Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876

Trong sự nghiệp trứ tác của Trương Vĩnh Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876)[4] là tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt hơn cả. Cuốn sách này được ông xuất bản vào năm 1881, sau chuyến ra Bắc trước đó 5 năm; một chuyến đi gây nhiều hệ lụy cho (thanh danh) họ Trương và làm hao tổn không biết bao nhiêu giấy mực của giới nghiên cứu. Trong khối sách đồ sộ của ông, gồm đủ chủng loại (sáng tác, biên khảo, dịch thuật…) bằng nhiều ngôn ngữ (Việt, Hán, Bồ, Pháp…), quy mô tác phẩm này rất khiêm tốn, chỉ hơn ba chục trang in; những nhân vật, sự việc được nhắc đến trong sách cũng rất rõ ràng; đại để nội dung nói chuyện thăm viếng thường tình… Ấy thế mà nó lại là điểm xuất phát (và cũng là bằng cứ) cho những cuộc tranh cãi bất phân thắng bại kéo dài từ đầu thế kỷ XX cho đến tận ngày nay. Có một thực tế là lâu nay, khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký, giới nghiên cứu luôn gặp phải tình cảnh trớ trêu mà như có người nói, là bị một thứ “sương mù” bao phủ lên, làm nhòe mờ đi. Ông luôn bị người đời nhìn nhận bằng một thái độ nghi ngại, dè dặt. Thư tịch, tài liệu nghiên cứu về ông không hiếm, thế nhưng sự thật trong đó thường không mấy đảm bảo; khá nhiều thông tin liên quan đến Trương Vĩnh Ký bị khúc xạ theo một hướng nào đó. Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) là một trường hợp như thế. Tác phẩm này, thậm chí còn được trưng dẫn để chứng minh cho hành vi làm “Việt gian” của họ Trương. Vấn đề đặt ra ở đây là, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cần được hiểu như thế nào? Giá trị đích thực của tác phẩm này là gì? Theo dõi những cuộc tranh luận về Trương Vĩnh Ký lâu nay, dễ dàng nhận ra một điều: ảnh hưởng của các loại thiên kiến (thậm chí là định kiến), đã chi phối rất nhiều đến nhận thức của nhà nghiên cứu về đối tượng. Mà điều này lại liên quan mật thiết đến cái gọi là “điểm nhìn” (point of view) của nhà khoa học. Rút cuộc, điểm mấu chốt trong sự khác biệt giữa các loại ý kiến khi đánh giá về danh nhân Trương Vĩnh Ký nói chung, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) nói riêng, lại xuất phát từ quan điểm tiếp cận. Khi tìm hiểu các công trình, bài viết liên quan đến Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), chúng tôi rất ngạc nhiên khi nhận thấy hầu như chưa bao giờ người ta coi đó là một tác phẩm văn học đúng nghĩa; trong khi nó lại là một cột mốc thực sự của lịch sử văn học, xét trên phương diện thể tài. Đây chính là đóng góp quan trọng nhất, thể hiện vị thế của một nhà văn lớn trong quá trình hiện đại hóa văn xuôi – báo chí quốc ngữ. *** Trước tiên, hãy nói về thể tài du ký với tư cách thuật ngữ nghiên cứu văn học. Trong lịch sử văn học – báo chí Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở về trước, những tác phẩm được gọi đích danh là du ký vốn rất hiếm hoi. Có vẻ như Nguyễn Bá Trác [2] là người đầu tiên đã dùng nó một cách tự giác, với dụng ý nhấn mạnh đặc điểm của chủ đề, lối văn trong một tác phẩm được gọi là Hạn mạn du ký. Nguyễn Bá Trác, trong vai một nhà báo, đã thuật lại những gì mình trải nghiệm được từ những chuyến du lịch đến nhiều xứ sở. Thiên bút ký trường thiên này được đăng trên Nam phong tạp chí từ tháng 8 năm 1920 đến tháng 1 năm 1921 với 6 kỳ liên tục. Từ du ký (游 記), theo nghĩa từ nguyên, là ghi chép về “sự đi”, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan xứ lạ. Thế nhưng nội hàm của khái niệm du ký  - một thể tài văn học - thì lại khá phức tạp. Chứng cớ là ngoại trừ bài của Nguyễn Bá Trác ra thì lại có nhiều tác phẩm dù không được gọi du ký nhưng xét về bản chất chúng rất gần gũi nhau. Chẳng hạn, những tập văn xuôi chữ Hán như Thượng kinh ký sự  của Lê Hữu Trác[5]; Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh[3]; Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức[3]… hoặc những tập văn xuôi quốc ngữ như Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh[1]; Pháp du hành trình nhật ký, Thuật truyện du lịch Paris, Du lịch xứ Lào của Phạm Quỳnh[2] …Thậm chí, ngay cả đối với Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thì Trương Vĩnh Ký cũng gọi tác phẩm của mình là “truyện” (trang bìa sách tác giả đề Tự thuật vãng Bắc Kỳ truyện - 自 述 往 北 圻 傳). Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra điểm chung rất quan trọng giữa chúng: lối văn ghi chép từ những chuyến đi. Nếu đối chiếu với văn học Phương Tây, thì thấy rằng trên đại thể, chúng cũng chẳng khác mấy so với lối bút ký lữ hành (travelling notes) một thể văn xuôi tự sự rất thông dụng ở nhiều nước. Nhưng nói thế không có nghĩa mọi tác phẩm viết về lữ hành đều giống hệt nhau. Nếu xét kỹ về phương thức thể hiện thì lại thấy trong cái khối chung này, có nhiều nhóm, loại với những nét đặc thù. Chẳng hạn, đều là “hành trình ký sự” song hình thức lại rất khác nhau; có những văn bản ghi chép tỉ mỉ bằng lối văn xuôi nhật dụng về chuyến đi theo một lịch trình cụ thể (được gọi là “nhật ký”, “nhật trình”); lại cũng có khi tác phẩm được thể hiện dưới dạng thơ trường thiên (Như Tây nhật trình của Trương Minh Ký là một “câu chuyện” dài tới 2000 câu thơ); có trường hợp ghi chép chuyến đi qua hồi ức, một dạng “hồi ký” (Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh); lại có cuốn được thể hiện dưới dạng “du khảo” -  thiên về giới thiệu “kiến văn” (Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Giá Viên biệt lục của Phạm Phú Thứ)[3] … . Nói cách khác, ngay trong bản thân cái gọi là du ký cũng rất đa dạng, không hề thuần nhất chút nào. Như vậy, du ký với tư cách một thể tài văn học, bao hàm trong đó những kiểu dạng tác phẩm có hình thái rất khác nhau. Nét đặc thù của những tác phẩm thuộc thể tài du ký chính là nhận thức của bản thân người viết qua các cuộc viễn du, là sự trải nghiệm lữ hành. Khác với văn học nhiều nước Phương Tây, thể tài du ký ở ta xuất hiện muộn và cũng ít được chú ý. Có nhiều lý do liên quan đến hiện tượng này, nhưng chung quy có lẽ là bởi người Việt vốn e ngại sự di chuyển, chỉ lên đường khi chẳng đặng đừng. Trong quá khứ, không kể hạng người bình dân, ngay đối với các bậc phong lưu cũng thế. Người nông dân phải nhọc nhằn vật lộn mưu sinh, bị ràng níu bởi trăm thứ hữu hình, vô hình, nên không thể có điều kiện để du ngọan đã đành; cả đến văn nhân cũng ít có điều kiện (kể cả nhu cầu) để du ngoạn đúng nghĩa. Cho đến đầu thế kỷ XX mà những người “mê” đi, “có gan” đi như Tản Đà, Nguyễn Tuân… chỉ là hạn hữu. Mà đã ít người đi, ít kẻ dám dấn bước phiêu lãng thì mạch văn chương du ký hạn hẹp, thưa thớt cũng là chuyện dễ hiểu. Trong bối cảnh đó, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) có giá trị vượt hẳn tính chất của một tác phẩm du ký thông thường; nó đánh dấu cho quá trình hiện đại hóa một thể tài, góp phần làm nên bước tiến mạnh mẽ của văn học dân tộc nói chung trên con đường hiện đại hóa chặng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. *** Tính hiện đại của Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thể hiện qua hai điểm cốt yếu: cảm hứng lữ hành của tác giả và lối văn xuôi rất mới mẻ trong tác phẩm.             Với thiên ký sự này, lần đầu tiên trong mạch văn chương quốc ngữ xuất hiện một tác phẩm thuộc thể tài du ký đúng nghĩa. Nói như vậy là muốn nhấn mạnh đến tính chất của tác phẩm chứ không thuần xét về thời điểm xuất hiện. Bởi nếu so ra thì tác phẩm của Trương Vĩnh Ký không phải sớm nhất; Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh còn xuất hiện trước đó rất lâu (từ năm 1822). Nhưng dù vậy, dù ra đời sớm hơn nửa thế kỷ, tôi cho rằng cuốn của Philipphe Bỉnh chưa phải là một thiên du ký theo nghĩa hiện đại bởi tính chất du hý, thưởng lãm chưa trở thành ý vị chính yếu của sự đi; nó vẫn thiên về kê biên (sang chép) tư liệu; cái “tôi” lữ khách chưa thực sự nổi bật. Trong khi du ký hiện đại chủ yếu phải là những cái được “sáng tạo” (compose), là câu chuyện của chính du khách (họ là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của cuốn sách). Mặc dù so với truyền thống tự sự trong văn chương Việt, cách mở đầu tác phẩm của Philipphe Bỉnh đáng được ghi nhận là một biệt lệ. Ông viết: “Tôi là thầy cả Philip Bỉnh…” – một lối nhập đề rất mới lạ, có thay đổi so với các tác giả trung đại, song bóng dáng của người du khách vẫn rất mờ nhạt, bị khuất hẳn đi sau tư liệu (các việc). Bởi ở đây, “Tôi” cũng không phải “nhân vật” chính, “chuyến đi” cũng không phải đối tượng chính; cái chính ở đây là “việc”. Trương Vĩnh Ký bắt đầu thiên du ký một cách thật giản dị: “Năm Ất Hợi (1876), bái trưởng tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên, nhơn dịp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sắm hòm rương áo quần. Rủ thầy Ba Hớn với ông Sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một người ở Sơn Tây mà vào trong Nam Kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê quán.”. Cái lý do của chuyến đi đơn giản và rõ ràng hết sức: đi cho biết Bắc Kỳ. Mục đích đi để khám phá, tìm hiểu “xứ lạ” của chủ thể ở đây rất khác so với trạng thái bị động của phần đa kẻ lữ hành trong các thiên hành trình ký sự trước đó. Một lối khởi hành mang tính chất lãng tử, tài tử khác hẳn với những chuyến đăng trình rềnh rang nghi thức, tâm trạng ngổn ngang. Cần nhớ chuyến đi được khởi hành vào mùng mười tám tháng Chạp, là lúc đã “năm cùng tháng tận”, sắp cận kề một cái Tết cổ truyền. Thế mà vẫn háo hức lên đường. Sức hút của chuyến đi lấn át hết những vướng bận thường nhật khác. Cái tâm thế phiêu lưu này được bộc lộ rất rõ vào thời điểm tác giả đã hoàn tất chuyến đi theo dự kiến, xuống Hải Phòng để đáp tàu vào Gia Định. Rủi là bị trễ chuyến: “Lỡ dịp đi, buồn bực quá. Nhưng mà cũng chẳng qua là bởi đâu xây khiến cho được biết đất Bắc rõ hơn. (…) Vì vậy qua mồng 3 tháng 2, mới tính ở mà đợi lóng nhóng đó cũng mất công vô ích; chi bằng hồi ngữ về ngã Hương Cảng đi, để chờ dịp tàu sau về ngay Nam Kỳ. Mà bởi không biết chắc ngày nào tàu ra, mới tính đi rông ít ngày qua Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên cho biết xứ ”. Rõ ràng qua đây, cái gọi là “cảm hứng lữ hành” ở họ Trương rất nổi bật; nó được đưa vào trong tác phẩm một cách nguyên vẹn. Cần đặc biệt lưu ý tới cái tâm thế, cảm hứng lữ hành hiện đại này bởi nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cái gọi là “nhãn quan nghệ thuật” trong tác phẩm. Cái cách nhìn, lối cảm nhận về thế giới thực tại của lữ khách phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng, tâm lý cũng như cái đích nhắm đến của chuyến đi. Bởi vì cảm quan ngoại giới của một du khách sẽ rất khác với cách cảm nhận của một kẻ bộ hành với mục đích mưu sinh, hay một hành nhân tị nạn, hoặc của một kẻ bị lưu đày… Nói khác đi, tâm thế này sẽ ảnh hưởng đến việc lữ khách nhìn thấy cái gì (?), cảm thấy điều gì (?), thu nhận được ý nghĩa gì từ chuyến đi. Đối với Trương Vĩnh Ký, mục đích chuyến du hành này là để thỏa ý thích được đi; và chính đó là tâm thế của “kẻ lữ hành hiện đại”. Thích được trải nghiệm thông qua cảm giác xê dịch là một trong những đặc điểm tâm lý của chủ nghĩa cá nhân (individualism). Bởi đối với con người cá nhân cá thể  hiện đại, đi là để nhận biết và để khẳng định. Câu nói trứ danh của Paul Morand: “Ta muốn sau khi ta chết đi, có người thuộc da ta làm chiếc va li” không chỉ là tuyên ngôn của tín đồ thuộc “giáo phái xê dịch”, mà còn là một nét tâm thức thời đại. Với tâm thế chủ động của kẻ lên đường vì chính “sự đi”, Trương Vĩnh Ký đã thu nhận được nhiều điều lý thú và đưa vào trong thiên du ký. Trong đó, ông đặc biệt chú ý tiếp cận và ký chép kỹ càng về những cuộc tiếp xúc với các nhân vật ở địa phương, các phong tục tập quán và các danh lam thắng tích… đã được tận mắt chứng kiến. Dường như đây cũng chính là những dạng du lịch phổ biến nhất của lữ hành đương đại; được khái quát thành các thuật ngữ có tính chất chuyên ngành như tham quan học tập (study tour), du lịch văn hóa (cultural travel), du lịch sinh thái (ecology travel). Cách tiếp cận đối tượng, cách hành xử trong từng tình huống cụ thể của họ Trương gợi ý cho ta nhiều điều thú vị. *** Trương Vĩnh Ký kể lại trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) một cách ngắn gọn song khá đầy đủ về những cuộc tiếp xúc với rất nhiều nhân vật ở Bắc Kỳ. Mật độ các cuộc thù tiếp dày đặc. Đối tượng rất phong phú, thuộc nhiều “tip” người khác nhau, sang hèn đủ kiểu dạng. Trong số này, có 3 nhóm người được ông thuật lại khá tỉ mỉ: giới chức người Pháp, quan lại Nam triều, chức sắc nhà thờ. Điều oái oăm là, chính những cuộc tiếp xúc này đã dẫn đến những rắc rối cho ông; dư luận phán xét về hành vi này của ông khá nặng nề; nhiều nghi vấn về mục đích thực sự của chuyến đi Bắc Kỳ được đặt ra. Những đồn đoán về hành tích họ Trương kéo dài dai dẳng lâu nay một phần cũng từ đây mà ra. Nhiều ý kiến cho rằng chuyến ra Bắc của ông, du lịch chỉ là cái cớ, cái vỏ che đậy một sứ mạng chính trị quan trọng. Sứ mạng đó là gì thì chưa ai chứng minh được; thế nhưng người ta cho rằng với những cuộc tiếp kiến bất kể ngày đêm diễn ra liên tục trong suốt thời gian ông ở Bắc Kỳ, và nhất là với hầu hết những nhân vật quan yếu của chính quyền lẫn nhà thờ thì hẳn nhiên nó phải bất thường. Tất nhiên, bàn luận thị phi là quyền của dư luận. Song có một thực tế là cho đến bây giờ, cái điều bí mật được che đậy từ chuyến ra Bắc của Trương Vĩnh Ký là gì vẫn là một câu hỏi. Phải chăng dư luận đã quá khắt khe với ông? Và con người này có đáng bị trùm cho một cái nghi án mơ hồ như thế không? Thực ra, cái sự khác thường ở đây nếu có chăng, chỉ là chỗ các nhân vật mà họ Trương tiếp xúc đều thuộc diện “kẻ sang”; và quả thực, có gì đó như là một sự hâm mộ, trọng thị (đôi khi hơi quá đáng) mà người xứ Bắc dành cho ông. Nhưng nếu ngẫm kỹ, cũng chả có gì đáng gọi là bất thường ở đây. Trương Vĩnh Ký vốn là người tiếng tăm lừng lẫy, quảng giao, lại từng trải ở những vị thế đặc biệt (giám đốc trường thông ngôn, chủ bút Gia Định báo…); uy danh của ông đâu chỉ vang dội trong xứ Annam(!). Vậy thì việc họ Trương - một danh sĩ đến từ Xứ Nam Kỳ vào dịp tống cựu nghênh tân này rất đáng được coi là sự kiện lớn; rộn ràng thù tạc cũng chả có gì khác thường cả. Vả chăng, nhìn vào lịch trình thăm viếng của ông kể cũng khó chỉ ra chỗ ám muội. Ngoại trừ hai cuộc viếng thăm lãnh sự Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội (tác giả dùng chữ “thăm”, không rõ có liên quan gì đến bổn phận của một công dân khác xứ không), còn lại đều là những cuộc tiếp kiến đầy ngẫu hứng, không hẹn trước. Và Trương Vĩnh Ký tỏ ra rất hứng thú với những cuộc hàn huyên, đàm đạo này. Ngay cuộc tiếp kiến các đức thầy, cha cố, chức dịch nhà thờ… cũng là những cuộc gặp ngẫu nhiên của một du khách ưa giao du, muốn học hỏi. *** Phần chủ yếu trong cuốn sách, Trương Vĩnh Ký dành để ghi chép về những điều trải nghiệm được từ thực tế. Danh sách những thắng tích, cảnh quan Bắc Hà ở đây thật phong phú: Chùa Nguyễn Đăng Giai, Hồ Hoàn Gươm, Đền Kính Thiên, Cột cờ, Đền Công, Ông Thánh Đồng Đen, Chùa Một Cột, Hồ Tây, Văn Thánh Miếu… Có điều lý thú là với thói quen cố hữu của một nhà khoa học, ông tiếp cận cảnh vật theo cách riêng của mình; quan sát và ghi chép như một nhà khảo cứu đang tiếp cận tư liệu hơn là một du khách. Những con số, lời bình, chú giải về địa danh, địa bạ, lịch sử… của họ Trương rõ là thao tác của một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Đây là một đọan ghi chép về Thổ sản đất Hà Nội: “Lúa: lúa dê (duy), lúa thông, lúa dự, lúa lem bông, lúa trĩ, lúa hương, lúa thầy đường, lúa bạch canh. Nếp: nếp bông vàng, nếp răng ngựa, nếp ruồng, nếp cau, nếp trái vải, nếp đuôi chồn, nếp ngọc thục… Tơ, bông cán, hàng đoạn bông (phường Thọ Xương, kiên liên dệt), trừu bông (Từ Liêm), hàng lượt, lãnh bóng, lượt bùng, the rây, lụa bông, lụa trắng, thao, vải trắng, the làn, xuyến, láng gốc… Cây hội (giấy viết sắc), các thứ giấy, quạt trúc, nón nan; ngói gạch, nồi đất (đồ gốm); trà, muối diêm, mật ui, đường hạ; vôi đá, bánh phục linh, trôi nước, xôi bông đường, bánh mì khoai, rượu trắng; khoai lang mộng, khoai sáp, khoai mài, khoai tím, khoai ngọt; củ sắn, củ đậu ,củ nần, củ huỳnh tinh, xoài, mít, nhãn, hồng thơm, hồng đỏ….” Quả là không dễ để có thể kê biên một cách chi li từng giống lúa khoai, loại lụa là, thức dùng… với hàng chục tên gọi khác nhau như thế nếu không có con mắt và cái trí của nhà bác học, ham hiểu biết, rất lịch lãm. Trong cái cách kể lể, liệt kê này, ta dễ nhận thấy trạng thái háo hức, mê đắm, tập trung của Trương Vĩnh Ký. Một cái nhìn hờ hững, một sự phân tâm của chủ thể không bao giờ tạo tác được những trang tư liệu về phong thổ như vậy. Một đoạn ghi chép về phong tục xứ Bắc chứng tỏ cái nhìn hết sức tỉ mỉ, từng trải của tác giả: “Trong tứ dân đều có chuyên nghề cả, mà nông thì hội hơn. Chốn Thiềng Thị thì công thương tụ, có lộn Ngỏ Khách. Đàn ông còn trai hay ngồi quán ngồi lều trà rượu ăn chơi, còn việc cày cấy thì nhờ đàn bà con gái làm. Đàn ông ăn mặc cũng thường, diêu áo vấn tới đầu gối, đầu hay đội nón ngựa, bịt khăn đen. Đàn bà mặc áo có thắt lưng làm bìu (bọc), yếm đỏ, không gài nút nịt, nút vai thả không ra mà thôi, đầu đội nón giàu (ba tầm), lớn gần bàng cái nia, hai bên có hai quai tụi vấn toòng teng, đầu vấn ngang, lấy lượt nhiễu vấn tóc mà khoanh vấn theo đầu. (có một làng Kẻ Lòi có đàn bà bới tóc); Dưới mặc váy, chân đi dép sơn; nước da mịn màng trắng trẻo, má hồng, da ửng, gót son, phốp pháp người; răng nhuộm đen cánh gián. Thói trật áo thắt lưng là nhơn bởi trời đông thiên rét lạnh; đàn bà có con, cho bú một lần phải mở nhiều áo khó lòng, nên để luôn như vầy. Còn thắt lưng thì cũng là vì lạnh; con gái thấy vậy cũng bắt chước làm theo, mùa nào mùa nấy cũng để luôn như vậy mà thành tục.” Điều thú vị trong phần nói về phong tục không chỉ ở những thông tin mà còn ở lời nhận xét, bình luận. Quan sát, ghi nhận và bình phẩm, giải thích về các phong tục tập quán một cách tinh tế nhưng cũng rất hóm hỉnh là một đặc điểm nổi trội trong thiên du ký này. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) được xuất bản vào năm 1881, thời điểm văn xuôi quốc ngữ đang ở chặng thử nghiệm, thế mà lạ thay, nó lại mang một dáng vẻ hiện đại đến khó tin. Chả cần phải đối sánh với những truyện thơ Nôm, văn xuôi chữ Hán cùng thời, hãy cứ so với phần lớn những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ ra đời mấy chục năm sau nữa nhưng vẫn chưa thoát khỏi giọng biền ngẫu, đăng đối cổ kính… sẽ thấy văn Trương Vĩnh Ký hiện đại thế nào. Dưới đây là đọan kể chuyến du ngọan Động Từ Thức ở Thanh Hóa, đọan văn có lẽ là hay nhất trong toàn bộ tác phẩm: “Hang Từ Thức ở tại xã Trị Nội, tổng Kiều Vịnh, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung. Đi đến đó phải đi qua cái đèo, rồi đi vòng lại bên tả mới tới miệng hang. Chỗ ấy kêu là Từ Thức động hay là Bích Đào động. Ở ngoài có cái miễu nhỏ nhỏ, nơi cửa động có chữ đề khắc vô đá. Vào trong phải có đuốc, vô trong nó rung rinh, có chỗ có đường như cột đá; dưới chân, chỗ thì có đá viên tròn vo bằng viên đạn cũng nhiều, nhỏ hơn nữa cũng nhiều, có chỗ thì đầy những đá đen cục hòn mà thành hình như trái mảng cầu khô; còn có chỗ lại có đá ra hình bàn ghế, mòn trơn có vân có hoa như chạm trổ vậy. Trên đầu ngó lên thấy thạch nhũ như là màn treo có thể bỏ xuống, trong đá coi nhấp nháng sáng ngời như kim sa. Hết bùng binh nầy tới bùng binh khác. Sau hết xuống tới cổ kiềng là cái miệng xuống hang dưới nữa, nó như miệng giếng, phải nghiêng mình lận theo thì xuống mới đặng; dưới đáy hết thì có cái như cái ao bèo cám lênh láng. Đi hồi giờ thứ 6 đến giờ thứ 8 rưỡi mới tới nơi.” Đoạn văn trần thuật rất sinh động; lời dẫn rất tự nhiên, nhưng không dễ dãi mà chừng mực; đủ để bao quát hết được các hành vi. Khả năng làm chủ ngôn từ của họ Trương rất đáng nể. Các từ dùng mô tả rất chính xác, gợi liên tưởng. Đây đúng là lối văn “như lời nói thường”, bằng thứ tiếng “Annam ròng” mà họ Trương từng ao ước; một lối văn thoát ra khỏi cái trường ước lệ của thi ca, cái khuôn sáo của văn chức năng, nhật dụng. Có rất nhiều đọan, người đọc bị cuốn hút không chỉ vì được đồng hành, dõi theo quá trình thưởng lãm các cảnh trí, mà còn lây cái hóm hỉnh, vui nhộn trong cách diễn đạt của tác giả. Đây là đọan ở Ninh Bình :  “Đến đó xuống cáng để đi chân mà coi chơi cho biết, cho cáng đi không. Qua khỏi Tam Điệp rồi tới quán Cháo, ra tới quán Gành vừa tối, nên ở lại quán ngủ đó một đêm. Giờ thứ tư sáng ở quán Gành cất ra đi, khỏi quán Sanh, Ba Vuông rồi mới tới tỉnh Ninh Bình. Dọc đường đi ngó thấy tại đất bàng có nhiều cái hòn núi nhỏ riêng nhau ra từng cái, dường như núi cảnh, như non bộ đất vậy. Đi riết giờ thứ 8 rưỡi tới tỉnh vào trọ nhà bà Phó Vàng là người có đạo ở gần tỉnh. Nghỉ ngơi, cơm nước đó một lát, kế lấy trong tỉnh quan tuần phủ tên là Đặng Xuân Toán cho ông lãnh binh ra mời vô thành chơi, (giờ thứ 41). Xách dù đi có đem ông Kỳ đi theo vào thành, thiên hạ nghe tiếng người Gia định rùng rùng kéo nhau đi coi, lớp kia lớp nọ đông nức. Vào thành rồi, nó còn làm hỗn leo trèo mà coi, thì quan lãnh binh phải đóng cửa thành lại. Thăm ông tuần rồi, có quan án đó (Đồng Sĩ Vịnh) lại mời luôn về dinh. Khi từ giã ra về, người có đem tiễn chân 2 bình trà với 20 quan tiền.” Đúng thật là lối ngao du tùy hứng; không câu nệ, chả cần lịch trình; gặp gỡ, nghỉ ngơi theo ý thích. Và ngẫm ra kiểu đi “phượt”, “du lịch bụi” ngày nay của giới trẻ, cũng như cái dòng mạch văn chương du khảo đang phát triển rầm rộ trong văn học Việt thời gian gần đây không phải là không thừa hưởng được chút gì từ chuyến đi năm ấy của Trương Vĩnh Ký. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký là cuốn sách có nhiều giá trị. Nó không chỉ là một tài liệu quý báu trong lĩnh vực nghiên cứu quốc học, tìm hiểu về đất nước, con người, văn hóa Việt mà còn chứa đựng những thông tin đáng tin cậy để nghiên cứu về chính cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng chính trị và học thuật của Trương Vĩnh Ký, một danh nhân văn hóa tầm cỡ thế giới. Xét trên bình diện văn học, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cũng là một tác phẩm rất đáng chú ý của Trương Vĩnh Ký. Tính chất hiện đại, mới mẻ được bộc lộ rất rõ ràng thông qua cảm quan, giọng điệu, ngôn từ, cấu trúc của tác phẩm. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của thể tài du ký hiện đại trong văn học Việt Nam. Thiên du ký này là bằng chứng cụ thể về những đóng góp hữu ích của ông cho quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. ---------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Philipphê Bỉnh (1968, Thanh Lãng soạn, giới thiệu), Sách sổ sang chép các việc, Học viện Đà Lạt xuất bản. [2]. Du ký Việt Nam - tạp chí Nam Phong, 1917-1934 (2007, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. [3]. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4]. Trương Vĩnh Ký (1881), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876), Bản in Nhà hàng C. GUILLAND ET MARTINON, SAIGON. [5]. Lê Hữu Trác (1971, Phan Võ dịch), Thượng kinh ký sự, NXB Văn học, Hà Nội. ................................... (*)  Nguyễn Phong Nam: PGS-TS. Đại học Đà nẵng - Thành viên Ban điều hành Nhóm Văn học Việt. *** I. CHUYẾN ĐI BẮC-KỲ NĂM ẤT-HỢI Năm ất hợi (1876), bãi trường tham-biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu ; nên xin với quan trên, nhơn diệp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm hòm-rương áo-quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một nguời ở tỉnh Bắc-ninh, một người ở Sơn-tây mà vào trong Nam-kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê-quán. Qua ngày 18 tháng chạp đề-huề xuống tàu. Sớm mai giờ thứ 9 rưỡi nhổ neo. Vợ con đi đưa, ngồi xe đi rảo trên bờ cho đến tàu quày trở rồi riu-ríu chạy xuống đồn Cá-trê, mới về. Xế giờ thứ hai ra cửa Cần-giờ, chỉ mũi chạy ra mũi Né. TỚI CỬA HÀN Ngày 21 vô vũng Hàn vừa giờ thứ 5 chiều. Vô đó mà đưa ông, Nguyễn-hữu-Độ, là quan triều sai vô, lên mà về kinh. Đậu ngủ đó một đêm. Chạy hai ngày rưỡi nữa, vô thân trong Cát-Bà đậu lại đó (ngày 25 hồi giờ thứ 10). Đến giờ thứ nhứt rưởi qua tàu Aspic mà lên Hải-phòng (đồn Ninh-hải). TỚI HẢI-PHÒNG Lên bờ đi thăm quan lãnh-sự (M. Turc), rồi qua bên kia sông tới trọ nhà chú Khách Wan-sing. Sáng bữa sau lại qua ăn cơm nơi quan lãnh-sự, rồi đi thăm các thầy làm việc ở đó cho luôn. LÊN HẢI-DƯƠNG Tối lại, đi theo thuyền ông thương-biện Lương quen khi đi sứ bên Tây năm 1863 mà lên tỉnh Hải dương, 27 tới tỉnh. Vào thành ra mắt quan lớn là ông Phạm phú-Thứ làm Thương-chánh đại-thần kiêm tổng-đốc tỉnh Hải-dương và tỉnh Quảng-yên, có quen thuở đi sứ bên Tây. Người mầng-rở lắm. Nội ngày cũng tới viếng ông tuần-phủ Nguyễn-Doãn, nguyên trước có quen khi người vô giao-hòa lần sau tại Gia-định. ĐI LÊN HÀ-NỘI Các quan cầm ở lại đó chơi, ăn tết rồi hãy lên Hà-nội, khi ấy là mùa đông, trời rét lạnh nên ăn ngon cơm lắm. Mấy bữa ấy, hội các quan lớn nhỏ cả tỉnh đủ mặt ; khi ăn khi uống chuyện-vản cả đêm cả ngày. Quan đại lại bày làm rạp hát cho ba bữa luôn, coi hát bội cho no, rồi lại hát nhà-trò. Vui-vầy với nhau thế ấy cho tới mồng 6 tết, chiều giờ thứ nhứt mời lên võng lên cáng mà đi đường bộ lên thành Hà-nội. Trước hết nghĩ chơn tại cái chùa kia. Qua cung sau, nghỉ Ngạt-kéo, mặt trời chen lặn tới huyện Cẩm-giàng. Ông huyện tên là Dương-Xuân ra rước vô nhà ngủ đó. Sáng, cơm nước rồi giờ thứ 8 từ-giã ra đi. TỚI HÀ-NỘI Từ Cẩm-giàng lên cho tới Hà-nội nghỉ bốn chặng : - Quán Cầu-đất (giờ thứ 10). - Tại Đồng-súng (giờ thứ 12 trưa). - Ngả-tư-Dầu (giờ thứ nhứt rưỡi). - Chợ Bún (giờ thứ 3 rưỡi). Giờ thứ tư rưỡi chiều ra tới bờ đê, đi trên đường quai xuống mé sông Bồ-đề, mướn đò đưa qua cửa Phố-mới. Giờ thứ 8 tối tới nhà Hương-công là khách-thương Gia-định ra mua hoa-chi nha-phiến đó. Mời các bạn đón đọc Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876 của tác giả J. B. Trương Vĩnh Ký.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thâm Sơn Kỳ Cục Án
Tôi đã công tác trong hai tờ báo hình sự lớn qua 22 năm. Tôi yêu núi rừng và yêu cuộc sống hồn nhiên, nhân hậu của các cộng đồng bà con dân tộc thiểu số. Phần lớn thời gian công tác của tôi dành cho các tỉnh miền núi và cao nguyên. Tôi muốn phản ánh mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và luật tục các dân tộc. Tất cả những bài viết trong tập sách này là những điều đúc kết được từ năng khiếu của một nhà văn, kết hợp với những gì mắt thấy tai nghe và sự tìm hiểu về pháp luật của một nhà báo. Tập phóng sự được đặt tên là Thâm sơn kỳ cục án. Đây là những vụ án không có máu đổ, không giết người, không hiếp dâm, không lừa đảo, không tiền bạc. Nó là những vụ án kỳ cục bởi nội dung rất nhỏ nhưng phản ánh khía cạnh pháp luật lạ lùng nhất, đôi khi tràn đầy tiếng cười thú vị, ngộ nghĩnh. Tôi phản ánh một cách chân thật, chống lại khuynh hướng khoe khoang kiến thức pháp luật, lật xuôi lật ngược vấn đề của những tay bẻm mép. Nó là án kỳ cục bởi có những vụ việc không ra tới tòa án. Nó được khoanh vùng giải quyết ngay từ đầu trong làng xã và qua vụ việc, người ta nhìn ra được cái hay, cái đẹp của tình người. Những vụ cắn đứt vành tai, cắn sứt lỗ mũi, cho ăn thịt chó chết, thuê người đánh chồng, mắng chửi nhau, dối vợ đi ngủ với người khác... đều được giải quyết rốt ráo. Con heo nái, con bò con, con trâu đẻ, con mèo kêu, cái tivi bể, cái ống heo tiết kiệm đều được đưa ra trước tòa, nghe tòa phân xử công bằng. Nó được gọi là án ở thâm sơn bởi nó xảy ra ở những nơi rất xa ánh điện văn minh của thành phố. Nó nằm trên những vùng núi cao heo hút, sau những dốc đèo hoang sơ của Quảng Nam, Nghệ An, Bình Thuận, Bình Phước, Khánh Hòa, Kontum, Đăk Lăk, Gia Lai, Lâm Đồng. Nó gắn liền với cuộc sống của một bộ phận bà con các dân tộc Kinh, Khơ Me, Cil, Châu Ro, Ching, Mơ Nông, Giẻ Triêng, Gia Rai, Cơ Tu... Những người giải quyết án, giải quyết tranh chấp cũng rất đa dạng. Một chánh án tòa án tỉnh nhân ái, một thẩm phán tòa án huyện vui tính, một trưởng công an xã thông minh, một sĩ quan biên phòng yêu dân, một chủ tịch xã nhân hậu, một già làng thông hiểu việc đời, một trưởng thôn tận tụy... đều có thể đóng vai trò thẩm phán công minh. Vụ án, vụ tranh chấp được giải quyết xong là xã hội trở lại yên bình; không còn ai thù ghét ai nữa. Bản thân vụ việc đã có yếu tố gây cười. Tôi vận dụng thêm khả năng hài hước của một người chuyên viết báo cười để tạo thêm cho bạn đọc nụ cười, làm mềm và làm nhẹ nhàng câu chuyện. Vấn đề ở đây là tôi chủ tâm chọn lựa nội dung của vụ việc. Tôi từ chối viết những trọng án, chỉ chọn những chuyện nhẹ nhàng để bạn đọc có thêm chút kinh nghiệm về pháp luật. Hàn Dũ nói: “Văn dĩ tải đạo” - Văn chương dùng để chở đạo làm người. Ở chừng mực nào đó, Thâm sơn kỳ cục án cũng có ý thức tải đạo. Ấy bởi vì ta đang sống trong một đất nước tốt đẹp, một xã hội yên bình, một cuộc sống thịnh vượng. Qua những vụ án nho nhỏ, tôi muốn gửi cho đời tính nhân văn, nhân ái của cuộc sống làm người. Tân Thới Nhất, quận 12 tháng 1 năm 2011 VŨ ĐỨC SAO BIỂN ***  Vũ Đức Sao Biển tên thật là Vũ Hợi, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1948, tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Nguyên quán ông tại Duy Vinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Năm 18 tuổi, ông vào Sài Gòn học Đại học Sư phạm (ban Việt - Hán) và Đại học Văn khoa (ban Triết học phương Đông). Tháng 10 năm 1970, ông tốt nghiệp rồi xuống Bạc Liêu dạy học các môn Văn và Triết học bậc trung học tại Trường Công lập Bạc Liêu cho đến năm 1975. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông trở về Thành phố Hồ Chí Minh dạy học, có một thời gian làm tại phòng Giáo dục huyện Nhà Bè; Để rồi bắt đầu cộng tác với các báo: Tuổi Trẻ Cười, Thanh Niên, Kiến Thức Ngày Nay, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh,... Mười năm sau đó, ông trở lại Bạc Liêu và sáng tác loạt ca khúc về Bạc Liêu và miền đất phương Nam. Những bài như Điệu buồn Phương Nam, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên, Trở lại Bạc Liêu, Trên sóng Cửu Long... là những tác phẩm được rất nhiều người yêu thích. Giai đoạn sau thập niên 2010, một số đài truyền hình trung ương và địa phương mời ông thực hiện phim tư liệu về tác giả và tác phẩm nhạc vàng. Ngoài sáng tác nhạc, ông còn viết báo, tiểu thuyết, tiểu phẩm trào phúng và đặc biệt là phiếm luận về truyện kiếm hiệp Kim Dung (Kim Dung giữa đời tôi). Ông là thành viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam. Năm 1999, theo gợi ý của Bí thư tỉnh ủy Bạc Liêu Nguyễn Văn Út, ông tiến hành phục dựng lại bài Dạ Cổ Hoài Lang đem cho nhạc sĩ Quốc Dũng hòa âm và ca sĩ Hương Lan, Hạnh Nguyên trình diễn lần đầu tiên trên sóng VTV1. Năm 2013, ông lại cùng ba nhà báo Anh Đức, Liêu Phúc Minh, Tố Loan dịch tiếp bản Dạ Cổ Hoài Lang ra ba thứ tiếng Anh, Pháp và Quan thoại. Năm 2009, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh mời ông thỉnh giảng hai môn “Tạp văn và tiểu phẩm” và "Tường thuật chuyên ngành văn hóa - nghệ thuật" cho Khoa Báo chí - Truyền thông của trường này. Hiện ông đang điều trị ung thư vòm họng tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Tác phẩm Thể loại Năm Nhà xuất bản Ghi chú Bản báo cáo biết bay Tiểu phẩm trào phúng 1983 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hoa hồng trên cát Tiểu thuyết 1989 NXB Đồng Nai   Vạn tuế đàn ông Tiểu phẩm trào phúng 1989 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ảo ảnh sương khói Tiểu thuyết 1991 NXB Long An   Kiếm hoàng hoa Tiểu thuyết 1995 NXB Long An   Kiều Phong - Khát vọng của tự do Biên khảo 1996 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Thượng Vĩnh biệt thốt nốt Tiểu phẩm trào phúng 1996 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân Biên khảo 1997 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Trung Ngôn ngữ từ những phiến cẩm thạch Bút ký 1998 NXB Trẻ   Thỏ thẻ cùng hoa hậu Tiểu phẩm trào phúng 1998 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ba đời ham vui Tiểu phẩm trào phúng 1999 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Người mang số Q1 2629 Phóng sự 1999 NXB Trẻ   Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo Biên khảo 1999 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Hạ Đi tìm sự thật Phóng sự 2000 NXB Trẻ   Thanh kiếm và cây đàn Biên khảo 2000 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Kết Đối thoại với bản án tử hình Phóng sự 2001 NXB Trẻ   Tiếu ngạo giang hồ (8 tập) Dịch 2001 NXB Trẻ Dịch chung Lê Thị Anh Đào, Trần Hải Linh Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật Biên khảo 2002 NXB Trẻ   35 năm chuyện trò cùng chữ nghĩa Bút ký 2003 NXB Trẻ   Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung Biên khảo 2003 NXB Trẻ   Úi chao, 60 năm Hồi ký 2007 NXB Trẻ   Chuyện dây cà kéo ra dây bí Tiểu phẩm trào phúng 2010 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hai tuồng hát bội Truyện ngắn 2010 NXB Trẻ   Quảng Nam hay cãi Tạp văn 2010 NXB Trẻ   Án lạ phương Nam Bút ký 2011 NXB Trẻ   Dài & To Tiểu luận 2011 NXB Trẻ   Hướng đến Chân Thiện Mỹ Triết lý dành cho tuổi thanh niên Kỹ năng sống 2011 NXB Trẻ   Phía sau mặt báo Bút ký 2011 NXB Trẻ   Thâm sơn kỳ cục án Truyện ngắn 2011 NXB Trẻ   Sông lạc đường về Tiểu thuyết 2012 NXB Trẻ   Xuân dược Tiểu phẩm trào phúng 2013 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Đối thoại với tuổi đôi mươi Tản văn 2016 NXB Trẻ   Ơi, cái tuổi trăng tròn Kỹ năng sống 2018 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Lắng nghe giai điệu Bolero Biên khảo 2019 NXB Trẻ   Phượng ca Hồi ký 2019 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Mời các bạn đón đọc Thâm Sơn Kỳ Cục Án của tác giả Vũ Đức Sao Biển.
Trên Đỉnh Namsan Ngắm Mặt Trời
Trên đỉnh Namsan ngắm mặt trời là hành trình trải nghiệm, khám phá đất nước Hàn Quốc của một cô gái không-biết-tiếng-Hàn. Cuốn sách là trải nghiệm của cá nhân tác giả Hoài Thanh kể về cuộc sống, học tập khi ở Hàn Quốc. Ngoài ra còn có hệ thống các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm khi tìm hiểu – làm hồ sơ – hoàn tất thủ tục – chuẩn bị hành trang đi du học.  Nhận học bổng toàn phần để sang Hàn học tập bằng ngoại ngữ tiếng Anh, Hoài Thanh đã vấp phải nhiều rào cản để hòa nhập với môi trường sống, học tập của Hàn. Nhưng không vì vậy mà cô gái nhỏ nhắn nản chí bỏ cuộc, cô đã nỗ lực rất nhiều để từ một sinh viên không thể nghe hiểu được lời của giảng viên trở thành sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, đứng đầu khoa Quan hệ Quốc tế của trường Đại học Quốc gia Kongju. Những tình huống éo le, dở khóc dở cười mà Hoài Thanh từng gặp phải là “sự thật” mà bất cứ du học sinh nào cũng có thể gặp phải khi các bạn chưa được trang bị nhiều kinh nghiệm sống, kỹ năng mềm.  Trên đỉnh Namsan ngắm mặt trời sẽ cho bạn thấy du học là một cuộc chiến với chính mình, một cuộc chiến giữa lý trí và con tim. Hình ảnh chinh phục tháp Namsan cũng giống như chặng đường du học, có buồn vui, hạnh phúc, nản chí và những điều tốt đẹp sẽ đợi bạn trên đỉnh. Tháp Namsan chỉ là một trong nhiều “đỉnh tháp” bạn cần chinh phục trong cuộc đời này. Hãy can đảm bước đi để được sải rộng đôi cánh của mình! “Tình yêu của tôi đối với Hàn Quốc cũng đẹp, lãng mạn và vĩnh hằng như những ổ khóa tình yêu trên đỉnh tháp Namsan.” *** Làn sóng văn hoá Hàn Quốc trong những thập kỉ gần đây đã nuôi dưỡng biết bao ước mơ du học của các bạn trẻ. Hàn Quốc trong những trái tim cháy bỏng khát khao được đi và sống trọn vẹn tuổi thanh xuân là một chân trời mới ngập tràn sắc xanh, tươi thắm hy vọng. Thực tế dưới cái nhìn một học sinh du học bằng Tiếng Anh trên đất nước Hàn Quốc có còn thật sự ngọt ngào như trong tưởng tượng? Bằng những trải nghiệm của mình, Hoài Thanh sẽ giúp cho ước mơ du học Hàn Quốc của bạn thực sự là hành trình hướng về phía mặt trời 1. Trên đỉnh Nam San: Nam San là một ngọn tháp nằm tại 105, Namsangongwon - gil, Yongsan - gu, Seoul, biểu tượng của sự lãng mạn và tình yêu vĩnh hằng. Với tác giả trẻ Hoài Thanh, leo đỉnh Nam San còn là hành trình chinh phục giấc mơ du học Hàn Quốc - đầy thử thách nhưng cũng không thiếu những phần thưởng ngọt ngào. Nếu ai đó ngoài kia vẫn đang giữ trong tim một đỉnh tháp Nam San của riêng mình, tôi tin lựa chọn đọc cuốn cẩm nang này sẽ là một bước tiến lớn trên con đường du học của bạn. Dù là đang ấp ủ hi vọng hay trong quá trình chuẩn bị hồ sơ, thậm chí đã ở Hàn Quốc những ngày đầu tiên rồi, thông tin chi tiết mà Hoài Thanh đưa ra vẫn phù hợp với các bạn trẻ Việt.   Tác giả của cuốn sách là một học sinh du học Hàn Quốc bằng Tiếng Anh, đặt chân lên một đất nước xa lạ từ những ngày còn chưa có chút gì tiếng bản ngữ, lần đầu du học cũng là lần đầu lên máy bay. Cô ấy hiểu rõ những khó khăn đang chờ đón bạn, đó là những thắc mắc về học bổng, chứng chỉ tiếng Hàn, hồ sơ, visa cho đến lần đầu tiên hạ cánh ở một sân bay xa lạ, rào cản ngôn ngữ, việc làm thêm, nỗi cô đơn, chênh vênh của trái tim vẫn còn thơ trẻ mới gặp phải những giông bão đầu đời. Mỗi vấn đề bạn đang thắc mắc, Hoài Thanh đều hiểu và sẵn sàng giải đáp chi tiết nhất. Dù bạn đang chập chững những bước đầu tiên trong hành trình leo tháp hay đang lưng chừng giữa những chênh vênh,hướng dẫn từ một người tiền bối đã ở “Trên đỉnh Nam San” chắc chắn sẽ giúp bạn đảm bảo hành trình của mình luôn luôn hướng về mặt trời.   2. Nếu Hàn Quốc vẫn chỉ là giấc mơ của bạn: Cuốn sách này sẽ giúp bạn hiện thực hoá điều đó. Hoài Thanh sẽ đồng hành với bạn từ những tò mò đầu tiên về một chân trời xa lạ. Hàn Quốc không chỉ là ca nhạc, phim ảnh, không phải li kem bơ chỉ có vị ngọt ngào. “Con hổ Châu Á” cần được bạn tìm hiểu kĩ lưỡng và thực tế nhất để biến ước mơ du học thực sự là một hành trình đong đầy hạnh phúc.   Chương trình giáo dục tại Hàn Quốc là một trong những chương trình khắc nghiệt nhất trên thế giới. Chọn Hàn Quốc là chân trời thanh xuân của mình, bạn đã biết gì về đất nước này rồi? Không chỉ hướng dẫn chi tiết từ bước làm hồ sơ, học bổng, visa hay chứng chỉ tiếng, Hoài Thanh sẽ giúp những cơn shock văn hoá của bạn trở nên nhẹ nhàng nhất với thực tế hệ thống tính điểm, chương trình học đến cách làm quen với một nền văn hoá kín. Tại sao nên du học Hàn Quốc? Làm thế nào để học Tiếng Hàn? Thi Topik ở đâu, lệ phí thế nào, thi ở Hàn hay ở Việt? .... Đặc biệt, các kì nghỉ lễ ở Hàn là vào lúc nào? Bạn nên sắp lịch về nhà ra sao? Nên chuẩn bị bao nhiêu tiền khi mới sang du học? Tất cả những câu hỏi trên cùng ti tỉ những vấn đề văn hoá khá từ cách đến thăm nhà bạn, lần đầu tiên gặp giáo viên hướng dẫn hay cách mua đồ tại hàn, tất cả đều đầy đủ trong Phần 1: Tôi Tò Mò Về Hàn Quốc.   3. Muốn du học Hàn Quốc rồi thì phải làm gì tiếp theo? Phần 2: Tôi muốn du học Hàn Quốc được viết tập trung vào 3 nội dung chính: Hồ sơ du học, Thông tin học bổng và Quy trình xin visa. Không đơn thuần như những tài liệu hướng dẫn chung chung bạn có thể tìm được dễ dàng trên các trang chính thức của Hàn Quốc, điều đặc biệt nhất Hoài Thanh có thể đêm đến là những kinh nghiệm mang đậm tính cá nhân và văn hoá Việt Nam. Nếu bạn đang loay hoay với bài giới thiệu bản thân hãy đón đọc chương này, Hoài Thanh sẽ giải đáp những thắc mắc “muôn thưở” như độ dài thế nào, cách dùng đuôi câu, nội dung, bố cục thế nào cho đầy đủ nhất và cả các mẹo cho những lỗi sai thường hay gặp.   Về phần Thông tin về học bổng, đây là phần sẽ tiết kiệm cho bạn cả “núi thời gian” vì Hoài Thanh đã làm giúp bạn công việc khó khăn đó là tổng hợp và phân định thông tin rõ ràng nhất về từng loại học bổng Hàn Quốc hiện có, đồng thời là danh sách 30 trường top đầu của đất nước này hiện nay. Không cần “mờ mắt” với đủ thứ thông tin từ các trang web Hàn Quốc, quay cuồng thêm thắt cả đống giấy tờ hồ sơ, Hoài Thanh đã liệt kê và chú ý tất cả những lỗi sai hay gặp này cho bạn. Bạn cũng không phải lo lắng nếu bạn muốn mình là người tự tìm kiếm thông tin, tác giả luôn ghi chú những nguồn thông tin, trang web một cách rõ ràng nhất để bạn tiếp cận với những tài liệu tin tưởng, chất lượng cao. Với Quy trình xin visa ngoài những bước cụ thể đã được phổ biến trên truyền thông, Hoài Thanh sẽ cung cấp cho bạn những thông tin thực tế về bảng học phí các ngành hiện tại ở Hàn Quốc và đặc biệt, sinh hoạt phí để bạn đong đếm số tiền cần mang đi. Nhờ những trải nghiệm thực tế nên sinh hoạt phí của Hoài Thanh cũng rất chi tiết từ phí thuê phòng  kí túc xá, ăn uống, bảo hiểm, thuê trọ, giao thông, internet đến điện nước… đảm bảo sẽ giải tỏa những âu lo của bạn về các vấn đề tài chính.   4. Hành trình thích nghi để trưởng thành: Đây cũng là phần tôi mong chờ nhất trong cuốn sách này, bỏ qua một bên những vấn đề chuẩn bị, phải làm gì khi bạn đang ở Hàn Quốc. Một du học sinh không hề biết chút tiếng Hàn với tiếng Anh cũng không phải quá xuất sắc (IELTS 5.5) làm thế nào có thể thích nghi với nơi đây, có thể tìm được một công việc làm thêm để sống? Phần này sẽ là những kinh nghiệm sống còn với những du học sinh trên một đất nước xa lạ. Chuẩn bị và lên đường Cách săn vé máy bay giá rẻ, có những giờ bay nào, hãng hàng không gì?   Nên mang những thứ gì khi sang Hàn Quốc từ quần áo, thuốc, tiền mặt cho đến các đồ điện tử như laptop, iphone? Đặc biệt, Hàn Quốc vốn là thiên đường mua sắm nên Hoài Thanh còn giúp bạn liệt kê giá cả của váy áo tại đây để bạn cân nhắc liệu có vừa túi tiền. Cô ấy sẽ trả lời câu hỏi như nên mang những đồ dùng cá nhân như khăn mặt, quần áo lót, băng vệ sinh hay tải những app online canh hàng giảm giá. Sinh viên Việt Nam thì nên mua đồ ở những địa chỉ nào cho giá rẻ.   Hạ cánh tại một đất nước xa lạ Đây cũng là một phần khiến các bạn du học sinh âu lo nhất, phải làm gì ngay khi vừa đặt chân đến một quốc gia mới? Đọc những hướng dẫn chi tiết của Hoài Thanh đảm bảo sẽ khiến bạn yên tâm hơn rất nhiều. Từng bước từng bước một, tác giả sẽ đồng hành với bạn ngay khi vừa đặt chân xuống sân bay. Vẫn còn đang cân nhắc về phương tiện về trường, Hoài Thanh sẽ giúp bạn liệt kê tất cả các phương tiện có thể, giá tiền và cách bắt xe. Băn khoăn giữa các loại nhà, hãy tham khảo bảng đánh giá các kiểu nhà trọ với phân tích và giá tiền chi tiết. Phần cuối của cuốn cẩm nang này là tất cả các thông tin bạn cần để ổn định tại Hàn Quốc từ việc ngân hàng, bảo hiểm, học tập, du lịch đến cách phòng vệ bản thân khi tìm việc và bị quấy rối. Một sinh viên du học nơi đất khách quê người chưa bao giờ là việc dễ dàng, một sinh viên chưa biết gì về tiếng bản ngữ càng rất khó khăn. Hiểu được tất cả những điều đó, Hoài Thanh đã ghi lại những trải nghiệm của mình khi từng chấp nhận một công việc rẻ rúng chỉ vì tự ti với bản thân, đã từng bị quấy rối và bôi nhọ bởi một nam thanh niên biến thái. Tham khảo cách mà Thanh đã đối mặt vượt qua là cách tuyệt vời nhất để bạn khiến giấc mơ Hàn Quốc của  mình trở nên ý nghĩa và hạnh phúc nhất có thể. Mời các bạn đón đọc Trên Đỉnh Namsan Ngắm Mặt Trời của tác giả Hoài Thanh.
Từ Rừng Thẳm Amazon Đến Quê Hương Bolero
Cuốn sách này như một bộ phim tài liệu đặc biệt, ghi chép lại hành trình dấn thân khám phá, thâm nhập Nam Mỹ của tác giả. Như trong lời mở sách (Tại sao Nam Mỹ?), tác giả viết đại ý, Nam Mỹ với những cô hoa hậu nóng bỏng, với những cầu thủ bóng đá mạnh mẽ, tài năng như Maradona từng hấp dẫn anh từ ngày thơ ấu. Nhưng giấc mơ chinh phục Nam Mỹ lại bùng lên khi anh xem cuốn phim Motocycle Diaries kể về chuyến du hành xuyên Mỹ Latinh của chàng sinh viên y khoa năm cuối Che Guevara.  Vậy là vác balô lên đường cho những chuyến đi dài ngày: năm 2008, Nguyễn Tập có 2 tháng ăn dầm nằm dề ở xứ sở của người Quechua – hậu duệ dân Inca; 2009, lại có hai chuyến đi Mexico; cuối năm 2011, anh dành 4 tháng thâm nhập vào những bộ lạc thổ dân vùng Amazon, Peru và Bolivia. Và gần đây nhất, anh trở lại đó với những ngày làm cư dân Cuba. Chuyến khám phá Cuba - quê hương xì gà và Bolero kết thúc chỉ trước khi ông Fidel Castro qua đời vài ba hôm. Chất liệu thực tế đi vào cuốn du ký này ngồn ngộn. Những câu chuyện từ bùa chú, ma thuật, bói toán còn sót lại nơi những đô thị song trùng đời sống văn minh – hoang dã, những phong tục lạ lùng của những bộ lạc trong rừng thẳm, những thành phố đá, hòn đảo trôi dạt, đảo búp bê… được viết lại chân xác, vắn gọn cùng với các tranh ký họa cho thấy tác giả có một cách tiếp cận thực tế rất riêng, không hề giống những người viết hồi ký kiểu “tô vẽ” như thường gặp ở những cuốn du ký của các tác giả trẻ mới nổi gần đây. Ở mỗi vùng đất tác giả đi qua, anh cũng dành mối quan tâm đặc biệt đến thân phận những người Việt lang thang, lưu lạc, đôi chỗ dành mối liên tưởng đến sự tương đồng văn hóa với quê hương mình. Chính điều này làm cho cuốn du ký có nhiều cơ tầng liên tưởng. Cuốn du ký này gồm 4 phần: Amazon (Trong rừng thẳm Amazon), Mexico (Xứ sở của những chiếc đầu lâu pha lê, Peru (Bay trên thành phố đá) và Cuba (Lang thang trên quê hương Bolero). Chất du ký bụi bặm, phiêu lãng và mạnh mẽ truyền cảm hứng đủ để những độc giả trẻ sau khi gấp sách lại, có thể thu xếp những hành trình kỳ thú của riêng mình. *** Tại sao Nam Mỹ? T hật ra, giấc mơ Nam Mỹ đã hấp dẫn tôi từ ngày bé, bởi những cô hoa hậu thế giới nóng bỏng người Venezuela, bởi vua bóng đá Maradona lùn tịt (giống tôi)... Nhưng từ Việt Nam đến Nam Mỹ xa diệu vợi, nên giấc mơ đó đành gác lại vô thời hạn. Năm 2006, tôi qua Mỹ học, tình cờ được xem cuốn phim Nhật ký xe máy (Motocycle Diaries) kể về chuyến du hành dọc Nam Mỹ của Che Guevara khi còn là cậu sinh viên y khoa năm cuối. Cuốn phim đã đánh thức giấc mơ xưa. Thế là tìm tài liệu đọc và biết thêm Nam Mỹ còn có nền văn minh Inca quá lẫy lừng. Đọc lai rai, chuẩn bị tư liệu trong một năm, và tôi lên đường. Năm 2008, tôi đến Peru lần đầu tiên và dành gần hai tháng cùng ăn, ở, sinh hoạt với người Quechua - hậu duệ của dân Inca. Lúc đó, tiếng Tây Ban Nha tôi không biết, nhưng đi những vùng núi hẻo lánh, sống với người Quechua thì hầu như không thể tìm ra người biết nói tiếng Anh (vì thế, tôi thường rất mỏi tay khi... trò chuyện). Cũng may, tôi gặp được chị Quỳnh Dao (một trong ba người Việt sống tại Peru lúc bấy giờ). Chị Dao trước học ở Nga, sau theo chồng về Peru. Chị giỏi tiếng Tây Ban Nha, lại nhiệt tình nên tôi đã học được từ chị biết bao nhiêu điều hay, lạ về văn hóa Peru. Chuyến đi đã để lại rất nhiều cảm xúc trong tôi, nên khi vừa quay lại Mỹ, tôi đăng ký học ngay tiếng Tây Ban Nha vì biết chắc chắn mình sẽ trở lại. Năm 2009, tôi đi Mexico hai lần, mỗi lần một tháng. Cuối năm 2011, trước khi về hẳn Việt Nam, tôi dành bốn tháng lang thang ở Nam Mỹ để khám phá đời sống, văn hóa vùng thổ dân Amazon, Peru và Bolivia (Argentina tôi chỉ ở hơn muời ngày, nên không tính). Tính ra tổng thời gian tôi ở Trung và Nam Mỹ là khoảng tám tháng. Cùng với Bắc Triều Tiên, Cuba là nước Xã hội chủ nghĩa còn quá nhiều “bí mật” với thế giới. Ở thế kỷ 21 mà vẫn còn chế độ tem phiếu, phân phối thực phẩm, vẫn còn “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, là một trong những nước nghèo của thế giới, nhưng giáo dục và y tế lại phát triển rất mạnh… Tôi muốn đi Cuba từ mười năm trước. Nhưng, lúc đó quy định du lịch Cuba của Mỹ vẫn còn quá ngặt nghèo, tôi lại đang học ở Mỹ nên sợ việc học bị đứt đoạn. Không đi được nhưng tôi vẫn theo dõi, vẫn tìm đọc về đảo quốc này. Giờ đây, khi đã học xong và trở về Việt Nam, giấc mơ ngày xưa lại bùng lên. Tôi muốn đi để cảm nhận được rõ ràng nhất sự đổi thay của Cuba, trải nghiệm những điều lâu nay tôi chỉ biết qua báo chí, qua “lời đồn”. Trong du lịch, tôi không phải là người “chấm điểm”, không thích đi những điểm du lịch nổi tiếng. Tôi thích đi chậm và sâu, thích tìm hiểu về con người, về những nền văn hóa cổ xưa. Đối với tôi, để tạm gọi là hiểu về một nền văn hóa, thời gian trải nghiệm ít nhất phải tính bằng đơn vị năm. Tôi lại quá yêu văn hóa và con người Nam Mỹ. Vì thế, bây giờ nếu có ai hỏi nơi nào tôi muốn đi nhất thì câu trả lời chắc chắn vẫn là Nam Mỹ. Có lúc, tôi nghĩ mình có thể bỏ cả cuộc đời để tìm hiểu về vùng đất này. Ai đó nói rằng: “Cuộc đời là những chuyến tàu mà không ai biết sẽ dừng tại ga nào...”. Có lẽ thế. NGUYỄN TẬP Mời các bạn đón đọc Từ Rừng Thẳm Amazon Đến Quê Hương Bolero của tác giả Nguyễn Tập.
Tây Ban Nha, Hành Trình Không Ngôn Ngữ
B ạn thường nghĩ gì về tuổi 30 của mình? 30 tuổi, chưa có công việc ổn định là quá muộn! Ba mươi tuổi chưa lập gia đình là quá muộn! 30 tuổi không yêu ai là quá muộn! 30 tuổi chưa có nhà, chưa có xe cũng là quá muộn! Và đương nhiên, xét theo chuẩn ấy, thì số đông các bạn gái đều cho rằng 30 tuổi để bắt đầu một cái gì đó cũng là quá muộn! Tôi biết một cô gái 30 tuổi vượt qua mọi định kiến cố hữu của người đời về sự “Quá muộn!” Tôi biết một cô gái chăm chỉ, nỗ lực, âm thầm nhích từng bước để thực hiện bằng đượcước mơ ấp ủ trong lòng mình, bất chấp thời gian không đợi, bất chấp người đời không đồng tình, bất chấp cả những thách thức hữu hình và vô hình có thể nhìn thấy từ trước. Với cô gái ấy, tuổi 30 mới thực sự là tuổi để bắt đầu và tôi thực sự ngưỡng mộ sự khởi đầu tuyệt vời ấy! Khi cô ấy nói với tôi ý địnhđược đi vòng quanh châu Âu bằng tất cả số tiền tiết kiệm được sau gần chục năm đi làm của mình, tôi có phần kinh ngạc. Tôi động viên cô ấy, nhưng đồng thời, tự cảm thấy tiếc nuối cho tuổi 30 của mình, tuổi 30 cứ cố kìm hãm mãi những giấc mơ tự do của người phụ nữ như tôi. Và từ đó, tôi dõi theo hành trình của cô ấy, từ khi chuẩn bị cho đến lúc lên đường, tôi cũng háo hức chờ đợi cô ấy chia sẻ trải nghiệm của mình. Tôi ghen tị, tôi ngưỡng mộ và tôi tự hào về tuổi 30 sống động của cô ấy! Khi cô ấy nói về ý định viết một cuốn sách cẩm nang cho những người muốn đi du học dựa vào kinh nghiệm của bản thân, cô ấy hỏi tôi về cách viết. Tôi nói rằng, hãy kể về câu chuyện của em, hành trình của em, cảm nhận của em, những người em đã gặp vì bản thân những thứ đó mới là thứ cẩm nang tuyệt vời cho bất kỳ bạn trẻ nào muốn đi và sống một cuộc đời phong phú. Và thế là, “Tây Ban Nha, HÀNH TRÌNH KHÔNG NGÔN NGỮ” đã ra đời 6 tháng sau đó. Tôi chắc chắn rằng, hành trình của cô gái bé nhỏ của tôi sẽ giúp cho nhiều bạn có khao khát mà đầy do dự ngoài kia có thêm động lực để lên đường. Hãy nhét vào chiếc ba lô cuộc đời bạn mọi thứ, trừ sự nuối tiếc! “Tây Ban Nha, HÀNH TRÌNH KHÔNG NGÔN NGỮ” đã giúp tôi hiểu ra điềuđó, và tôi mong rằng, bất kỳ ai đọc xong đều có đủ dũng khí để làm điều mình đam mê, đến những nơi mình thích và khám phá những gì mình chưa biết. Như vậy là ta đã có một cuộc đờiđáng sống rồi! Hà Nội, tháng 8/2017 -HUYỀN LÊ *** T ây Ban Nha, tôi chưa từng ấn tượng với đất nước này cho đến khi đọc được dòng chữ Du học Tây Ban Nha chỉ với hơn 30 triệu đồng, không yêu cầu ngôn ngữ đầu vào. Ngôn ngữ Tây Ban Nha là điều tôi cũng chưa bao giờ nghĩ tới cho đến một ngày nhận ra đây là cánh cửa đến với châu Âu. Vì hai điều này, một phụ nữ ở tuổi 30 như tôi đã quyết tâm bỏ tất cả những gì tốt đẹp và êm đềm đang có để bước vào hành trình: Du học ngôn ngữ. Hành trình sáu tháng ở Tây Ban Nha đã làm tôi thay đổi quan điểm về du lịch và đưa tôi vào một trải nghiệm thú vị khác về đời sống của những du học sinh. Bạn có thể khám phá một đất nước như một lữ khách, đến nhìn ngắm và chụp những bức ảnh, check in được càng nhiều địa điểm càng tốt, thưởng thức những món ăn, hiểu đôi chút về câu chuyện lịch sử của quốc gia đó qua lời kể của hướng dẫn viên, trên sách báo và những tờ áp phích, tờ rơi quảng cáo. Sau đó bạn lâng lâng với cảm xúc tiếc nuối vì thời gian bạn được tận hưởng quá ngắn ngủi. Hay, bạn đến với vùng đất này như một người tham dự qua một trong những phương tiện giao tiếp thiết yếu và quan trọng nhất của loài người: ngôn ngữ. Hành trình du lịch bằng cách học một ngôn ngữ mới sẽ cho bạn thời gian vừa đủ để khám phá văn hóa, có một chút vốn liếng giao tiếp với người bản xứ, tìm hiểu đời sống của chính họ. Nó cũng là bước đệm quan trọng, mở ra cơ hội lớn cho những dự tính học hành xa hơn và cao hơn của bạn ở đất nước này. Một đứa trẻ lớn lên trên quê hương qua từng giai đoạn học nói, gọi tên từng người thân trong đình, từng đồ vật, từng nhành cây, ngọn cỏ quanh nhà để hiểu được quê hương là gì. Hành trình ngôn ngữ cũng cho tôi có thêm một quê hương như thế. Thân tặng bạn những tấm bản đồ nhỏ trong một tấm bản đồ lớn để khám phá Tây Ban Nha, vùng đất không chỉ có tiếng đàn guitar và điệu nhảy Flamenco say đắm lòng người mà còn rất nhiều bất ngờ khác đang chờ bạn dấn thân trải nghiệm. Mời các bạn đón đọc Tây Ban Nha, Hành Trình Không Ngôn Ngữ của tác giả Uyên Nguyên.