Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trong Khi Chờ Bojangles

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch). “Một câu chuyện cổ tích kỳ lạ.” – The New York Times Trước ánh mắt ngạc nhiên đầy ngưỡng mộ của cậu con trai, họ khiêu vũ trên nền nhạc lãng mạn của Nina Simone, Mr. Bojangles. Tình yêu của họ giống như một phép mầu, một bữa tiệc vui kéo dài mãi không dứt. Nơi họ chỉ có chỗ cho niềm vui, sự phóng túng, cuồng ngông và bạn bè. Trong những điều đẹp đẽ và ngay cả trong những biến cố bất hạnh xảy ra, chỉ có tình yêu là điều lớn lao hơn cả. Và, “tình điên” chưa bao giờ đúng với tên gọi của nó đến thế. Gặt hái thành công lớn ngay từ những tuần đầu tiên sau khi phát hành (tháng Một năm 2016), Trong khi chờ Bojangles tiếp tục giành được nhiều giải thưởng văn chương, trong đó có giải Tiểu thuyết France Télévisions, Giải thưởng lớn của RTL-Lire, giải Emmanuel-Roblès, giải tiểu thuyết dành cho sinh viên của France Culture-Télérama và giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học vùng Bretagne và Pays de la Loire. Năm 2019, Trong khi chờ Bojangles được đạo diễn sân khấu Victoire Berger-Perrin dàn dựng thành vở kịch cùng tên, giành được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và báo chí. Trước đó, năm 2017, tác phẩm của Olivier Bourdeaut cũng đã được hai tác giả Ingrid Chabbert và Carole Maurel chuyển thể thành truyện tranh. ĐÔI ĐIỀU VỀ TÁC GIẢ: Olivier Bourdeaut sinh năm 1980 tại Nantes, Pháp. Từ một nhân viên môi giới bất động sản, ở tuổi 30 anh quyết định rẽ hướng sang lĩnh vực văn chương. Anh dành ra hai năm để viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên song không tìm được sự đồng ý từ bất cứ nhà xuất bản nào. Sau đó anh tới sống ở nhà bố mẹ mình tại Tây Ban Nha, tập trung viết tiểu thuyết thứ hai, Trong khi chờ Bojangles, và hoàn thành nó trong vòng bảy tuần lễ. Lần này, câu chuyện nhẹ nhàng và điên rồ mà Olivier Bourdeaut kể lập tức gặt hái được thành công vang dội ngay sau khi được phát hành. *** Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch) Tóm tắt: Cuốn sách xoay quanh câu chuyện tình yêu kỳ lạ và đầy màu sắc của cặp vợ chồng Georges và Camille. Họ sống trong thế giới tưởng tượng của riêng mình, nơi tràn ngập niềm vui, sự phóng túng và tình bạn. Cậu con trai của họ, Gary, chứng kiến ​​tình yêu đặc biệt của cha mẹ và dần bị cuốn vào thế giới tưởng tượng ấy. Tuy nhiên, cuộc sống của họ gặp biến động khi Camille mắc bệnh Alzheimer. Georges phải đối mặt với thử thách lớn khi chăm sóc vợ và giữ gìn thế giới tưởng tượng của họ. Review: Ưu điểm: Câu chuyện tình yêu độc đáo và đầy cảm xúc: Cuốn sách mang đến một góc nhìn mới về tình yêu, không chỉ là sự lãng mạn mà còn là sự đồng hành và hy sinh. Lối viết nhẹ nhàng, tinh tế và đầy ẩn dụ: Tác giả sử dụng những hình ảnh ẩn dụ để miêu tả thế giới tưởng tượng của các nhân vật, khiến cho câu chuyện thêm phần huyền ảo và lãng mạn. Khắc họa chân thực những khó khăn khi đối mặt với bệnh Alzheimer: Cuốn sách giúp người đọc hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng của bệnh Alzheimer đối với người bệnh và gia đình họ. Nhược điểm: Cái kết gây tranh cãi: Cái kết của câu chuyện có thể khiến một số người đọc cảm thấy hụt hẫng hoặc khó hiểu. Một số chi tiết trong câu chuyện có thể khó hiểu: Cuốn sách sử dụng nhiều ẩn dụ và biểu tượng, có thể khiến người đọc khó nắm bắt được ý nghĩa của câu chuyện. Đánh giá chung: Trong Khi Chờ Bojangles là một cuốn sách đẹp và buồn về tình yêu, mất mát và trí nhớ. Cuốn sách là lời nhắc nhở quý giá về việc trân trọng những khoảnh khắc hiện tại và yêu thương những người xung quanh. Điểm đánh giá: 4/5 Đối tượng phù hợp: Người yêu thích tiểu thuyết lãng mạn. Người quan tâm đến những câu chuyện về tình yêu và mất mát. Người muốn tìm hiểu về bệnh Alzheimer. Lời khuyên: Nên đọc sách với tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón nhận những cảm xúc khác nhau. Nên tìm hiểu thêm về bệnh Alzheimer để hiểu rõ hơn về những khó khăn mà người bệnh và gia đình họ phải đối mặt. Trích dẫn: "Tình yêu là thứ duy nhất còn lại khi chúng ta đã mất tất cả." - Olivier Bourdeaut "Trí nhớ là một thứ mỏng manh, nó có thể tan biến bất cứ lúc nào." - Olivier Bourdeaut "Cuộc sống là một hành trình đầy những điều bất ngờ, hãy trân trọng từng khoảnh khắc hiện tại." - Olivier Bourdeaut *** Trong khi chờ Bojangles: Một vùng La La Land Sự thật thường rẻ mạt, trừ phi nó nực cười như một lời nói dối, tôi chua xót nhận ra. Những cuốn sách Pháp luôn gợi một cảm giác nào đó vô cùng lạ lùng, như thể những nhát cắn trên chiếc bánh gato nhiều tầng mà mỗi tầng lại chứa những cảm xúc khác nhau. Nhưng điểm chung là chúng hài hòa, đầy đủ hương vị, không cô đọng hay duy ý chí. Những nụ hôn điện ảnh từng mang đến cái đẹp của góc nhìn phía sau màn trập trong những gì hối tiếc đã qua; Hẹn gặp lại trên kia xuyên suốt là nỗi buồn thương, nhưng song song cũng là cái bất cần đời, là cái ngạo nghễ ngao du theo mọi phương hướng. Và Trong khi chờ Bojangles cũng không ngoại lệ. Nhẹ nhàng như một lời thủ thỉ, Olivier Bourdeaut xắn tay áo pha trộn cho độc giả một ly cocktail với đầy đủ hương vị thoang thoảng: một nỗi buồn vui, kích động, trầm lắng, xót xa trong một bút pháp tinh tế đến mức điêu tàn; và còn gì khác ngoài chờ người đọc đến thưởng? Lý do đầu tiên chọn đọc Trong khi chờ Bojangles không gì hơn ấn tượng ban đầu với bìa sách theo chủ nghĩa tối giản mô tả cặp đôi đang khiêu vũ, phía sau là máy quay đĩa than thời đệ nhị Thế chiến và những khuôn nhạc lẻ tẻ tách dòng. Hơn thế nữa, tựa đề cuốn sách nhắc nhớ đến một bài ca của Nina Simone, Mr. Bojangles trong đĩa Here Comes The Sun. Quay lại quá khứ vào năm 1965, khi bị tống vào nhà tù bang New Orleans vì một vụ ám sát trên đường phố, ca sĩ nhạc đồng quê Jeff Walker đã làm quen với một người đàn ông vô gia cư cùng ngồi trong khám. Ở đó, khi người ta kể lại câu chuyện cuộc đời cho nhau nghe, người đàn ông này đã làm bầu không khí trầm xuống khi kể về chú chó đã chết của mình. Lập tức một ai đó muốn mọi thứ vui tươi trở lại, thế là họ nài nỉ người đàn ông nọ, Mr. Bojangles – đứng lên và nhảy một điệu tap dance. Sau này Bojangles trở thành một danh từ chung ý chỉ những nghệ sĩ đường phố nhảy tap dance thường thấy trong văn hóa Mỹ, bước chân vào Hollywood và phủ rộng các làn sóng văn hóa. Điều cuốn hút hơn nữa còn là màu sắc mà bìa sách sử dụng. Như một cuốn phim âm bản giữa hai màu đen trắng được giản lược đến mức tối đa, cuốn sách như một mồi nhử khiêu khích người đọc – không cần màu mè hoa lá nhưng vẫn cuốn lấy người khác bằng vẻ huyễn hoặc. Và với Trong khi chờ Bojangles, người đọc phần nào cũng có thể phân định nó theo ba màu cơ bản: giữa trắng ngông cuồng, vui tươi; đen trầm uất, xót xa và đỏ của những vết thù hằn lại khi đến tận cùng cuốn sách. Sau khi trang cuối khép lại, chắc hẳn sẽ có ai đó nói đây là một nồi lẩu của tả pí lù mọi chuyện trên đời; nhưng chắc hẳn cũng có những người lật mở được điều gì đó giữa những tầng lớp ấy, để thấy được một tia sáng dù nhỏ mọn soi chiếu nội tâm nhẹ nhàng và thoảng hoặc như một cơn gió. * Cuốn sách kể về câu chuyện của một gia đình Pháp điển hình trong hai ngôi kể đan xen giữa bố và cậu con trai nhưng cùng hướng chung về nhân vật người mẹ. Nếu độc giả dễ dàng nhận ra tình cảm trìu mến trong những phân đoạn của bố, về những trò đùa tuổi trẻ, về tình yêu ngông cuồng; thì cậu con trai là góc nhìn vô cùng hồn nhiên, của những hờn giận, ghen tuông, của những thứ rất dễ chấp nhận khi bi kịch xảy đến. Nút thắt xoay chuyển mọi thứ có lẽ là vào ngày viên thanh tra thuế đến, và mọi thứ sụp đổ, kéo theo cơn điên của người mẹ như cơn bão chạm bờ. Tiếp sau đó là những tháng ngày chống chọi với buồn thương, của kiềm hãm cảm xúc, của tuyệt vọng đôi khi vô vọng. Như đã nói trên, Trong khi chờ Bojangles là cuốn sách tổng hòa của những hương vị, nên dẫu là ai, cuốn sách cũng khép mình đứng đó như chúng ta tự soi chiếu mình. TRẮNG Ngay câu mở đầu cuốn sách, Olivier Bourdeaut đã rào đón người đọc bước vào mảnh đất hài hước của mình bằng cách lựa chọn nhân vật độc đáo, giữa những cá nhân đầy rực rỡ tình yêu tuổi trẻ. Nếu người bố tự nhận mình như một tên hề tràn ngập hạnh phúc, với lối sống phóng túng và bất cần đời của những trò đùa với giới tư bản giàu có, dễ gợi nhắc đến Jack của Titanic; thì vợ anh, người mẹ luôn luôn chuyển động và không có một cái tên chính thức nào, sinh ra như để dành cho nhau. Gặp nhau trong một bữa tiệc vô tình, họ choáng ngợp bởi cái nhìn chếnh choáng say rượu, và ngay sau đó trở thành tình nhân sau chuyến chạy thoát thực tại trong ánh đèn đường. Mối quan hệ không đầu không đuôi ấy mang cho người đọc những tràng cười mê mải, với những chi tiết khôi hài những tưởng chỉ David Williams mới nghĩ ra được, về việc mỗi ngày đặt một cái tên, và sử dụng cái tên ấy không quá hai ngày cho người mẹ; về việc nuôi con sếu mà sau này được gán biệt danh “Quý cô thừa thãi”, về những trận cãi nhau chí chóe giữa bà mẹ và cô giáo cậu con trai… Tất cả làm nên một bầu không khí dễ chịu, vui tươi của những nhân vật kỳ lạ, đôi lúc lạ lẫm đến phi logic. Nhưng người đọc có nề hà gì. Với họ, niềm vui đọng lại đằng sau các nhân vật này mới là trên hết. Sự lãng mạn đậm chất Pháp cũng được Olivier mang vào cuốn sách này với nhạc jazz tụ hội tiệc tùng, với Nina Simone, với slow dance chậm rãi. Ở đó, vào những tối trong ngày, hai vợ chồng họ tổ chức tiệc cocktail cho đầy đủ mọi người, từ người quen thân cho đến chỉ mới gặp lần đầu. Không khí đậm chất hoài cổ mà vương giả ấy cho người đọc một sự ấm cúng giữa những cái chạm, ánh mắt, bờ môi; những cái lắc hông, chạm má tình tứ. Ngoài những nhân vật vui vẻ tràn ngập niềm vui ấy, Trong khi chờ Bojangles cũng đồng thời chứa đựng cái tinh tế mà đẹp đẽ của sự lãng mạn, rất Pháp, rất Âu châu. Nhưng gia đình nhỏ hạnh phúc ấy, những tiệc tùng nhảy múa đến đêm ấy, những chuyến đi đến thiên đường – pháo đài Tây Ban Nha ấy kéo dài không lâu, mà hồi chuông cảnh tỉnh là thời khắc cái bấm chuông của ông thanh tra thuế vang lên. Hàng tá thư dồn đống trong góc mà họ chẳng buồn mở ra, hóa ra là nguồn cơn cho sự sụp đổ manh nha này. Người bố bất ngờ trước tài sản vật chất từng thứ trôi tuột qua tay, trong khi người mẹ suy sụp đến mức cơn điên tìm đến. Cốt truyện từ khoảnh khắc này trở đi hóa thành một màu đen nhẻm, của tuyệt vọng bi thiết. Olivier như một họa sĩ lành nghề của lĩnh vực sắc độ. Ông chuyển mạch truyện êm ả như cú cua gấp trong màn đêm chuyển màu ombre đầy thời trang. Và cũng từ đây, một mùi hương khác lại được thêm vào, nghe chừng ra mùi kết thúc. ĐEN Từ bi kịch ấy, chứng rối loạn lưỡng cực như đến xâm chiếm người mẹ. Bà bị phân thân giữa những tràng cười điên dại bất tận và những trò lố của người mất trí. Bà quên sạch mọi bước khiêu vũ, cứ thể khỏa thân đi mua thức ăn, cố gắng viết sách, sơn phủ lại nhà, rồi cuối cùng đốt chính ngôi đền Pantheon thiêng liêng của cuộc hôn nhân mình. Em đã đốt tất cả các kỷ niệm của chúng ta, chỉ có cách đó họ mới không tìm ra chúng, như câu nói một hôm khi căn hộ của họ bốc cháy, còn bà mụ mị thiếp đi khi tay vẫn ôm chiếc máy quay đĩa phát bài Mr. Bojangles và con sếu mang danh “Quý cô thừa thãi”. Kể từ đó, người bố sống trong việc nhận thức rõ người mình yêu thương nhất đã không hoàn toàn như trước. Anh bình tâm an ủi cậu con trai bằng những câu sáo rỗng, rằng mọi thứ rồi sẽ ổn, rằng cả sự điên rồ này cũng thuộc về bố con ạ, rằng giờ thì đã qua hết rồi. Anh khóc ngay cả bữa sáng hay những bữa xem phim, khóc khi nhìn tấm hình cả gia đình nhỏ bé còn sót lại, khóc vào ban ngày thực sự khác lắm, vì đó là một mức độ đau buồn khác. Anh bất lực đứng nhìn người đàn bà mình yêu bị chuyển vào viện, ở tầng ba dành cho người chưa mất hẳn trí nhớ nhưng được chỉ định là không bình thường. Kể từ nay, ngày nào chúng tôi cũng phải chứng kiến cảnh mẹ nó mê sảng tại một phòng bệnh, rằng mẹ nó là một bệnh nhân tâm thần và nó phải ngoan ngoãn chờ mẹ khuất dần.  Nhưng cặp vợ chồng hoàn hảo ấy dĩ nhiên không dừng chân tại đó. Họ nuôi một kế hoạch khác để làm phong phú cuộc đời như họ vốn đã từng. Bằng cách nào? Cướp ngục bắt cóc bệnh nhân ra khỏi bệnh viện bằng lối cửa chính. Hẳn nhiên bạn không nghe nhầm, thế mới nói, Olivier là một tác gia kì lạ, ông thách thức mọi thứ logic chặt chẽ nhất, dễ thấy nhất; nhưng lạ thay, độc giả dễ dàng chấp nhận cho chính điều này. Tưởng như Catharina Ingelman-Sundberg của bộ Bà già phá luật, hai bố con họ đến giải cứu người mẹ trong viện tâm thần như cuốn phim Ba chàng ngốc. Họ rời khỏi đó, đến tòa lâu đài thiên đường của họ và sống cuộc đời như bao người muốn. Nhưng cơn điên không vì thế mà tha thứ cho họ. Người mẹ và những cơn bùng phát nhất thời, giận dữ và đập phá liên tục sau đó, dẫn đến yêu cầu tối hậu được nhốt riêng trên căn áp mái của tòa pháo đài. Người bố vì tình yêu vô bờ bến cam chịu đồng ý. Ông xoa dịu bà mỗi khi cơn điên ập đến, rồi đến một lúc, ông bế bà lên những bậc thang, lên chốn ẩn nấp dành cho cơn điên quần tụ. Cậu bé thì bịt chặt tai, chạy ra hồ nước tránh xa tiếng hét. Cơn điên như loài gặm nhấm, ăn mòn ăn dần từ trong gốc rễ, từ trong gia đình. Không ai đứng đủ gần để quan sát, mà chỉ còn đó cây thông u linh đứng riêng một mình. ĐỎ Có hai chi tiết ẩn mình khiến người đọc trăn trở mãi trong câu chuyện của Olivier. Dẹp sang đằng sau những hài hước bề ngoài, những phi logic của cuộc giải cứu; thì hình ảnh người mẹ và nước mắt lăn dài khi pháo hoa rơi mang đến một chút gì đó như nhận thức về vẻ đẹp tự hủy. Khi sự sung túc vẫn còn mới chớm, những ngày sinh nhật của bà luôn được đánh dấu bằng những tối liên hoan âm nhạc, với cocktail, rượu vang, với slow dance, đầy đủ mọi thứ. Thế nhưng khi pháo hoa tàn, bà vẫn rơi nước mắt. Có thể là bởi vẻ đẹp tàn lụi nhanh chóng hay có thể đó là khi bà đã nhận ra điều sẽ đến? Không ai biết được. Chỉ biết cũng hình ảnh ấy, trong buổi tiệc địa phương của người Tây Ban Nha khi mọi thứ lụn bại, cuộc sống sắp kết thúc; câu hát của Nina Simone lại cất lên vang vọng, giữa những đỉnh cực trị lên xuống hình sin, của ảo ảnh chòng chành, của khoảnh khắc kết thúc quá sớm. Thời khắc ấy được kéo dãn ra như thời gian nhảy lên hẫng xuống của điệu tap dance, như thời khắc tan biến của tia lửa, như cuộc đời đã đến hồi kết. He jumps so high and then he lightly touches down. Hình tượng thứ hai, cây thông ở trước hồ nước. Đối với người mẹ, trong những tháng ngày ảo ảnh vần chuyển của cơn điên loạn, đây là một trong những thứ khiến bà điên tiết đến mức đòi chặt nó đi. Không ai hiểu rõ được nguyên nhân hơn người trong cơn cuồng nộ ấy, nhưng liệu có phải vì nó đứng đơn độc trơ trụi một mình, thân phận của bà và nó như gần giống nhau? Bà muốn giải thoát nó, muốn nó phiêu diêu trên những con thuyền xuôi ngược đại dương, làm thứ có ích hơn là chỉ đứng yên đó. Còn với người bố đâm mình chán nản vào rượu mỗi tối, việc tưới rượu xuống cây thông ấy như đang mời rượu hay còn dụng ý nào khác? Liệu có âm mưu muốn phá hủy nó, biến nó thành chứng nhân cho tình yêu của ông với bà, chứng nhân cho sự hy sinh đến một đỉnh điểm vô bờ bến? Và cuối cùng khi mọi chuyện đã soi tỏ, rừng thông cũng là nơi ông trở lại, sống với bà, mặc kệ thế thái sau khi mọi thứ đã được nói rõ, mọi câu chuyện đã được kể xong. Cây thông đứng đó như sợi dây liên kết, như nỗi cô độc, như chứng nhân, như sự tan biến. * Trong khi chờ Bojangles không thiếu những điều vô lý, nhưng nếu hỏi độc giả có thể tha thứ cho nó không, e rằng câu trả lời là có. Olivier dựng lên một chuyện tình đẹp đẽ đến siêu thực, và những thứ vô lý ấy, nếu có thêm vào, chẳng qua cũng để sống trong giấc mơ tuyệt vời. Cuộc tình điên dại đầy hoang vu này đôi lúc gợi nhớ đến Mia và Sebastian trong La La Land và vẻ đẹp của sự tự hủy. Có chăng mối tương quan giữa những cuộc tình đẹp và sự kết thúc đầy trái ngoe? Không ai biết được. Nhưng với Trong khi chờ Bojangles, giọng văn kể cả của những trò đùa vỡ bụng và nỗi đau thầm kín đã hòa trộn vào nhau, làm nên tình yêu đẹp đến nghẹt thở. Với giọng văn nhẹ nhàng và sự thấu hiểu nhiều lớp cảm xúc, Olivier Bourdeaut đã viết nên một câu chuyện vô cùng đẹp đẽ, câu chuyện từ rất lâu rồi, từ sau La La Land, từ sau Bọt tháng ngày, từ sau Những nụ hôn điện ảnh độc giả mới một lần nữa lại được trải nghiệm, đắm chìm và dành một phút nhìn lại mọi thứ xung quanh.  Hết. Ngô Thuận Phát Mời các bạn mượn đọc sách Trong Khi Chờ Bojangles của tác giả Olivier Bourdeaut & Trần Thị Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Giờ Thứ 25 - Constantin Virgil Gheorghiu
Đối với Xã hội kỹ thuật hóa, đây là một mặt thật của Kiếp người, sống trong thời buổi giá trị con người bị tiết giảm xuống con số không: nhân vị, cá nhân, tình cảm hầu như không còn nữa. Máy móc. Tất cả đều sử dụng theo máy móc, đều hành động một cách máy móc, nên con người cũng bỏ lần nhân cách để theo kịp đà tiến hóa kỹ thuật rồi trở thành nô lệ cho kỹ thuật và lôi cuốn đồng loại mình vào trận cuồng phong, vào vực thẳm. Có còn chăng chút hy vọng lập lại xã hội loài người, như lời mục sư Koruga, trong truyện: “Sau rốt, Chúa lại đến phải xót thương con người, - như Chúa đã từng thương hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên lượn sóng trận đại hồng thủy, vài người thật là người, còn giữ được chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử”. Lời dịch giả Thi sĩ kiêm văn sĩ Constantin Virgil Gheorghiu sanh ngày 15-9-1916 tại Razboeni-Neamtz xứ Roumanie, con của một vị linh mục ở Moldavie. Học triết lý và thần học tại Đại học đường Bucarest và Heidelberg (Đức). Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi phẩm Calligraphie sue la neige được giải thưởng Hoàng gia về thi ca (Prix Royal de Poésie) năm 1940, ở Roumanie. Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Thế chiến thứ Hai. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi sĩ công phẫn và xúc động khi bọn thân phát-xít ám sát Thủ tướng dân chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco (1939). Hậu quả của thi phẩm này là ông suýt bị bọn “cơ quan sắt” thủ tiêu. Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển “Bờ sông Dniestr bừng lửa”, xuất bản ở Bucarest, chống bọn chống phát-xít đã tàn sát một phần ba dân số miền Bessarabie, quê hương ông. Tác phẩm này về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông. Nhưng theo ông, “đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi sĩ không thể không công phẫn”. Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại Bộ Ngoại giao Roumanie ở Zaghreb. Được một năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong một trại giam các nhà ngoại giao tại Đức. Kế Đức quốc xã thua, vợ chồng ông bị quân Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi hai năm sau (1947), mới được thả ra và gặp nhau ở Heidelberg (Đức). Trong thời gian bị giam cầm, ông viết quyển “Giờ thứ hai mươi lăm”. Nhằm lúc đồng mark mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển này dịch ra Pháp văn và cho xuất bản ở Paris (1949). Đây là một trong những tác phẩm bi đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: “Tôi tưởng không còn tìm ra một tác phẩm nào ý nghĩa hơn, phác họa rõ ràng hơn tình trạng hãi hùng mà nhân loại đang bị chìm đắm”. Tác giả quyển sách bán chạy nhất, - bán 600.000 quyển trong vài tuần lễ, riêng tại Pháp đến 300.000 quyển, - lại bị dư luận Pháp chống đối (1950), khi biết ông là tác giả quyển Bờ sông Dniestr bừng lửa, nghĩa là ông binh vực phát-xít. Trong một bài tự thuật, Virgil viết: “... Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên cớ giản dị để quần chúng bóp chết ta... Phải chăng người ta chỉ được lên án những sự độc ác dã man của một bên... Không, nhà thơ ấy chỉ lấy vĩnh cửu làm khuôn vàng thước ngọc...” Thi sĩ đã đi tu. Lễ thăng thiên, ngày 23-5-1963, ông được Đức giám mục từ Nữu Ước đến làm lễ thụ phong linh mục giáo hội Chính Thống tại nhà thờ Lỗ-ma-ni ở Ba Lê. Ông qua đời ngày 22-6-1992 tại Ba Lê. *** Bà West, tôi muốn nói chuyện riêng với bà! Eleonora để tập hồ sơ trên bàn, ngó Trung úy Lewis. Ông đang ngồi tại bàn giấy, chân tréo, ưỡn ngực dựa lưng ghế và hút thuốc. Trung úy Lewis là trưởng phòng Phòng tuyển mộ ngoại kiều đến tình nguyện xin vô quân đội Mỹ. Eleonora là nhân viên và thông dịch viên tại Phòng này. Nàng làm việc từ sáu tháng nay, dưới quyền Trung úy Lewis. Nora ngó đôi vớ cuốn kèn quanh ống quyển Trung úy, rồi nghĩ thầm: “Tại sao hắn không mang dây kẹp vớ? Và tại sao hắn ngồi ghế như ngồi ngựa vậy? Giống như bọn thủy thủ ở bến tàu! Vậy mà hắn cũng là con nhà có giáo dục, cũng xuất thân trường đại học. Dầu hắn có tự do quá mức đi nữa, hắn cũng không được phép ở trong phòng văn, đưa cặp giò trước mặt một người đàn bà như thế này!” Nàng thấy như bị tát tai mỗi khi Trung úy Lewis bắt tay nàng mà miệng còn ngậm điếu thuốc, hoặc mỗi lần quăng một hồ sơ trên bàn cho nàng, như ném miếng xương cho chó. Trung úy Lewis không ngờ Nora đã nghĩ gì đến mình, trái lại, còn tưởng nàng phục mình lắm. Nhưng đôi mắt nhìn của ông vẫn còn ngượng nghịu. Nora đáp: - Tôi xin nghe ông. - Bà West có bằng lòng ưng làm vợ tôi không? Trung úy ngồi bật ngửa, xích đòng đưa chiếc ghế, chiếc ghế chỉ còn đứng có hai chân. Nora trả lời: - Tôi không ưng làm vợ ông! - Vậy bà có những dự tính nào khác sao? - Không có! Nhưng câu trả lời của tôi là: không bằng lòng. Nora giở tập hồ sơ ra, song không làm việc được. Mắt ngó giấy tờ mà trí ở đâu đâu. Nàng ở tù hai năm trong trại giam, rồi đương nhiên được thả ra, cũng vô căn cứ, như lúc bị bắt. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Thứ 25 của tác giả Constantin Virgil Gheorghiu.
Đường Về Trùng Khánh - Han Suyin
Đường về Trùng Khánh (1973)—Destination Tchounking (1953) Tác giả Han Suyin aka Hàn Tú Anh Dịch giả Trùng Dương & Hồ Hải Nhà xuất bản Tổ Hợp Gió 1973 LỜI NGƯỜI DỊCH Qua Đường Về Trùng Khánh, người đọc có thể nhận ra những nhân vật điển hình — những diễn viên kỳ cựu — của bất cứ vở kịch chiến tranh nào xẩy ra từ trước tới nay trong lịch sử nhân loại : đó là đám nông dân cổ cày vai bừa sẽ chết, trong khi đám con cháu các gia đình khá giả lười biếng ăn chơi hay học hành tại các trường đại học và sửa soạn vào các nghề tài chánh, y khoa, hay luật sư và dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ và tuy thế cũng không phải là ít và thực đáng cảm động: “ Tôi không thể nào ngồi yên được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham dự vào cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung Hoa mà.” Đó là câu nói của nhân vật chính của tác giả, Hàn-tú-Anh, người nữ văn sĩ mang hai giòng máu Trung Hoa—Bĩ. *** Tựa Của Tác Giả Người ta đã yêu cầu tôi viết bài tựa cho cuốn Destination Tchoungking đã được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1942. Bằng cả tâm hồn và thể xác, tôi đã sống lùi lại mười một năm về trước, hồi còn trẻ, tại Trùng Khánh, ngập mình trong binh lửa, và thấy lại trọn vẹn cảnh tượng lúc bấy giờ: những chữ ở đây đều có một nghĩa tuyệt đối; những mục tiêu tự nó tồn tại, chính đáng và đáng kính; đạo đức và niềm tin đã chống cự lại nạn đói kém, nỗi đau khổ và sự buồn nản. Chúng tôi đã tin tưởng rằng sẽ tồn tại để cất lên tiếng cười, để tận dụng cuộc sống, mặc trạng huống hiện hữu, mặc những điệp khúc vô tận của những trận mưa bom mỗi ngày khô ráo mỗi tái diễn. Rồi thì cuối cùng mọi sự đều đã được giải quyết ổn thỏa. Tôi không có một mảy may ý định viết văn. Hồi đó tôi tập sự nghề cô đỡ tại một bảo sinh viện nhỏ dưới quyền điều khiển của Marian Manly, một nhà nữ truyền giáo Hoa Kỳ, ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Pao, chồng tôi, đóng tại Tây Bắc, và trong thời gian chàng vắng nhà, tôi ở lại nhà thương với Marian. Cha mẹ của Marian đã từng là những nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Chị nàng cũng thế. Chính nàng ta, một y sĩ kiêm truyền giáo, đã trải qua phần lớn đời nàng tại Trung Hoa. Nàng đã vẻ kiểu và xây lấy ngôi bảo sinh viện này, và tại đây, nàng huấn luyện các cô đỡ Trung Hoa cho đến khi những người này tốt nghiệp, gửi họ về các vùng quê, hay đưa đến những đô thị bị cô lập để làm cái việc cần thiết nhất tại Trung Hoa là giúp các sản phụ sinh nở dễ dàng và hợp vệ sinh. Một đêm nọ, tôi ngồi với nàng trong phòng nàng, trước ngọn lửa được đốt bằng củi để sưởi ấm, và chúng tôi đã thảo luận về những cuốn sách đã đọc. Nàng nói với tôi là đã nhiều lần nàng hy vọng sẽ viết một cuốn sách về tất cả những kinh nghiệm đã trải qua ở Trung Hoa trong tình thương và thông cảm. Nàng đã viết nhiều truyện ngắn và thơ nhưng chưa có được cuốn sách nào cả. Tôi đưa cho nàng xem những ghi chú và những đoạn văn mà tôi thường viết khi nhàn rỗi, cho những bạn bè ở Anh quốc muốn biết những gì đang xảy ra tại Trung Hoa. Nàng xem xong, bảo tôi: "Đây là những chất liệu quý giá có thể dùng để cấu tạo nên một cuốn truyện. Tại sao chị không viết nó thành cuốn sách nhỉ? Điều đó làm tôi run sợ. Anh văn của tôi, học từ hồi mười tuổi tại Bắc Kinh, và về sau này có được dồi dào thêm là nhờ đọc chứ chẳng phải nhờ thực tập, chắc đâu đủ để cho phép tôi viết thành một cuốn sách! Nhưng nhờ sự khích lệ nóng bỏng của Marian, tôi đã bắt tay vào việc hình thành cuốn Destination Tchoungking. Cuốn sách này đã được viết bằng những tờ rời, từng đoạn một, đôi khi vào buổi tối, dưới ánh đèn dầu trong những cái còn lại của một căn phòng sau trận oanh tạc vừa qua; đôi khi vào buổi trưa, trở về nhà sau một cuộc đỡ đẻ kéo dài từ sáng tới tối; hoặc vào khoảng giữa công việc bếp núc nhà cửa và việc quan sát những dấu vết địch quân trên trời. Tôi đã từng đem theo bản thảo Destination Tchoungking vào hầm trú ẩn trong quả đồi gần nhà, nhét giữa cái nồi thổi cơm và con gái tôi. Trong phần lớn thời gian viết cuốn sách này, Marian và tôi ở xa nhau. Tôi ở với Pao ở Trùng Khánh hoặc theo chàng xê dịch trong vùng Trung Hoa tự do. Nàng vẫn không rời bệnh viện của nàng ở Thành Đô. Tuy thế, sự hợp tác giữa chúng tôi vẫn không bị đứt khoảng, và điều này nói ra không khỏi tầm thường nhưng tôi vẫn cảm thấy phải nói, là nếu không nhờ có Marian sửa chữa, phê bình cùng tu bổ cho từng chương một, chắc chắn cuốn sách này đã không có dịp ra đời. Ngay khi vừa hoàn tất một chương, tôi gửi bằng máy bay tới Marian liền. Bản thảo bay tới bay lui giữa tác giả và đồng tác giả(co-auteur) trên vòm trời Trùng Khánh, được đánh máy trên những tờ giấy thực mỏng với tất cả thận trọng và rõ ràng để có thể nhét vào phong thơ của bưu điện hàng không. Rồi, một ngày đẹp trời nọ, nhà xuất bản nhận lời in. Tuy nhiên, vào thời đó, chưa thể tiết lộ tên tác giả được vì một lý do kỳ khôi. Hồi đó, nhờ chồng tôi nên tôi tạm thời trở thành một nhân viên ngoại giao của xứ tôi. Các bà trong ngoại giao đoàn không được phép viết văn. Nơi chúng tôi sống, người ta coi viết văn như một nghề ít phụ nữ tính và độc hại, y như nghề kịch sĩ vậy. Ngay cả cuốn tự truyện đầy sinh động và duyên dáng, Huilan Koo, của bà Wellington Koo, phu nhân của ông đại sứ Trung Hoa tại Hoa Thịnh Đốn, đã đột nhiên bị cấm lưu hành một cách bất công. Cuốn sách của tôi không bị số phận đó, nhưng trong nhiều năm, tôi khá thấu đáo về vấn đề này. Đó là câu chuyện đằng sau cuốn Destination Tchoungking của tôi. Ngoài bài mở đầu này ra, kỳ dư tôi không hề sửa đổi chi tiết nào trong cuốn sách khả dĩ khác với lần xuất bản đầu tiên, trừ vài lỗi chính tả và văn phạm. HÀN TÚ ANH Tháng 2, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Về Trùng Khánh của tác giả Han Suyin.
Đôi Mắt Người Xưa - Ngọc Linh
Ngọc Linh (1935 - 2002), xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, Cà Mau. Ông từng làm thư ký tòa soạn tuần báo Nhân loại, báo Lẽ sống, mở Nhà xuất bản Phù Sa, là ký giả kịch trường và điện ảnh, thành viên hội đồng tuyển chọn tuyển chọn giải Thanh Tâm trước 1975 (sau này ông là người sáng lập và tổ chức giải thưởng Trần Hữu Trang). Ông có hơn 70 tiểu thuyết đề cao lòng yêu nước và đạo đức gia đình. Nhiều tiểu thuyết nổi tiếng được chuyển thể thành kịch bản phim, cải lương, kịch nói. Sau giải phóng, ông được phân công chỉ đạo nghệ thuật nhiều đoàn kịch nói, cải lương, là Phó Tổng biên tập tuần báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh và làm cố vấn cho tờ báo đến ngày mất. *** Trân ngừng xe cách tiệm Ngọc Thanh của Diệp Thúy chừng hơn trăm thước, rồi bảo Ngọc Dung: - Đó... Em thấy chưa? Tiệm sách kia là của bác mua cho con vũ nữ đó. Ngọc Dung đọc hiệu tiệm rồi nhìn vào trong, thấy thấp thoáng nhiều người. Nàng bảo Trân: - Em sẽ đến đó, xem có ba em không? Và xem cô ta ra làm sao? Nàng nói xong, mở cửa xe bước ngay xuống đất. Trân lúng túng chưa biết tính sao? Hắn không ngờ Ngọc Dung hành động liền như vậy. Lúc nãy, hắn đang ở trên phòng buyn đinh Rose thì Ngọc Dung đến bảo hắn đưa nàng đến chỗ nhà bác sĩ Vũ mua cho Diệp Thúy. Trân tưởng đâu Dung chỉ muốn thấy tận mắt cái nhà sách của Thúy thôi, ai ngờ bây giờ nàng lại muốn giáp mặt Vũ và Thúy. Gặp như vậy thì khó quá! Chính hắn cũng không muốn giáp mặt Thúy trong trường hợp nầy. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Mắt Người Xưa của tác giả Ngọc Linh.
Cô Gái Đan Mạch - David Ebershoff
The Danish girl - Cô gái Đan Mạch là một câu chuyện cảm động về người chuyển giới đầu tiên trên thế giới, một họa sĩ người Đan Mạch đã dũng cảm đối diện và tìm về với bản ngã của chính mình. Đây cũng là câu chuyện về lòng vị tha, đức hy sinh trong tình yêu. Tất cả đều được thể hiện bằng một văn phong trong sáng, đẹp đẽ. Bản dịch đã chuyển tải được sự tinh tế và thanh nhã của bản gốc để mang lại nhiều rung động cho người đọc.  Tác phẩm Cô gái Đan Mạch đã được chuyển thể thành phim và giành được nhiều tán thưởng của giới phê bình lẫn công chúng. *** David Ebershoff (sinh năm 1969) là nhà văn, biên tập viên và giáo viên người Mỹ. Tiểu thuyết đầu tay của ông, The Danish Girl (2000), đã được chuyển thể thành một bộ phim đoạt giải Oscar cùng tên vào năm 2015, trong khi cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông, The Wife 19, đã được chuyển thể thành một bộ phim truyền hình cùng tên vào năm 2010. Ebershoff xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, The Girl Đan Mạch, vào năm 2000. Nó được lấy cảm hứng từ cuộc đời của Lili Elbe, một trong những người đầu tiên được phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Cuốn tiểu thuyết đoạt giải thưởng Quỹ Rosenthal từ Học viện Mỹ thuật và Văn chương và giải thưởng văn học Lambda. Ngoài ra, quyển sách trở thành best-seller trên toàn thế giới. Ebershoff đã dạy văn tại đại học New York và Princeton, và hiện đang giảng dạy văn học trong chương trình MFA tại Đại học Columbia. Ebershoff đã xuất hiện hai lần trên tạp chí Out trong danh sách 100 người có ảnh hưởng đến cộng đồng LGBT. Sách của David Ebershoff đã được dịch sang hai mươi lăm ngôn ngữ. *** Họ trở về căn hộ Widow House, nhưng sau nhiều năm tòa nhà đã trở nên xập xệ. Khi còn ở Paris, Greta đã thuê một người đàn ông tên Poulsen để sửa sang lại. Mỗi tháng cô gửi thư để kiểm tra và chỉ dẫn. "Tôi nghĩ là giờ máng nước cần được làm sạch," cô viết. Hoặc, "Làm ơn tháo các cánh cửa chớp nữa." Nhưng Poulsen đã không nghe theo bất kỳ chỉ dẫn nào, chỉ dọn dẹp phòng nghỉ và đốt rác. Khi Greta và Hans lái xe về Copenhagen vào một sáng tuyết rơi lất phất, Poulsen đã biến mất. Bề ngoài căn hộ phai thành màu hồng nhẹ. Ở tầng trên, phân chim mòng biển dính trên khung cửa sổ. Một căn phòng bị thiếu mất ô cửa kính, nơi người đàn bà sốt sắng trong độ tuổi 90 đã qua đời vào ban đêm, dưới tấm chăn nhàu nhĩ. Và bụi bẩn cáu đen lại trên các bức tường cạnh cầu thang dẫn lên tầng thượng. Phải mất hai tuần Greta mới chuẩn bị xong căn hộ cho Lili. Hans cũng cùng giúp, thuê người sơn lại tường và đánh bóng sàn. "Em ấy đã bao giờ nghĩ đến việc dọn ra ở riêng chưa?" một ngày anh chợt hỏi, và Greta giật mình trả lời, "Gì cơ? Mà không có em sao?" Dần dần cô đã thả Lili vào cuộc sống nhàn hạ bên biển cảng ở Copenhagen. Vào những chiều tuyết tan, Greta nắm tay Lili và cùng nhau đi dạo qua những hàng cây bụi đã được cắt tỉa thành từng khối, xơ xác vào cuối đông trong vườn Kongens Have. Lili bước chân và chúi miệng vào chiếc khăn len cuốn trên cổ; những ca mổ đã để lại cơn đau nhói lên mỗi khi liều móc phin hết tác dụng. Greta nói, chạm nhẹ vào cổ tay Lili, "Hãy dành thêm chút thời gian đi. Khi nào em đã sẵn sàng thì cứ nói chị biết." Cô cho rằng một ngày nào đó Lili sẽ muốn tự mình ra ngoài thế giới. Greta nhìn thấy điều đó trên gương mặt Lili, như cách cô quan sát những người phụ nữ trẻ với gói bơ cuộn từ tiệm bánh trên tay, bận rộn đi qua quảng trường Kongens Nytorv mỗi sáng, đủ trẻ để những tia hy vọng vẫn còn sáng lên trong mắt họ. Greta nhận ra điều đó qua giọng nói của Lili mỗi khi cô đọc to các cáo thị hôn lễ trên báo. Greta lo sợ ngày đó sẽ tới; thỉnh thoảng cô tự hỏi mình sẽ làm gì nếu ngay từ đầu đã nhận ra, rằng mọi chuyện sẽ kết thúc với khung cảnh Lili rời khỏi căn hộ Widow House, túi hành lí nhỏ xách trên tay. Vào những ngày đầu khi mới trở về Copenhagen, Greta thỉnh thoảng vẫn tin rằng cô và Lili có thể tự mình sống ở phòng trên cùng của căn hộ, và không ai trong số họ sẽ rời khỏi đó lâu hơn một buổi chiều. Có lúc Greta và Lili cùng ngồi bên lò sưởi, cô chợt nghĩ rằng những chấn động trong nhiều năm nay đã đến hồi kết, và giờ họ có thể tiếp tục vẽ trong yên bình, dù cô độc nhưng vẫn có nhau. Đó chẳng phải cuộc đấu tranh dài vô tận đối với Greta ư? Cô luôn cảm thấy cần được ở một mình nhưng lại luôn được yêu, và chính cô cũng yêu. "Chị có cho rằng em có thể biết yêu không?" Lili bắt đầu hỏi, khi mùa xuân trở lại và vẻ xám xịt dần biến mất khỏi bến cảng, thay vào đó là màu xanh biển. "Chị có nghĩ là những điều như vậy cũng sẽ xảy đến với em không?" ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đan Mạch của tác giả David Ebershoff.