Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lãnh Đạo

LỜI NGƯỜI DỊCH Hơn 12 năm sau khi ấn bản đầu tiên ra đời, “Lãnh đạo - Chiến lược thực thi” của Warren Bennis và Burt Nanus đã trở lại với độc giả với một phong cách mới hơn nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh túy vốn có của nó. Cuốn sách đã thổi một luồng sinh khí mới về quan niệm lãnh đạo, giúp cho những người đã, đang và sẽ trở thành lãnh đạo nhận thức, nắm bắt và thích nghi với những thay đổi quá nhanh chóng và bất ngờ của thời đại ngày nay. Với phương pháp phỏng vấn và quan sát 90 nhà lãnh đạo tại nhiều cấp bậc từ các tổ chức trong nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội Mỹ, không phân biệt màu da và giới tính, kết hợp với khả năng dẫn dắt và khai triển vấn đề, tác giả đã đúc kết thành những nguyên tắc cơ bản của lãnh đạo và chứng minh chúng qua những ví dụ thực tế một cách thuyết phục. Có thể nói thành công lớn nhất, cũng là điều người dịch tâm đắc nhất khi học hỏi từ cuốn sách này là sự khác biệt giữa quản lý và lãnh đạo. “Quản lý là đảm bảo công việc thực hiện đúng đường lối còn Lãnh đạo là tìm ra đường lối đúng đắn” . Khái niệm này có lẽ còn mới mẻ với rất nhiều người, khi trước đây “lãnh đạo” đa số bị đánh đồng với “quản lý”. Người lãnh đạo phải biết tổ chức của mình cần gì, truyền đạt ý tưởng này cho mọi người, đặt tổ chức vào đúng chỗ và giao quyền cho nhân viên làm việc. Để thực hiện được việc nghe có vẻ đơn giản này, lãnh đạo cần phải có những kỹ năng phù hợp thông qua việc liên tục trau dồi, học hỏi và hoàn thiện bản thân cũng như tổ chức. Ngày nay, thành công không chỉ dừng lại ở một cá nhân mà nó được đẩy lên tầm tập thể, một quan niệm mới cho lãnh đạo hôm nay là: “Team work is dream work,” tức là chỉ có làm việc tập thể thì giấc mơ thành công mới thành hiện thực. Xu hướng phân quyền ngày càng mở rộng làm cho các tổ chức trở nên phẳng hơn, ít cấp độ hơn, lãnh đạo cần có ở tất cả các cấp, bộ phận và lãnh đạo cấp cao sẽ trở thành “lãnh đạo của lãnh đạo”. Qua đó, quyền lực sẽ dần dần được thay thế bằng sự tôn trọng, chia sẻ và hợp tác giữa những con người trong một tổ chức cùng hướng tới một mục tiêu chung. Tuy nhiên, đối tượng phỏng vấn mà tác giả đề cập xuyên suốt cuốn sách tập trung vào những nhà lãnh đạo Mỹ nên tư tưởng của cuốn sách ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa Mỹ. Vì vậy, khi vận dụng các nguyên tắc lãnh đạo trong tác phẩm này cần quan tâm đến yếu tố văn hóa dân tộc vì văn hóa tổ chức chịu ảnh hưởng rất sâu đậm từ yếu tố này. Hiện nay, Việt Nam dù đã tiến bộ nhiều nhưng sức ỳ trong suy nghĩ vẫn còn lớn, làm ảnh hưởng tới sự sáng tạo, đổi mới. Ngoài ra, xu hướng tập trung quyền lực vào các cấp lãnh đạo cao tạo khoảng cách quyền lực khá lớn, gây trở ngại cho công tác phân quyền và huy động sự tham gia của mọi thành viên, mọi lãnh đạo ở các bộ phận vào mục tiêu chung của tổ chức. Hy vọng qua việc vận dụng một cách linh hoạt kiến thức của cuốn sách này các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể dẫn dắt tổ chức trong quá trình sàng lọc, cải tiến cái cũ, tinh tuyển cái mới để vạch ra một tầm nhìn khả thi, truyền đạt ý nghĩa tầm nhìn trong văn hóa tổ chức, phát huy tinh thần học hỏi và chuyển đổi để thích nghi với môi trường bên ngoài, tạo một chỗ đứng vững chắc cho tổ chức trong xã hội. Võ Kiều Linh Tháng 8/2008 *** LỜI TÁC GIẢ Cách đây hơn 20 năm, lúc bắt đầu viết cuốn sách này, chúng tôi nghĩ đây có lẽ là thời điểm nên có một cái nhìn mới về chủ đề lãnh đạo. Theo quan điểm chúng tôi, có nhiều khía cạnh quan trọng về lãnh đạo đã bị bỏ qua hoặc xem thường trong giới quản trị. Chúng tôi hy vọng sẽ có một cách nhìn nhận đánh giá khác khuyến khích nhiều suy nghĩ và nghiên cứu mới cần kíp cho lĩnh vực này. Những phản hồi từ giới chuyên ngành về chủ đề cuốn sách này đã vượt xa sự mong đợi của chúng tôi, họ đã tiếp nhận và mở rộng thêm rất nhiều từ khái niệm chúng tôi đưa ra ban đầu. Hồi tưởng lại, chúng tôi có thể đúc kết vài ý tưởng hữu ích nhất như sau: 1. Phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý - Hầu hết những cuốn sách quản trị trước đây đều chỉ dừng lại ở chỗ lãnh đạo là một trong các chức năng của quản lý. Chúng tôi lại cho rằng lãnh đạo có một mục đích tổ chức khác với quản lý. Lãnh đạo cần có cách đánh giá độc đáo và nắm giữ nhiều trách nhiệm, đòi hỏi những năng khiếu và kỹ năng khác nhau. Chúng tôi thấy mọi người nhắc nhiều đến “quản lý là làm việc đúng cách, đúng đường lối, còn lãnh đạo là xác định cách làm đúng, đường lối đúng”. Ý kiến này đã đóng góp rất nhiều trong các chương trình giảng dạy và tư vấn ngày một tăng, đặc biệt về lĩnh vực phát triển khả năng lãnh đạo. 2. Giao quyền – Các cuốn sách trước thường cho rằng lãnh đạo cần phải khẳng định vai trò của mình qua việc thực thi quyền lực và quản lý, xuất phát từ địa vị quyền hành và trách nhiệm trong tổ chức của người này. Chúng tôi nghĩ ngược lại “lãnh đạo giao quyền lực cho người khác để họ biến ý định thành thực tế và duy trì nó”. Các tác giả sau này đã tiếp tục phát triển ý tưởng giao quyền này thành các khái niệm như “lãnh đạo đầy tớ” hay “lãnh đạo cộng tác”. 3. Tầm nhìn – Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một trong những yếu tố then chốt để lãnh đạo thành công là cần phải có một tầm nhìn rõ ràng cụ thể, hay một chí hướng, thu hút sự quan tâm của tất cả mọi người trong tổ chức. Vấn đề này không chỉ đúng trong lĩnh vực kinh doanh, mà còn cả trong lãnh đạo các tổ chức giáo dục, nhà thờ và các tổ chức phi lợi nhuận khác. Ngày nay, ai cũng nhận thấy rằng tất cả các tổ chức thành công không chỉ cần một nhiệm vụ hay mục đích rõ ràng, mà còn cần một lý tưởng được chia sẻ cho mọi thành viên, và lãnh đạo sẽ không thể thành công nếu thiếu một trong hai yếu tố này. 4. Niềm tin - Giới quản lý luôn biết rằng liêm chính rất quan trọng dù không phải lúc nào họ cũng chứng minh được điều này. Nhưng cuốn “Lãnh đạo” là một trong những cuốn sách đầu tiên nhấn mạnh xây dựng lòng tin là đặc điểm mấu chốt cho sự thành công trong lãnh đạo và thiếu vắng niềm tin sẽ là thảm họa cho tổ chức, minh chứng là hàng loạt các vụ tai tiếng tài chính và nhiều công ty phá sản. 5. Truyền đạt ý nghĩa - Nhiều cuốn sách đã được xuất bản về chủ đề văn hóa tổ chức, nhưng cuốn sách này chỉ tập trung vào vai trò người lãnh đạo trong việc hình thành và truyền đạt nền văn hóa đó. Chúng tôi nhận thấy lãnh đạo là người đóng vai trò chủ chốt trong việc phát ngôn các giá trị tổ chức, diễn dịch chúng sang thực tiễn, xác định và phát huy ý nghĩa, tạo những biểu tượng và hình mẫu cần thiết để truyền đạt một hình ảnh xuyên suốt về các nguyên tắc chi phối hành vi tổ chức. Có một kết cục không ai mong muốn xuất phát từ quan điểm này, đó là những người điều hành, trước các phương tiện truyền thông, thay vì phát ngôn hay đại diện cho lợi ích của tổ chức thì họ lợi dụng danh tiếng vì quyền lợi cá nhân. Đây là một xu hướng không tốt mà chúng tôi thực sự lo lắng cho tình trạng hiện nay. Chúng tôi, tác giả của cuốn sách này, cảm thấy vui mừng vì đã có thể giúp những nhà lãnh đạo, học giả và những người khác có một cái nhìn mới về chủ đề lãnh đạo. Trong thế giới ngày càng trở nên phức tạp, phụ thuộc lẫn nhau, và hỗn loạn, không gì quan trọng hơn tài năng và uy tín của lãnh đạo, người đưa ra những kế hoạch xác đáng, huy động những nguồn lực cần thiết, và giao quyền cho những người khác hành động vì lợi ích tối ưu cho tổ chức và cho xã hội.   WARREN BENNIS - BURT NANUS Tháng 3, năm 2003 *** LỜI TỰA Khách quan nhìn lại ấn bản đầu tiên của cuốn “Lãnh đạo”, với tất cả những nỗ lực trước đây, chúng tôi, tác giả cuốn sách, nghĩ rằng nhiều khái niệm chúng tôi đưa ra như tầm nhìn, giao quyền, học hỏi trong tổ chức và niềm tin, vẫn có giá trị đến ngày nay cũng như cách đây 12 năm. Mặt khác, khi đọc lại ấn bản đầu tiên, chúng tôi thấy có một số điểm cần phải được nhấn mạnh hơn. Người Pháp có câu l’esprit d’escalier , nghĩa đen là linh hồn của chiếc cầu thang, ngụ ý khi đi xuống cầu thang chúng ta mới nghĩ ra những điều chúng ta muốn nói nhưng cuộc họp đã kết thúc. Vì thế chúng tôi quyết định bổ sung thêm cho ấn bản trước bằng nhiều thông tin mới rải rác trong cuốn sách và một phần hoàn toàn mới, chương cuối, nêu ý kiến của chúng tôi về tương lai của lãnh đạo. Sau đây là những điểm chúng tôi muốn nhấn mạnh. 1 . Lãnh đạo là vấn đề về nhân cách. Nhân cách có thể liên tục được cải thiện. Quá trình trở thành nhà lãnh đạo cũng giống như quá trình trở thành một con người hoàn thiện vậy. Chúng ta thường thấy hầu hết các tổ chức đánh giá nhân viên theo bảy tiêu chí sau: năng lực kỹ thuật, kỹ năng cá nhân, kỹ năng phân tích, khả năng lưu trữ thông tin, sở thích, óc phán xét và nhân cách. Trong số này, hai tiêu chí cuối là khó xác định, khó đánh giá và phát triển nhất. Chúng ta không biết cách đào tạo chúng như thế nào: không có trường lớp nào dạy điều này. Nhưng chúng ta biết chúng được hình thành như thế nào. Thực tế là có nhiều nhà điều hành đã đi trật đường ray, hay đã thất bại vì thiếu nhân cách và óc phán xét, chứ chúng ta chưa hề thấy sự nghiệp nào bị chết yểu vì thiếu năng lực kỹ thuật. Thật không may là những yếu tố quan trọng nhất đối với lãnh đạo lại không thể dễ dàng định lượng được. 2. Để tổ chức có tính cạnh tranh cao, người lãnh đạo phải đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng một cấu trúc xã hội nhằm tạo nên nguồn vốn tri thức cho tổ chức. Các yếu tố quan trọng của cấu trúc, cơ cấu hay hình thức tổ chức được mô phỏng qua 4 F của Rosabeth Moss Kanter, đó là: focused - tập trung, flexible – linh hoạt, fast – chắc chắn, và friendly – thân thiện. Chúng tôi xin thêm vào một F thứ năm là: fun – thú vị. Một cơ cấu sẽ chỉ thành công khi các thành viên muốn nó thành công. Chúng tôi không quan tâm nhiều đến cơ cấu tổ chức, mà chủ yếu tập trung vào cách lãnh đạo kiến tạo và phát triển nên một nền văn hóa trong đó mọi người tôn trọng, quan tâm và tin tưởng lẫn nhau. Các tổ chức ngày càng có nhiều ý tưởng, sáng kiến, óc tưởng tượng, sáng tạo, nói chung là dựa trên vốn tri thức. Những vị lãnh đạo sáng suốt phải nắm bắt được điều này. Percy Barnevik, chủ tịch người khổng lồ ABB, bảo chúng tôi rằng “giải phóng chất xám” là thách thức lớn nhất đối với ông. Micheal Eisner của Disney khi đề cập đến nhóm làm phim hoạt hình, nói rằng “ý tưởng theo chúng tôi về tận nhà”. 3. Chỉ có ý chí quyết tâm đạt được mục tiêu hay hiện thực hóa tầm nhìn, ước mơ không thôi chưa đủ . Max Depree, cựu chủ tịch công ty Herman Miller, đã từng nói rằng “nhiệm vụ đầu tiên của lãnh đạo là xác định thực tiễn”. Đó là một cách nói khác về mục tiêu và phương hướng. Nếu mọi người không cùng hướng đến một mục tiêu chung thì công ty sẽ không thể thành công. Không có mục tiêu thì công ty chỉ vật vờ, trôi nổi. Mặt khác, nếu mục tiêu cũ rích cũng không thể khuyến khích, truyền cảm hứng và sinh lực cho mọi người. Nó phải luôn được hâm nóng và có ý nghĩa đối với mọi người. Chúng tôi có một ví dụ thú vị từ nhóm nhạc kịch “Peanuts” như sau: Lucy hỏi Schroeder, người đang chơi dương cầm và dĩ nhiên không ngó ngàng gì đến cô, rằng anh có biết tình yêu là gì không. Shroeder đứng lên và ngâm: “Tình yêu - một danh từ diễn tả cảm xúc sâu sắc, mạnh mẽ, và không thể diễn đạt bằng lời của người này đối với người khác.”. Xong, anh ta ngồi xuống và tiếp tục chơi đàn. Trong cảnh cuối, Lucy nhìn xa xăm, cay đắng nói rằng, “Nghe thì hay lắm nhưng chỉ là nói suông”. Đa số các câu khẩu hiệu cũng vậy: Nghe rất hay nhưng chỉ là sách vở. Vì vậy mục đích phải có một ý nghĩa phù hợp với những người ủng hộ, nếu không nó thật vô nghĩa. Trong vở kịch của Shakespeare, Henry IV, phần I, vị thông thái xứ Wales, Glendower, khoác lác với Hotspur rằng, “Ta có thể gọi các linh hồn từ đáy biển sâu”. Hotspur đập lại rằng, “Thì đã sao? Ta và những người khác cũng có thể làm được như thế; Quan trọng là những linh hồn có xuất hiện khi ngươi thật sự cần chúng không?”. 4. Khả năng xây dựng và duy trì niềm tin là yếu tố trung tâm của công tác lãnh đạo . Lý tưởng dù có hay đến đâu cũng trở nên vô nghĩa nếu mọi người không tin tưởng nó. Lòng tin là chất keo kết nối mọi hệ thống trong xã hội lại với nhau. Niềm tin là thứ khó khăn mới có được nhưng lại dễ dàng bị đánh mất. Cách đây không lâu chúng tôi nhận được một bức thư từ một vị giám đốc điều hành (CEO) trong danh sách Fortune 500 viết rằng, “Chúng tôi có tới hàng ngàn người, hàng ngàn công nhân, những người chỉ muốn chấp nhận một thế giới bất biến, và họ không đón nhận những dự đoán thay đổi trong tương lai.”. Vấn đề nan giải của công ty là không có lòng tin trong đội ngũ CEO và quản lý cấp cao. Vị CEO với đường lối ấu trĩ chỉ biết ra lệnh và kiểm soát đã không có khả năng xây dựng niềm tin giữa các thành viên chủ chốt của công ty. Còn công đoàn thì sao, họ đã làm nên chuyện. Có thể nói rằng vị lãnh đạo công đoàn là một trong những người mạo hiểm nhất nhưng nếu không tạo được niềm tin họ không thể “gọi các linh hồn từ đáy biển sâu”. Trong số báo New York Times ngày 12 tháng 11 năm 1995, Tom Friedman viết về vụ ám sát Yitzhak Rabin, chia sẻ bí quyết thành công của Rabin như sau: “Ông Rabin có được yếu tố quan trọng nhất của lãnh đạo, đó là tính xác thực. Ông không vẽ vời, không đeo mặt nạ giả dối, những gì bạn thấy hoàn toàn là sự thật.” Người Israel biết họ có thể tin tưởng Rabin và hoàn toàn có niềm tin rằng ông luôn làm điều đúng. Không có niềm tin này, Rabin đã không thể đạt được những nhân nhượng mạo hiểm trong tiến trình hòa bình với PLO (Tổ chức giải phóng Palestine). 5. Những nhà lãnh đạo chân chính thu hút mọi người đi theo lý tưởng của mình một cách khéo léo thông qua niềm tin lạc quan của họ, thậm chí đôi khi có thể là sự lạc quan không có cơ sở . Với họ, không phải là chỉ còn nửa cốc nước, mà còn đầy tới nửa cốc. Tất cả những vị lãnh đạo gương mẫu chúng tôi đã phỏng vấn đều tin tưởng rằng họ có thể thay đổi thế giới, hay ít nhất họ có thể tạo một dấu ấn trong vũ trụ này. Họ là những người mang đến niềm hy vọng. Confucius đã nói rằng lãnh đạo là “những người phân phát niềm hy vọng”. Cựu Tổng thống Ronald Reagan là điển hình hay cũng có thể gọi là minh họa tích cực cho quan điểm này hơn bất kỳ ai kể từ thời FDR (Franklin D. Roosevelt), dù ông vừa bị bắn trong một cuộc ám sát hụt. Richard  Wirthlin, người từng thu thập thông tin cho Reagan trong 6 năm, kể về câu chuyện năm 1982: trong tâm trạng đầy tuyệt vọng, ông bước vào Phòng Bầu dục với bản báo cáo giữa tháng, thông báo cho Reagan một tin xấu: “Chỉ có 32% phiếu bầu, tỷ lệ thấp nhất so với các tổng thống đương nhiệm ở năm thứ hai.”. Reagan đáp lại bằng một nụ cười và nói: “Ngốc ơi… đừng lo. Để tôi chạy ra ngoài nhận thêm một cú đạn nữa.”. 6. Lãnh đạo phải có thiên hướng hành động để thành công. Đó là khả năng diễn dịch tầm nhìn và mục tiêu vào thực tế. Chỉ có tầm nhìn, niềm tin và lòng lạc quan không chưa đủ. Lãnh đạo phải có những bước đi vững chắc và năng động để mang lại kết quả thành công. Lãnh đạo là những người thúc đẩy công việc, họ biết cách “kết nối” từ mục tiêu tới thực tế. Như Steve Jobs đã từng nói trong thời hoàng kim của máy tính Mac là “con tàu của những người lãnh đạo chân chính”. Cần phải có sự tập trung cao độ, liên tục vào nhiệm vụ cho đến khi công việc hoàn thành. Tất cả những điều này nhắc nhở chúng tôi rằng tác phẩm của chúng tôi về lãnh đạo vẫn chưa hoàn thành và chúng tôi đã có thêm nhiều “ý tưởng khi đi xuống cầu thang”. Một câu nói của triết gia vĩ đại Wayne Gretzky mà chúng tôi yêu thích là: “Không bắn thì làm sao trúng đích được”. Vì thế chúng tôi đã bắn một cú nữa trong cuốn sách này. Warren Bennis và Burt Nanus Santa Monica, California Tháng 8 năm 1996 Mời các bạn đón đọc Lãnh Đạo của tác giả Warren Bennis & Burt Nanus.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kinh Doanh - Khái Lược Những Tư Tưởng Lớn
Làm thế nào để xây dựng thương hiệu thành công? Điều gì tạo nên một nhà lãnh đạo giỏi? Vì sao một số doanh nghiệp gặp thất bại trong khi số khác lại phát triển vượt bậc? Trong suốt chiều dài lịch sử, các chuyên gia về kinh doanh đã đúc kết những ý tưởng và giải pháp góp phần định hình thế giới kinh doanh và thương mại như ngày nay. Được viết bằng văn phong đơn giản, Kinh doanh – Khái lược những tư tưởng lớn mở ra những ý tưởng độc đáo, với cách giải thích ngắn gọn, súc tích kèm theo các biểu đồ dễ hiểu và hình minh họa dí dỏm, giúp bạn tiếp cận những kiến thức cốt lõi về kinh doanh và thị trường thế giới. "Khi tư duy kinh doanh thay đổi, bản chất của hoạt động kinh doanh cũng thay đổi. Nếu một công ty trước đây bị hạn chế bởi tính địa phương thì ngày nay họ có cơ hội trên toàn cầu. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đồng nghĩa với việc cạnh tranh trở nên khó khăn hơn... Cốt lõi của kinh doanh là, và vẫn luôn là, tìm cách tồn tại và tạo ra thặng dư - phát triển bản thân và xã hội. Khi thế giới tiếp tục mở cửa và cơ hội cho doanh nghiệp không ngừng nhân lên, sự quan tâm dành cho hoạt động kinh doanh trở nên thích đáng và thú vị hơn bao giờ hết. Hơn nữa, đối với những người có tinh thần doanh nhân, việc kinh doanh chưa bao giờ thỏa chí đến thế." *** Khái Lược Những Tư Tưởng Lớn là bộ sách cô đọng, hấp dẫn, đầy đủ nhất từ trước đến nay của Nhà xuất bản DK, do tác giả là các chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm ở các lĩnh vực biên soạn, bao gồm các chủ đề đa dạng như chính trị, tôn giáo, triết học, kinh tế, nghệ thuật, văn học, điện ảnh... Nhận thấy bộ sách có giá trị tham khảo cao, Đông A bước đầu tiến hành chuyển ngữ và hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc các tựa tiếng Việt, gồm có: 1. TÔN GIÁO 2. KINH TẾ HỌC 3. TÂM LÝ HỌC 4. CHÍNH TRỊ 5. VĂN HỌC 6. KINH DOANH 7. KHOA HỌC 8. NGHỆ THUẬT 9. LUẬT PHÁP 10. XÃ HỘI HỌC 11. NỮ QUYỀN 12. TRIẾT HỌC   Mời các bạn mượn đọc sách . Mời các bạn mượn đọc sách Kinh Doanh - Khái Lược Những Tư Tưởng Lớn của tác giả DK & Kim Oanh (dịch).
Hiểu Hết Về Kinh Doanh
Một trong những cuốn cẩm nang về Kinh doanh dễ hình dung nhất từ trước tới nay!  Tại sao dòng tiền lại quan trọng? Sản xuất tinh gọn là gì? Marketing kỹ thuật số hoạt động ra sao? Thành viên hội đồng quản trị gồm những ai? Mua bán doanh nghiệp là gì? Cấu trúc doanh nghiệp ra sao? Khấu hao là gì? Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ra sao? Làm thế nào để có thể thành công trong thị trường toàn cầu của thế kỷ 21?  Với những hình ảnh bắt mắt, đơn giản, không sử dụng thuật ngữ, How business works  Hiểu hết về kinh doanh giải thích mọi khái niệm liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, biến những khái niệm khó hiểu nhất trở nên dễ hiểu. Mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh sẽ được xem xét, phân tích giúp độc giả hiểu rõ hơn về kinh doanh, và cách các hình thái kinh doanh định hình xã hội hiện đại.  Dù bạn đang muốn thăng tiến trong công việc, khởi sự doanh nghiệp của riêng mình hay chỉ đơn giản là muốn hiểu rõ hơn thế giới kinh doanh và tài chính, How business works  Hiểu hết về kinh doanh chính là cuốn cẩm nang không thể bỏ qua! *** Trọn bộ Series: How Things Works ( Hiểu hết về các lĩnh vực ) của DK (Bản Tiếng Việt). Bộ sách HOW THINGS WORK của DK là bộ sách hướng dẫn trực quan, đơn giản và dễ hiểu nhất về các lĩnh vực của đời sống. Sách được trình bày theo hình thức infographics, với ngôn từ dễ hiểu, hình ảnh nổi bật và dữ liệu hấp dẫn. Các cuốn sách sẽ giải thích mọi điều bạn cần biết về một lĩnh vực mà bạn quan tâm, từ đó xây dựng nền tảng cơ bản để tìm hiểu sâu hơn bằng những tài liệu, cuốn sách chuyên ngành. - How Food Works - Hiểu hết về thức ăn - How the Body Works - Hiểu hết về cơ thể - How Psychology Works - Hiểu hết về tâm lý học - How Money Works - Hiểu hết về tiền - How Business Works - Hiểu hết về kinh doanh - How Science Works - Hiểu hết về khoa học - How Philosophy Works - Hiểu hết về triết học - How Management Works - Hiểu hết về quản lý - How We're F***ing Up Our Planet - Ta đang hủy diệt Trái Đất như thế nào - Hiểu Hết Về Bộ Não - Hiểu Hết Về Công Nghệ Mời các bạn đón đọc Hiểu Hết Về Kinh Doanh của tác giả DK & Tân Thành (dịch).
Huynh Đệ Đại Chiến Giầy, Adidas vs Puma
Vào đầu những năm 1920, hai anh em Adi và Rudolf Dassler đã đổi mới bằng cách tạo ra một nhà máy sản xuất giày dành riêng cho thể thao. Những khó khăn và sự phản bội lẫn nhau trải qua trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở Đức đã làm tăng cường cuộc chiến giành quyền kiểm soát xã hội và dẫn đến sự chia cắt mạnh mẽ: Adidas và Puma ra đời, và thế giới thể thao sẽ không bao giờ giống nhau nữa. "Field Invasion" tiết lộ các cuộc đàm phán mờ ám, các trường hợp đáng ngạc nhiên (nhiều trường hợp lần đầu tiên được trình bày), và các ví dụ về lòng trung thành và khả năng phục hồi, cũng như sự nhạy bén trong kinh doanh. Cuốn sách phơi bày hậu trường của một mạng lưới liên quan đến những động thái tiếp thị tuyệt vời, những đối thủ mạnh như Nike và Reebok, những âm mưu chính trị, những con số hàng tỷ USD, những cải tiến kỹ thuật và những người nổi tiếng quốc tế - trong quá trình toàn cầu hóa thể thao. Một bài đọc đáng ngạc nhiên, có khả năng lấy đi hơi thở của ngay cả những vận động viên giỏi nhất. Và nhiều hơn nữa: - Tìm hiểu Hiệp ước Pele là gì. - Tìm hiểu cách Havelange, Beckenbauer và Beckham tham gia câu chuyện này. - Hiểu được sự chuyển đổi của các thương hiệu thể thao thành biểu tượng thời trang đô thị. - Tìm hiểu về các khái niệm đằng sau các chiến dịch quảng cáo lớn như "Just do it" và "Impossible is nothing". - Xem các vở kịch hậu trường tuyệt vời từ FIFA, World Cup và Thế vận hội. *** Ghi chú của tác giả Cuốn sách này không đề cập đến những vấn đề nhất định liên quan đến việc sản xuất giày và vải trên quy mô lớn ở Thế giới thứ ba, đặc biệt là ở các nước Viễn Đông. Adidas và Puma cho biết họ đầu tư rất nhiều vào việc giám sát các nhà máy của mình để đảm bảo công nhân có điều kiện làm việc tốt và không ở tuổi vị thành niên. Đồng thời, họ cũng thừa nhận rằng trên thực tế không thể kiểm soát hoàn toàn hoạt động của các nhà cung cấp của họ. Tôi tin rằng câu hỏi này vượt ra ngoài chủ đề của cuốn sách này. Tôi ước anh ấy có thể mang theo một bản sao miễn phí của Naomi Klein's No Logo và những khám phá mới nhất do Tổ chức Lao động Quốc tế thực hiện. Để dễ đọc, các chữ cái viết hoa của tên một số công ty và tổ chức đã được sửa đổi. Cái tên xuất hiện nhiều nhất là “Adidas”: lẽ ra nó phải là “adidas”, nhưng nó sẽ rất lạ. Viết hoa tất cả các chữ cái FIFA và Uefa cũng cảm thấy không cần thiết. ***   Anh em nhà Dassler táo bạo Tạo dáng chụp ảnh bên những mô hình ô tô mới bằng sáp, hai chàng trai mặc vest lịch lãm và nở nụ cười tự hào. Vào thời điểm ô tô là vật sở hữu độc quyền của các gia đình giàu có, Rudolf Dassler đã phung phí tiền trên một chiếc Mercedes hai chỗ ngồi. Em trai của ông, Adolf, thích một chiếc mô tô Triumph với một chiếcxít đơ ca (sidecar). Kể từ khi công ty giày của họ thành công vào cuối những năm 1920, anh em nhà Dassler đã là những chàng trai trẻ giỏi nhất thị trấn. Adolf và Rudolf Dassler sở hữu nhà máy Gebrüder Dassler, nơi đã làm rung chuyển thị trấn nhỏ Herzogenaurach của Bavaria. Hai người đã có một đề xuất sáng tạo: một nhà máy sản xuất giày chuyên dụng dành riêng cho thể thao. Vì thể thao vẫn là một trò tiêu khiển không thường xuyên nên ý tưởng này có vẻ không thực tế lắm. Mặc dù vậy, Dasslers vẫn kiên quyết đến mức nhà máy bắt đầu nhận được yêu cầu từ những người đam mê thể thao từ khắp nước Đức. Được làm bằng da tối màu với những chiếc đinh tán lớn chạy qua đế giày, đôi giày Dassler nổi bật vì nhẹ và linh hoạt. Adolf, người không chỉ là một thợ đóng giày mà còn là một người mê thể thao, luôn muốn những đôi giày của mình nhẹ hơn và phù hợp hơn với nhu cầu của mình. Một số nguyên mẫu đã được thử nghiệm hàng giờ bởi chính “Adi” và bạn bè của anh ấy trong những chuyến chạy dài trong rừng. Tính cách đối lập của hai anh em khiến mối quan hệ hợp tác diễn ra suôn sẻ. Adi Dassler là một người đàn ông thấp bé, ít nói, rất thích ở trong xưởng, với mùi da và keo; anh ấy chỉ phấn khích khi nói đến thể thao. Anh trai của ông, Rudolf, là người hướng ngoại và phù hợp hơn với việc lãnh đạo lực lượng bán hàng đang phát triển của công ty. Anh ấy không thất vọng vì suy thoái kinh tế của Đức, anh ấy nói chuyện và khăng khăng cho đến khi nhận được đơn đặt hàng - biến nỗi ám ảnh của anh trai anh ấy thành tiền bạc. Họ có thể dễ dàng mua những chiếc xe hơi và những bộ quần áo, cũng như những điếu thuốc trang nhã mà họ treo trên môi. Liên doanh phản ánh sự rời bỏ mối quan hệ lâu dài của gia đình với ngành dệt may. Người cha, ông Christoph, là thành viên cuối cùng của một gia đình thợ dệt thuộc dòng họ Dassler ở Herzogenaurach - một thị trấn nhỏ thời trung cổ cách Nuremberg vài km về phía bắc, thuộc tỉnh Franconia ở cực bắc Bavaria. Thành phố đã phát triển xung quanh các nhà máy và cho đến cuối thế kỷ 19, sử dụng hàng trăm thợ dệt và thợ nhuộm. Tiếp nối truyền thống của Đức, Christoph Dassler rời đi để học nghề từ những người thợ dệt ở nơi khác. Chính tại Gera, anh đã gặp vợ mình, Paulina Spittula. Hôn lễ được cử hành vào tháng 10 năm 1891, và đứa con đầu lòng của cặp đôi, Fritz, chào đời một năm sau đó. Marie, con một, chào đời vào đầu năm 1894. Tuy nhiên, cuộc cách mạng quét qua các ngành công nghiệp của Đức vào cuối thế kỷ 19 đã khiến các kỹ năng của Christoph trở nên lỗi thời. Với sự cơ giới hóa của ngành dệt may, hàng nghìn lao động lành nghề đã bị thay thế bởi máy móc, điều này đã khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh sống lang thang vì đói nghèo áp bức. Christoph và gia đình mới của mình trở về Herzogenaurach, nơi có thêm hai cậu con trai chào đời: Rudolf vào tháng 4 năm 1898 và Adolf vào tháng 11 năm 1900. Thị trấn nhỏ này cũng không tránh khỏi cuộc cách mạng công nghiệp, điều này đã làm giảm hàng trăm bức tường thành của nó. Sản xuất địa phương chuyển sang giày dép, và những con phố lát đá cuội có các nhà máy nhỏ, hầu hết chuyên sản xuất dép nỉ nặng được gọi là Schlappen . Christoph đã nhận được một công việc tại Fränkische Schuhfabrik, một trong những nhà máy địa phương lớn nhất. Trong khi Christoph Dassler học các phương pháp may vá tẻ nhạt, Paulina đã bổ sung thu nhập ít ỏi của chồng bằng một khu giặt ủi tạm bợ ở phía sau ngôi nhà ở Hirtengraben. Người viết tiểu sử gia đình Hermann Utermann mô tả cô là một "người phụ nữ vui vẻ và thẳng thắn, luôn sẵn sàng cho những cuộc trò chuyện nhân hậu". Cô giặt quần áo với con gái, và ba anh em chuyển những món đồ sạch sẽ đến một toa tàu ọp ẹp. Nhiệm vụ đã được đền đáp, vì những người có tiền giặt quần áo của họ thường có tiền lẻ cho người giao hàng. Ở Herzogenaurach, các cậu bé được gọi là “anh em giặt là”. Khi họ vẫn còn đi học vào đầu thế kỷ 20, thể thao hầu như không tồn tại như một trò tiêu khiển phổ biến. Đức có truyền thống tuyệt vời về thể dục dụng cụ Olympic và các môn thể thao khác đã nổi lên trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ trước, nhưng hầu hết người Đức sẽ thấy rất lạ khi thực hiện bất kỳ hoạt động thể thao nào ở ngoài trời. Họ không có thời gian cho việc gì khác ngoài việc bày thức ăn lên bàn. Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, những người tập luyện thể dục dụng cụ bảo thủ và nổi bật nhất đã nhìn các môn thể thao khác với con mắt xấu. Họ cho rằng bóng đá là vô lý và coi đó là một trò chơi sa đọa, được truyền bá bởi kẻ thù truyền kiếp của người Đức, người Anh. Bóng đá đã được tổ chức từ năm 1900, với sự thành lập của liên đoàn Đức, nhưng nó đã bị tổ chức này từ chối, bị coi là “cỏ dại ở Anh”, “một loài viper nước ngoài cần phải nhổ”. Mặc dù vậy, Adi Dassler đã tổ chức các giải vô địch đua xe ngẫu hứng và các môn thể thao khác khi rảnh rỗi. Sự ham thích tập thể dục của anh ấy vượt xa sự phấn khích đơn thuần của tuổi trẻ. Fritz Zehlein, một người bạn có hình thể đẹp như Adi, luôn bị kéo đi chạy dài trong rừng và cánh đồng bao quanh thành phố. "Cả hai không thể tách rời", cháu trai của Zehlein là Klaus nói. "Mỗi khi có thời gian rảnh, họ lại cùng nhau phát minh ra các môn thể thao." Họ làm phi tiêu bằng cách khắc cành cây và tìm những viên đá nặng để ném vào chúng. Vào mùa đông, họ dựng một đoạn đường dốc trượt tuyết tạm thời và đi xuống đồi trên một cặp ván bóng. Khi Adi vẫn còn đi học, anh trai Fritz rời thị trấn thời Trung cổ nơi họ sống để làm giao dịch viên ngân hàng ở Munich, và Rudolf học nghề thợ đóng giày từ cha mình tại Fränkische Schuhfabrik. Nhưng lời kêu gọi của Đế chế vào tháng 8 năm 1914 làm gián đoạn kế hoạch của anh ta một cách tàn nhẫn. Kể từ khi thành lập Đế chế Đức vào năm 1871, Bavaria đã duy trì một mức độ độc lập khỏi các nhà cai trị của đế quốc Phổ - với quân đoàn ngoại giao và quân đội độc lập - nhưng có một thỏa thuận rằng mọi thứ sẽ nằm dưới sự kiểm soát của người Đức. Reich. kaiser nếu chiến tranh được tuyên bố. Hai người anh trai nằm trong số hàng nghìn tân binh tin rằng họ sẽ trở về nhà trong vòng vài tháng, nhưng cuối cùng đã trải qua bốn năm dài trong chiến hào đầy bùn của Flanders. Chiến tranh tiếp tục và Christoph Dassler chứng kiến ngành công nghiệp giày Herzogenaurach suy tàn. Gần một nửa số nhà máy của thành phố đã phải đóng cửa. Để đảm bảo rằng người trẻ nhất sẽ tham gia vào một công việc kinh doanh an toàn hơn, Christoph đã sắp xếp cho anh ta học một nghề mới, đó là thợ làm bánh. Adi sẽ phải thức dậy từ rất lâu trước bình minh mỗi ngày và trải qua 18 giờ mệt mỏi trong cái nóng ngột ngạt của lò nướng. Luôn ngoan ngoãn và ít nói, Adi, vẫn còn là một thiếu niên, đã phản đối. Phải mất nhiều cuộc trò chuyện, ông mới xuất hiện tại tiệm bánh Weiss trên phố Bambergerstrasse vào tháng 11 năm 1914. Sau ba năm mệt mỏi, người học việc lấy được bằng cấp, nhưng ông không có cơ hội để bắt đầu kinh doanh riêng vì các dịch vụ của ông ngay lập tức được quân đội yêu cầu. Đầu năm 1918, Adolf Dassler, khi đó mới 17 tuổi, đã cùng các anh em của mình đến biên giới Bỉ. Một cách ấn tượng, ba chàng trai quay trở lại Herzogenaurach một cách cứng rắn nhưng không hề hấn gì. Khi họ quay trở lại, họ thấy phòng giặt của mẹ họ trống không. Trong hoàn cảnh khốn khó sau chiến tranh, rất ít người có thể mua quần áo của họ giặt, và Paulina đã từ bỏ công việc kinh doanh. Adi nhanh chóng quyết định rằng anh ta sẽ không bao giờ quay lại công việc kinh doanh tiệm bánh nữa; thành lập xưởng giày nhỏ của mình ngay tại đó, nơi từng là tiệm giặt là. Sau sự tàn khốc của cuộc chiến, Adi đã đi lại trên các cánh đồng và rừng cây và nhặt tất cả các loại vật liệu của những người lính để lại. Anh lục tung đống mảnh vỡ để tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể hữu ích trong xưởng của mình. Anh ấy cắt những dải ruy băng bằng da từ mũ bảo hiểm và túi xách rồi biến chúng thành đế giày. Những chiếc dù rách và ba lô thích hợp hơn để làm dép đi trong nhà. Trong số những phát minh đầu tiên của ông là một chiếc máy cắt da gắn vào xe đạp: trong trường hợp không có điện, sức mạnh của thiết bị đến từ một người bạn khỏe mạnh hơn. Được thành lập vào đầu những năm 1920, cửa hàng giày của Adolf Dassler khởi đầu là một doanh nghiệp thực sự nhỏ. Khi Adi lắp ráp đôi giày, hai người bạn của anh thay phiên nhau đạp xe. Christoph ghé vào giờ ăn trưa để dạy con trai những kiến thức cơ bản về sản xuất, và chị gái Marie giúp anh may vá. Khi nhân viên đến vào lúc bình minh, họ phải bước qua giường của Adi: anh ấy đã đặt nó ở lối vào xưởng để có thể nhanh chóng vào bàn trong trường hợp anh ấy có ý tưởng sáng sủa vào lúc nửa đêm. Adolf bắt đầu sản xuất những đôi giày chắc chắn, loại có thể tồn tại trong nhiều năm. Tuy nhiên, anh thích thú hơn với những đôi giày thể thao. Anh ấy đã bán một số đôi giày thể dục và say mê làm việc với những đôi giày chạy bộ nguyên mẫu. Vào thời điểm đó, mảng kinh doanh này vẫn còn mang tính thử nghiệm, vì Adi và những người bạn của anh ấy là “người tiêu dùng” duy nhất. Những chiếc đinh trên đôi giày này được đúc và gắn vào đế bởi người bạn của anh ta, Fritz Zehlein, người mà thuận tiện, là con trai của người thợ rèn của thị trấn. Để cải tiến giày chạy bộ, Dassler đã hăng hái nghiên cứu các phương pháp sản xuất được sử dụng ở các quốc gia có truyền thống lâu đời hơn về môn thể thao này. Cho đến nay, quan trọng nhất trong số này là Phần Lan, quốc gia đã giành được một loạt huy chương Olympic về ném và chạy. Người Phần Lan, bậc thầy về cự ly trung bình, được dẫn đầu bởi Paavo Nurmi, một vận động viên nhỏ bé, có vẻ không ấn tượng, người đã phá một chuỗi kỷ lục thế giới và giành tám huy chương vàng Olympic. Nó cũng tạo ra sự công khai vô song cho Karhu, một công ty Helsinki chuyên sản xuất giày cho các vận động viên giỏi nhất của Phần Lan. Thương hiệu này đã trở nên nổi tiếng trong Thế vận hội năm 1920 ở Antwerp, khi nó được sử dụng bởi tất cả các tay ném lao Phần Lan. Nhưng cô ấy đã thực sự thành công tại Thế vận hội Paris, khi Paavo Nurmi giành được 5 huy chương vàng khi mang một đôi giày chạy bộ màu trắng đáng chú ý. Đội ngũ chuyên dụng của Adi đã sớm được tham gia bởi anh trai Rudolf. Rudi đã không từ Bỉ trở về thẳng Herzogenaurach, nhưng anh ấy đã đến Munich để tìm cách đào tạo để trở thành một cảnh sát. Anh ta gia nhập lực lượng cảnh sát một thời gian, nhưng khôn ngoan kết luận rằng cách bộc trực của anh ta sẽ được sử dụng tốt hơn trong nghiệp vụ bán hàng. Ông rèn giũa kỹ năng bán hàng của mình trong một xưởng sản xuất đồ sứ và với một thương gia buôn đồ da ở Nuremberg, cho đến khi Adolf đồng ý thuê ông vào năm 1923. Máy đánh chữ là vật dụng duy nhất mà Rudolf mang theo. Cuối cùng, các Dasslers khó có thể chọn một thời điểm tồi tệ hơn để bắt đầu công việc kinh doanh của mình. Do những quy định nghiêm ngặt trong Hiệp ước Versailles, những người chiến thắng trong cuộc chiến đã tịch thu phần lớn tài nguyên của nước Đức, để lại một đất nước vốn đã đổ nát, chỉ còn rất ít để xây dựng lại. Điều này khiến người Đức trở nên rất phẫn uất và trải qua những khó khăn khủng khiếp; hàng triệu người phải chịu cảnh thất nghiệp và đói kém. Ở Herzogenaurach, nhiều cửa hàng giày nhỏ sống sót sau chiến tranh đã bị tàn phá bởi khủng hoảng kinh tế. Thị trấn nhỏ đã ghi nhận một tỷ lệ thất nghiệp ấn tượng, xấp xỉ 70%. Mặc dù vậy, trong bối cảnh căng thẳng và khốn khổ, thể thao và các hình thức giải trí khác bắt đầu thu hút ngày càng nhiều người hơn, vui mừng vì có chút phân tâm. Khi những người trẻ muốn chấm dứt bộ mặt bảo thủ của đất nước, họ háo hức tham gia các môn thể thao, vào thời điểm được coi là “hiện đại” và “ngoại lai”. Người Đức thể hiện sở thích đặc biệt với quyền anh. Họ yêu thích khía cạnh hiếu chiến của anh ta, coi đó là sự phẫn nộ của cơ sở. Khi, sau hiệp định đình chiến, lệnh cấm đối với môn này được dỡ bỏ, các võ sĩ - một số người trong số họ là cựu tù nhân chiến tranh, những người đã phát triển kỹ năng của họ trong thời gian bị giam giữ ở Anh - đã trở thành anh hùng của đất nước. Adi và Fritz Zehlein thành lập một đội ở Herzogenaurach, kết thúc khi các thành viên khác nhận ra rằng sự tham gia của họ chỉ giới hạn ở việc bị đánh một lần một tuần. Bóng đá, tuy nhiên, nhanh chóng vượt qua tất cả các môn thể thao khác. Các nhà lãnh đạo thể dục không thể làm gì hơn trong khi các câu lạc bộ bóng đá mọc lên trên khắp đất nước. Bản thân Adi đã gia nhập câu lạc bộ địa phương FC Herzogenaurach, nơi anh chơi ở vị trí tiền đạo. Ngoài ra, đám đông người hâm mộ lấp đầy khán đài ọp ẹp của các sân vận động ở Các trận đấu vô địch của Đức. Đã đến lúc các Dasslers bắt đầu sản xuất quần áo thể thao sáng tạo trên quy mô lớn. Việc mở rộng diễn ra vào ngày 1 tháng 7 năm 1934, với sự khai trương của Gebrüder Dassler, Sportschufabrik, Herzogenaurach. Ngoài giày chạy bộ có đính đá, họ cũng bắt đầu tiếp thị giày đá bóng có đinh đính bằng da. Chiếc giày trước đây trông rất giống loại giày cũ của Anh - bằng da và có thêm lớp bảo vệ cho ngón chân và mắt cá - mặc dù Adi đã thay đổi chúng một chút để chúng nhẹ hơn. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hai anh em phải vật lộn để kiếm sống từ việc bán hàng cho các đại lý. Tuy nhiên, họ đã tìm ra một cách khác để đưa công việc kinh doanh đi lên. Khi câu lạc bộ thể thao Herzogenaurach quyết định mở rộng trụ sở chính, họ đã thuyết phục các quản trị viên đặt hàng một lô giày để cung cấp cho các thành viên của họ với giá thấp hơn. Câu lạc bộ đặt hàng đến mức anh em nhà Dassler phải thuê nhân viên và làm việc không ngừng nghỉ trong nhiều tháng.   Thị trấn nhỏ Herzogenaurach, nơi anh em nhà Dassler bắt đầu vào những năm 1920. Kể từ đó, Rudolf bắt đầu khai thác cơn sốt thể thao, gửi tờ rơi và hộp đựng giày đến hàng chục câu lạc bộ thể thao mọc lên trên khắp nước Đức. Câu trả lời thật ấn tượng. Sản phẩm có chất lượng đến mức những người thợ đóng giày từ Herzogenaurach này bắt đầu khơi dậy sự tò mò của các chuyên gia thể thao hàng đầu của đất nước. Bước ngoặt xảy ra khi một chiếc xe máy ồn ào lướt qua trước nhà máy của Dasslers. Trên yên xe là huấn luyện viên điền kinh của Đức Josef Waitzer, một người đàn ông gầy gò, vụng về với mái tóc húi cua và bộ ria mép được cắt tỉa chính xác. Anh đã nghe nói về những đôi giày do những người nghiện thể thao ở Herzogenaurach làm ra và đã đến từ Munich để tận mắt chứng kiến. Waitzer cần đôi giày tốt nhất có thể cho đội của mình, đội sẽ tranh tài trong Thế vận hội Olympic 1928 ở Amsterdam. Chuyến thăm bất ngờ biến thành một cuộc trò chuyện kéo dài hàng giờ đồng hồ. Jo Waitzer và Adolf Dassler có cùng sự nhiệt tình đối với bất kỳ loại hoạt động thể thao nào. Bản thân Waitzer cũng đã từng tham gia Thế vận hội 1912 ở Stockholm, thi đấu ném đĩa và ném lao. Ông đã không giành được bất kỳ huy chương nào cho Đức, nhưng ông đã sớm trở thành một huấn luyện viên, và vào tháng 2 năm 1925, ông được gọi lên làm huấn luyện viên trưởng của liên đoàn điền kinh Đức. Là người rất tỉ mỉ và tận tâm, ông đã viết một loạt sách hướng dẫn về các chi tiết tinh xảo của ném lao và ném búa. Chiếc xe đạp của Josef Waitzer với chiếc sidecar của nó bắt đầu được nhìn thấy thường xuyên trước Gebrüder Dassler. Anh đóng vai trò là nhà tư vấn cho các anh em và trở thành bạn tốt của Adi - họ chạy cùng nhau và dành hàng giờ để thảo luận về giày Dassler. Vào thời điểm này, Gebrüder Dassler đã rời khỏi phòng giặt cũ của Frau Dassler và chuyển đến một địa điểm lớn hơn: nhà máy giày Weil, nằm ở phía đối diện của sông Aurach, đã ngừng hoạt động vào năm 1926. Tòa nhà có mặt tiền bằng gạch. và cửa sổ cao, và nằm ở vị trí thuận tiện gần ga xe lửa. Việc di chuyển không đưa ra bất kỳ thách thức hậu cần nào, vì tất cả các thiết bị và kho hàng có thể nằm gọn trên một toa xe. Nhà máy có 25 nhân viên, doanh số mở rộng và anh em nhà Dassler bắt đầu tận hưởng thành công của riêng mình. Sau những khó khăn sau chiến tranh, nửa sau của những năm 1920 dường như báo trước sự phục hồi của nước Đức. Gebrüder Dassler hoàn toàn được hưởng lợi từ sự trỗi dậy này. Ngoài những chiếc ô tô đắt tiền, hai anh em còn chi tiền cho những chuyến đi chơi ở thành phố Nuremberg và những chuyến nghỉ dưỡng ngắn ngày ở vùng núi Bavaria, chỉ cách đó vài giờ lái xe. Cùng lúc đó, Rudi rời bỏ cuộc sống độc thân sau một cuộc gặp gỡ quan trọng tại nhà ga xe lửa Nuremberg. Anh ta Ông đang trở về sau một cuộc đi dạo với anh trai Fritz, vào tháng 8 năm 1923, khi ông nhìn thấy Friedl Strasser, khi đó 18 tuổi, đi cùng với em gái của mình, Betti, và một người em họ. Họ bắt đầu nói chuyện trên sân ga và ngồi cùng nhau trên tàu. Khi họ đến điểm đến cuối cùng, Friedl, một cô gái tóc nâu xinh đẹp, đã đồng ý hẹn hò. Betti nhớ lại: “Rudolf hơi hợm hĩnh, nhưng Friedl không nghi ngờ gì rằng anh ấy là người đàn ông của đời mình. Kể từ khi cha họ qua đời ngay sau khi chiến tranh kết thúc, chị em nhà Strasser được nuôi dưỡng bởi mẹ của họ, người sở hữu một khu chợ ở Fürth, ngoại ô Nuremberg. Đám cưới diễn ra tại đó, trước sự chứng kiến của khoảng 40 người, vào ngày 6/5/1928. Đôi vợ chồng mới cưới chuyển đến nơi đã trở thành một ngôi nhà chật chội ở Hirtengraben. Vì Friedl được lớn lên trong một gia đình Công giáo bảo thủ coi trọng công việc, nên cô không gặp khó khăn gì khi thích nghi với vai trò của Hausfrau . Nhưng ngôi nhà trở nên quá chật chội với sự xuất hiện của đứa con đầu lòng của cặp vợ chồng, Armin Adolf, vào tháng 9 năm 1929; hai anh em quyết định xây dựng một dinh thự lớn hơn cho cả gia đình phía sau nhà máy Gebrüder Dassler. Việc xây dựng cũng được thúc đẩy bởi một cuộc suy thoái kinh tế khác. Sau sự phục hồi rõ ràng của đất nước vào những năm 1920, nước Đức một lần nữa bị ảnh hưởng bởi sự sụp đổ bất ngờ khác của nền kinh tế toàn cầu, gây ra bởi sự cố sàn giao dịch chứng khoán New York vào tháng 10 năm 1929. Tình trạng trầm cảm nhức nhối và tình trạng thất nghiệp vượt ngoài tầm kiểm soát. . Các công ty Đức đã bị tổn hại bởi lạm phát tràn lan. Trong hoàn cảnh đó, anh em nhà Dassler cho rằng nên đầu tư một số tiền kiếm được vào gạch và vữa. Tình hình này và sự bất lực của chính phủ đã mở đường cho sự xuất hiện của các chính trị gia cực đoan. Họ đã bắt đầu tham gia lực lượng kể từ khi chiến tranh kết thúc, khi chế độ đế quốc bị lật đổ và người kaiser bị buộc phải lưu vong ở Hà Lan. Khi nước Đức ngày càng lún sâu vào vũng lầy kinh tế, Thống chế von Hindenburg, một cựu chiến binh lâu năm và bảo thủ trị vì đất nước, trở thành mục tiêu dễ dàng cho những người theo chủ nghĩa dân túy. Những thay đổi triệt để do Adolf Hitler và Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa (NSDAP) ủng hộ đã nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn. Đảng đã chiến thắng không chỉ những người đang chịu cảnh tuyệt vọng trong nước, mà còn cả những người ông phải chịu đựng nhiều hơn sự sỉ nhục rõ ràng mà nước Đức phải chịu dưới tay của những kẻ chiến thắng trong cuộc chiến. Anh em nhà Dassler không thể thoát khỏi hiện tượng này. Các cuộc biểu tình ủng hộ phổ biến đã diễn ra ở thành phố Nuremberg gần đó, nơi nhiều cuộc mít tinh hào hùng của đảng đã được tổ chức. Hitler đã bổ nhiệm Julius Streicher, có lẽ là kẻ điên rồ nhất trong các trợ lý của mình, để giám sát khu vực. Streicher luôn được nhìn thấy trong bộ đồ da, với một chiếc roi trên vai. Nó phát tán chất độc của nó qua chính tờ báo, có trụ sở chính ở Nuremberg. Der Strümer cung cấp cho độc giả những tuyên truyền chống Do Thái có chất lượng kém, với phương châm là "Người Do Thái là nỗi ô nhục của chúng tôi."   Adi Dassler trẻ tuổi tự hào đứng cạnh một vài đôi giày từ nhà máy mới của mình. Như đã thừa nhận với các quan chức Hoa Kỳ sau chiến tranh, Rudolf Dassler lần đầu tiên bỏ phiếu cho NSDAP vào năm 1932 và là một trong những người đầu tiên trong khu phố của mình ủng hộ Đức Quốc xã. Ở Đức, các cuộc bầu cử sẽ ghi dấu chiến thắng của đảng, nhưng ở Herzogenaurach, đảng này chỉ giành được 22% số phiếu bầu. Nắm bắt được tư tưởng bảo thủ của mình, thị trấn nhỏ tiếp tục ủng hộ von Hindenburg. Ba anh em nhà Dassler nộp đơn xin gia nhập NSDAP vào cùng ngày 1/5/1933, khoảng ba tháng sau khi Hitler lên nắm quyền. Vào thời điểm đó, Adi sống ở Pirmasens, một thị trấn nhỏ ở vùng núi Palatinate, một vùng của Đức, lân cận Alsace, Pháp. Pirmasens sau đó hoàn toàn tập trung vào ngành công nghiệp giày. Mặc dù Gebrüder Dassler đang mở rộng nhanh chóng, Adi cảm thấy mình không có đủ kiến thức kỹ thuật. Tất cả những gì anh biết về nghề đóng giày anh đều học được từ cha mình. Vào đầu những năm ba mươi của mình, ông ghi danh vào Schuhfachschule đang tranh chấp ở Pirmasens. Do kinh nghiệm của mình, anh ấy đã có thể hoàn thành khóa học hai năm trong 11 tháng - dù vậy, anh ấy đã phải ở chung phòng và làm việc nhà với các sinh viên khác. Vì tôi đang cố gắng giảm trọng lượng đôi giày của mình nhiều nhất có thể, nên tôi đã cân nhắc từng lớp học. Rudolf chăm sóc công ty, lúc đó đã có khoảng 70 nhân viên. Franz Martz, một nhà sản xuất khuôn giày gỗ thành công, là một trong những cố vấn của Adi tại Schuhfachschule. Tại một cuộc họp tại nhà của mình, Adolf đã gặp Käthe. Ở tuổi 15, cô là con thứ hai trong số sáu người con của Martz. Franz đồng ý mối quan hệ kín đáo mà cậu học trò và cô con gái đã bắt đầu. Anh và Rudolf là nhân chứng cho đám cưới được tổ chức ở Pirmasens vào ngày 17 tháng 3 năm 1934, trong một buổi lễ bị mưa làm hỏng. Cô dâu đã cảm nhận được những gì sắp xảy ra trong cuộc sống hôn nhân của mình khi Adolf đưa cô đến Hồ Schlier trên dãy Alps ở Bavarian và dạy cô trượt tuyết.   Khi hai anh em vẫn đang nói chuyện: Rudolf và Friedl Dassler (trái và giữa) tạo dáng bên cạnh chiếc xe tải của công ty, trong khi Adi mỉm cười ở hậu cảnh, ở chính giữa. Cặp đôi trở lại Herzogenaurach và sống ở tầng trệt của nơi ở mới của gia đình. (Ngôi nhà trên Hirtengraben đã được để lại cho Fritz, người thay cho phòng giặt cũ, đã thành lập một nhà máy - gọi là Kraxler - cho những chiếc quần da ngắn đặc trưng của vùng đất. Marie đã rời khỏi nhà và kết hôn với một cựu thợ mộc, Simon Körner.) Rudolf, Friedl và Armin sống trên tầng hai, và tầng ba được dành cho cha mẹ của họ, Christoph và Paulina. Chính trong môi trường này, gia đình Dassler bắt đầu đổ vỡ. Mời các bạn đón đọc Huynh Đệ Đại Chiến Giầy, Adidas vs Puma của tác giả Barbara Smit.
Câu Chuyện Heineken
Vào một ngày mùa đông buồn tẻ vài năm trước, trụ sở chính của công ty quảng cáo Franzen Hey & Veltman (FHV) ngay bên ngoài Amsterdam đang ở trong tình trạng bất thường. Hai trong số các giám đốc của công ty, Giep Franzen và Tejo Hollander, đang lo lắng nhìn từ hành lang qua cơn mưa lất phất, nhìn một đoàn xe bất thường lướt tới lối vào. Ở phía sau xe giữa, một chiếc Bentley bọc thép khổng lồ, ngồi Alfred 'Freddy' Heineken, người nắm giữ đế chế bia Heineken trong tay. Chiếc xe limousine của anh ta bị kẹp giữa những chiếc xe hạng nặng của những 'cậu bé' đi cùng nhà sản xuất bia kể từ khi anh ta bị bắt cóc vào năm 1983. Ngày hôm trước, ba người trong số họ đã kiểm tra kỹ lưỡng tòa nhà FHV, khám xét căn phòng nơi Freddy ở để xem hai quảng cáo được đề xuất. và thậm chí kiểm tra máy chiếu để tìm các thiết bị bắn tiềm năng. Đội ngũ của FHV đã chuẩn bị cho màn chào sân sắp tới đến từng chi tiết cuối cùng. Họ không lãng phí nhiều thời gian vào các bài thuyết trình giới thiệu vì họ biết rằng Freddy không thể làm phiền khi nghe họ. Vào đêm trước của những sự kiện căng thẳng như vậy, đó là danh sách khách mời đứng đầu chương trình. 'Theo kinh nghiệm, chúng tôi biết rằng Freddy thích thể hiện sức mạnh của mình bằng cách đưa ra những quyết định gây sốc. Và lượng khán giả càng đông thì càng thôi thúc không thể kìm nén được ', một người trong số họ giải thích. "Vì vậy, mẹo là giữ cho danh sách lời mời càng ngắn càng tốt." Mặc dù nhiều doanh nhân cứng rắn bước qua các hành lang của công ty, những chuyến thăm hai lần một năm của Freddy luôn khiến những người trong giới quảng cáo phải bối rối. Họ đánh giá cao nhà tài phiệt lanh lợi vì bản năng quảng cáo và khả năng sáng tạo của ông. 'Nó không bao giờ ngừng làm chúng tôi ngạc nhiên. Marlies Ponsioen, cựu quản lý tài khoản Heineken tại FHV, cho biết. Nhưng các môn đệ của Freddy cũng biết rằng tâm trạng thất thường khó lường của anh ta có thể rất tàn khốc. Allan van Rijn, người đã đạo diễn các quảng cáo Heineken của FHV vào thời điểm đó, biết chính xác cách Freddy và những người phụ trách quảng cáo của anh ta hoạt động. Anh ấy giải thích rằng để chuẩn bị cho chuyến thăm của Freddy 'các nhân viên lễ tân đều đã làm tóc, dọn dẹp đống lộn xộn và những người quản lý mặc bộ đồ bà ba đẹp nhất của họ. Rốt cuộc, các khoản thế chấp của họ đang bị đe dọa. Sau đó, Freddy bước ra khỏi chiếc xe limo của mình với một bộ đồ nhàu nát và anh ta bước thẳng qua tất cả những chuyện nhảm nhí này. ' Bản thân Freddy thích nhắc lại rằng mối quan hệ huyền thoại của anh với quảng cáo được truyền cảm hứng từ một chuyến đi học đến trường của tập đoàn điện tử và chiếu sáng Philips ở Eindhoven. 'Họ không bán bóng đèn; họ bán ánh sáng, ông giải thích. Kể từ khi anh ấy trở về sau hai năm thực tập mở rộng ở Hoa Kỳ vào những năm đầu đôi mươi, cháu trai của người sáng lập Heineken đã tỉ mỉ xây dựng bản sắc của thương hiệu để nó thu hút người tiêu dùng trên toàn thế giới. Theo kế hoạch, ông trùm nhỏ bé đã đến sớm vào buổi chiều. Sau một vài cái bắt tay ở hành lang, anh được dẫn vào phòng họp đơn giản ở tầng một của văn phòng FHV, nơi có một máy chiếu được giấu sau tấm gương một chiều và một bên là màn hình ở phía bên kia. Khi đèn tắt và rèm được kéo ra, tất cả những người có mặt đều kín đáo quay sang Freddy Heineken và lo lắng xem xét những đường rãnh sâu trên khuôn mặt giống như chú chó chăn bò của anh ta. Các Một chút căng thẳng trên môi, một cái cau mày gợi ý quan tâm - ngay cả cách anh ta phì phèo điếu thuốc cực nhẹ dường như không bao giờ dứt của mình - có thể là điềm báo về một thảm họa sắp xảy ra. Xét cho cùng, Heineken là một trong những tài khoản được theo dõi nhiệt tình nhất trong lĩnh vực quảng cáo, và Freddy đã cai trị nó với góc cạnh chuyên chế đặc trưng cho toàn bộ vai trò lãnh đạo của ông. Kể từ khi giành lại được phần lớn cổ phần của gia đình mình tại Heineken vào những năm giữa hai mươi tuổi, Freddy đã cai trị một tập đoàn sản xuất bia hiệu quả chuyên sản xuất ra một loại rượu bia giòn. Điều này, ông đã biến thành một tập đoàn sản xuất bia với phạm vi quốc tế vô song, đồng thời vẫn theo dõi một cách gần như hoang tưởng về hoạt động kinh doanh rực rỡ và đặc biệt là danh tiếng của thương hiệu. Rất ít người bên ngoài Hà Lan nhận ra rằng Heineken không chỉ là tên của một loại bia mà còn là tên của vị vua chưa đăng quang của Hà Lan - một tỷ phú ngông cuồng nhưng hoàn toàn bình thường, người có thể vừa quyến rũ khó cưỡng lại vừa thô tục. Một số người phản đối, ông được những người khác ca ngợi vì đã biến một loại bia tương đối nhạt nhẽo thành một thương hiệu toàn cầu mang tính biểu tượng. Freddy có một vài quy tắc nghiêm ngặt để thành công. Chỉ ở Vương quốc Anh, Heineken mới làm sai công thức của mình - theo nhiều cách. Tuy nhiên, ngay cả ở đó, Freddy Heineken cũng được ca ngợi nhiều vì đã ủng hộ một chiến dịch quảng cáo kỳ quái đã trở thành biểu tượng và đưa Heineken đi đầu trong cuộc Cách mạng Lager. Nhân viên quảng cáo của FHV và Heineken đã dành khoảng ba tháng và 1,2 triệu guilders để xem quảng cáo của ông trùm. Sao chép một khái niệm trước đó, chúng bao gồm các đoạn phim ngắn, cắt nhanh đi kèm với các đoạn âm thanh phù hợp - ví dụ, có một ly bia văng qua quầy bar với âm thanh của động cơ gầm rú. 'Một lần nữa, ông Heineken?' Franzen nhẹ nhàng hỏi khi trục quay dừng lại. Bởi vì thông thường, khi Freddy thích quảng cáo, anh ấy mỉm cười hài lòng và yêu cầu xem chúng một lần nữa. Nhưng lần này chủ tịch trông có vẻ kém cỏi. "Không vui chút nào", anh ta càu nhàu - và điều đó, trong từ vựng của Heineken, tương đương với một bản án tử hình. Một trong những người tham gia cho biết: 'Nó giống như một ngọn núi lửa phun trào vào mặt chúng tôi'. 'Có một sự im lặng đến choáng váng. Tất cả chúng tôi đều trở nên trắng bệch. Chúng tôi biết rằng sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu phản đối. ' Vài tuần sau, những người làm quảng cáo bị sốc chỉ phát hiện ra điều gì đã xúc phạm Freddy: một đoạn phim ngắn với hai con chó đang âu yếm nhau dưới ghế quầy bar. Nó có nghĩa là một chút khó khăn, nhưng khi nhìn lại, ngay cả giám đốc cũng thừa nhận rằng Heineken đã đúng. Van Rijn nói: “Trước buổi thuyết trình, Freddy có lẽ đã uống một ly trong quán bar ở Amsterdam với Joe Bloggs. 'Anh ấy biết người xử lý máy chiếu ở cơ quan thậm chí còn giỏi hơn các giám đốc. Bằng cách đó, anh ấy có thể nói, không thất bại, công chúng sẽ phản ứng như thế nào. ' Thông thường trong những trường hợp như vậy, bụi sẽ nhanh chóng lắng xuống. Cảnh quay với những con chó đang chảy nước dãi đã được chỉnh sửa và sử dụng các quảng cáo. Một lần nữa Freddy Heineken đã có cách của mình, và với những bình luận ngắn gọn nhất. Trong những năm trước, Heineken đã gây chú ý vì nhiều lý do khác nhau, từ những món đồ chơi bắt mắt và cuộc phiêu lưu của tỷ phú đến tình bạn hoàng gia và vụ bắt cóc ngoạn mục. Nhưng khi đến với công ty của mình, Heineken đã tỏ ra không ngừng nỗ lực và hoàn toàn kiên định. Ông là người đứng sau câu chuyện phi thường của Heineken, được tạo nên từ những giao dịch mạo hiểm, cách tiếp thị thông minh và mức độ phù hợp. *** BARBARA SMIT là một nhà báo đã viết về các doanh nghiệp lớn choFinancial Times , International Herald Tribune và những người khác. Cuốn sách này được xây dựng dựa trên cuốn tiểu sử của cô về Heineken được xuất bản năm 1996, đã bán được gần 70.000 bản chỉ riêng ở Hà Lan. Cô cũng là tác giả của Pitch Invasion: Adidas, Puma and the Making of Modern Sport , được Metro mô tả là 'giống như Triều đại được viết lại bởi Le Cárre'. Cô ấy sống ở Pháp. *** Tất cả hoặc không có gì! Alfred 'Freddy' Heineken, người Hà Lan gây dựng thương hiệu sau Thế chiến thứ hai, thường thừa nhận rằng tài sản của ông bắt đầu từ họ của mình. Nếu có một chương trình máy tính để nghĩ ra các nhãn hiệu bia lý tưởng, nó có thể đã tạo ra 'Heineken'. Giống như nhiều loại bia phổ biến khác, cái tên này có ba âm tiết, nghe có vẻ thân thiện và mang âm hưởng của người Đức, gợi nhớ đến truyền thống sản xuất bia của tổ tiên. Kỳ lạ nhỏ, vì tên của bia Hà Lan là của Đức. Tên này có thể bắt nguồn từ Bremen, thành phố cảng Hanseatic ở miền bắc nước Đức. Được thành lập tốt trong thị trấn, Heinekens tự hào có huy hiệu của riêng họ, được phân chia theo một đường thẳng đứng với một bông hoa huệ ở bên phải và một cánh tay mở ở bên trái. Nhưng vào thế kỷ thứ mười tám, một số Heinekens đã định cư ở Cộng hòa Hà Lan, một quốc gia nổi tiếng với nền thương mại sung mãn cũng như thái độ tiến bộ đối với khoa học và tôn giáo. Hai thế hệ sau, những người nhập cư đã đến được Amsterdam, nơi họ điều hành một doanh nghiệp thịnh vượng và rất Hà Lan: Gerard Adriaan Heineken, người sáng lập nhà máy bia, là con trai của một nhà kinh doanh bơ và pho mát. Vào giữa thế kỷ 19, khi Gerard đang lớn, Amsterdam dường như đang ở trong tình trạng suy tàn. Những ngôi nhà đổ nát và mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ các con kênh đã nói lên sự suy tàn của một thành phố chỉ hai thế kỷ. trước đó, là một trong những cảng nổi tiếng nhất ở Châu Âu. Kể từ đó, thương mại đường biển đã làm cho Amsterdam trở nên giàu có đã bị người Anh và người Pháp tiếp quản. Được thúc đẩy bởi Cách mạng Công nghiệp, Anh, Đức và Hoa Kỳ đã trải qua quá trình mở rộng kinh tế khổng lồ khiến Hà Lan bị tụt hậu. Bốn cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan từ năm 1652 đến năm 1684 đã làm kiệt quệ tài chính và càng làm suy yếu ảnh hưởng của Amsterdam. Gần một nửa số người của thành phố được đăng ký là người nghèo khổ và nghèo khổ. Heinekens sống tương đối thoải mái. Việc buôn bán pho mát đã được ông nội của Gerard khéo léo gây dựng và được cha anh, Cornelis Heineken, mở rộng quy mô. Gia đình càng trở nên sung túc hơn khi Cornelis kết hôn với Anna Geertruida van der Paauw. Là một góa phụ bụ bẫm, bà mang đến cuộc hôn nhân hai đứa con và gia đình chồng trước tích cóp được ở đồn điền Tây Ấn. Cornelis và Anna tiếp tục có bốn người con. Thứ hai của họ, Gerard, sinh năm 1841, là con trai đầu lòng của họ. Vào thời điểm này, dịch bệnh đã tàn phá các thị trấn của Hà Lan, và chỉ có ba người con của gia đình đến tuổi trưởng thành. Họ được nuôi dưỡng để tôn vinh công việc khó khăn, và Gerard lớn lên thành một chàng trai siêng năng, 'thích phiêu lưu và trái tim nhân hậu'. Khi cha qua đời vào năm 1862, Gerard, khi đó mới 21 tuổi, có thể dễ dàng dành những ngày còn lại của mình để sống nhờ tài sản của gia đình. Thay vào đó, anh giao việc buôn bán pho mát cho các thành viên khác trong gia đình và tìm cách tạo nên tên tuổi của chính mình. Vào tháng 6 năm 1863, ông phát hiện ra một nhà máy bia để bán không xa ngôi nhà của gia đình. Gerard nhanh chóng tổ chức một cuộc họp với hai trong số các giám đốc của nhà máy bia, và ngay tối hôm đó, anh đã viết một bức thư khẩn cấp cho mẹ mình để yêu cầu bà hỗ trợ tài chính. Den Hoyberch (The Haystack) đã từng là một nhà máy bia nổi tiếng - một trong những nhà máy lớn nhất ở Cộng hòa Hà Lan - nhưng nó đã giảm mạnh trong vài thập kỷ. Gerard biết rất ít về sản xuất bia, nhưng anh chắc chắn rằng mình có thể vực dậy vận may của Haystack. Vì vậy, ông đề xuất tiếp quản hoàn toàn nhà máy bia. 'Tất cả các! Hoặc không có gì! Nếu không sẽ rất lãng phí thời gian! ' anh ấy đã viết thư cho mẹ mình. Anna Geertruida có lý do riêng để hỗ trợ tài chính cho con trai mình. Vào giữa thế kỷ 19, gin đã trở thành thức uống được lựa chọn của người Hà Lan (như ở London). Nó đã gây ra cảnh tượng khó coi ở Amsterdam và khốn khổ cho hàng trăm gia đình Hà Lan. Mỗi sáng Chủ nhật, khi lên đường đến nhà thờ, Anna Geertruida phải thương lượng với những gã say rượu ngâm rượu gin ngang dọc trên đường để chửi thề. Nếu con trai cô ấy sản xuất ra một loại bia sạch và đáng tin cậy, anh ấy có thể khuyến khích những người uống rượu từ bỏ loại rượu phá hoại của họ. Với sự ủng hộ của mẹ, Gerard Heineken theo đuổi các cuộc đàm phán để tiếp quản The Haystack. Nhà máy bia chính thức được đăng ký là tài sản của Heineken vào ngày 15 tháng 2 năm 1864, khi Gerard thành lập Heineken & Co. Mời các bạn đón đọc Câu Chuyện Heineken của tác giả Barbara Smit.