Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Trừng Phạt

“Kẻ Trừng Phạt”, kích thích hơn “người giải mã tử thi” của Tần Minh, rúng động hơn “Tội ác tâm lý” của Lôi Mễ! Tác phẩm được các tác giả Liên Bồng, Lôi Mễ, Tri Thù, Tần Minh đặc biệt giới thiệu! “Kẻ Trừng Phạt”, tác phẩm mới nhất đánh dấu sự trở lại của tay bút được đánh giá là “hiện tượng” của dòng tiểu thuyết trinh thám trên trang Tianya.cn, kể về cuộc quyết chiến cuối cùng giữa CHÍNH NGHĨA và TÀ ÁC! Một “thi thể nữ” biết lái xe, một linh hồn “hồi sinh”, cuộc hẹn với người đã chết, những lời tiên đoán đáng sợ, khu trường học có “ma”… những tình tiết móc ngoặc, cảm xúc không ngừng thay đổi, yếu tố trinh thám dày đặc, biến thái, tuyệt mật, hồi hộp, những cách thức phạm tội tinh vi và hiện đại, chứng cứ vắng mặt hoàn hảo, những âm mưu quỷ kế không thể lật tẩy, những màn sương mù che phủ không thể làm tan biến, bạn sẽ đau tim đến cực độ, một cảm giác đọc sách thật đê mê! Với tên gốc trên mạng là “Rượt đuổi tới cùng”, trong nhiều ngày liên tiếp, “Kẻ trừng phạt” chiếm giữ vị trí đầu bảng trong bảng xếp hạng “Chuyện của Liên Bồng” (bảng xếp hạng những câu chuyện thần bí) trên trang Tianya.cn. Nhận được lượng chia sẻ vô cùng lớn, số lượt click trên 39.000.000, giành được sự quan tâm và bình luận rất nồng nhiệt của độc giả. Tiểu thuyết cũng được các tác giả tring thám đương đại hàng đầu Trung Quốc như Liên Bồng, Lôi Mễ, Tri Thù, Tần Minh đặc biệt giới thiệu. Phuc Minh Books hân hạnh giới thiệu đến độc giả! LỜI KHEN CHO KẺ TRỪNG PHẠT Vừa vào đầu sách đã đầy rẫy những điều kì bí bủa vây toàn cục, những bí ẩn cũ chưa kịp giải quyết, bí ẩn mới đã ập tới liên tục, khiến độc giả càng đọc càng bị cuốn hút. - Liên Bồng. Vi Nhất Đồng thông thạo các công tác cảnh sát và kiến thức tâm lí phạm tội, những đoạn phá án trong cuốn sách này không cố tình tiết lộ việc hung thủ là ai, mà đặt người đọc vào cùng vị trí với lực lượng cảnh sát chính nghĩa cùng nhau tìm ra câu trả lời, mỗi người đọc đều là một người phá án. - Lôi Mễ. “Kẻ trừng phạt” quả không hổ danh là cuốn sách tiêu biểu của dòng tiểu thuyết tội phạm và phá án, những tên hung thủ biến thái, những “kẻ khác biệt” đang ẩn náu trong hàng ngũ cảnh sát hình sự, những cảnh sát luôn lên tiếng vì chính nghĩa, thủ pháp khắc họa nhân vật một cách tỉ mỉ, chính xác, không cứng nhắc theo khuôn mẫu cũ. - Tri Thù. “Kẻ trừng phạt” không chỉ nói đến những kẻ phạm tội, mà hơn nữa là nhắc đến những người cảnh sát – hóa thân của sức mạnh chính nghĩa, chỉ có điều những tên hung thủ đứng trên danh nghĩa chính nghĩa mà gây tội ác, chúng chính là những kẻ đáng bị trừng phạt nhất. - Tần Minh. *** Nội dung bố cục câu truyện thì ở trang bìa sau đã nói rõ các vụ bí ẩn xảy ra, miêu tả chính xác độ ly kỳ của cuốn tiểu thuyết này, trinh thám gỡ từng lớp từng lớp bí ẩn đặt ra, một tử thi có thể lái xe và di chuyển từ trung tâm pháp y cảnh sát về nhà như chổ không người , pha các yếu tố ghê rợn không khác gì các bạn đang đọc 1 cuốn truyện kinh dị, nhưng chỉ là vài chương đầu thôi, về sau trinh thám hơi bị ly kỳ đấy. Vi Nhất Đồng đã dẫn dắt người đọc đi từ chứng cứ này đi đến chứng cứ khác, và có thể khi đã tìm ra chân tướng thực sự lại khiến vụ án đi vào lối mòn, và cho đến nhưng chương cuối cùng của tiểu thuyết, chân tướng dường như sáng tỏ rành mạch. hung thủ đã lộ diện và đã trả giá cho những gì hắn gây ra nhưng vụ án vẫn chưa kết thúc , và chỉ thực sự kết thúc khi người đọc được dẫn dắt đến trang cuối cùng. Điều tôi hoan nghênh nhất của tác giả là có sự xuất hiện nhân vật nữ ở giữa truyện, khiến tổ chuyên án như ” nắng hạn gặp mưa rào ” , cảnh sát nhân vật chính của chúng ta như được tưới tiêu ( về mặt tâm hồn và nhìn nhận thôi , ko có iu đương gì ở đây đâu nhé  … Đúng là có bàn tay phụ nữ vào thì mọi vấn đề sẽ hanh thông ! … nhân vật nữ xuất hiện là điểm nhấn hay nhất mà tôi thấy ở cuốn tiểu thuyết này ! Đúng như lời hung thủ bảo ” sự xuất hiện của cô ấy là bất ngờ trong kế hoạch của tôi, nếu không có cô ấy thì các cậu không tìm thấy tôi sớm vậy đâu ” … !!! ” Thiên và ác đôi khi chỉ cách nhau trong một ý niệm; tội ác và sự trừng phạt liệu có một ranh giới thật sự rõ ràng ” – Lục Dương Đây là câu tự hỏi khiến độc giả có thể suy nghĩ về hung thủ, về cảnh sát, về nạn nhân, thật sự là ai đáng thương và ai đáng trách ? Riêng bản thân tôi cũng xót thương cho những số phận trên, kẻ đáng chết đã chết, kẻ gây ra cũng đền tội, ai cũng có lý do để kể lễ cho hành động của mình, nhưng …. KHÔNG CÓ LÝ DO NÀO CÓ THỂ GIẢI THÍCH CHO VIỆC GIẾT NGƯỜI CẢ DÙ CHO NGƯỜI ĐÓ CÓ ĐÁNG CHẾT THẾ NÀO ! đó là điều tâm đắc của tôi nhiều tiểu thuyêt trinh thám đã được đọc qua .. Và 1 câu tôi cảm thấy tâm đắc khi đọc tiểu thuyết này : ” Hai chữ ” CẢNH SÁT ” gánh vác quá nhiều ước vọng, bao hàm vô số vinh quang, nhưng cũng đầy đau khổ và oan khiêng ! ” khiến cho tôi thấy công việc cảnh sát có thể có vinh quang nhưng cũng đầy mệt mõi, có nhiều vụ án đôi khi bản thân biết quá nhiều cũng không phải là điều tốt ! Review bởi Minh Lê *** thành tích xuất sắc, tôi được điều lên Đội Cảnh sát hình sự, bắt đầu chuỗi ngày điều tra các vụ án đủ thể loại. Làm trong ngành này, chứng kiến biết bao “kiểu” chết chóc, dù có nhát gan đến mấy cũng được luyện cho to gan lớn mật. Nhưng gần đây xảy ra một vụ án rất kì lạ, khiến mọi người vô cùng hoang mang, ngay cả những bậc tiền bối cũng phải sởn gai ốc. Sự việc bắt đầu khi một đồng nghiệp của tôi là Hồ Viễn bị tai nạn. Chiếc Sedan của cậu ta đâm trực diện vào một chiếc xe việt dã. Lúc đó trên xe có hai người, Hồ Viễn ngồi ở ghế phụ lái, còn người điều khiển là một phụ nữ. Hiện trường vụ tai nạn rất thảm khốc, cú va đập khiến Hồ Viễn tử vong tại chỗ, thi thể biến dạng, máu me đầm đìa. Điều kì lạ là, cơ thể người phụ nữ cũng bị biến dạng, nhưng lại không hề chảy giọt máu nào. Kết quả khám nghiệm tử thi cho biết... người phụ nữ này đã chết cách đây ba ngày. Những người đầu tiên có mặt ở hiện trường là lực lượng Cảnh sát giao thông. Họ tìm thấy thẻ Cảnh sát trên người Hồ Viễn, biết được đơn vị của cậu ấy, nên lập tức thông báo cho chúng tôi. Còn người phụ nữ không có bất cứ thứ gì để chứng minh được danh tính. Tôi hôm đó tới phiên tổ chúng tôi trực ban, ngoài trời mưa rả rích, mặt đường ướt nhẹp, thỉnh thoảng mới thấy bóng người đi lại, vô cùng vắng vẻ. Chúng tôi cứ nghĩ sẽ không có vụ án nào xảy ra, nên vừa ngồi buôn chuyện trong phòng trực vừa nhấm nháp đồ ăn đêm. “R... eng... eng...” Một hồi chuông điện thoại xé tan bầu không khí an nhàn. Nghe điện thoại xong, tôi vội báo cáo sự việc với anh Điên Tổ trưởng. Anh lập tức buông bát mì vừa mới ăn xuống. “Nhanh lên! Đi kiểm tra xem xảy ra chuyện gì!” Anh vừa nói vừa bước nhanh ra cửa, chúng tôi vội vã theo sau. Anh Điên tên thật là Dương Phong[1], tuổi ngoài bốn mươi, đầu đinh, nước da đen bóng, cơ thể cường tráng, vừa nhìn đã thấy ngay hình ảnh một viên cảnh sát hình sự. Do phong cách làm việc quả quyết và nhanh chóng, lúc nào cũng hừng hực khí thế nên mọi người đặt cho anh cái biệt hiệu ấy. Trên đường đến hiện trường, sau khi báo cáo tình hình với Đại đội trưởng, anh Điên ngồi im chẳng nói câu nào. Suốt mười năm làm cảnh sát hình sự, anh đã phá không biết bao nhiêu vụ án, có thể coi là một “thần thám” danh bất hư truyền. Nhìn thấy bộ dạng của anh lúc này, rồi nhớ lại nội dung cuộc điện thoại, tôi không khỏi thấy sởn gai ốc. Lần đầu tiên chúng tôi gặp phải sự việc quái dị như thế: người lái xe là một phụ nữ đã chết! Chúng tôi phóng như bay tới hiện trường, bây giờ xung quanh đã đông nghịt người, bên cạnh là một hàng xe dài, từ xe cảnh sát đến xe của bệnh viện và các đơn vị liên quan. Chúng tôi vội tìm một chỗ đỗ xe, rồi theo anh Điên chen vào đám người. Đầu chiếc Sedan màu đen hiệu Jetta của Hồ Viễn và chiếc xe việt dã kia đều bị bẹp rúm, trên mặt đất la liệt mảnh linh kiện và kính vỡ. Bên cạnh là hai cái xác được đậy vải trắng, một tấm đã nhuốm đỏ, màu máu hòa với nước mưa chảy sang bên cạnh, ứ lại thành một vũng, khiến ai nhìn cũng phải rùng mình. Anh Điên nhanh chóng giới thiệu rồi ngồi xuống lật tấm vải trắng nhuốm máu ra. Mặc dù khuôn mặt đã biến dạng, nhưng chúng tôi vẫn nhận ra nạn nhân là Hồ Viễn. Anh Điên không nhìn thêm nữa, lập tức di chuyển sang chỗ tấm vải trắng bên cạnh. Tim tôi như bị bóp nghẹt, vì đây không phải một người chết thông thường, mà là một xác-chết-biết-lái-xe. Tấm vải được lật ra, trước mắt chúng tôi là một khuôn mặt đen sạm, có nhiều vết bầm, một vài lọn tóc ướt bết trên trán. Mặc dù không phải bác sĩ pháp y, nhưng tôi cũng đoán được nạn nhân đã tử vong trên hai mươi bốn tiếng. Khi tôi còn chưa hết kinh ngạc, anh Điên đã nhanh chóng đeo găng tay, tiến hành kiểm tra khuôn mặt người phụ nữ. Thực sự tôi không có tâm trạng nào nhìn cảnh đó, vội quay người đi tới chỗ cảnh sát giao thông, hỏi thăm tình hình người lái xe việt dã. Nạn nhân bị thương rất nặng, đã được đưa đến viện cấp cứu. Theo quan sát hiện trường, có thể chiếc Sedan đã bất ngờ di chuyển sang làn đường bên cạnh, đâm thẳng vào chiếc xe việt dã. Do quá bất ngờ, cộng thêm trời mưa khiến tầm nhìn giảm sút, lái xe việt dã không kịp tránh khỏi vụ tai nạn thảm khốc. Viên cảnh sát giao thông đã đứng tuổi, nên tôi thử hỏi trước đây anh ta có gặp vụ nào tương tự không. Anh ta lắc đầu, nói trong bao nhiêu năm phụ trách sự cố giao thông, anh chưa từng gặp, thậm chí chưa từng nghe một sự việc kì lạ như thế này. Tôi hỏi thêm về khả năng chiếc xe của Hồ Viễn do người khác lái, chẳng hạn, hắn nhảy ra khỏi xe ngay trước vụ va chạm rồi đưa thi thể người phụ nữ vào ghế lái xe? Nhưng anh ta trả lời chắc nịch: “Chắc chắn là không, lái xe nhất định là người phụ nữ đó.” Tôi đang định hỏi vì sao có thể khẳng định như vậy thì anh Điên gọi: “Lục Dương, mau lại xem đây có phải Tần Hiểu Mai không?” Tẩn Hiểu Mai? Cái tên này vừa quen vừa lạ, đến khi quay lại tôi mới chợt nhớ ra, cô ta là tội phạm giết người trong một vụ án mà Phòng Cảnh sát đã phải lập cả một tổ chuyên án. Lúc đó tôi mới chuyển đến, chưa có nhiều kinh nghiệm nên không được chọn, còn anh Điên và Hồ Viễn đều tham gia. Dưới bàn tay của anh Điên, khuôn mặt người phụ nữ đã khôi phục tám chín phần, tóc được vén gọn gàng. Sau khi nhận dạng, tôi gật đầu xác nhận, đúng là Tần Hiểu Mai. Điều này khiến vụ tai nạn càng trở nên li kì. Tần Hiểu Mai đã bị kết tội giết người, mấy ngày nay chính là thời gian hành hình, sao thi thể cô ta có thể lái xe đưa Hồ Viễn đi “tự sát” được? Không chần chừ một giây, anh Điên lập tức báo lên cấp trên. Lãnh đạo Phòng Cảnh sát thành phố ra lệnh, vụ án này có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, yêu cầu Đội Cảnh sát hình sự điều tra cặn kẽ, Dương Phong được chỉ định là người phụ trách chính. Anh Điên lập tức yêu cầu Đồn Cảnh sát khu vực thông báo cho cha mẹ Tần Hiểu Mai đến nhận diện. Tần Hiểu Mai là sinh viên, nên cha mẹ cô ta chắc chỉ ngoài bốn mươi, nhưng mặt đầy nếp nhăn, đầu lấm tấm bạc, đủ thấy sự việc của con gái khiến họ sốc nặng đến mức nào. Mẹ Tần Hiểu Mai khóc suốt từ lúc đến hiện trường, chỉ có cha cô ta đến xác nhận danh tính con gái. Anh Điên giao lại hiện trường cho hai đồng nghiệp khác trong nhóm. Cha mẹ Tần Hiểu Mai ngồi trong xe cảnh sát, xe của nhà tang lễ theo phía sau, tất cả cùng trở về Đội Cảnh sát hình sự. Vụ án này vô cùng kì lạ, rất có thể cần tiến hành giám định pháp y cả hai thi thể. Về đến nơi, thi thể giao cho bên pháp y, còn chúng tôi đưa cha mẹ Tần Hiểu Mai đi lấy lời khai. Cha Tần Hiểu Mai là Tần Xuyên cho biết con gái ông đã chết từ ba ngày trước. Theo phong tục, sau khi chết, gia đình phải để xác ở nhà bảy ngày rồi mới được hỏa táng. Trong thời gian đó, lúc nào cũng có người canh linh cữu. Mấy ngày nay tại linh đường không hề xảy ra việc gì kì lạ, chiếc quan tài đặt xác Tần Hiểu Mai vẫn đóng nguyên. Khi nhận được điện thoại của cảnh sát, gia đình tin rằng có sự nhầm lẫn nào đó, nhưng để chắc chắn, họ vẫn mở nắp quan tài ra, thì phát hiện thi thể Tần Hiểu Mai đã không cánh mà bay. Họ vội vã chạy tới chỗ cảnh sát. Tần Xuyên trình bày xong, anh Điên lại hỏi: “Hàng ngày canh linh cữu gồm những ai?” “Theo phong tục ở quê chúng tôi, người trên không được canh linh cữu người dưới, nếu không cả dòng tộc sẽ bị trời quở, nên đành để các anh chị em họ của Hiểu Mai canh. Cũng may có mấy người họ hàng giúp đỡ lo hậu sự, chứ mỗi hai chúng tôi thì không thể xoay xở nổi. Đã thế mẹ Hiểu Mai còn suy sụp thế kia...” Tôi thấy hơi ngạc nhiên. Vụ án Tần Hiểu Mai được xử công khai, hành vi giết bạn cùng phòng của cô ta vô cùng tàn nhẫn, về lí mà nói, với loại người này, họ hàng thân thích cũng muốn tránh xa. Vậy sao sau khi chết vẫn có nhiều người giúp đỡ thế? Tôi bèn hỏi: “Họ hàng không có ý kiến gì về việc Tần Hiểu Mai giết người sao?” “Nói láo! Hiểu Mai không thể là hung thủ giết người được!” Mẹ Tần Hiểu Mai ngẩng đầu, trừng mắt nhìn tôi quát. Tần Xuyên vội kéo tay áo vợ, nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Bà nó à, con gái đã đi rồi, nói những lời này còn có nghĩa lí gì nữa?” “Các người đổ oan cho Hiểu Mai, nên nó mới chết không nhắm mắt. Nhất định là nó quay về tìm các người báo thù đấy! Ha ha ha...” Vốn đã hơi ghê người về vụ “xác chết lái xe”, giờ nghe mẹ Tần Hiểu Mai nói vậy, cộng thêm khuôn mặt méo xệch của bà ta, trong lòng tôi không khỏi ớn lạnh. Nỗi sợ hãi thường đến từ những điều chúng ta chưa hiểu rõ. Cho dù không muốn tin việc ma quỷ báo thù, tôi vẫn quay sang nhìn anh Điên với ánh mắt ái ngại, vì anh ấy cũng tham gia điều tra vụ Tần Hiểu Mai. Tần Xuyên có vẻ áy náy, vội vàng xin lỗi, mong chúng tôi hiểu cho nỗi đau mất con của vợ mình. Anh Điên bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Tôi hỏi thêm vài câu nữa rồi gập cuốn sổ lấy lời khai lại, yêu cầu đến nhà Tần Xuyên kiểm tra linh đường, và bảo họ lập danh sách những người canh linh cữu trong ba ngày qua. Nhà Tần Xuyên nằm tại một thị trấn cách thành phố khoảng mười cây số, xung quanh hầu như đều là người bản xứ. Bây giờ trời đã tối, không có đèn đường, cũng rất ít người qua lại. Theo sự chỉ dẫn của Tần Xuyên, chúng tôi dừng xe trước một ngôi nhà nhỏ. Đó là kiểu nhà tự xây, có sân, khá phổ biến ở nông thôn. Linh đường của Tần Hiểu Mai được đặt giữa sân. Trong sân treo lác đác vài chiếc đèn lồng trắng tỏa ra những chùm sáng lạnh lẽo, bủa vây khu linh đường u ám. Xung quanh đặt bảy, tám vòng hoa, tất cả đều màu trắng, chính giữa treo bức di ảnh của Tần Hiểu Mai và một chữ “điện” rất lớn. Giữa khung cảnh ngập tràn màu trắng ấy, chiếc quan tài màu đỏ đậm ngay chính giữa sân càng trở nên nổi bật. Quan tài đặt trên hai chiếc ghế dài, bên dưới có một ngọn đèn dầu. Khi chúng tôi đến, trong sân không có một ai. Tần Xuyên nói, trước khi họ ra khỏi nhà, vì nghĩ ở đây cũng chẳng còn việc gì nữa, nên bảo họ hàng về hết rồi. Anh Điên quan sát một lượt khắp sân, rồi bước về phía chiếc quan tài. Vừa được mấy bước, Tần Xuyên đứng cạnh tôi bỗng “ớ” lên một tiếng. Ông bước nhanh qua tôi tiến về phía trước, vừa đi vừa nói: “Rõ ràng sau khi mở nắp quan tài để kiểm tra, tôi đã đậy cẩn thận rồi mà, sao giờ lại hé ra thế này?” Đúng lúc đó, một luồng gió lạnh thổi qua, mấy chiếc đèn lồng trắng khẽ đung đưa, những mảnh giấy trắng trên vòng hoa cũng lay động, bỗng chốc khiến khoảnh sân thêm phần ma quái. “Hiểu Mai về đấy...” Mẹ Tần Hiểu Mai hô lên rồi chạy về phía quan tài. Tôi nhíu mày hỏi Tần Xuyên: “Hay là ông nhớ nhầm?” Tần Xuyên do dự không dám khẳng định. Anh Điên xoa dịu không khí: “Có lẽ lúc đó họ đi vội quá nên nhớ nhầm”, rồi đưa tay kéo nắp quan tài. Tôi thở phào, vừa định bước tới giúp anh Điên một tay, thì nghe thấy mẹ Tần Hiểu Mai hét lên điên dại: “Hiểu Mai! Hiểu Mai!” Nói rồi bà ta lấy hết sức đẩy nắp quan tài sang một bên, khiến nó đổ “rầm” xuống đất. Ba người chúng tôi đều xông đến, ngó đầu vào bên trong. Tôi thấy miệng mình khô rát, cổ họng nghẹt thở: xác Tần Hiểu Mai rõ ràng phải nằm trong phòng khám nghiệm tử thi ở Đội Cảnh sát hình sự, sao giờ lại nằm sờ sờ trong quan tài? Sắc mặt cô ta vẫn còn nguyên vẻ đen sạm ấy, với vài chỗ bầm tím, chỉ khác là mắt cô ta đang mở trừng trừng, hai khóe mắt có vệt đỏ như hai hàng lệ máu, làn môi dường như cũng hồng nhuận hơn trước. Tôi sợ đến độ không thốt nên lời, định bỏ chạy nhưng đôi chân như bị đóng đinh tại chỗ. Cũng may anh Điên nhanh chóng đẩy tôi ra, nói lớn: “Gọi điện về Đội, cho người đến kiểm tra phòng khám nghiệm tử thi ngay!” Mời các bạn đón đọc Kẻ Trừng Phạt của tác giả Vi Nhất Đồng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ký Ức Nửa Đêm - Sidney Sheldon
Sách Nói Ký Ức Nửa Đêm   Cuốn tiểu thuyết Kí ức nửa đêm mô tả quá trình phục hồi trí nhớ và quay trở lại xã hội thượng lưu của cô gái Catherine. Đan xen vào đó là những câu chuyện tình tay ba, những vụ thanh toán lẫn nhau cũng như con đường tiến thân đầy tội lỗi của những ông chủ như Constantin Demiric. Tất cả chỉ xoay quanh việc thỏa mãn dục vọng cùng những khát khao quyền lực, tiền bạc của con người. Thế nhưng rồi tất cả đều phải trả giá cho chính mình, gieo nhân nào gặt quả ấy. Là tác giả của rất nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong năm, nữ văn sĩ Mỹ Sidney Sheldon luôn được người đọc chào đón nồng nhiệt mỗi khi một cuốn tiểu thuyết của bà xuất hiện. Ký ức vốn tập trung những điều có thật và cả sự tưởng tượng về những việc xảy ra trong quá khứ. Ký ức của Catherine chất chứa nỗi đau và cả niềm hạnh phúc. Cô đã bị người chồng phản bội, bị trở thành mục tiêu oan uổng cho những mưu mô thấp hèn. Một điều lạ là những kẻ xấu liên can đến cô đều bị giết. Họ âm mưu thanh toán lẫn nhau để rồi cuối cùng bị giết bởi chính âm mưu của mình. Còn Catherine, người phụ nữ xinh đẹp với ước mơ đơn giản, chỉ mong cầu một mái ấm và một tình yêu chân chính. Cô như con nai vàng giữa bầy sói dữ. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã sống sót nhờ vào những hình ảnh của ký ức. Nó như một lời cảnh báo cho những gì sắp xảy ra quanh cô. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. *** Đêm nào, nàng cũng nằm mơ, la hét rồi tỉnh dậy. Nàng cảm thấy như đang lênh đênh ở giữa mặt hồ rộng lớn trong cơn giông tố khủng khiếp, có một người đàn ông và một người đàn bà đang đè đầu nàng dìm xuống nước băng giá để cho nàng chết đuối. Mỗi lần bừng tỉnh như vậy tâm hồn hoảng loạn, nàng cố lấy lại hơi thở và mồ hôi toát ra đầm đìa. Nàng không biết nàng là ai và nàng không còn trí nhớ về dĩ vãng. Nàng nói tiếng Anh - nhưng nàng cũng chẳng biết nàng là người nước nào và vì sao nàng lại đến đây, đất Hy Lạp này, sống trong tu viện Carmelite nhỏ bé, nơi đã che chở cho nàng. Rồi thời gian cứ trôi đi, những ký ức quá khứ cứ thoáng hiện như nhử trêu nàng, những ý nghĩ mơ hồ, những hình ảnh mờ ảo hiện lên rồi lại tan đi nhanh chóng không cho nàng tóm chặt được nó, giữ nó và ngắm nghía nó. Những hình ảnh đó xuất hiện đột nhiên ở một lúc nào đó chộp vào đúng lúc nàng không có chút đề phòng, và làm nàng lẫn lộn hết cả. Lúc mới đầu, nàng còn tự đặt ra những câu hỏi. Các bà xơ ở Carmelite rất tử tế và hiểu nàng nhưng hình như họ được lệnh phải im lặng, và chỉ có một người được phép nói với nàng là Xơ Theresa, người nhiều tuổi nhất và là Mẹ Bề trên yếu đuối. - Xơ có biết con là ai không? - Không, con của ta ạ, - Xơ Theresa trả lời. - Làm sao con lại được đến nơi đây? - Ở chân những quả núi kia có một cái làng tên là Ioanina. Con ở trong một con thuyền nhỏ lênh đênh trên mặt hồ khi trời giông bão, cái năm ngoái ấy. Con thuyền đang chìm nhưng nhờ ơn Chúa, hai trong các xơ của con đã thấy và cứu sống con. Họ đã mang con về đây? - Nhưng… trước đó, con từ đâu đến hở Xơ? - Xin lỗi con, ta không biết. Nàng không thể thoả mãn với những điều đó. - Đã có ai hỏi gì về con? Đã có người nào muốn tìm con? Xơ Theresa lắc đầu. - Không có ai cả, con ạ. Nàng muốn oà khóc vì thất vọng. Nàng lại cố nhớ một lần nữa. - Báo chí… họ phải có chuyện về việc ta mất tích. - Như con biết. Chúng ta không được phép liên hệ với thế giới bên ngoài. Chúng ta phải theo ý của Chúa, con ạ. Chúng ta phải cám ơn Người về những ban ơn của Người. Con còn sống. Và đó là tất cả những gì mà nàng có thể biết được. Thời gian đầu, nàng quá yếu đuối để có thế hiểu được những điều đã xảy ra với mình, nhưng dần dà, sau nhiều tháng qua đi, nàng đã lấy lại được nghị lực và sức khỏe. Khi nàng đã khỏe hơn để có thể đi loanh quanh, suốt ngày nàng cúi mình trong khu vườn đầy hoa thuộc phần đất của tu viện, dưới ánh sáng ấm cúng đã toả khắp Hy Lạp như trong một thiên đường huyền ảo, với cả những làn gió nhẹ thổi qua, mang theo hương vị thơm ngon của những quả chanh và những chùm nho. Bầu không khí ở đây thật thần tiên và tĩnh mịch, tuy vậy nàng vẫn cảm thấy không yên. Ta đã bị lạc, nàng nghĩ vậy và chẳng ai chú ý. Tại sao? Ta có làm điều gì độc ác chăng? Ta là ai? Ta là ai? Ta là ai? Những hình ảnh lại tiếp tục xuất hiện, không theo một đòi hỏi nào cả. Một buổi sáng, nàng chợt tỉnh vì nhìn thấy mình trong buồng với một người đàn ông trần truồng đang cởi quần áo nàng. Phải chăng là một giấc mơ? Hay có điều gì đã xảy ra trong quá khứ đối với nàng? Người đàn ông đó là ai? Có phải rằng nàng đã lấy một người nào đó trước đây? Nàng đã có chồng rồi ư? Nàng không mang nhẫn cưới. Trong thực tế nàng không có một sở hữu gì khác ngoài những lệnh theo thói quen ở Carmelite mà Xơ Theresa đã ban cho nàng, một cái ghim cài áo, một con hoàng anh có đôi mắt mầu ngọc bích và sải cánh rộng. Nàng chỉ là một người vô danh, một người lạ sống giữa những kẻ lạ. Chẳng có ai giúp đỡ nàng, không có nhà nghiên cứu tâm thần nào có thể bảo cho nàng rằng trí óc của nàng đã bị rối loạn, và chỉ có thể yên ổn nếu ngăn cách hẳn với quá khứ khủng khiếp. Và rồi những hình ảnh lại đến, nhanh hơn và nhanh hơn. Cứ như là trí óc của nàng tự dưng rơi vào một trò chơi ghép hình vĩ đại, với các tấm hình rời rạc phải xếp vào đúng chỗ của nó. Nhưng những tấm hình này chẳng có nghĩa gì cả. Nàng như thấy một cảnh trường quay chật những người mặc quân phục. Họ như đang chuẩn bị làm một cuốn phim. Ta có là một diễn viên không? Một người lính đưa cho nàng một bó hoa. Cô phải trả tiền cho những bông hoa này đấy nhé, anh ta cười. Sau đó hai đêm, nàng lại mơ về cùng một người đàn ông. Nàng đã chào tạm biệt người đó tại sân bay, và khi tỉnh dậy, nàng đã thổn thức vì đã để mất ông ta. - Không còn có những giấc mơ thanh bình những lần sau đó. Toàn là mộng mị. Đó là những mảnh vụn của đời nàng, quá khứ của nàng. Ta phải tìm ra ta là ai. Hiện ta là ai. Và vào lúc nửa đêm, đột nhiên, một cái tên lóe ra trong tiềm thức nàng - Catherine - tên mình là Catherine Alexander. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Nửa Đêm của tác giả Sidney Sheldon.
Sứ Giả của Thần Chết - Sidney Sheldon
Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"..., đã từ trần ở tuổi 89. Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. Sheldon từng thú nhận ông suýt tự tử vào năm 17 tuổi. Năm 17 tuổi, Sheldon quyết định thử vận may tại Hollywood. Công việc ban đầu duy nhất mà Sheldon nhận được là đọc kịch bản phim tại Universal Studio với giá 22 USD/ tuần. Trong khi đó, ban đêm ông viết kịch bản phim riêng của mình và bán lại cho Universal với giá 250 USD. Sau thế chiến thứ 2, từ một phi công của Lực lượng không quân Mỹ, Sheldon giải ngũ và về làm việc cho sân khấu kịch Broadway - nơi đánh dấu những bước đi quan trọng trong sự nghiệp viết văn của ông. Cũng tại đây, Sheldon nhận giải Tony award cho kịch bản hay nhất cho “Redhead”. Với hơn 300 triệu ấn bản được bán, Sheldon không chỉ là một trong những nhà văn “lão làng” của Mỹ mà còn có ảnh hưởng lớn trong nền văn học thế giới. Ông từng đoạt giải Oscar với kịch bản hay nhất cho phim “The Bachelor and the Bobby-Soxer” (1957), giải Tony Award cho vở nhạc kịch “Rehead” (1957) nổi tiếng của sân khấu kịch Broadway và giải Emmy cho “Dream of Jeannie” (1967) Tại Việt Nam, nhiều tác phẩm của Sheldon đã được dịch và xuất bản như “Âm mưu ngày tận thế”, “Bầu trời sụp đổ”, “Người lạ trong gương”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai”, “Kế hoạch hoàn hảo”, “Cát bụi thời gian”…. *** Tiểu thuyết kiếm cơm của Sidney Sheldon, như những cái nồi hơi ướt át sẽ tan nhanh vào không khí, chẳng đọng lại được gì nhiều cho mai sau. Nhưng trước khi qua đời, ông vẫn được coi là một trong những nhân vật kiệt xuất cuối cùng của thời kỳ hoàng kim trong nền văn học bình dân Mỹ.   Lần cuối cùng tôi gặp Sidney Sheldon là khi ông tham gia một bữa tiệc sang trọng tại Beverly Hills. Tôi còn nhớ, hôm đó, một tác giả có tuổi đã tẽn tò bước đến bên ông, cúi đầu, bày tỏ sự kính trọng của mình rồi rụt rè đưa cho nhà văn bậc thầy một bản thảo cuốn sách mới viết về cái chết của một ngôi sao Hollywood.   Hai người họ đều xúng xính trong những bộ trang phục cầu kỳ và được là ủi kỹ. Với lối chưng diện đó, Sheldon xứng đáng được gọi là "bảnh bảo" - một từ ông rất thích dùng trong các tiểu thuyết của mình. Nhưng ánh mắt của những thực khách có mặt tại bữa tiệc không nấn ná lâu ở Sheldon, người ta còn mải bàn luận về điều gì đó vừa đọc được trên tạp chí In Touch.   Sheldon có thể là một tài năng bậc thầy trong việc phóng các tiểu thuyết của mình lên bảng xếp hạng best-seller nhưng ngày hôm đó, ông thực sự không nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý. Những ai đã đọc sách của Aimee Bender, Dave Eggers và Nick Hornby tất nhiên sẽ không bao giờ đọc bất cứ thứ gì Sheldon viết. Nhưng tôi tự hỏi, không biết bao nhiêu người say mê Mật mã Da Vinci từng lén lút mở những "chiếc nồi hơi" mà Sheldon "sản xuất" ra. Sheldon qua đời, nghĩa là thời đại huy hoàng của nền văn học bình dân Mỹ mất đi một trong những cây bút cuối cùng.   Sinh năm 1917, Sheldon thuộc về một thế hệ nhà văn tôn sùng (và cả ghen tỵ nữa) với những tên tuổi nổi tiếng trên văn đàn Mỹ như Steinbeck và Hemingway. Nhưng họ cũng là những người sẵn sàng dựa vào chút tài năng của mình để biến văn đàn thành một sàn kinh doanh nhằm hốt bạc. Thực chất, mẫu hình của Sheldon là Irving Wallace và Harold Robbins. Và những cụm từ được dùng nhiều nhất trong các điếu văn dành cho ông như "ướt át, vô giá trị" đã chứng tỏ, ông là tác giả điển hình của những cuốn tiểu thuyết được người ta ưỡn ẹo đọc trên bãi biển hoặc cạnh các bể bơi.   Những trang viết của Sheldon chưa từng làm hài lòng các nhà phê bình chân chính. Không một đứa con tinh thần nào của ông cơ hồ sống được thêm 100 năm nữa kể từ thời điểm này. Có chăng, lúc đó, ông chỉ còn được người ta nhắc đến như một ví dụ điển hình cho những tác giả từng lọt vào danh sách best-seller của Mỹ. Chính vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong bộ sưu tập giải thưởng của Sydney Sheldon, dù đã có giải Oscar và Tony, sẽ không bao giờ có thể có thêm một Pulitzer. Nhưng con số 300 triệu bản sách của ông được tiêu thụ tại 180 quốc gia không hẳn là con số vô nghĩa.   Ít nhất, Sheldon cũng phải có những ảnh hưởng nhất định trên văn đàn Mỹ. Dan Brown có thể phá vỡ kỷ lục cũ của Sheldon với cuốn Mật mã Da vinci 53 tuần năm trên bảng xếp hạng best-seller nhưng Brown chắc chắn mắc nợ người đàn ông đã tạo ra cái mà các nhà phê bình gọi là "thứ rác rưởi lắm người đọc".   Sheldon học ở trường đời nhiều hơn là ở các trường học. Dù trải qua rất nhiều nghề nhưng viết lách vẫn là mục đích hướng tới của ông. Từ một người đọc bản thảo với thu nhập 17 USD mỗi tuần, ông dần trở thành một tác giả kịch bản, nhà văn. Trước khi chết, tải sản của ông lên tới 3 tỷ USD - một con số mà cả Dan Brown lẫn J.K. Rowling đều khó lòng mà theo kịp.   Thế nhưng, ở tuổi 17, sau khi đã trải qua rất nhiều lỗi lầm trong đời. Bi quan với khả năng trở thành nhà văn của mình, Sidney Sheldon rơi vào trầm cảm và đã tìm cách tự vẫn. Nhưng bố ông kịp xuất hiện trước khi nhà văn kịp nhấm nháp một lô thuốc ngủ với rượu whisky. Nếu không, thế giới sẽ không biết đến một "hiện tượng Sidney Sheldon".   Mời các bạn đón đọc Sứ Giá của Thần Chết của tác giả Sidney Sheldon.
Bầu Trời Sụp Đổ - Sidney Sheldon
Audiobook Bầu Trời Sụp Đổ   Winthrop là một gia đình quý tộc Mỹ, và trung tâm của nó là Gary Winthrop đầy hấp dẫn, lôi cuốn. Khi người đàn ông này đang trên đà để trở thành ngôi sao mới sáng nhất của Thượng nghị viện, thì bị giết trong ngôi nhà của mình - sự kiện mới nhất trong một loạt các vụ việc đã giết hại năm thành viên của gia đình chỉ trong vòng một năm. Một trong những người cuối cùng nhìn thấy Gary Winthrop còn sống là Dana Evans. Cô đã điều tra vụ này như những thảm kịch ngẫu nhiên, và nhận ra rằng cuộc điều tra này sẽ dẫn dắt cô qua nhiều châu lục, những nơi mà cô và cậu con trai bé bỏng của mình sẽ sống trong những mối nguy hiểm nghiêm trọng, để rồi cuối cùng nó dẫn cô đến một sự thật làm sửng sốt cả thế giới. *** "Nắm lấy cái thìa... một bát đầy hơi nước quyến rũ, sex và bốc hơi nghi ngút." - People "Một chuyến hành trình gấp gáp và bí ẩn... Sidney Sheldon là người biết cách chuyển tải sự kỳ bí... cùng lối kể chuyển đầy hồi hộp... và những tình tiết của ông được gắn kết, biến động và gây ngạc nhiên." - New York Post *** Sidney Sheldon là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Nàng sải những bước dài vội vã trên đại lộ Pennsylvania cách Nhà Trắng một khu phố, run rẩy trong cơn gió lạnh lẽo của tháng mười hai, tai ù đặc vì tiếng oanh tạc và sau đó là tiếng các máy bay ném bom vần vũ trên đầu, sẵn sàng trút hết mớ hàng hoá của tử thần xuống mặt đất. Nàng đứng lại, toàn thân cứng đờ, chìm sâu vào màn sương đỏ rực của sự kinh hoàng. Bỗng nhiên nàng thấy mình trở lại Sarajevo, và nàng nghe thấy tiếng bom rơi rít lên đến chói tai. Nàng nhắm nghiền mắt lại nhưng hành động đó không thể xua đi hình ảnh về những gì đang diễn ra quanh nàng. Bầu trời sáng rực lên, tiếng pháo, tiếng động cơ máy bay ì ầm, tiếng đạn súng cối và nhiều loại súng khác - tất cả họ lẫn vào nhau tạo thành một thứ âm thanh quái dị làm cho tai nàng điếc đặc. Gần đó, những toà cao ốc bị hất tung lên thành những đám bụi mù với xi măng, gạch đá và cát. Đám đông hoảng loạn chạy tứ tán về mọi hướng, cố trốn tránh cái chết. Từ xa, rất xa, một giọng đàn ông vang lên: - Cô không sao chứ? Một cách thận trọng, nàng từ từ mở mắt ra. Nàng đã lại đứng trên đại lộ Pennsylvania, trong ánh nắng mùa đông ảm đạm, lắng nghe tiếng máy bay phản lực và tiếng chuông báo động đang nhỏ dần đi trong trí nhớ của mình. - Thưa cô… cô không sao chứ? Nàng cố ép mình trở về với thực tại: - Không, tôi… tôi không sao, cám ơn ông. Anh ta ngó sững nàng. - Khoan đã? Cô là Dana Evans. Tôi là một fan 1 lớn của cô đây. Đêm nào tôi cũng xem cô trên WTN, và tôi còn xem đầy đủ các tin tức của cô từ Nam Tư nữa cơ. - Giọng anh ta tràn đầy sự ngưỡng mộ. - Việc đó với cô thật hấp dẫn, theo dõi cuộc chiến ấy, phải không? - Vâng. - Cổ họng Dana Evans khô khốc. Hấp dẫn khi thấy người ta nổ tung thành từng mảnh, xác các em bé bị tung lên trời, những mẩu thịt người trôi vật vờ trong dòng sông đỏ lòm. Đột nhiên nàng thấy đau bụng. - Xin lỗi! - Nàng quay ngoắt lại và bỏ đi thật nhanh. Daná Evans mới từ Nam Tư về được ba tháng. Những gì trong ký ức nàng hầu như còn nguyên vẹn. Có cái gì đó không thật khi được bước đi thong dong trên đường phố, dưới ánh sáng ban ngày mà không một chút phập phồng lo sợ, thoải mái nghe chim hót, nghe mọi người xung quanh cười nói. Ở Sarajevo không hể có tiếng cười, chỉ có tiếng bom đạn đì đùng và tiếng khóc than thảm thiết mà thôi. John Donne nói đúng, Dana nghĩ. Không ai là một hòn đảo cả. Chuyện xảy ra cho một người, cũng là chuyện xảy ra cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đều được tạo ra từ đất sét và phép màu của Thượng Đế. Chúng ta chia sẻ cùng một khoảnh khắc của thời gian. Cánh tay kia của tạo hoá bắt đầu lạnh lùng quét qua một phút tiếp theo. Ở Santiago, một bé gái mười tuổi đang bị bố đẻ cưỡng hiếp. Ở New York, một đôi tình nhân đang hôn nhau dưới ánh nến lung linh… Ở Flanders, một cô gái mười bảy tuổi đang sinh hạ một em bé… Ở Chicago, một người lính cứu hoả đang liều mạng cứu một con mèo khỏi toà nhà đang cháy… Ở Sao Paolo, hàng trăm cổ động viên đang giày xéo nhau đến chết khi hàng rào bị đổ trong một trận bóng đá. Ở Pisa, một bà mẹ bật khóc vì hạnh phúc khi chứng kiến đứa con mình chập chững bước những bước đầu tiên trong đời… Và còn biết bao chuyện khác diễn ra trong vũ trụ trong vòng sáu mươi giây, Dana nghĩ thầm. Thời gian cứ tiếp tục trôi cho đến khi nó ngùng lại và đưa tất cả chúng ta cùng sang một cõi vĩnh hằng huyền bí nào đó. Dana Evans hai mươi bảy tuổi, vẻ ưa nhìn, thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen xoã ngang vai, có cặp mắt xám thông minh, khuôn mặt hình quả tim và nụ cười ấm áp. Con một đại tá quân đội, Dana lớn lên như một đứa bé lang thang, theo bố đi từ căn cứ này sang căn cứ khác và cuộc sống này đã cho nàng nếm đủ mọi mùi vị của những cuộc phiêu lưu. Nàng vừa yếu ớt lại vừa can đảm và chính nét tương phản này đã mang lại cho nàng sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong suốt một năm Dana làm phóng viên mặt trận tại Nam Tư, khán giả khắp thế giới đã bị hấp dẫn bởi một người phụ nữ trẻ, đẹp, tận tuỵ tường thuật lại tình hình nóng hổi nhất ngay giữa lòng cuộc chiến, mạo hiểm cả tính mạng mình để đánh đổi lấy những tin tức mới nhất về những sự kiện đầy chết chóc đang diễn ra xung quanh. Và bây giờ, dù đi đến bất kỳ nơi nào nàng cũng dễ dàng bị mọi người nhận ra. Dana Evans thậm chí còn phát xấu hổ vì sự nổi tiếng của mình. Bước nhanh trên đại lộ Pennsylvania, rảo bước qua Nhà Trắng, Dana nhìn đồng hồ và nghĩ thầm, mình lại đến muộn mất thôi. Tập đoàn viễn thông Washington Tribune chiếm hết toàn bộ khu nhà lớn của đường NW số 6 với 4 toà nhà riêng biệt: ban quản trị, xưởng in ấn báo chí, bộ phận văn phòng, và khu truyền thông tổng hợp. Các studio của WTN toạ lạc trên tầng sáu của toà nhà thứ tư. Không khí làm việc ở đây lúc nào cũng căng như dây đàn với những nhân viên luôn dán mắt vào máy tính. Chính tại đây Dana đã gặp Jeff Connors. Anh từng là một ngôi sao bóng chày cho đến khi bị thương ở cánh tay do gặp tai nạn khi đang trượt tuyết, còn bây giờ Jeff là phóng viên thể thao cho WTN và thêm cả việc trình bày báo cho Nghiệp đoàn cung cấp báo chí Washington. Anh ngoài ba mươi tuổi, gầy, rắn rỏi, vẻ ngoài trẻ trung và dễ dãi, hấp dẫn mọi người bằng phong thái ung dung, điềm đạm. Jeff và Dana yêu nhau và họ đã bắt đầu tính đến chuyện hôn nhân. Ba tháng sau ngày Dana trở về từ Sarajevo, ở Washington không có sự kiện gì nổi bật. Leslie Stewart, bà chủ cũ của Tập đoàn viễn thông Washington Tribune đã bán tống bán tháo nó đi rồi biến mất, và chủ mới giờ đây là Elliot Cromwell, một ông trùm truyền thông quốc tế. Cuộc họp vào buổi sáng với Matt Baker và Elliot Cromwell có vẻ như đã bắt đầu. Khi Dana đến nơi, Abbe Lasmann, cô thư ký tóc đỏ quyến rũ của Matt bước ra chào nàng. - Mọi người đang đợi cô, - Abbe nói. - Cám ơn, Abbe. - Dana bước vào phòng họp. - Matt… Elliot… - Cô đến trễ, - Matt Baker càu nhàu. Đây là một người đàn ông lùn tè, tóc xám, vừa bước qua tuổi năm mươi, bộ dạng cộc cằn nóng nảy nhưng bù lại có đầu óc năng động và vô cùng sáng suốt. Bộ đồ vest của Matt trông nhàu nhĩ như thể ông ta đã mặc nó đi ngủ, và Dana ngờ rằng đó hoàn toàn là chuyện có thật. Ông ta điều hành WTN, bộ phận truyền hình của Diễn đàn doanh nghiệp Washington. Elliot Cromwell đã ngoài sáu mươi, vẻ thân thiện cởi mở với nụ cười thường trực trên môi. Đó là tỷ phú, và có đến hàng tá các bài khác nhau miêu tả việc ông ta đã có được số tài sản khổng lồ đó như thế nào. Trong lĩnh vực kinh doanh truyền thông, nơi mà mục đích chính là truyền bá thông tin, Elliot Cromwell vẫn là một con người bí ẩn. Ông ta nhìn Dana và nói: - Matt bảo rằng chúng ta đang giã cho các đối thủ nhừ tử. Hiệu suất làm việc của chúng ta vẫn tiếp tục tăng cao. - Tôi rất vui khi biết tin này, Elliot. - Dana, tối nào tôi cũng xem nhiều bản tin khác nhau, nhưng của cô bao giờ cũng có sự khác biệt lớn so với những cái kia. Tôi không biết rõ tại sao, nhưng tôi thích điều này. Dana có thể cho Elliot Cromwell biết nguyên nhân. Những bản tin kia chỉ đơn giản là - thông báo tin tức cho hàng triệu khán thính giả. Còn Dana thì quyết định biến nó thành một cái gì đấy riêng tư hơn. Trong tâm trí nàng, đêm nay, nàng sẽ nói với một quả phụ cô đơn, đêm mai, với một người bệnh nằm bất lực trên giường, đêm mốt, với một người bán hàng đang sống cách xa gia đình. Bản tin của nàng bao giờ cũng toát lên giọng điệu thân tình và ngầm chia sẻ, vì vậy người ta yêu thích chúng và hưởng ứng chúng một cách nhiệt tình. - Tôi biết đêm nay cô sẽ phỏng vấn một vị khách đặc biệt thú vị, - Matt Baker nói. Dana gật đầu. - Là Gary Winthrop. Gary Winthrop là vị hoàng tử quyến rũ đối với toàn thể Mỹ quốc, thành viên của một trong những dòng họ xuất sắc nhất đất nước. Anh ta còn trẻ, đẹp trai và hết sức lôi cuốn. - Winthrop không thích công khai về đời tư, - Cromwell lên tiếng. - Làm sao mà cô lại thuyết phục được anh ta? - Chúng tôi có cùng một sở thích, - Dana trả lời. Cromwellcau mày. - Thật không? - Thật. - Dana mỉm cười. - Tôi thích xem tranh của Monets và Van Goghs, còn anh ta thì thích mua chúng. Thành thật mà nói, trước đây tôi đã phỏng vấn anh ta, và từ đó chúng tôi trở nên thân thiết. Chúng ta sẽ cho phát cuốn băng có những tin tức mới về anh ta, rồi sau đó là cuộc phỏng vấn của tôi. - Tuyệt vời, - Cromwell cười rạng rỡ. Họ dành một tiếng đồng hồ tiếp theo để bàn bạc về chương trình mới của đài, có tên là Đường dây tội ác.Mục đích của chương trình này là sửa chữa sự bất công đã phán xét và nhắc lại những vụ án nổi tiếng đã được khám phá. - Hiện nay đang có rất nhiều chương trình thực tế trên đài, - Matt cảnh cáo, - vì thế chúng ta phải tỏ ra nổi trội hơn họ. Tôi muốn ta hãy bắt đầu bằng một sự tình cờ. Có thể chuyện này sẽ thu hút được sự chú ý của khán giả và… Hệ thống liên lạc nội bộ reo lên. Matt Baker nhấn một nút. - Tôi đã bảo cô rồi, không nhận một cú điện thoại nào cơ mà. Sao lại… Giọng của Abbe vang lên. - Tôi xin lỗi. Đây là của cô Evans. Trường học của Kemal gọi tới. Có vẻ khẩn cấp lắm. Matt Baker nhìn Dana. - Đường dây số một. Dana nhấc ống nghe, tim đập mạnh. - Alô… Kemal không sao chứ ạ?. - Nàng nghe một lát. - Tôi hiểu… tôi hiểu… Vâng, tôi sẽ đến ngay. - Nàng dập máy. - Chuyện gì vậy? - Matt hỏi. Dana trả lời. - Họ muốn tôi đến đón Kemal về. Elliot Cromwell cau mày. - Đứa bé mà cô mang từ Sarajevo về à? - Vâng. - Cả một câu chuyện dài đây. - Vâng. - Dana miễn cưỡng trả lời. - Có phải cô tìm nó, còn sống, trong một khu đất hoang. - Đúng vậy, - Dana trả lời. - Nó có bệnh tật gì hay sao? - Không. - Dana trả lời một cách cứng nhắc, vẻ như không muốn nói về những ngày tháng đó. - Kemal bị mất một cánh tay. Do bom gây ra. - Và… Cô nhận nó làm con nuôi?! - Không hẳn là vậy, Elliot. Tôi chỉ sắp sửa làm thế thôi. Còn bây giờ, tôi là người bảo trợ của nó. - Được, vậy cô cứ đi đi. Chúng ta sẽ bàn bạc về Đường dây tội ác sau. Khi Dana đến trường trung học Theodore Roosevelt, nàng đi ngay vào văn phòng gặp trợ lý hiệu trưởng, Vera Kostoff, ngoài năm mươi, tóc xám, điệu bộ hấp tấp, vẻ mặt lo lắng đang ngồi phía sau bàn làm việc. Đối diện với bà ta là Kemal. Trông nó có vẻ nhỏ hơn tuổi mười hai của mình, gầy gò và xanh xao, mớ tóc vàng bù xù và cái eằm bướng bỉnh. Nơi cánh tay phải là một ống tay áo trống khống. Thân hình mỏng mảnh của nó dường như đã bị căn phòng làm cho bé lại. Lúc Dana bước vào, không khí trong phòng đang rất nặng nề. - Chào bà Kostoff, - Dana nhẹ nhàng lên tiếng. - Kemal. Kemal nhìn chằm chằm vào đôi giày của nó. - Tôi được biết có chuyện gì đó đã xảy ra. - Dana tiếp tục. - Vâng, chính xác là như thế, cô Evans. - Bà ta trao cho nàng một mảnh giấy. Dana nhìn nó, bối rối. Trên đó viết: Vodja, Pizda, zbosti, fukati, nezakonski otrok, umreti, tepec. Nàng ngước lên. - Tôi… tôi không hiểu. Đây là tiếng Serbi, phải không? Bà Kostoff sin sít trả lời: - Vâng, đúng thế. Thật không may cho Kemal là tôi cũng là người Serbi. Đó là những từ mà em đã nói trong trường. - Mặt bà ta đỏ bừng. - Ngay cả cánh lái xe tải người Serbi cũng không nói thế, cô Evans, và tôi không thể tưởng tượng những lời lẽ như vậy lại được thốt ra từ mồm của đứa trẻ này. Kemal gọi tôi là một pizda. Dana nhắc lại: - Một pi… - Tôi hiểu rằng Kemal còn xa lạ với đất nước chúng ta, và tôi cũng đã rất chiếu cố đến điều này, nhưng… biểu hiện của nó thật đáng bị khiển trách. Nó thường xuyên tham gia các vụ đánh lộn và khi tôi trách phạt nó, vào sáng nay, nó đã… lăng mạ tôi. Như thế là quá lắm rồi. Dana khéo léo đáp. - Tôi chắc rằng bà hiểu hoàn cảnh khó khăn của nó, bà Kostoff, và… - Tôi đã nói rồi, tôi luôn chiếu cố, nhưng hình như nó đang định thử thách sự nhẫn nại của tôi. - Tôi hiểu. - Dana nhìn sang Kemal. Nó vẫn nhìn xuống đất, mặt mũi sưng sỉa. - Tôi hy vọng đây sẽ là vụ rắc rối cuối cùng, - bà Kostoff nói. - Tôi cũng vậy. - Dana đứng lên. - Đây là bảng thành tích học tập của Kemal. - Bà Kostoff mở ngăn kéo, lấy một tờ giấy ra và đưa cho Dana. - Cám ơn. - Dana nói. Trên đường về nhà, Kemal hoàn toàn yên lặng. - Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Dana hỏi, - Tại sao cháu cứ thích đánh nhau, và tại sao cháu lại nói những từ như thế chứ? - Cháu không biết là bà ta nói được tiếng Serbi. Khi cả hai về đến căn hộ của Dana, nàng nói: - Cô phải trở về phòng thu, Kemal. Cháu ở nhà một mình, được chứ? - Word. Lần đầu tiên Kemal nói thế với nàng, Dana tưởng rằng nó không hiểu ý mình, nhưng nàng nhanh chóng nhận ra đây là một kiểu tiếng lóng của bọn trẻ. Word có nghĩa là "vâng, phải" dùng để chỉ người thuộc giới tính kia… Dana lôi bảng kết quả học tập mà bà Kostoff đưa ra xem. Môi nàng mín lại, Lịch sử: D, Tiếng Anh: D. Khoa học tự nhiên: D. Khoa học xã hội: F. Toán: A. Nhìn bảng kết quả, Dana nghĩ, ồ, Chúa ơi, Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Chúng ta sẽ bàn chuyện này vào lúc khác, - nàng nói - Cô trễ giờ rồi. Đối với Dana, Kemal vẫn luôn là một điều bí ẩn. Khi ở bên nàng, nó cư xử rất có lễ phép, còn tỏ ra dễ thương, chu đáo và quan tâm. Vào các ngày cuối tuần, Dana và Jeff đưa nó đi chơi khắp Washington. Họ đến Vườn thú quốc gia, nơi có vô vàn các loại thú hoang quý hiếm, say sưa quan sát những con gấu trúc khổng lồ độc đáo. Họ tham quan Viện bảo tàng không gian và vũ trụ quốc gia, và Kemal được trông thấy chiếc máy bay đầu tiên của anh em Wright đung đưa trên trần nhà, rồi họ đi qua khu Skylab để sờ vào những hòn đá mang từ mặt trăng về. Họ đến trung tâm Kennedy và sân khấu Arena. Hai người giới thiệu với Kemal món pizza ở quán Tom Tom, món tacos ở quán Mextec, món gà rán phương Nam ở Georgetowns. Kemal yêu quý quá từng giây phút vui vẻ đó. Nó thật sự hạnh phúc khi có Dana và Jeff ở bên. Nhưng… mỗi khi Dana phải đi làm, Kemal trở thành một người khác hẳn. Nó tỏ ra chống đối và thù địch với tất cả. Dana cũng không tiện giao nó cho những người đến giúp việc, và những người đến trông đã kể những câu chuyện ghê gớm về những buổi tối ở cùng Kemal. Jeff và Dana đã cố giải thích khuyên bảo nó, nhưng vô hiệu. Có lẽ nó cần một sự trợ giúp đặc biệt, Dana nghĩ. Nàng không biết gì về những nỗi sợ hãi kinh khủng luôn bám riết lấy Kemal. Bản tin tối của WTN đã bắt đầu. Richard Melton, đồng sự bảnh bao của Dana và Jeff Connors ngồi phía sau nàng. Dana Evans đang nói: "… theo các tin tức quốc tế, Anh và Pháp vẫn đang gặp nhiều khó khăn với căn bệnh bò điên… đây là những thông tin của René Linaud từ Reims". Trong phòng điều khiển, đạo diễn Anastasia Mann ra lệnh: - Chuyển cảnh. Trên màn hình giờ là cảnh nông thôn nước Pháp. Cửa phòng thu bật mở và một nhóm người bước vào. Mọi người ngước nhìn lên. Tom Hawkins, một đạo diễn trẻ nhiều tham vọng của mục tin tức buổi chiều lên tiếng: - Dana, cô quen Gary Winthrop à? - Dĩ nhiên. Ở ngoài, Gary Winthrop còn đẹp trai hơn trong ảnh nhiều. Anh ta trạc tuổi bốn mươi, cặp mắt xanh sáng, nụ cười ấm áp và có sức quyến rũ kỳ lạ. - Chúng ta lại gặp nhau, Dana. Cám ơn vì đã mời tôi. - Hoan nghênh sự có mặt của anh. Dana nhìn quanh. Nửa tá thư ký bỗng nhiên tìm được lý do đột xuất để có mặt trong phòng thu. Gary Winthrop hẳn là đã quen với cảnh này rồi. Dana nghĩ, chợt cảm thấy vui vui. - Vài phút nữa là đến phần của anh rồi. Tại sao không ngồi xuống đây, cạnh tôi nhỉ? Đây là Richard Melton. Hai người đàn ông bắt tay nhau. - Anh biết Jeff Connors rồi, phải không? - Dĩ nhiên. - Rồi Gary đùa luôn. - Anh nên ra ngoài làm việc đi, Jeff, đừng có ngồi tào lao mãi. - Vâng, tôi cũng đang định làm như vậy đấy. Cảnh quay về nước Pháp đã kết thúc và tiếp theo là chương trình quảng cáo. Gary Winthrop lặng lẽ ngồi xem cho đến hết. Từ phòng điều khiển, Anastasia Mann nói: - Chuẩn bị, chúng ta sẽ phát cuốn băng. - Bà ta lặng lẽ đếm ngược bằng các ngón tay của mình. - Ba… hai… một… Trên màn hình giờ đây là quang cảnh bên ngoài của Bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Một phóng viên đang cầm chắc lấy chiếc microphone, bất chấp cơn gió lạnh buốt. "Chúng tôi đang đứng trước bảo tàng nghệ thuật Georgetown, nơi ông Gary Winthrop đang tổ chức trao một món quà trị giá năm mươi triệu đôla cho viện bảo tàng. Nào, chúng ta hãy cùng vào trong". Bây giờ là cảnh nội thất tráng lệ của viện bảo tàng. Vô số quan chức, nhân viên cấp cao và phóng viên đang vây chặt lấy Gary Winthrop. Ông giám đốc bảo tàng, Morgan Ormond trao cho anh ta một tấm bằng lớn. - Ông Winthrop, thay mặt cho viện bảo tàng, cho hàng triệu khách tham quan đến đây, và cho ban quản trị viện, chúng tôi xin chân thành cám ơn sự đóng góp vô cùng to lớn này của ông. Đèn flash thi nhau loé sáng. Gary Winthrop trả lời: - Tôi hy vọng việc này sẽ giúp các hoạ sĩ trẻ nước Mỹ có cơ hội tốt hơn để không chỉ thể hiện bản thân mà còn giới thiệu được tài năng của họ ra toàn thế giới. Tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Phóng viên trong cuốn băng nói: - Đây là Bill Toland, tại bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Trở về phòng thu chứ, Dana? Đèn đỏ của camera bật sáng. - Cảm ơn Bill. Chúng ta thật may mắn vì đã mời được ông Gary Winthrop đến đây cùng nói chuyện về món quà tuyệt vời của ông. Máy quay lia một cú rộng và hình Gary Winthrop ngồi trong phòng thu đã xuất hiện trên màn hình. Dana lên tiếng: - Món tiền năm mươi triệu đôla này, ông Winthrop, sẽ được dùng để mua tranh cho viện bảo tàng chứ? - Không. Đây là một sự bảo trợ mới dành cho những hoạ sĩ trẻ người Mỹ, những người không thể, hay nói một cách khác là không có cơ hội được thể hiện những gì mà họ có. Một phần của số tiền sẽ được dùng để hỗ trợ những em học sinh có năng khiếu ở các thành phố thuộc bang. Có rất nhiều em nhỏ lớn lên mà không có chút kiến thức nào về nền nghệ thuật của nước mình. Chúng có thể biết đến trường phái ấn tượng Pháp, nhưng tôi muốn chúng nhận thức rõ hơn về những di sản của chính chúng, với những hoạ sĩ Mỹ như Sargent, Homer và Remington. Nói tóm lại, số tiền này dùng để cổ động các hoạ sĩ trẻ phát huy hết tài năng của họ cũng như dành cho tất cả những bạn trẻ nào có hứng thú với nghệ thuật. - Có tin đồn rằng ông đang dự tính chạy đua vào Nghị viện, ông Winthrop. Đây có phải là sự thật không? - Dana hỏi. Gary Winthrop mỉm cười: - Tôi đang nắn gân mọi người đấy. - Thật là thú vị. Theo kết quả bỏ phiếu thử mà chúng tôi đã xem qua, thì ông đang dẫn đầu. Gary Winthrop gật đầu. - Gia đình tôi đã có một bảng thành tích dài về việc phục vụ chính phủ rồi. Nếu như tôi có được chút hữu dụng nào với đất nước thì, tôi xin làm bất cứ việc gì mà Chính phủ yêu cầu. - Xin cảm ơn sự có mặt của ông, ông Winthrop. - Cảm ơn. Gary Winthrop chào tạm biệt và rời phòng thu trong lúc phát quảng cáo. Jeff Connors, ngồi cạnh Dana nói: - Chúng ta cần nhiều người như anh ta ở trong Quốc hội hơn! - Chúa ơi. - Chúng ta có thể nhân bản anh ta. À mà… Kemal sao rồi? Dana nhăn mặt. - Jeff… làm ơn đừng bỏ cả Kemal và nhân bản vào cùng một rọ. Em không chịu nổi đâu. - Vẫn còn bị ảnh hưởng bởi chuyện sáng nay à? - Ừ, nhưng chỉ hôm nay thôi. Ngày mai sẽ… Anastasia Mann nói: - Trở lại nào. Ba… hai… một… Đèn đỏ bật sáng. Dana nhìn về phía ống kính. "Sau đây là phát thanh viên Jeff Connors với phần tin thể thao". Jeff nhìn vào ống kính và bắt đầu nói: "Hôm nay, trận bóng rổ giữa hai đội…" Vào lúc hai giờ sáng, trong căn nhà của Gary Winthrop ở khu tây bắc Washington, hai người đàn ông đang gỡ những bức tranh trên tường phòng khách xuống. Một người đeo mặt nạ, Lone Ranger, còn người kia là đại uý Midnite. Họ làm với vẻ ung dung hết mức, lôi từng tờ tranh khỏi khung kính và nhét vào chiếc bao bố to sụ. Lone Ranger nói: - Mấy giờ thì xe tuần mới quay lại? Đại uý Midnite trả lời: - Bốn giờ. - Họ thật tốt bụng khi hẹn đầy đủ giờ giấc với chúng ta, nhỉ? Đại uý Midnite nhấc một bức tranh trên tường và đập nó xuống nền nhà lát gỗ sồi, gây ra một tiếng động lớn. Hai người dừng lại một lát và nghe ngóng. Yên lặng. Lone Ranger nói: - Lại lần nữa. Đập mạnh vào. Đại uý Midnite lấy một bức tranh khác và ném mạnh xuống sàn. - Nào, xem chuyện gì xảy ra nhé. Trên giường ngủ ở tầng trên, Gary Winthrop bị tiếng ồn làm thức giấc. Anh ta ngồi hẳn lên. Mình đã nghe thấy tiếng động, hay chỉ là mơ thấy nó? Anh ta lắng nghe một hồi lâu. Vẫn yên lặng. Không chắc lắm, anh ta đứng dậy, bước ra hành lang và bật đèn. Hành lang vẫn tối om. - Này. Có ai ở dưới đó không? - Không có tiếng trả lời. Đi xuống lầu, anh ta bước dọc theo hành lang cho đến cửa phòng khách. Anh ta dừng lại và ngó sững hai người đàn ông đeo mặt nạ với vẻ hoài nghi. - Các anh làm cái quái gì ở đây thế này? Lone Ranger quay sang anh ta và nói: - Chào Gary. - Xin lỗi vì đã đánh thức ông dậy. Hãy đi ngủ tiếp đi. Không một tiếng động, khẩu Beretta xuất hiện trên tay hắn. Hắn đẩy cò hai lần và một màu đỏ lòm bắn tung toé ra từ ngực Gary. Lone Ranger và đại uý Midnite nhìn cái xác của Gary Winthrop đổ ập xuống nền nhà. Hài lòng, chúng quay lưng và tiếp tục hoàn thành nốt việc lấy đi các bức tranh. ... Mời các bạn đón đọc Bầu Trời Sụp Đổ của tác giả Sidney Sheldon.
Người Đàn Bà Đáng Sợ - Erle Stanley Gardner
Anh chàng thanh niên Ted Balfour trong “Người đàn bà đáng sợ” là con người hiền lành lương thiện, chỉ vì một vài sơ sót mà bị bọn xấu vu oan, bôi nhọ. Bọn xấu còn dựng lên hiện trường giả để đánh lạc hướng nhân viên điều tra, khiến cho vụ án trở nên rắc rối đến nổi các vị ở tòa án cũng bị nhầm lẫn. Nhờ sự trợ giúp đắc lực của thám tử Paul Drake và cô thư ký trung thành, tận tụy là Della Street, cùng với sự nhạy bén của một đầu óc thông minh, luôn tha thiết với công lý tưởng chừng như bế tắc, vị luật sư tài ba rất đáng yêu của chúng ta đã khám phá ra sự thật. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Della Street, cô thư ký riêng của Luật sư Perry Mason, nhấc máy điện thoại lên và hỏi: - A lô! Một giọng trẻ trung và ngân vang của phụ nữ ở đầu dây hỏi lại: - Ông Mason sẽ đòi bao nhiêu tiền thù lao cho một ngày làm việc ở Tòa án? Câu trả lời của Della Street lập tức trở nên thận trọng: - Điều đó còn tùy thuộc vào đây là loại việc gì, việc ông ấy phải làm là việc gì... - Ông ta chỉ việc nghe chứ không làm việc gì khác. - Bà muốn nói rằng ông ấy không phải tham gia vào việc tranh cãi chăng? - Không. Chỉ đơn giản là nghe người ta nói những gì và từ đấy rút ra những kết luận của mình. - Bà là ai? Tôi muốn bà cho biết tên. - Bà cần một cái tên để ghi vào sổ chăng? - Đúng như vậy. - Nếu thế thì ghi là Cash (thanh toán ngay, bằng tiền mặt). - Sao ạ? - Cash! - Tôi nghĩ tốt hơn là bà nên nói chuyện với ông Mason, - Della Street nói. - Tôi sắp xếp cho bà một cuộc hẹn nhé. - Chúng ta không có thời gian để hẹn. Công việc mà tôi quan tâm sẽ diễn ra vào lúc 10 giờ, ngay sáng hôm nay. - Xin bà chờ một lát, bà đừng bỏ máy nhé. Perry Mason đang đọc báo, ngẩng đầu lên khi người thư ký bước vào phòng. - Ông chủ, - cô nói với ông, - ông phải tự giải quyết việc này ạ. Một người phụ nữ, đoán theo giọng nói thì còn trẻ, muốn là ông nên có mặt ở Tòa án, nơi sẽ diễn ra một việc gì đó vào sáng nay. Cô ta đang đợi ông ở đầu dây. - Tên cô ấy là gì? - Cô ấy nói với tôi là Cash. Mason mỉm cười và nhấc máy nói lên, trong lúc ấy thì Della Street đi nối dây vào máy. - Vâng, - ông nói. - Perry Mason đang ở máy đây. - Sáng nay vào lúc 10 giờ, tại phòng số 23, sẽ xét xử Balfour theo truy tố của phòng Chưởng lý, - một giọng nói thận trọng trả lời. - Tôi muốn biết là tôi sẽ phải trả bao nhiêu để ông đi dự phiên tòa ấy và rút ra những kết luận của mình. - Tên cô là gì? - Như đã nói với thư ký của ông, ông chỉ cần ghi là Cash vào sổ là đủ. - Bây giờ là 9 giờ 25 phút. - Mason xem chiếc đồng hồ quả quít. - Tôi có hai cuộc hẹn vào buổi sáng và một vào buổi trưa. Tôi chỉ có thể bỏ chúng khi phải làm một công việc rất quan trọng. - Đây là một công việc như thế. - Nếu vậy thì tôi sẽ bỏ những cuộc hẹn đó. Khoản thù lao... - Sẽ là bao nhiêu? - 500 đôla. - Mason đáp lại khá khô khan. - Ối! Tôi... Tôi... thất vọng. Tôi không có ý... Thôi, tôi rất buồn, nhưng mà chúng ta không nói tới chuyện ấy nữa! Cảm động vì sự hốt hoảng trong giọng nói của người đang đối thoại với mình, Mason hỏi lại: - Cô không nghĩ là số tiền phải nhiều đến như vậy chứ gì? - Vâng... vâng... Tôi chỉ có tiền lương và... - Cô hiểu cho, tôi có nhiều khoản phải chi tiêu trong một ngày. Cô làm nghề gì? - Tôi là thư ký. - Và đơn giản là cô muốn đến để nghe xem người ta nói gì về vụ này? - Vâng... Nhưng tôi không đủ tiền... Tôi không... - Cô muốn rằng cô phải trả bao nhiêu? - 100 đôla. Tôi cũng có thể trả tới 150... - Tại sao cô lại muốn tôi đến dự phiên tòa đó? Vụ ấy có liên quan đến cô chăng? - Không trực tiếp. Không... - Cô có xe hơi riêng không? - Không ạ. - Có tiền gởi ngân hàng chứ? - Thưa có! - Bao nhiêu? - Khoản trên 600 đôla. - Thôi được! Cô đã thành công trong việc khêu gợi óc tò mò của tôi đấy. Nếu cô trả tôi 100 đôla, tôi sẽ thực hiện điều cô yêu cầu. - Ồ! Ông Mason... Ôi, rất cảm ơn ông! Tôi xin cử một người tùy phái đến gặp ông ngay... Ông hiểu cho, rất không nên để ông biết tôi là ai... Tôi không thể giải thích được, nhưng người ta sẽ mang tiền đến cho ông ngay tức khắc. Và tôi yêu cầu ông đừng nói với ai là có người nhờ ông trong vụ này. Tôi rất muốn là ông tới đấy như một người đi nghe tòa xử, rằng ông không ngồi cùng chỗ với các luật sư khác. - Nhưng nếu tôi không tìm được chỗ ngồi? - Tôi đã nghĩ đến điều ấy. Khi tới nơi, ông nhìn về phía bên trái, ông sẽ thấy một phụ nữ tóc đỏ hoe, khoảng 40 tuổi, ngồi ở hàng ghế thứ tư tính từ cuối phòng trở lên. Bên cạnh người ấy là một phụ nữ trẻ hơn, tóc nâu sẫm, đã đặt hai chiếc áo măng tô trên ghế phía tay trái của mình. Ông chỉ cần đi đến chỗ ấy, cô ta sẽ nhấc áo nhường ghế cho ông. Chúng ta mong rằng sẽ không ai nhận ra ông... Ông đừng mang theo cặp da. Một tiếng cạch báo cho người luật sư biết rằng đường dây đã bị cắt, và ông quay lại người thư ký của mình. - Della, khi người tùy phái mang 100 đôla của người đàn bà đó tới, cô làm giấy biên nhận và bảo anh ta đưa lại cho người đã giao việc cho mình. Tôi đi dự phiên tòa ấy đây. ... Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Đáng Sợ của tác giả Erle Stanley Gardner.