấy của đời người: “Làm cho ra người, làm cho ra việc rồi thì sẽ ra tiền”. Và “khi làm ra tiền thì có hạnh phúc cấp độ 1, khi làm ra việc thì được quý trọng, có hạnh phúc cấp độ 2, còn khi làm cho ra người thì được là chính mình, đó là hạnh phúc cấp độ 3”. Đọc kỹ phần “Làm người” rồi thì các phần sau đều có sự sáng tỏ, đó là “Làm dân”, “Làm nghề”, “Làm giáo dục”. Trên cái nền của việc biết “làm người”, thì những “vai” khác ta mang về thực chất đều là sự phóng chiếu của việc “làm người”. Vì thế, “Một con người tự do và một công dân có trách nhiệm của một xã hội văn minh sẽ sẵn lòng nhận lấy trách nhiệm tự thân của mình mà không cần biết là người khác có yêu cầu hay ghi nhận gì không…”. Cũng từ đây, tác giả đưa ra nhiều nội dung liên quan chặt chẽ khác để hướng đến việc làm người, làm dân trọn vẹn như mối quan hệ “dân trí”, “dân quyền”, “dân sinh”… Với tác giả thì “Không có ý niệm cân bằng giữa công việc và cuộc sống, bởi công việc chính là cuộc sống và làm cũng là sống.” Từ đây trong phần “Làm nghề”, tác giả phân tích những nghề nghiệp cụ thể với cách đặt vấn đề đối trọng. Đó là Quản trị hay cai trị?; Doanh nhân, trọc phú hay con buôn?; Trí thức hay trí nô?; Ca sĩ hay thợ hát?... Những câu chuyện làm nghề cụ thể, thiết thực được đặt ra trong phân tích đa chiều. “Vậy thì quan chức, công chức nên là gì trong mối quan hệ với dân?”. Nhiều thí dụ thực tế từ đời sống, cùng những chia sẻ của nhà giáo Giản Tư Trung thực sự khiến mỗi người có thêm dữ liệu để tự mình làm một cuộc tổng hợp, cho ra lựa chọn của riêng mình. Và rằng: “Suy cho cùng, cái tên chỉ là cái tên. Dù được gọi bằng cái tên gì-người đày tớ, người phục vụ, người bán hàng…, tất cả cũng như trở thành vô nghĩa nếu như người công chức không cảm nhận được sứ mệnh thiêng liêng trong công việc phục vụ nhân dân của mình….”. “Đúng việc - Một góc nhìn về câu chuyện khai minh": Hành trình tự vấn để làm người ảnh 4 Nói về trí thức, nhà giáo Giản Tư Trung thẳng thắn: “Có thể hình dung ba điều kiện để hình thành một con người trí thức, đó là (1) “sự hiểu biết” (có trí); (2) thức tỉnh xã hội”; và (3) “vì mục đích cao quý” (hướng xã hội đến cái đúng và cái đẹp, hướng xã hội đến cái chân-thiện-mỹ”. Nếu không hội đủ ba điều kiện này thì hoặc là “trí ngủ”, hoặc là “trí dỏm”, hay “trí gian”… Nhiều nghề khác cũng được đề cập dưới góc nhìn sắc sảo của tác giả, để đôi khi nhận thấy những điều tưởng như nghịch lý: “Nhưng không phải lúc nào người cảnh sát, công an làm đúng việc của mình cũng được thương, được quý”. Và cuối cùng công việc của người cảnh sát theo tác giả là phải trả lời cho câu hỏi bảo vệ “cái gì”?. Ở đây chính là bảo vệ pháp luật, với tinh thần “trọng luật mà có tình” chứ không phải là “trọng tình mà phá luật”… Nhiều thí dụ thực tế từ đời sống, cùng những chia sẻ của nhà giáo Giản Tư Trung thực sự khiến mỗi người có thêm dữ liệu để tự mình làm một cuộc tổng hợp, cho ra lựa chọn của riêng mình. Sau cùng là từ sự thấu hiểu đó mà kiên định cách sống làm người, làm dân, làm nghề, làm giáo dục đúng đắn mà mình được chọn. Mời các bạn mượn đọc sách Đúng Việc - Một Góc Nhìn Về Câu Chuyện Khai Minh của tác giả Giản Tư Trung.
Không Theo Lối Mòn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Không Theo Lối Mòn của tác giả Joachim De Posada & Ellen Singer: Cuộc đời đôi khi giống như một giấc mơ, nhưng là giấc mơ có thật, không cần tô vẽ và cũng không thể trốn tránh. Tuy được sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng lại sớm rơi vào cảnh nghèo túng khi còn là một thiếu niên, tôi lớn lên và dần hiểu rõ về những hiểm họa khiến con người đánh mất thành công hơn là các bí quyết để đạt được nó. Mặc dù sau đó cha mẹ tôi đã gây dựng lại sự nghiệp, lấy lại được những gì đã mất nhưng có một điều cha mẹ tôi không bao giờ lấy lại được, đó là cách tư duy của một người thành đạt. Do đó, hàng ngày tôi phải đối mặt với sự sợ hãi bị mất tất cả một lần nữa của cả cha lẫn mẹ hơn là được chỉ bảo về “những nguyên tắc vàng” để duy trì sự thành công lâu dài. Bạn hãy thử tưởng tượng, khi bạn đang sống một cuộc sống sung túc và bỗng nhiên một buổi sáng thức dậy không còn một xu dính túi, bạn sẽ học được bài học để đời, nhưng bạn thường không có đủ thời gian để chiêm nghiệm chúng và lại càng không có điều kiện để truyền đạt lại cho người khác. Vì thế bí quyết đi đến thành công như một điều bí ẩn đối với tôi, một bí ẩn mà về sau tôi đã quyết tâm phải làm sáng tỏ. Tôi mong muốn mình hiểu được và có thể giải thích một cách hợp lý các vấn đề liên quan đến cuộc sống cũng như công việc của con người, như: Tại sao cùng một việc mà có người làm được, có người không? Tại sao có người thành công trong khi những kẻ khác lại thất bại? Tại sao nhiều người lại không thể duy trì sự thành công lâu dài cho mình? Tại sao 90% số người ở độ tuổi 65 vẫn không thể sống một cách dư dả thoải mái, mà phải tiếp tục làm việc, dựa dẫm vào bảo hiểm xã hội hoặc con cái? Quyển sách này dành cho tất cả chúng ta, từ những người chủ doanh nghiệp cho đến người làm công ăn lương. Nó dành cho vận động viên và cũng cho mọi người có chung mong muốn tiến về phía trước. Nó dành cho các giáo viên, những người đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Và nó đặc biệt dành cho các thanh thiếu niên sẵn sàng thay đổi thói quen của họ để trở thành con người thành đạt. Nhưng các bạn hãy nhớ rằng đây chỉ là những bí quyết, và việc áp dụng nó đến đâu thì bạn mới là người quyết định. Có ba con ếch đang trôi lềnh bềnh trên sông trong một chiếc lá. Một con quyết định nhảy xuống sông. Hỏi còn lại bao nhiêu con ếch trên chiếc lá? Đa số mọi người sẽ trả lời là còn lại hai con. Sai! Còn lại ba con ếch trên chiếc lá. Tại sao? Vì “quyết định nhảy” và “nhảy” là hai việc hoàn toàn khác nhau. Đã bao nhiêu lần bạn quyết định làm một việc gì đó rồi lại bỏ qua không thực hiện? Đã bao nhiêu lần bạn quyết định thay đổi nhưng lại sợ đương đầu với những thử thách mới có thể đến? Đã bao nhiêu lần bạn muốn từ bỏ một điều gì đó nhưng lại không muốn phá vỡ đi thói quen của mình?... Nếu những câu hỏi đó thực sự là những vấn đề bạn đang gặp phải thì tôi mong rằng khi bạn đọc xong cuốn sách này và áp dụng những điều học được vào hoàn cảnh của mình, bạn sẽ có những bước tiến dài về phía thành công. Francis Bacon đã từng nói: “Kiến thức là sức mạnh”. Ông ấy đúng nhưng lại quên mất một từ giúp câu nói trở nên hoàn toàn chuẩn xác: “Sử dụng kiến thức là sức mạnh”. Có được kiến thức đã khó nhưng áp dụng được nó vào thực tế còn khó gấp ngàn lần. Nếu bạn có hiểu biết mà không đưa được nó vào thực hành thì chẳng khác gì không biết. Đơn giản là vậy! Hãy đọc cuốn sách và áp dụng ngay những gì bạn học được. Cuộc sống của bạn sẽ thay đổi. - Tiến sĩ Joachim de Posada *** Tóm tắt Cuốn sách "Không Theo Lối Mòn" của tác giả Joachim de Posada là một cuốn sách về thành công. Tác giả chia sẻ những bí quyết mà ông đã học được trong suốt cuộc đời của mình, từ khi còn là một thiếu niên nghèo khó cho đến khi trở thành một doanh nhân thành đạt. Review Cuốn sách được viết theo phong cách kể chuyện, với những câu chuyện thực tế của chính tác giả và của những người mà ông đã gặp. Điều này giúp cho cuốn sách trở nên dễ đọc và dễ hiểu hơn. Tác giả chia sẻ những bí quyết thành công của mình thành ba phần: Phần 1: Những nguyên tắc vàng Trong phần này, tác giả đề cập đến những nguyên tắc cơ bản cần có để đạt được thành công, chẳng hạn như: * **Lập kế hoạch và mục tiêu** * **Tư duy tích cực** * **Hành động** * **Kiên trì** * **Đổi mới** Phần 2: Những thói quen xấu Trong phần này, tác giả chỉ ra những thói quen xấu có thể cản trở con đường dẫn đến thành công, chẳng hạn như: * **Trì hoãn** * **Ngại thay đổi** * **Tự ti** * **Tham lam** * **Thích đổ lỗi** Phần 3: Những câu chuyện truyền cảm hứng Trong phần này, tác giả chia sẻ những câu chuyện của những người đã vượt qua nghịch cảnh để đạt được thành công. Đánh giá Cuốn sách "Không Theo Lối Mòn" là một cuốn sách hữu ích cho những người muốn tìm hiểu về thành công. Cuốn sách cung cấp những thông tin và lời khuyên thực tế, giúp người đọc có thể áp dụng vào cuộc sống của mình. Điểm mạnh Nội dung dễ hiểu và dễ áp dụng Cung cấp những thông tin và lời khuyên thực tế Kết hợp giữa lý thuyết và thực tế Điểm yếu Có một số thông tin đã được đề cập trong các cuốn sách khác Kết luận Cuốn sách "Không Theo Lối Mòn" là một cuốn sách đáng đọc cho những người muốn tìm hiểu về thành công. Cuốn sách cung cấp những thông tin và lời khuyên thực tế, giúp người đọc có thể áp dụng vào cuộc sống của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Không Theo Lối Mòn của tác giả Joachim De Posada & Ellen Singer.
Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc của tác giả Yukari Mitsuhashi. Ikigai là gì? Trong hơn bảy năm làm một nhà báo tự do, đây là chủ đề phức tạp nhất mà tôi từng tìm hiểu. Tôi chưa từng chú tâm xem xét khái niệm ikigai cho đến khi được phân công viết một bài về đề tài này cho hãng tin BBC. Đây là một khái niệm quá đỗi phổ thông - và khắc sâu vào tinh thần của người Nhật - đến mức tôi chưa bao giờ từng thật sự dừng lại và suy ngẫm về ý nghĩa của nó. Cụm từ ikigai trong tiếng Nhật được hợp thành từ hai từ kanji: “iki” [ 生き], có nghĩa là cuộc sống, và “gai” [ 甲斐], có nghĩa là giá trị hoặc sự xứng đáng. Khi ghép lại, ikigai có nghĩa là giá trị của cuộc sống, hay hạnh phúc trong cuộc sống. Nói một cách đơn giản, ikigai là lý do bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng. Một số diễn giải gần đây của phương Tây về ikigai có vẻ đào sâu vào quan điểm tìm kiếm ý nghĩa cho cả một đời người, nhưng đó không phải nghĩa chính xác của từ này. Từ “cuộc sống” [life] trong tiếng Anh có thể dùng để chỉ cuộc đời hoặc đời sống hàng ngày, nhưng trong tiếng Nhật, chúng tôi có hai từ riêng biệt cho hai khái niệm đó: “jinsei” [ 人生] là “cuộc đời”, còn “seikatsu” [ 生活] chỉ “đời sống thường nhật”. Khi tôi trò chuyện với Akihiro Hasegawa, nhà tâm lý học lâm sàng kiêm phó giáo sư tại Đại học Toyo Eiwa, người đã nghiên cứu khái niệm ikigai suốt nhiều năm, ông đã đưa ra một ý kiến thú vị. Ikigai được dịch sang tiếng Anh thành “mục đích sống” [life’s purpose], nghe có vẻ khá to tát. Về thực chất, ikigai không nhất thiết phải là mục đích của cả đời người. Từ “cuộc sống” ở đây nghiêng về nghĩa seikatsu - đời sống thường nhật - nhiều hơn. Nói cách khác, ikigai có thể là niềm vui của con người trong cuộc sống hàng ngày, một điều mà khi thiếu đi thì cuộc sống sẽ kém vui. Sở dĩ ikigai trở thành một đề tài khó diễn giải, ngay cả đối với người Nhật, là vì tuy khái niệm này rất phổ biến ở Nhật, nhưng nó không có trong sách vở. Tôi trưởng thành và sống phần lớn cuộc đời mình tại Nhật, nhưng tôi không nhớ trường học từng dạy tôi về ikigai. Chỉ riêng cấp tiểu học, học sinh Nhật Bản đã học hơn 1.000 chữ kanji, nhưng trong số đó không có ikigai. Ikigai là một khái niệm đa diện mà chúng ta sẽ dần hiểu ra trong quá trình sống và trưởng thành. “Ikigai của bạn là gì?” không phải là một câu hỏi đơn giản với một đáp án duy nhất, mà là một câu hỏi trừu tượng với vô số câu trả lời khả dĩ. Điều thôi thúc bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng chính là ikigai của bạn - và không ai có thể nói bạn hãy chọn đáp án khác. Vì không có trường lớp nào dạy về ikigai nên tôi đã tự tìm hiểu khái niệm này, và tôi chia sẻ những đúc kết của mình qua quyển sách mà các bạn đang cầm trên tay đây. Trong các chương sắp tới, chúng ta sẽ khám phá nghĩa của ikigai, cách để tìm ra ikigai cho mỗi người, và vì sao việc đó lại giúp ta tìm được trọng tâm và niềm vui trong cuộc sống. Tôi chân thành cảm ơn các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã cung cấp cho tôi kiến thức và ý tưởng của họ, cũng như những người đã chia sẻ về ikigai của họ với tôi (bạn có thể xem những câu chuyện truyền cảm hứng ở chương năm). Mỗi người có một ikigai khác nhau, nhưng tôi hy vọng câu chuyện của những người khác sẽ giúp bạn khám phá ra ikigai của bản thân. Cuộc sống sẽ luôn đem đến cho ta những khó khăn riêng, và chắc chắn ikigai không phải là một công thức kỳ diệu giúp mọi thứ trở nên hoàn hảo. Nhưng khi có ikigai trên từng chặng đường, tôi hy vọng chúng ta có thể mãn nguyện khi nhìn lại cả cuộc đời mình. Mong rằng những hiểu biết của tôi về ikigai của người Nhật sẽ giúp bạn không chỉ hiểu được khái niệm này, mà quan trọng hơn, sẽ truyền cảm hứng cho bạn ngẫm nghĩ về ikigai của riêng mình. Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng tôi trong hành trình này. Bất kể bạn tìm thấy ikigai nào sau khi đọc xong quyển sách này, tôi cũng xin “kanpai” (cụng ly) chúc mừng bạn! *** Tóm tắt Cuốn sách "Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc" của tác giả Yukari Mitsuhashi là một cuốn sách khám phá khái niệm ikigai của người Nhật. Ikigai là một khái niệm khó định nghĩa, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản là lý do bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng. Review Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn. Tác giả Yukari Mitsuhashi là một nhà báo người Nhật, vì vậy cô ấy có thể cung cấp những hiểu biết sâu sắc về khái niệm ikigai từ góc nhìn của người Nhật. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan về ikigai, bao gồm: Nguồn gốc của ikigai Cách tìm ra ikigai Lợi ích của ikigai Cuốn sách cũng chia sẻ những câu chuyện truyền cảm hứng về ikigai của những người Nhật. Những câu chuyện này cho thấy rằng ikigai có thể được tìm thấy ở mọi lứa tuổi và hoàn cảnh. Đánh giá Cuốn sách "Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến khái niệm ikigai. Cuốn sách cung cấp những hiểu biết sâu sắc về một khái niệm quan trọng trong văn hóa Nhật Bản. Điểm mạnh Được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn Cung cấp những hiểu biết sâu sắc về ikigai Chia sẻ những câu chuyện truyền cảm hứng về ikigai Điểm yếu Một số người có thể cho rằng cuốn sách không đủ sâu sắc về ikigai Kết luận Cuốn sách "Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến khái niệm ikigai. Cuốn sách cung cấp những hiểu biết sâu sắc về một khái niệm quan trọng trong văn hóa Nhật Bản. Mời các bạn mượn đọc sách Ikigai - Chất Nhật Trong Từng Khoảnh Khắc của tác giả Yukari Mitsuhashi.