Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vị Khách Cuối Cùng

Littleport, Maine là thị trấn mang đến hai ấn tượng đối lập: một điểm nghỉ mát lý tưởng cho giới thượng lưu – nơi có những ngôi nhà xinh đẹp nằm dọc bờ biển; và một cộng đồng dân cư giản dị, mộc mạc ở bến cảng – nơi những người dân địa phương quanh năm kiếm kế sinh nhai bằng việc phục vụ du khách. Trong hoàn cảnh đối lập đến vậy, thật khó để tin rằng tình bạn sâu sắc sẽ nảy nở giữa con gái chủ nhà và cô bé giúp việc, nhưng đó là điều xảy ra giữa Sadie Loman và cư dân của Littleport - Avery Greer. Suốt gần một thập kỷ, hai cô gái luôn đồng hành cùng nhau trải qua những mùa hè tuyệt diệu, cho đến khi Sadie được phát hiện đã chết. Mặc dù cảnh sát kết luận Sadie đã tự sát, Avery không thể ngăn được cảm giác kỳ lạ rằng những người xung quanh có liên quan đến cái chết bí ẩn của cô bạn thân, bao gồm vị thám tử địa phương và Parker – anh trai của Sadie. Ai đó đã không tiết lộ hết sự thật mà họ biết, Avery định sẽ làm sáng tỏ mọi chuyện trước khi sự thật bị đổi trắng thay đen và làm hại cô ấy. Được chắp bút bởi Megan Miranda – tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất New York Times: “Những cô gái mất tích” và “Người lạ mặt hoàn hảo”, nhà văn hàng đầu của dòng tiểu thuyết kinh dị; Vị khách cuối cùng sở hữu cốt truyện thông minh với những khúc quanh khó lường khiến người đọc hồi hộp dõi theo và nín thở đến tận trang cuối cùng. Một số nhận định về “Vị khách cuối cùng”: “Một lần nữa, Megan Miranda đã dựng lên câu chuyện kinh dị hoàn hảo cho mùa hè. Vị khách cuối cùng đầy những cú twist căng thẳng khiến trái tim tôi loạn nhịp. Nhớ canh thời gian rảnh để đọc cuốn sách này bởi một khi bắt đầu đọc, tôi cá là bạn sẽ không thể đặt xuống cho đến trang cuối cùng!” – Riley Sager, tác giả “Lần cuối cùng tôi nói dối” - cuốn sách bán chạy nhất New York Time. “ “Cốt truyện thông minh đầy ắp những bất ngờ và khúc quanh không thể lường trước là sở trường của Megan Miranda, nhưng cô vẫn khiến người đọc cảm thấy ấm áp nhờ câu chuyện tình bạn thân thiết giữa Sadie Loman và Avery Greer… Megan thật sự biết cách viết đoạn kết khiến người đọc phải ồ lên tán thưởng.” – Marilyn Stasio, Biên tập chuyên mục Review sách trên tờ The New York Time. “Không ai có thể đoán trước tình tiết cuốn sách mới nhất của bậc thầy tiểu thuyết kinh dị Megan Miranda. Vị khách cuối cùng là một bí ẩn nhanh như chớp, đầy nguy hiểm và chứa đựng những khúc ngoặt bất ngờ khiến độc giả đứng ngồi không yên.” Mary Kubica, tác giả “Cô gái ngoan” – cuốn sách bán chạy nhất New York Time. *** Tác giả: Megan Miranda. Dịch giả: SPENCER Thể loại: mystery thriller – trinh thám hồi hộp . . “Làm thế nào tôi đã trải qua mùa đông trong sự thờ ơ, giống như thời gian đã đóng băng. Uống nhiều rượu như đang tìm kiếm thứ gì đó và càng uống nhiều hơn vì tin rằng chắc chắn tôi sẽ tìm được điều đó. Tôi đã cãi nhau với bạn bè thế nào, khiến tình cảm giữa chúng tôi rạn nứt, những điều ngu ngốc, liều lĩnh mà tôi đã làm. Không tin ai và mất tất cả niềm tin từ mọi người”. Lúc gần nửa đêm tại buổi tiệc Cuối Mùa ở thị trấn Littleport, Avery Greer đang chờ người bạn Sadie Loman đến. Parker Loman – anh trai của Sadie đã đến cùng bạn gái, nhưng em gái anh ta không đi chung xe với họ. Avery lấy điện thoại nhắn tin cho Sadie và nhận thấy đối phương đang gõ tin nhắn trả lời, tuy nhiên tin nhắn đó không bao giờ đến. Thế rồi, cảnh sát gõ cửa và hỏi Parker về dấu hiệu nhận dạng của em gái anh. Cô ấy đã chết, được một người địa phương tìm thấy ngoài vách đá. ____ Một năm sau, nhìn bề ngoài thì cuộc sống của người dân trong thị trấn Littleport vẫn bình thường, nhưng vẫn có một điều gì đó xấu xa đang ngấm ngầm diễn ra chỉ trong cảm giác của một số người tinh ý, trong đó có Avery. Là bạn thân của Sadie, cô mãi bị ám ảnh bởi cái chết của bạn mình, và chậm rãi tiến hành điều tra từ những chi tiết và chứng cứ ít ỏi tìm được sau một năm. Xuất thân và quá khứ của Avery Greer cũng khiến cô gặp một ít rắc rối với người dân trong thị trấn. Nhờ một người anh cho mượn nhầm sách, tôi mới biết trên đời có tồn tại một quyển sách bìa xanh đẹp như thế này, nhưng nội dung thì tàm tạm chứ không xứng với cái bìa lộng lẫy. Một cô gái chết (hay bị giết?) ở đầu truyện, tiếp theo cả quyển sách là quá trình điều tra của bạn cô ấy. Tôi có thể hình dung tác giả viết rất kỹ, liên kết các chi tiết trước và sau một cách chặt chẽ, thỉnh thoảng đưa vào những đoạn nhỏ mang hơi hướm triết lý, nói lên suy nghĩ của nhân vật chính / mà có lẽ là của chính tác giả về cuộc sống. Thế nhưng, cá nhân tôi thấy cuốn này hơi nhạt, cố tình giữ lại những góc khuất trong quá khứ của nhân vật để đánh đố độc giả, bắt độc giả phải hại não nghĩ ngợi xem tại sao cô ấy hành xử thế này thế kia… Như một số quyển trinh thám khác, “Vị khách cuối cùng” được viết theo trình tự quá khứ đan xen hiện tại, thậm chí giờ giấc và sự kiện cũng bị thay đổi cho hợp ý tác giả, kết quả khiến tôi trong lúc đọc bị rối lên, cứ phải giở phần trước để xem mình có bỏ qua chi tiết nào không. Rất may là trong cuốn này không có bạo hành phụ nữ hay lạm dụng tình dục, đọc cũng nhẹ nhõm được một chút. Tuy vậy, cách viết của tác giả khiến tôi chưa cảm nhận sâu sắc được lòng thương tiếc dành cho nạn nhân. Trong ít nhất hai cuốn trinh thám thuộc loạt truyện về Tracy Crosswhite của tác giả Robert Dugoni, khi biết được động cơ và cách thức gây án, tôi đã rơi lệ vì xót thương cho cái chết vô nghĩa của các nữ nạn nhân tuổi đời còn rất trẻ. Tuy cũng thưởng thức được một số cuốn trinh thám Nhật, cũng thích đọc trinh thám Trung (với điều kiện phải hợp gu) nhưng nhìn chung tôi ít do dự khi mua / đọc trinh thám hiện đại phương Tây, vì bất chấp chuyện thường phàn nàn về lối sống phóng túng của nhân vật trong trinh thám Âu Mỹ, tôi vẫn thích những yếu tố như cốt truyện mạnh mẽ, minh bạch, dễ đọc; nhịp truyện không quá chậm như trinh thám cổ điển, và nhất là thường áp dụng khoa học kỹ thuật khiến quá trình điều tra diễn tiến nhịp nhàng và hợp lý. Tuy vậy, tôi vẫn phàn nàn về lối sống phóng túng của nhân vật trong cuốn “Vị khách cuối cùng” này! Các mối quan hệ tình ái đan xen chằng chịt và sự buông thả của các nhân vật khiến tôi liên tưởng đến “Người tuyết” và “Mùa hạn kinh hoàng”. Đồng ý rằng sống thì phải tìm vui, nhưng tìm vui một cách cẩu thả để rồi sau đó bị vướng vào quá nhiều rắc rối thì rốt cuộc những khoảng khắc tìm vui đó có đáng không, có được gọi là “vui” không. Lại càm ràm về lỗi chính tả trong sách: “lẩn quẩn” bị viết nhầm thành “lẩn khuẩn”, và thêm một vài lỗi khác tôi lười nên không ghi chú lại. Tuy nhiên, có một lỗi to đùng lẽ ra phải đập vào mắt ngay trước khi in ấn nhưng đã bị bỏ qua: “Miranda” bị lỗi đánh máy thành “Mỉanda”, chữ này được in trong phần tên tác giả ngay góc trên bên phải của mỗi trang lẻ. Ngoài ra thì phần dịch thuật đọc cũng dễ hiểu, nếu có khó hiểu là do tôi không thấu triệt được dụng ý của tác giả. Hôm nọ tôi thoáng thấy thông tin rằng sách của tác giả Megan Miranda sắp được xuất bản tiếng Việt một cuốn nữa, tuy nhiên riêng tôi thì cho rằng cuốn đã đọc này sẽ “Vị khách cuối cùng” ghé thăm tôi từ tác giả Miranda. (Sea, 8-4-2021) Cảm ơn anh Vũ đã cho em Biển mượn sách  Trong hình, chiếc xe ở phía xa là của vị khách không phải cuối cùng. Weniger anzeigen *** Megan Miranda Là tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất New York Time: Những cô gái mất tích, Người lạ mặt hoàn hảo và gần đây là Vị khách cuối cùng. Cô cũng sáng tác một vài cuốn sách nổi tiếng trong cộng đồng người trẻ như Hãy đến tìm tôi, Mảnh vỡ của sự mất mát và Lời nói dối vô hại nhất. Megan lớn lên ở New Jersey, tốt nghiệp Đại học MIT và hiện đang sống ở Bắc Carolina cùng chồng và hai con. Tìm hiểu về nữ nhà văn tài năng này qua Twitter và Instagram @MeganLMiranda hoặc ghé thăm trang web MeganMiranda.com. Tác phẩm: Vị Khách Cuối Cùng Kẻ Lạ Hoàn Hảo - Thị Trấn Nhỏ Với Những Bí Mật Lớn ... *** BỮA TIỆC CUỐI MÙA Đáng lẽ tôi phải quay lại tìm cô ấy; ngay khi cô ấy không tới tham dự bữa tiệc; ngay khi cô ấy không chịu bắt máy; ngay khi cô ấy không trả lời tin nhắn của tôi. Nhưng vì những ly rượu luôn cần được rót đầy, những chiếc xe đang tìm chỗ đỗ đã khiến tôi trở nên quay cuồng. Tôi đã được yêu cầu phải luôn để mọi thứ trong tầm mắt để bữa tiệc hôm đó diễn ra suôn sẻ. Nếu thấy tôi quay trở lại, thế nào cô ấy cũng lại cười thẳng vào mặt tôi rồi đảo đôi mắt tinh nghịch và nói: “Avery, mình có một người mẹ là quá đủ rồi!” Tôi biết tất cả những điều trên chỉ là lời biện bạch. Tôi đến địa điểm tổ chức tiệc sớm hơn tất cả mọi người. Bữa tiệc năm nay được tổ chức vào mùa hè tại một ngôi nhà cho thuê của gia đình nhà Loman. Ngôi nhà nằm phía sau những hàng cây và một con đường lớn, sân nhà không quá rộng, chỉ đủ chỗ cho hai chiếc ô tô đỗ. Nhà Loman đặt tên cho ngôi nhà là Blue Robin* vì tấm gỗ ốp quanh nhà có màu xanh da trời và mái nhà có hình dáng giống như mái của một ngôi nhà tổ chim. Tuy nhiên, tôi lại nghĩ ngôi nhà được đặt tên như vậy là vì nó nằm phía sau những hàng cây, sâu đến mức giống như một đốm sáng xanh hiện lên trên nền bóng tối mà chỉ có thể nhìn thấy rõ khi lại gần. Một loài chim đẻ trứng có màu xanh dương.  Tuy ngôi nhà không phải là một địa điểm lý tưởng bậc nhất hay là nơi có khung cảnh đẹp nhất cho các buổi tiệc tùng; tuy ngôi nhà ở quá xa để thấy biển và chỉ đủ gần mới có thể nghe thấy tiếng sóng rì rào khơi xa nhưng đây lại là nơi cách xa khách sạn Bed and Breakfast nhất, sân nhà cũng được bao quanh với những cây thường xanh* đẹp mắt được cắt tỉa gọn gàng nhất. Mong rằng các vị khách đến đây sẽ không ai than phiền hay chỉ để ý đến những điểm hạn chế của ngôi nhà. Là thuật ngữ khoa học dùng để chỉ cây rừng có lá tồn tại liên tục trong thời gian ít nhất là 12 tháng trên thân chính. Điều này khác biệt với các loài rụng lá hoặc là thân thảo (hàng năm hoặc lâu năm). Các ngôi nhà của nhà Loman cho thuê vào mùa hè đều có điểm chung là kiến trúc nội thất giống y như nhau. Điều này làm cho mỗi khi rời khỏi nhà hay sau khi dẫn khách đi tham quan, tôi đều cảm thấy như mất phương hướng. Một cái xích đu ở mái hiên thay vì đường lót sỏi, nhà ở gần biển thay vì gần núi. Mỗi ngôi nhà đều có lớp gạch lót giống nhau, cùng tông màu đá hoa cương, cùng phong cách nhà cổ mộc mạc. Các bức tường trong mỗi ngôi nhà đều được trang trí với những bức tranh về Littleport (Ngôi làng lớn nhất): ngọn hải đăng, những cánh buồm trắng ở hải cảng, những đợt sóng bọt tung trắng xóa đang vỗ vào các vách đá. Đá ở đây như đang cố gắng vươn mình trước những ngọn sóng, những hòn đảo ở phía xa thoắt ẩn, thoắt hiện theo dòng thủy triều. Littleport luôn mang một vẻ đẹp rất riêng: hoang dã, bí ẩn và tách biệt. Giờ thì tôi đã hiểu tại sao có nhiều người chấp nhận lái xe một đoạn đường dài chỉ để đến đây, tận hưởng cảm giác được nghỉ ngơi, đắm mình vào thiên nhiên. Một thị trấn được bao quanh bởi núi và biển, nhỏ bé và khiêm tốn, lối vào duy nhất là con đường dọc bờ biển đòi hỏi sự kiên nhẫn của người lái xe. Nơi đây tồn tại được hoàn toàn nhờ sự kiên cường trong đấu tranh chống lại sự tàn khốc của thiên nhiên. Nếu lớn lên ở đây, bạn sẽ có cảm giác con người mình cũng được tôi luyện bởi chính sự kiên cường đó. Tôi lấy những chai rượu còn lại trong thùng ra đặt lên bàn đá hoa cương, mang những món đồ trang trí dễ vỡ cất đi và bật đèn bể bơi. Tôi ra hiên sau ngồi và tự thưởng cho mình một ly rượu, lắng nghe những âm thanh theo gió từ biển vọng vào rì rào. Một cơn gió lạnh chớm thu lùa qua những kẽ lá khiến tôi rùng mình và phải kéo kín áo khoác để giữ ấm. Bữa tiệc này luôn được tổ chức vào những thời khắc chuyển mùa, một sự níu kéo cuối cùng của mùa hè trước khi trời sang thu và vào đông. Mùa đông ở nơi đây không chỉ lạnh thấu xương mà còn dài đằng đẵng. Những cơn gió lạnh có thể ùa đến rất nhanh, chỉ ngay khi tiệc tàn và các vị khách rời khỏi. Nhưng hàng năm, những bữa tiệc này luôn diễn ra trước khi mùa đông tới. Một đợt sóng nữa vỗ vào bờ, tôi nhắm nghiền mắt và nhẩm đếm từng giây. Chờ đợi! Bữa tiệc được tổ chức để tạm biệt mùa hè, nhưng mấy ngày hôm nay những cơn gió không biết từ đâu kéo nhau ùa tới khiến tôi nghĩ mùa hè đã bị cuốn theo những ngọn sóng trôi ra mãi xa kia rồi. Khi bữa tiệc bắt đầu trở nên náo nhiệt thì Luciana xuất hiện. Tôi không biết chị ấy tới từ khi nào nhưng khi tôi nhìn thấy thì chị ấy đã đứng ở đó, một mình lẻ loi trong nhà bếp. Dáng hình cao ráo nổi bật của chị dễ khiến người khác chú ý, vậy mà chị lại đang đứng bất động trước sự náo nhiệt của những hoạt động xung quanh. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên chị tham gia bữa tiệc như thế này. Nó khác hẳn những bữa tiệc mà chị đã tham dự trong suốt mùa hè vừa qua, bữa tiệc chào đón chị đến với thế giới của Littleport, Maine. Tôi chạm nhẹ vào khuỷu tay của chị, bằng cảm nhận của mình tôi thấy nó lạnh toát. Chị giật mình quay ra nhìn tôi, rồi chị thở phào nhẹ nhõm, dường như chị thấy rất vui khi gặp tôi. “Bữa tiệc này không giống như những gì chị tưởng tượng một chút nào!” Chị ấy không chỉ ăn mặc rất lộng lẫy mà còn chuẩn bị rất chu đáo khi đến tham dự bữa tiệc này. Mái tóc uốn xoăn nhẹ, quần được thiết kế riêng phù hợp với đôi giày cao gót của chị. Cảm giác giống như chị đang chuẩn bị đi dự một bữa tiệc nhẹ buổi sáng hơn là một bữa tiệc buổi tối như thế này. Tôi mỉm cười hỏi chị: “Sadie có đi cùng chị không?”. Sau đó, tôi đưa mắt quan sát để tìm màu sắc quen thuộc là mái tóc vàng đậm được chẻ ngôi giữa, tóc hai bên được tết thành hai dải mỏng và kẹp gọn về phía sau, trông nó hồn nhiên như một đứa trẻ vậy. Tôi kiễng chân và cố dỏng tai tìm kiếm tiếng cười quen thuộc của cô. Luce lắc đầu, những lọn tóc xoăn nhẹ vờn qua vai chị. “Không, chị nghĩ là con bé vẫn đang đóng đồ. Parker chở chị tới đây rồi anh bảo là muốn đỗ xe ở Bed and Breakfast để sau bữa tiệc đi về sẽ tiện hơn.” Chị chỉ tay về hướng Bed and Breakfast, một ngôi nhà từ thời Victoria được cải tạo lại thành khách sạn với tháp chuông nhỏ và có mái hiên. Đứng ở đó bạn có thể nhìn bao quát gần như toàn bộ vùng Littleport, những phần đẹp nhất, từ hải cảng tới dải cát của bãi biển Breaker, một con dốc cạnh ngôi nhà dẫn thẳng ra biển, dẫn đến ngôi nhà của gia đình Loman ở phía Bắc thị trấn. “Anh ấy đáng lẽ không nên đỗ xe ở đó!” - Tôi vừa nói vừa lấy điện thoại ra khỏi túi. Làm sao mà giấu kín được bữa tiệc này với những người chủ của B&B khi mà tất cả các vị khách đều đỗ xe ở đó chứ? Luce nhún vai. Parker Loman luôn làm theo ý mình mà không bao giờ nghĩ đến hậu quả về sau. Tôi áp tai vào điện thoại, cố gắng nghe tiếng đổ chuông trong tiếng nhạc ầm ĩ. Xin chào, bạn đã gọi đến số của Sadie Loman... Tôi dập máy, cất điện thoại vào trong túi và đưa cho Luce một ly vang đỏ. “Của chị đây!” - Tôi nói. Mặc dù, câu mà tôi muốn nói lúc đó là: “Ôi Chúa ơi, hãy hít một hơi thật sâu và thư giãn đi nào!”, nhưng không hiểu toàn bộ vốn từ vựng của tôi đã bay đi đâu mất khiến cho mỗi cuộc trò chuyện giữa tôi và Luciana Suarez thường chỉ gói gọn trong vài từ. Luce nhận lấy ly rượu với thái độ kính cẩn nhất, đó là một trong những điểm tôi thích ở chị. Tôi chuyển những chai rượu đã uống gần hết ra một chỗ để tìm chai whiskey, loại rượu mà tôi biết là chị rất thích. Sau khi tôi rót rượu vào ly, chị nói: “Cảm ơn.” “Không có gì.” - Tôi đáp lại. Mặc dù tôi và chị đã biết nhau cả một mùa hè, nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết chị cảm nhận như thế nào về tôi, một đứa con gái sống bên cạnh phòng khách trong ngôi nhà của bạn trai chị. Bạn hay thù, đồng minh hay kẻ địch. Chị nghiêng người ghé lại gần tôi như để chia sẻ một điều gì đó bí mật, “Đến giờ chị vẫn chưa thể hiểu nổi bữa tiệc này!” Tôi cười: “Rồi chị sẽ hiểu thôi!” Luce đã rất băn khoăn về bữa tiệc này kể từ khi Parker và Sadie kể rằng, hai anh em họ cùng với bố mẹ của mình sẽ không rời khỏi đây vào Ngày lao động, thay vào đó, họ ở lại để dự bữa tiệc này. Mời các bạn đón đọc Vị Khách Cuối Cùng của tác giả Megan Miranda & Spencer (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Âu Vàng - E.T.A. Hoffmann
Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX, tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt, đầy sức hấp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng - món quà tặng của tình yêu luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông (Nhà văn Pháp H. Balzac ca ngợi Hoffmann là “nhà ảo thuật phương Đông”)... Có người nói, Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. *** Ernst Theodor Amadeus Hoffmann sinh ngày 24.1.1776 tại Königsberg, là nhà văn được giới văn học sử nhất trí tôn vinh là một thiên tài đa dạng trong giai đoạn văn học lãng mạn Đức thế kỷ 19. Ông là luật sư, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà phê bình âm nhạc, giám đốc nhà hát, nhạc trưởng... và nổi bật hơn cả là một cây bút danh tiếng có sức mê hoặc người đọc cùng thời và có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến các trào lưu lãng mạn ở Đức và châu Âu. Với hai cuốn tiểu thuyết Rượu trường sinh của quỷ (Die Elixiere des Teufels, 1816), Quan niệm sống của chú mèo Murr (Lebensansichten des Katers Murr, 1819 - 1821) và hơn 70 truyện vừa và truyện cổ tích văn học (trong đó có những tác phẩm nổi tiếng thế giới như Chiếc âu vàng (Der goldene Topf, 1814), Vua chuột và chàng cắn hồ đào (Nußknacker und Mausekưnig, 1816), Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober (Klein Zaches, genannt Zinnober, 1819), Thống lĩnh Bọ Chét (Meister Floh, 1822), Tiểu thư Scuderi (Das Fräulein von Scudéry, 1819)..., được sáng tác trong vòng 13 năm cuối đời, E.T.A. Hoffmann ngay lúc sinh thời đã là một nhà văn có sách bán chạy nhất nước Đức, là một cây bút luôn được người đọc ở trong và ngoài nước đón đợi, ái mộ và tán thưởng. Các truyện cổ tích văn học của Hoffmann được nhiều nhà phê bình Đức đánh giá là những tác phẩm bậc thầy trong làng văn học lãng mạn và huyễn tưởng mà đỉnh cao, tiêu biểu nhất là câu chuyện tình hấp dẫn và kỳ thú Chiếc âu vàng. Bằng giọng văn bi hài và giầu chất men say của một cây bút thường sáng tác văn chương trong trạng thái ngà ngà, say say, tỉnh tỉnh, E.T.A. Hoffmann đã rất tài tình pha trộn màu sắc và âm thanh của thế giới hiện thực với thế giới huyền ảo, mộng mị và có chút ma quái cuốn hút người đọc vào một câu chuyện tình đầy vẻ huyền bí và biến ảo khôn lường của chàng sinh viên Anselmus với hai người đẹp là Veronika, con gái rượu của viên hiệu phó Paulmann và Serpentina, một con rắn xanh óng ánh vàng và là con gái của hỏa thần Lindhorst - một vị thần vì tình yêu đã phạm tội và bị lưu đầy xuống thế giới trần tục của con người. Chuyện tình của Anselmus là câu chuyện của một tâm hồn nghệ sĩ bị giằng xé, vật vã giữa thế giới vật chất và tinh thần, giữa khát vọng về một cuộc sống cao đẹp hài hòa với thiên nhiên trong trí tưởng tượng bay bổng của thi ca với đời sống thường nhật tẻ nhạt, háo danh, háo lợi và đầy những toan tính thấp hèn. Và cuối cùng, sau biết bao thử thách cam go và đau khổ, sau những cuộc chiến ác liệt giữa ác thần (dưới hình dạng một mụ già bán táo và phù thủy) và hỏa thần (người dẫn lối cho Anselmus đến xứ sở thần tiên trong trí tưởng tượng của thi nhân), chàng sinh viên thông minh nhưng vụng về và lạc lõng trong đời thực đã đến được nơi chàng hằng ước mơ... Trong một lần đề cập đến nguyên tắc sáng tác, Hoffmann đã phát biểu: “Tôi cho rằng, nền tảng của chiếc thang bắc lên trời mà người ta muốn trèo lên, vươn tới những miền cao cả hơn phải bám chắc vào cuộc sống để mỗi người đọc đều muốn trèo lên theo. Và khi con người trèo lên cao, cao hơn, cao hơn nữa và thấy mình đang ở trong một vương quốc kỳ diệu, huyễn tưởng, con người sẽ tin rằng cả vương quốc này cũng vẫn thuộc vào cuộc sống của mình và nó lại là cái phần kỳ diệu, tuyệt vời nhất của cuộc sống”. Hoffmann đã dũng cảm lên tới được nơi chốn huyền diệu nhất của con người và để lại cho văn chương nhân loại nhiều tác phẩm kỳ thú, trong đó, tác phẩm Chiếc âu vàng được chính Hoffmann đánh giá là sáng tác thành công nhất của cả cuộc đời mình. Giới phê bình Đức cũng nhất trí với Hoffmann cách đánh giá như vậy và còn bổ sung thêm: Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX. Đó là tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt bay vút lên từ hiện thực cuộc sống và xã hội thời đại ông, là một tác phẩm tài hoa trong nghệ thuật cấu trúc, đầy sức hẫp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại, và cũng rất đặc biệt, bởi nó được sáng tác bằng tâm hồn của một nhạc sĩ kiêm nhạc trưởng dàn nhạc có tên là E.T.A. Hoffmann, một tài năng âm nhạc có nhiều nhạc phẩm đáng kính nể với vô số các bản giao hưởng, nhạc thính phòng và các vở nhạc kịch, trong đó vở ôpera Udine của ông hoàn toàn xứng đáng với thiên tài âm nhạc Mozart mà ông từng tôn thờ. Hơn nữa, Chiếc âu vàng cũng như nhiều tác phẩm văn chương khác còn được sáng tác bằng con mắt tinh tường và sắc sảo của một họa sĩ, một nhà đồ họa và một nhà vẽ tranh biếm họa có biệt tài hài hước và châm biếm có tên là E.T.A. Hoffmann. Vì vậy, văn chương ở đây là sự hội tụ của thơ, của nhạc và của hội họa trong cùng một con người lạ lùng ấy. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng - món quà tặng của tình yêu - luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông[1]. E.T.A. Hoffmann đã và vẫn đang là đối tượng nghiên cứu với nhiều mâu thuẫn của giới phê bình văn học, nhất là trong việc xác định vai trò lịch sử và vị trí của ông trong truyền thống văn chương Đức. Có người nói Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. Dù sao, thời gian cũng đã chứng minh một cách đầy thuyết phục nhận định của văn hào Áo Stefan Zweig: Ai đã vượt qua được thử thách một trăm năm, người đó sẽ vượt qua mãi mãi và tồn tại. E.T.A. Hoffmann là một người như thế. Cùng với Goethe, Schiller, Heine, ông thuộc vào số ít những cây đại thụ của thời hoàng kim văn chương Đức mà tác phẩm được tôn vinh là những kiệt tác văn chương thế giới. Ngày 25 tháng 6 năm 1822, E.T.A. Hoffmann đã ra đi vĩnh viễn, ngọn lửa kỳ ảo Hoffmann vụt tắt trong tiếng nhạc chuông thủy tinh du dương và tiếng vọng của màu Xanh huyền bí mà ông đã từng viết cho đời: - Ôi! Màu Xanh, màu Xanh! Màu Xanh mẹ hiền của tôi! - Xin hãy đón tôi vào vòng tay của mẹ!... Hà Nội, ngày 30/11/2011 QUANG CHIẾN Mời các bạn đón đọc Chiếc Âu Vàng của tác giả E.T.A. Hoffmann.
Ảo Hỏa - Hermann Hesse
Ảo hóa, một truyện ngắn chỉ vài mươi trang nhưng nó giúp chúng ta vỡ lẽ triết lý “Tánh Không" của Đạo Phật: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành thức cũng lại như vậy". Có thế nói, khi đọc đến chứ cuối cùng của tác phẩm này, Ảo hóa đã đem lại cho người đọc sư vỡ òa của trí tuệ, giúp nhìn rõ thưc tánh “không có chỉ bên" của vạn vật, giống như là vừa tung xong bài “Bát nhã Tâm Kinh". *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana. Ravana có một người con trai tên Dasa. Mẹ Dasa chết sớm, vương tử cưới một người vợ khác. Sau khi người đàn bà đẹp và tham vọng này sinh được một con trai, bà đâm ra thù ghét Dasa. Bà muốn cho Nala, con mình kế vị, nên âm mưu chia rẽ cha con Dasa, và chờ cơ hội thanh toán cậu bé. Trong triều, có một người Bà-là-môn, tên Vasudeva, viên quan coi về tế tự, biết được âm mưu của bà. Ông thương tình cậu bé, người mà ông thấy có khuynh hướng sùng tín và đức công bằng giống mẹ. Ông trông chừng cho Dasa khỏi bị hại, và chờ dịp đưa cậu ra khỏi tầm tay mẹ ghẻ. Bấy giờ vua Ravana sở hữu một đàn bò được xem là thiêng liêng. Sữa và bơ của chúng dùng để tế thần. Những đồng cỏ tốt nhất trong xứ dành cho những con bò ấy. Một ngày kia, người chăn bò đem sữa về kinh, báo cáo rằng trong vùng bò đang ăn cỏ, có những dấu hiệu sắp hạn hán. Do đó, đoàn người chăn dẫn bò lên những dãy núi cao, ở đó nước và cỏ luôn luôn sẵn sàng ngay cả vào những thời khô ráo nhất. Người Bà-la-môn đã quen biết người chăn bò này từ lâu, anh ta là một người đáng tin cậy. Ông cho anh ta biết dự định của mình. Hôm sau, khi hoàng tử bé Dasa biến mất, thì chỉ có ông và người chăn ấy biết được lý do bí ẩn của sự mất tích. Người chăn bò đem cậu bé theo lên núi rừng. Họ theo kịp đàn bò di chuyển chậm chạp. Dasa sung sướng được gia nhập đoàn mục tử. Cậu phụ giúp thả bò, vắt sữa, chơi với những con bê, và lang thang khắp những đồng cỏ trên núi, uống sữa tươi ngọt ngào. Những bàn chân trần của cậu lấm đầy phân bò. Cậu thích đời sống mục tử này, dần quen với rừng núi và những cây trái, hoa cỏ của nó. Cậu nhổ những củ sen ngọt trong ao đầm, và vào những ngày lễ hội, cậu đeo một tràng hoa rừng đỏ chói. Cậu trở nên quen thuộc với đường đi lối về của thú rừng. Tập tránh cọp, chơi với những con sóc và nhím. Mùa mưa cậu ở trong căn nhà lá, mà ở đó bọn chăn bò chơi cờ, hát hoặc đan giỏ hay chiếu cói. Dasa không hẳn quên hết đời sống vương giả của mình trước đấy, nhưng chẳng mấy chốc những thứ này đối với cậu dường như một giấc chiêm bao. Một ngày kia, khi đàn bò đi đến một vùng khác, Dasa vào rừng để tìm mật. Từ ngày biết núi rừng, cậu đã bắt đầu thích; nhưng đặc biệt khu rừng này, cậu thấy nó đẹp lạ. Những tia nắng lượn khúc qua những cành lá trông như những con rắn vàng. Những tiếng của rừng, tiếng chim hót, tiếng xào xạc của những ngọn cây, tiếng của những con khỉ quyện vào nhau thành một mạng lưới âm thanh êm dịu trong sáng, giống như ánh sáng giữa những cành cây. Những mùi hương cũng vậy, hoà vào nhau rồi lại phân tán: hương của hoa rừng, của những loại cây, lá, nước, rêu, thú vật, trái cây và của đất, vừa cay nồng vừa dịu ngọt, vừa hoang dã vừa thân thiết, vừa kích thích vừa thoa dịu, vừa buồn vừa vui. Dasa quên mất việc tìm mật. Trong khi lắng nghe tiếng hót của những con chim nhỏ màu sáng như ngọc, cậu chú ý đến một đường mòn giữa những cây phong chót vót, trông như một cụm rừng nhỏ ở trong khu rừng lớn. Đấy là một lối đi rất nhỏ hẹp, cậu im lặng rón rén bước theo dấu đường mòn, và đến một cây bàng có nhiều nhánh lớn. Dưới gốc cây, có một cái chòi nhỏ, một túp lều đan bằng lá dương xỉ. Cạnh túp lều, một người đàn ông đang ngồi bất động, lưng thẳng tuột, hai bàn tay đặt trên đôi chân bắt chéo. Dưới mái tóc bạc trắng và vầng trán rộng, đôi mắt bất động của ông tập trung trên mặt đất. Đôi mắt ấy đang mở, nhưng như nhìn vào bên trong. Dasa nhận ra rằng đấy là một người thánh thiện, một người tu phái Yoga. Trước đấy cậu đã thấy những người như vậy, đó là những người được ân sủng của thần linh, đáng được tôn trọng, cúng dường. Nhưng người cậu đang thấy đây, ngồi trước túp lều được lợp rất đẹp và ở nơi kín đáo này, hoàn toàn bất động như thế, đăm chiêu trong thiền định - người này càng lôi cuốn cậu bé hơn bất cứ người nào cậu đã gặp. Ông ta dường như bay lượn trên mặt đất, trong khi đang ngồi đấy, và dường như cái nhìn xa xăm của ông, thấy và biết mọi chuyện. Một hào quang của sự thánh thiện vây phủ ông, một phép mầu của sự tôn nghiêm lan toả làm cho cậu không dám phá tan bằng một lời chào hay một tiếng kêu. Vẻ uy nghiêm của người ông, ánh sáng nội tâm rạng ngời trên gương mặt ông, mãnh lực tâm linh toát từ nơi ông khiến Dasa có cảm tưởng đây là một con người mà, chỉ cần móng một niệm nghĩ, không cần phải ngước mắt lên, cũng có thể sinh và sát được cái gì ông muốn. Người ẩn sĩ ngồi bất động hơn cả cây cối mà những cành lá còn lay động trong hơi thở của gió. Người này ngồi bất động như một pho tượng đá, và từ khi thấy người ấy, cậu bé cũng đứng bất động, say mê, như bị bùa lực lôi cuốn. Cậu đứng nhìn chòng chọc vào vị thầy. Cậu thấy một đốm sáng mặt trời trên vai ông ta, một đốm sáng trên một bàn tay buông thõng của ông, cậu trông thấy những điểm sáng di động ẩn rồi hiện, nhưng những thứ này không làm vị ấy cử động, cũng như tiếng chim hót và tiếng của những con khỉ từ các khu rừng xung quanh. Một con ong rừng đến đậu trên má ông, đánh hơi làn da ông, bò một đoạn ngắn trên má ông rồi vụt bay đi. Nhà ẩn sĩ vẫn ngồi bất động trước tất cả sự sống động đủ màu sắc của khu rừng. Tất cả cảnh tượng này, những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe, những cái đẹp và xấu, đáng yêu hay kinh khủng, đều không mảy may liên hệ đến con người thánh thiện này. Toàn thể thế giới xung quanh ông đã trở thành bề mặt vô nghĩa lý. Cậu bé mục tử có gốc gác vương giả tưởng chừng như vị ẩn sĩ này đã lặn sâu xuống dưới lớp bề mặt của cuộc đời và đi vào bản thể của mọi sự. Một điều lạ lùng, trong khi đứng đấy, cậu bỗng nhớ lại gốc gác vương giả của mình. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Hỏa của tác giả Hermann Hesse.
Ánh Nắng Nhiệm Màu - Chân Phương
Đến đại lộ Cộng Hòa lúc nào cũng không hay, Hiệp theo thói quen cho xe chạy chậm lại. Đây là một trong những con đường còn xứng danh là một đại lộ của Đô thành, có đường rộng cho xe lớn lướt vội vàng, có lối thênh thang cho xe hai bánh chạy ung dung, có lề lót gạch phẳng phiu và nhất là có bóng mát, thật nhiều bóng mát cho người đi bộ. Ở đây, mỗi người cất bước là một vì vương tiến giữa hai hàng cây sừng sững như những tên lính khổng lồ đứng thẳng tắp giương lên thật cao những chiếc lọng thiên nhiên lợp bằng lá cây xanh ngắt. Dù bận đến đâu, Hiệp cũng không nỡ cho xe chạy nhanh trong cái khung cảnh êm đềm ấy. Nó gợi lại trong đầu chàng bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu. Bao nhiêu buổi sáng mát rượi, bao nhiêu buổi chiều dìu dịu, chàng đã được cùng các bạn nô đùa thỏa thích nơi đây trong khi ở đàng kia, không xa, trời nắng như đổ lửa. Hiệp mỉm cười ôn lại những trận đấu sức cùng các bạn ngày nào trong bóng cây râm mát. Bỗng chàng giật mình thấy một toán sáu bẩy cậu học sinh trạc 14, 15 tuổi đang sắp sửa dánh nhau. Đánh nhau thật sự chứ không phải giả ngộ như ngày xưa chàng nô giỡn cùng chúng bạn. Một bên hai cậu, một bên đông gấp đôi, bốn cậu, đã quăng cặp xuống đường, sắp xông vào đấm đá. Hiệp ngừng xe, chưa kịp chạy lại can thiệp đã thấy từ đâu phóng tới một cậu học sinh thứ bẩy cũng trạc tuổi sáu cậu kia. Cậu này giang hai tay tách sáu người ra làm hai toán. - Thôi – cậu ôn tồn nói – cho tôi xin đi, anh em cả mà, đánh nhau chi cho mệt, kỳ lắm! Hiệp ngạc nhiên, bụng bảo dạ tiếng ai nghe quen quen như tiếng thằng Thuận. Vẫn ngồi yên trên xe lúc này đã đậu sát lề, chàng gỡ cặp kính râm ra coi, thấy quả là cháu mình, lại đeo kính lên, lặng yên thử xem nó hòa giải các bạn của nó ra sao. Thuận, một tay cầm cặp, vẫn tươi cười giang rộng hai tay như một đôi cánh xòe ra giữa hai toán đứng ngó nhau gườm gườm. Quay sang bên phải, nó bảo hai cậu vốn là bạn cũ ở gần nhà: - Thiết, Thực, hai bác đang trông ở nhà kìa! Nghỉ hai giờ cuối, sao còn lạng quạng ở đây? Về nhà lẹ đi kẻo hai bác la cho đó! Rồi quay sang bên trái, nó ngạc nhiên nhận được một người quen: - Ủa! Lợi hả? – nó hỏi – Giờ này chưa đi học sao? Hà hà, anh phải mách anh Lộc trị tội cậu này mới được! - Giáo sư bệnh – Lợi vội bào chữa – chúng em cũng được nghỉ hai giờ chót mà. - Ờ, thôi được – Thuận nói – Lợi về đi. Cả ba anh nữa. Học trò với nhau cả mà, ai lại nói chuyện phải trái với nhau bằng đấm đá bao giờ! Thằng Lực, to con và vẻ mặt ba trợn nhất trong đám bạn thằng Lợi, định sừng sộ. Thằng Lợi vội gạt đi, cướp lời: - Vâng, vâng, chúng em về… Dĩ hòa vi quý mà anh! Trong khi hai anh em thằng Thiết dắt nhau đi vô hướng đường Lý Thái Tổ thì Thuận rảo bước đi còn ngoái lại bảo Lợi: - Lợi vô nói với anh Lộc tối nay ghé chơi anh Thuận nghe! - Dạ, anh Thuận nhớ đừng mách anh em đấy nhé. - Ờ! Hiệp mỉm cười, sắp nổ máy cho xe chạy, bỗng ngưng lại lắng tai nghe. - Lợi, thằng nào đó? – Lực hậm hực hỏi bạn – Thằng Thuận nào mà mày có vẻ ngán dữ vậy? - Anh Thuận bạn thân của anh Lộc tao đó. Khỏe lắm mày ơi! Mày đánh không lại đâu! - Nhưng tao không thích nó can cái kiểu đàn anh ấy – Lực vẫn ấm ức nói – Đánh không lại, tao cũng không ngán. Thằng Lợi cười cười: - Biết rồi. tao thấy bộ dạng mày muốn ăn đòn nên phải cướp lời không để cho mày gây sự. Bộ mày chưa nghe tiếng Thuận đầu bò sao? - Chưa, nó ghê gớm như thế nào, nói tao nghe đi. - Oai hùng không thể tả! – Lợi ba hoa kể – Chẳng những một mình thằng Lực chả đi đến đâu, cho luôn cả ba thằng chúng mày xúm vào, ảnh cũng đá bay trong nháy mắt. Đến anh Lộc tao sừng nhất trường, muốn hạ tụi du đãng choai choai xóm Sáu Lèo để cho các em lớp Sáu khỏi phải nạp tiền mãi lộ, còn phải nhờ anh Thuận giúp một tay mới xong. Chúng mày biết không, năm sáu thằng đen chùi chũi và đô thật là đô, có cả dao con chó nữa, thế mà hai anh ấy tay không đánh cho một trận bò lê bò càng, cạch không dám bắt nạt và làm tiền các em nhỏ nữa… Thằng Chi nãy giờ đứng im, lên tiếng hỏi: - Thằng chả cùng học với anh mày ở Chu văn An hả, Lợi? - Đâu có! - Nhưng chắc cũng trên chúng mình vài lớp? – Chi hỏi gặng. ... Mời các bạn đón đọc Ánh Nắng Nhiệm Màu của tác giả Chân Phương.
Xứ Sở Của Những Người Ngáp - Azit Nexin
Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 — 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Thường được gọi với cái tên "Aziz Nesin", đây nguyên là tên cha ông, được Nesin sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Tập truyện cười Xứ Sở Của Những Người Ngáp này gồm có: Xứ sở của những người ngáp Quê ta vạn tuế Có nên làm bác sĩ không, con? Không thể thành người Phải ho lao mới được Xót tiền dân Thanh tra sắp đến Cả một ổ Nếu tôi là đàn bà Những điều trớ trêu của kỹ thuật Chuyện vợ chồng Giá không có ruồi! Anh lính Mêmét làng Êmét Lỗi tại anh Chỉ mỗi đồng lương Ông vua và con rệp béo nhất thế giới Chiếc đèn đường và phố chúng tôi Chúng ta cũng bay lên mặt trăng Lũ người chúng ta! Giấc mơ Mỹ Chuyện đó không liên quan đến tôi Nhà hiền triết và hai người bạn Người thay cả dàn nhạc Ngài - Còi Thôi thì ở lại Lên giá đến nơi rồi! Biết ơn vạn bội Chỉ tại trời mưa *** Khi anh bị mất việc, cuộc sống của anh bắt đầu gặp khó khăn. Nhưng giải thích cho những ông bạn ưa tò mò biết nguyên nhân tại sao anh mất việc, mới thật khó khăn hơn nhiều. Không! Lần này nhất định tôi sẽ chẳng hở cho ai biết chuyện gì đã xảy ra với tôi cả. Mọi lần, có chuyện gì không may là tôi cứ hay đi kể lể với những người quen, vì hy vọng biết đâu có thể có người giúp đỡ tôi! Nhưng cũng có khi chỉ vì muốn cho khuây khỏa nỗi buồn. Nhưng khốn nỗi, cứ mỗi lần như thế tôi lại bị họ lục vấn đủ điều, cố tìm cho bằng được nguyên nhân nỗi bất hạnh của tôi, để rồi cuối cùng, chẳng biết thế nào, chính tôi lại bị xem là kẻ có tội trong mọi chuyện không may ấy! - Đấy, - Họ bảo tôi - giá mà anh không làm như thế, như thế, như thế... thì đời nào ông chủ lại đuổi. Mà một khi anh đã cả gan làm những chuyện như vậy, thì lỗi là tại anh rồi còn quái gì! Chính anh có lỗi thôi! Cuối cùng, bao giờ họ cũng kết án tôi như vậy, và vẻ hài lòng hiện rõ ra mặt. Hôm ấy tôi vừa đi ngoài phố vừa miên man suy nghĩ về chuyện làm ăn, thì bất thình lình có người đập mạnh vào vai. Tôi ngoảnh lại hóa ra ông bạn Ôxman Kêman. Anh ta vui vẻ đi bên cạnh tôi. Chợt nhìn thấy bộ mặt buồn rầu thiểu não của tôi anh cụp ngay mắt xuống, thay đổi hẳn vẻ mặt và bảo: - Tôi hiểu!... - Anh ta nói một cách ấp úng. Nghĩa là anh biết chuyện tôi bị đuổi khỏi chỗ làm. Nếu vậy thì không thoát được rồi! Thế nào anh ta lại sắp tra khảo tôi, tìm cách chứng minh cho tôi biết rằng chính tôi là kẻ có lỗi đấy cho mà xem! Cái vẻ mặt buồn rầu giả tạo thật chẳng ăn khớp một tí nào với cái ánh mắt long lanh vui sướng mà anh ta không che giấu nổi. Tôi cố làm ra vẻ không hiểu câu “Tôi hiểu” của anh ta và hỏi: - Anh làm sao thế? Hay có chuyện gì không vui? - Không, tôi chẳng làm sao cả! Nhưng tôi nghe nói là anh lại vừa bị mất việc thì phải. - Anh ta đáp. - Cũng không sao! - Tôi cố làm ra vẻ thản nhiên, vì không muốn tiếp tục cái vấn đề này. - Sao lại không sao? - Anh ta đứng ngay giữa phố, mồm cứ bô bồ kêu “trời ơi”, rồi đề nghị tôi: - Thôi, chúng mình vào tiệm làm một tách cà phê đi, rồi cậu kể cho tôi xem đâu đuôi thế nào nào? - Có gì đâu mà kể! - Tôi đáp. - Sao lại không có gì đâu! Chà, xem cậu bắt đầu giống ai rồi nào? Thôi, ta đi đi! Cậu cứ kể hết cho mình nghe, rồi tự khắc cậu sẽ thấy khuây khỏa ngay thôi mà. - Anh cứ làm như có thể thay đổi được cái gì không bằng. - Cậu làm mình giận đấy... Chả lẽ mình không phải là bạn cậu hay sao? Thế là tôi đành vào quán với anh ta. - Nào bây giờ thì cậu kể cho mình xem có chuyện gì xảy ra đi! - Anh ta nói, khi chúng tôi bắt đầu nhấm nháp ngụm cà phê. - Lão chủ vừa đuổi tôi... - Vì sao? - Thì tôi biết được vì sao! Anh đi mà hỏi lão ấy! - Cậu có hay đi làm muộn không? - Cuộc hỏi cung bắt đầu. - Không, bao giờ tôi cũng đến rất đúng giờ. - Có bao giờ cậu không hoàn thành công việc không? - Không. Ai lại dám cãi lại ông ấy. Sốt ruột, Kêman bắt đầu nhấm nháp móng tay. - Thôi đúng rồi, chắc cậu đòi tăng lương phải không? - Đâu có... - Hay là... cậu có câu nói gì đó về ông ta, chẳng hạn có ý chê trách ông ta...? - Ồ, không đời nào? Tôi bị hỏi vặn một hồi nữa bằng những câu đại loại như thế. - Chà! Chà!... Thế thì vì quái gì cậu bị đuổi được nhỉ? Hay là... có khi nào cậu nhìn ông ta chằm chằm như cậu đang nhìn mình bây giờ không? - Tôi không biết. Nhưng... có thể là có... - Thôi thế thì đích thị rồi! Tớ đã bảo mà! Nhất định là phải có lý do mà lại, chứ không đời nào tự dưng người ta lại đuổi cậu cả! Chính lỗi tại cậu chứ không phải tại ai hết! Cậu cứ nhìn người ta chằm chằm như muốn ăn sống nuốt tươi thế thì ai mà chịu được! Nói thật chứ... Lỗi là tại cậu thôi! Nói xong câu ấy, anh ta thấy trong người nhẹ nhõm hẳn. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở Của Những Người Ngáp của tác giả Azit Nexin.