Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Sống Của Các Loài Chim (Võ Quý)

Sinh ra và lớn lên ở Yên Hồ (Đức Thọ, Hà Tĩnh), được trời phú cho một nghị lực, trí thông minh và lòng kiên trì hiếm có, tới tuổi 77, ông đã đặt chân lên hầu hết mọi miền rừng núi của Tổ quốc. Khi tiếp xúc với ông, bao giờ người đối thoại cũng cảm nhận được từ con người có đôi mắt sáng biết nói ấy một phong thái giản dị, dễ tiếp xúc, dễ trao đổi và dễ tìm được tiếng nói chung. Bạn bè, đồng nghiệp thường gọi ông là "nhà giáo", "nhà sinh học", "nhà điểu học", "người bạn của thiên nhiên". Ông chính là GS. Võ Quý.

Sinh năm 1929, thuở nhỏ ông đã có duyên với thiên nhiên, thích quan sát, khám phá, tìm tòi những bí ẩn ở xung quanh.

...

Ông đến với nghề sư phạm như một định mệnh. Ông kể: "Lúc đầu tôi thích ngành Y lắm. Ba lần toan từ bỏ nghề "gõ đầu trẻ" nhưng không thành. Cực chẳng đã, nghĩ mình không thể thoát khỏi nghề "gõ đầu trẻ" thì phải làm thật tốt. Rồi mình trở nên yêu nghề thật sự. Thế mà lại hay."

Tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và nay là Đại học Quốc gia Hà Nội, ông đã đảm nhiệm nhiều cương vị công tác khác nhau: giảng viên, Trưởng phòng Đào tạo (1975 - 1980), Chủ nhiệm Khoa Sinh học (1980 - 1990). Ông còn tham gia giảng dạy tại các trường đại học khác như: Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Đại học Sư phạm Vinh... Ngoài ra, ông đã được mời giảng bài tại Đại học Wisconsin, Đại học Berkley (Hoa Kỳ), Đại học Oxford (Anh)... Từ năm 1985, ông sáng lập ra Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường trực thuộc Trường ĐHTHHN (nay là Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường trực thuộc ĐHQGHN) - trung tâm đầu tiên của Việt Nam nghiên cứu và đào tạo về môi trường. Ông giữ chức vụ Giám đốc trung tâm trong 10 năm liền (1985 - 1995) và từ 1995 tới nay là Chủ tịch danh dự của Trung tâm. Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển, cùng với sự góp sức tích cực của ông, hiện nay Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường là một trung tâm mạnh, có đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo bài bản, có cộng tác viên ở hầu khắp các tỉnh và có quan hệ hợp tác với nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế. Tìm mua: Đời Sống Của Các Loài Chim TiKi Lazada Shopee

...

Gần 50 năm đứng trên bục giảng về chuyên ngành Sinh học, từng là Chủ nhiệm Khoa Sinh học của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, GS. Võ Quý đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy sinh học cho đất nước.

GS. Võ Quý có thể ngồi lặng hàng giờ để ghi lại tiếng chim

Vốn là người yêu thiên nhiên, ham thích nuôi chim từ thuở thiếu thời, GS. Võ Quý đã sớm định hướng cho mình theo đuổi nghiên cứu chuyên ngành Điểu loại học ngay từ khi bắt đầu giảng dạy tại Khoa Sinh học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956). Khi đã là một nhà sinh vật học, ông có dịp đi đây đi đó, từ Bắc chí Nam, từ miền núi đến vùng biển, được mắt thấy, tai nghe những cái hay, cái đẹp của tự nhiên, của đất nước và cả những cái chưa được. Qua nhiều dịp ra nước ngoài, ông nhận thấy điều mà các nước trên thế giới quan tâm nhất là môi trường và ông nghĩ: "Phải làm gì để không chỉ gìn giữ mà còn phát huy những điều kiện tốt đẹp của môi trường, đem lại nguồn lợi cho đất nước mình". Và từ đó, nhiều người đã biết đến ông với vai trò của một nhà nghiên cứu, một người có nhiều tâm huyết với vấn đề bảo vệ môi trường, một nhà điểu học - nhà nghiên cứu về chim hàng đầu của Việt Nam.

Ông đã có công phát hiện ra một loài Trĩ mới cho khoa học ở vùng Kẻ Gỗ (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh). GS. Võ Quý phát hiện ra con Trĩ lam Hà Tĩnh khi ông mới ngoài 30 tuổi, nhưng lúc ấy nghiên cứu của ông chưa được các nhà khoa học thế giới công nhận ngay. Ông đã kiên trì nghiên cứu và tìm tài liệu chứng minh con Trĩ lam Hà Tĩnh mà dân địa phương quen gọi là "Gà lừng" là một loài Trĩ mới. Thấm thoắt 20 năm trôi qua, sau nhiều lần kiểm chứng, Hội đồng Quốc tế Bảo vệ chim (ICBP) đã công nhận nghiên cứu của ông là đúng và đặt tên cho loài chim này là "Vo Quy Pheasant" (Trĩ Võ Quý) để ghi nhớ công lao của người đã phát hiện và mô tả chính xác một loài Trĩ mới quý hiếm. Đời một người làm khoa học, hạnh phúc nhất là những công trình, niềm say mê của mình được ghi nhận. Ông cũng vậy.

GS. Võ Quý đã cùng các đồng nghiệp, học trò "kiểm kê" tỉ mỉ, kỹ càng hơn 1.000 loài và phân loài chim ở nước ta. Ông đã là tác giả của 14 cuốn sách, tiêu biểu như: "Chim Việt Nam" (tập 1, 2), "Cuộc sống các loài chim", "Danh mục các loài chim Việt Nam"...; là dịch giả chính của 3 cuốn sách về môi trường đồng thời cũng là tác giả của hơn 100 công trình khoa học đã công bố trong nước và nước ngoài. Sự gắn bó của GS. Võ Quý với thiên nhiên thể hiện ngay trong không gian sống gần gũi nhất của ông là nhà riêng và phòng làm việc với những bức tranh ảnh về các loài chim quý. Điều này khiến tôi chợt liên tưởng tới ông tiên trong truyện cổ tích. Tôi thắc mắc: "Tại sao giáo sư không nghiên cứu một loài khác, giống khác mà chỉ tập trung nghiên cứu về loài chim?". Ông cười và bảo: "Cũng có nhiều người thắc mắc như cô đấy!... Tôi có thói quen quan sát chim từ lúc 5 - 6 tuổi nên tôi biết tất cả những loài chim của quê mình. Biết thói quen của từng loài như thức dậy lúc mấy giờ, bay về tổ lúc nào, ăn quả cây gì, sinh sản ra sao... Khi lên đại học, tôi quyết định đi theo con đường làm khoa học và các loài chim trở thành đối tượng nghiên cứu của tôi".

Đến nay, GS. Võ Quý đã thực hiện nhiều dự án nghiên cứu về chim, về các loài động vật quý hiếm, về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường và về hậu quả của chất độc hoá học mà quân đội Mỹ đã dùng trong chiến tranh đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Ông là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Hội đồng Vườn quốc gia và Khu bảo tồn quốc tế (WCPA/IUCN), Hội đồng quốc tế về Bảo vệ các loài nguy cấp (SSC/IUCN). Ở trong nước, ông là người đứng đầu hoặc là người sáng lập và thành viên tích cực của nhiều tổ chức như Tổng Hội Các nhà sinh học Việt Nam, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Sinh thái học Việt Nam, Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin Việt Nam...

...

GS. Võ Quý là đồng sáng lập và Phó chủ nhiệm, rồi Chủ nhiệm hai Chương trình quốc gia về môi trường từ năm 1981 đến năm 1990. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc đề xuất các chính sách phát triển bền vững. Ông cũng là người biên tập và là đồng tác giả của bản thảo đầu tiên về Chiến lược bảo vệ môi trường và Luật bảo về môi trường.

...

Khó có thể kể hết những huân chương, huy chương, bằng khen cao quý tới những phần thưởng mà các tổ chức trong nước và quốc tế đã trao tặng cho GS. Võ Quý, từ Huân chương Kháng chiến hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Ba, danh hiệu Nhà giáo ưu tú tới Huy chương vàng của Ngân quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF), Bằng danh dự Global 500 của Liên hiệp quốc, Huy chương John Philipps - phần thưởng cao quý nhất của Hiệp Hội quốc tế Bảo vệ tự nhiên (IUCN)... Ông đã dồn cả tâm huyết, công sức và cả tiền của để góp sức vào bảo vệ tài nguyên môi trường, xoá đói giảm nghèo cho nông dân. Ông đã tặng toàn bộ phần thưởng trị giá 150.000 USD giải Pew Scholars do Đại học Michigan (Hoa Kỳ) trao để nghiên cứu bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở Hà Tĩnh.

...

Năm 2003, GS. Võ Quý vinh dự là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên và là người châu Á thứ hai được nhận Giải thưởng Hành tinh xanh, giải thưởng quốc tế tương đương giải Nobel về môi trường, do Ashahi Glass Foundation trao tặng.

Làm phim cũng là một niềm yêu thích thời trẻ của ông nhưng đầy tình cờ.

...

Chuyến đi khảo sát nào cũng thế, ông say sưa quay phim, chụp hình rồi lại cặm cụi ghi chép lại những điều đã mắt thấy, tai nghe.

... với sự cộng tác của anh bạn họa sĩ, anh bạn làm nhạc và vợ ông, bà Lê Thanh, viết lời bình, bộ phim "Côn Đảo, viên ngọc quý của Tổ quốc ta" đã ra đời.

...

Sau này, GS. Võ Quý còn làm cố vấn khoa học cho hãng phim ACACIA (Anh) về bộ phim "Việt Nam sau khói lửa chiến tranh" đoạt giải nhì Liên hoan phim Canada (1989), giải phim truyền hình thời sự hay nhất tại New York (1990); với hãng BBC (Anh) về bộ phim "Việt Nam một đất nước, không phải chiến tranh".

...

Ở Việt Nam, nhiều người đã quen mặt và rất có cảm tình với người dẫn chương trình trên chuyên mục "Đến với thiên nhiên", KCT (VTV2) - GS. Võ Quý. Hơn 200 chương trình phát sóng ông tham gia thì mỗi chương trình là một ý tưởng, một cách nói vui nhưng dễ phổ biến, dễ hiểu mà lại rất khoa học.

...

Ông còn dành nhiều tâm sức để nghiên cứu về đa dạng sinh học, các loài có nguy cơ tuyệt chủng, thiết lập và quản lý các khu bảo tồn, giúp đỡ các cộng đồng địa phương trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên để phát triển bền vững. Ông đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ giữa người dân, nhất là dân nghèo, với tài nguyên thiên nhiên để tìm ra những biện pháp hữu hiệu góp phần xoá đói, giảm nghèo, giúp đỡ người dân ở các vùng đệm của các khu bảo tồn phát triển kinh tế, nâng cao cuộc sống, không phá rừng mà còn tích cực bảo vệ rừng và đưa ra quan điểm "bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng".

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đời Sống Của Các Loài Chim PDF của tác giả Võ Quý nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

80 Bài Toán Thông Minh (Nhiều Tác Giả)
Cuốn sách nhỏ này gồm 80 bài toán thông minh, được chọn lựa điển hình các dạng loại phong phú như toán suy luận, trò chơi, đố mẹo,... dùng cho học sinh phổ thông cả 3 cấp. Nó giúp các em rèn luyện trí thông minh, khả năng tư duy sáng tạo, kích thích sự hứng thú say mê trong học tập, nhất là trong học tập bộ môn Toán. Các bài toán ở đây dành cho cả học sinh và người lớn. Trong phạm vi gia đình, nó có thể giúp cho sinh hoạt giải trí giữa bố mẹ và con cái. Trong nhà trường có thể phục vụ cho đông đảo các đối tượng học sinh, đồng thời cũng có thể phục vụ cho các lớp chuyên toán, dùng cho các kỳ thi toán vui-chọn học sinh thông minh tư duy nhanh, hoặc các buổi ngoại khóa. Để giải chúng, không đòi hỏi bạn đọc phải có một kiến thức toán học đặc biệt nào. Các bài toán trong quyển sách này được sưu tập chọn lựa từ nhiều nguồn khác nhau - Một phần từ các sách, tạp chí trong nước, phần lớn từ các tài liệu nước ngoài - trong đó có nhiều bài không rõ đã xuất hiện lần đầu ở đâu, bao giờ và do ai đưa ra nhưng đã trở nên phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Để tiện cho việc sử dụng của đông đảo bạn đọc, hầu hết các bài đã Việt hóa các tên riêng.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 80 Bài Toán Thông Minh PDF của tác giả Nhiều Tác Giả nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Einstein Cuộc Đời Và Vũ Trụ (Walter Isaacson)
Cuốn sách khai thác và công bố những tư liệu mới nhất về Einstein, làm rõ những giai đoạn, sự kiện và vấn đề trong cuộc sống cá nhân của Einstein. Cuốn sách cũng chỉ ra và làm rõ những chặng trên con đường khoa học của Einstein, cho thấy những suy tư và trăn trở của ông để đưa ra những lý thuyết vật lý làm thay đổi toàn bộ nền vật lý thế kỷ XX, cũng như cuộc tranh luận của ông với các nhà cơ học lượng tử. Tác giả đã lột tả được cá tính, tư tưởng chính trị và những đặc điểm trong trí tuệ, nhân cách của Einstein một cách sinh động. *** Nhận định Tìm mua: Einstein Cuộc Đời Và Vũ Trụ TiKi Lazada Shopee "Với tài kể chuyện vô song, Isaacson đã làm nên kỳ tích là vừa giữ được tượng đài Einstein, vừa mang lại cho ông hơi thở sống động, giúp ta cảm thấy như thể ông đang bước đi giữa chúng ta. Đúng là một tác phẩm tuyệt vời." (Doris Kearns Goodwin, tác giả cuốn Team of Rivals [Đội của các đối thủ], No Ordinary Time [Không có thời gian thông thường], và là tác giả đoạt giải Pulitzer về lịch sử.) "Isaacson đã làm được một việc xuất sắc là truyền tải được cả phần con người lẫn các chi tiết thú vị trong cuộc đời khoa học của Einstein. Đây không chỉ là một cuốn tiểu sử hấp dẫn, mà mỗi trang luôn mời chào ta đọc trang tiếp theo, mà còn là một tác phẩm tiêu biểu hàng đầu trong thể loại phi hư cấu." (Lawrence M. Krauss, Giáo sư vật lý theo chương trình Ambrose Swasey tại Đại học Case Western Reserve và là tác giả của cuốn Hiding in the Mirror [Trốn trong gương]) "Isaacson đã viết một cuốn tiểu sử chính xác, hấp dẫn và thú vị, trình bày thật khéo các văn liệu lịch sử và đưa đến nhiều hiểu biết mới mẻ về cuộc đời cũng như sự nghiệp của Einstein" (Diana Kormos Buchwald, chủ biên cuốn Tuyển tập các bài nghiên cứu của Albert Einstein và là Giáo sư lịch sử tại Caltech) *** Walter Isaacson sinh 20 tháng 5 năm 1952, là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông là chủ tịch và giám đốc điều hành của Aspen Institute - một tổ chức nghiên cứu chính sách giáo dục trung lập có trụ sở tại Washington, D.C. và tại Cable News Network (CNN). Ông cũng là biên tập viên của Time. Ông là tác giả của American Sketches (2009), Einstein: His Life and Universe (2007), Benjamin Franklin: An American Life (2003) and Kissinger: A Biography (1992) và là đồng tác giả với Evan Thomas, trong The Wise Men: Six Friends and the World They Made (1986). Ngày 24 tháng 10 năm 2011, cuốn tiểu sử về Steve Jobs của ông đã trở thành một cuốn sách bán chạy nhất trên thế giới và phá vỡ mọi kỷ lục về doanh số bán hàng. Tháng 10 năm 2014, ông cho xuất bản cuốn sách The Innovators: How a Group of Inventors, Hackers, Geniuses, and Geeks Created the Digital Revolution. Cuốn sách này cũng đã nằm trong mục bestseller của New York Time. Ông được bình chọn là một trong số 100 người có ảnh hưởng nhất thế giớ do tạp chí Time bình chọn năm 2012. *** Các nhân vật chính Michele angelo besso (1873-1955): Bạn thân nhất của Einstein. Ông là một kỹ sư thú vị nhưng lại có tính lơ đãng. Ông gặp Einstein ở Zurich rồi sau đó theo bước Einstein về làm tại cơ quan cấp bằng sáng chế ở Bern. Ông là khán giả lắng nghe Einstein trình bày ý tưởng về thuyết tương đối hẹp năm 1905. Ông kết hôn với Anna Winteler, em gái của người bạn gái đầu tiên của Einstein. NIELS BOHR (1885-1962): Nhà khoa học người Đan Mạch tiên phong về thuyết lượng tử. Tại các hội nghị ở Solvay và những cuộc hội họp sau đó của giới trí thức, ông thường phản bác được những tranh luận quyết liệt của Einstein đối với lối luận giải Copenhagen của ông về cơ học lượng tử. MAX BORN (1882-1970): Nhà vật lý và toán học người Đức. Ông cùng Einstein trao đổi thư từ mật thiết và chia sẻ nhiều ý tưởng hay trong suốt 40 năm. Ông đã cố gắng thuyết phục Einstein tin vào cơ học lượng tử. Vợ ông, bà Hedwig, là người luôn cật vấn Einstein trong các vấn đề cá nhân. HELEN DUKAS (1892-1982): Thư ký trung thành của Einstein. Bà đóng vai trò như thần khuyển Cerberus chuyên gác cửa bảo vệ Einstein, sống cùng nhà với ông từ năm 1928 cho đến khi ông qua đời. Sau này, bà trở thành người bảo vệ di sản và các bài nghiên cứu của ông. ARTHUR STANLEY EDDINGTON (1882-1944): Nhà vật lý học thiên thể và là người ủng hộ thuyết tương đối, các quan sát về hiện tượng nhật thực của ông năm 1919 đã xác nhận mạnh mẽ những tiên đoán của Einstein về việc lực hấp dẫn bẻ cong ánh sáng. PAUL EHRENFEST (1880-1933): Nhà vật lý gốc Áo. Ông là người có tinh thần mãnh liệt nhưng dễ dao động. Ông gắn bó với Einstein trong chuyến đi tới Prague năm 1912, sau đó ông là giáo sư tại Leiden, và hay đón tiếp Einstein khi ông tới đó. EDUARD EINSTEIN (1910-1965): Con trai thứ hai của Mileva Marić và Einstein. Thông minh và có khiếu mỹ thuật, Eduard say mê Freud3 và hy vọng trở thành một bác sỹ chuyên khoa tâm thần. Thế nhưng, khi chừng hai mươi tuổi, chứng tâm thần phân liệt khiến anh phải sống trong một bệnh viện tâm thần ở Thụy Sĩ trong phần lớn phần đời còn lại. ELSA EINSTEIN (1876-1936): Người chị họ đời thứ nhất và cũng là người4 vợ thứ hai của Einstein. Hai người con riêng của bà, với một thương nhân ngành dệt may tên là Max Löwenthal, là Margot và Ilse Einstein. Bà và các con đổi họ theo họ thời con gái của bà là Einstein sau khi bà ly dị chồng năm 1908. Bà kết hôn với Einstein năm 1919. Thông minh hơn những gì bà cố tình tỏ ra, bà luôn biết cách cư xử với ông. HANS ALBERT EINSTEIN (1904-1973): Con trai đầu của Mileva Marić và Einstein, mặc dù đây là một vai trò khó khăn nhưng anh đã đảm đương nó một cách khéo léo. Anh học chuyên ngành kỹ thuật tại trường Bách khoa Zurich. Năm 1927, anh kết hôn với Frieda Knecht (1895-1958). Họ có hai con trai là Bernard (sinh năm 1930) và Klaus (1932-1938). Họ nhận nuôi một người con gái tên là Evelyn (sinh năm 1941). Anh chuyển tới Hoa Kỳ năm 1938 và trở thành giáo sư chuyên ngành thủy lực tại Berkeley. Sau khi Frieda qua đời, anh đi bước nữa với Elizabeth Roboz (1904-1995) năm 1959. Bernard, cháu trai của Einstein, có năm người con, đây là những người chắt của Einstein mà người ta được biết. HERMANN EINSTEIN (1847-1902): Cha của Einstein, xuất thân từ một gia đình người Do Thái ở vùng nông thôn Swabia. Ông cùng với người em trai là Jakob mở các công ty điện ở Munich rồi ở Ý, nhưng họ không mấy thành công. ILSE EINSTEIN (1897-1934): Con gái của Elsa Einstein từ cuộc hôn nhân đầu tiên. Cô từng yêu vị bác sỹ thích phiêu lưu Georg Nicolai, nhưng lại kết hôn với nhà báo Rudolph Kayser vào năm 1924, sau này Rudolph viết một cuốn sách về Einstein với bút danh là Anton Reiser. LIESERL EINSTEIN (1902-?): Con gái của Einstein và Mileva Marić trước khi họ kết hôn. Einstein có lẽ chưa bao giờ gặp cô bé. Cô bé có thể đã được để lại và cho làm con nuôi ở quê mẹ, vùng Novi Sad thuộc Serbia, hoặc cũng có thể đã qua đời vì bệnh ban đỏ vào cuối năm 1903. MARGOT EINSTEIN (1899-1986): Con gái của Elsa Einstein từ cuộc hôn nhân đầu. Cô là một nhà điêu khắc nhút nhát. Cô lấy một người Nga tên là Dimitri Marianoff vào năm 1930 nhưng họ không có con. Về sau, Marianoff đã viết một cuốn sách về Einstein. Margot ly dị Marianoff năm 1937 và chuyển tới Princeton sống cùng Einstein. Cô sống ở số 112 phố Mercer cho đến khi qua đời. MARIA “MAJA” EINSTEIN (1881-1951): Em gái ruột duy nhất của Einstein và cũng là người bạn tâm giao thân thiết nhất của ông. Bà lấy Paul Winteler nhưng họ không có con. Năm 1938, bà một mình rời Ý để tới Princeton sống với anh trai. PAULINE KOCH EINSTEIN (1858-1920): Người mẹ cứng cỏi và có đầu óc thực tế của Einstein. Bà là con gái một thương nhân buôn ngũ cốc người Do Thái giàu có ở Württemberg. Bà kết hôn với Hermann Einstein năm 1876. ABRAHAM FLEXNER (1866-1959): Nhà cải cách giáo dục người Mỹ. Ông sáng lập Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton và tuyển Einstein về đó làm việc. PHILIPP FRANK (1884-1966): Nhà vật lý người Áo. Ông kế nhiệm người bạn Einstein của mình tại Đại học Prague, Đức. Sau này, ông có viết một cuốn sách về Einstein. MARCEL GROSSMANN (1878-1936): Người bạn cùng lớp siêng năng của Einstein tại trường Bách khoa Zurich. Ông chép bài môn toán cho Einstein, rồi sau đó giúp Einstein có được công việc tại Cục Cấp bằng Sáng chế. Là giáo sư về hình học họa hình tại trường Bách khoa, ông giúp Einstein về các kiến thức toán học cần thiết cho thuyết tương đối rộng. FRITZ HABER (1868-1934): Nhà hóa học người Đức và cũng là người mở đường cho chiến tranh dùng khí độc. Ông đã giúp Einstein xin được việc ở Berlin và đứng ra hòa giải cho Einstein và Marić. Là một người Do Thái cải đạo sang Cơ đốc với mục đích trở thành một công dân tốt của nước Đức, ông đã thuyết giảng cho Einstein về những cái lợi của sự đồng hóa, cho đến khi Đức Quốc xã lên nắm quyền. CONRAD HABICHT (1876-1958): Nhà toán học và nhà phát minh nghiệp dư. Ông là thành viên của bộ ba thảo luận có tên “Hội nghiên cứu Olympia” ở Bern và cũng là người nhận được hai bức thư nổi tiếng của Einstein năm 1905 báo trước về những bài nghiên cứu sắp tới. WERNER HEISENBERG (1901-1976): Nhà vật lý người Đức. Là người tiên phong trong lĩnh vực cơ học lượng tử, ông đã đưa ra công thức cho nguyên lý bất định mà Einstein phản đối suốt nhiều năm liền. DAVID HILBERT (1862-1943): Nhà toán học người Đức, chạy đua với Einstein nhằm tìm ra các phương trình toán học cho thuyết tương đối rộng năm 1915. BANESH HOFFMANN (1906-1986): Nhà toán học và nhà vật lý cộng tác với Einstein ở Princeton, sau đó viết một cuốn sách về Einstein. PHILIPP LENARD (1862-1947): Nhà vật lý người Đức gốc Hungary có các quan sát thí nghiệm về hiệu ứng quang điện được Einstein giải thích trong bài nghiên cứu về lượng tử ánh sáng năm 1905. Ông trở thành một người bài Do Thái, theo Đảng Quốc xã và ghét Einstein. HENDRIK ANTOON LORENTZ (1853-1928): Nhà vật lý thiên tài và thông thái người Hà Lan, ông có các học thuyết mở đường cho thuyết tương đối hẹp của Einstein. Đối với Einstein, ông như một người cha. MILEVA MARIć (1875-1948): Sinh viên vật lý người Serbia theo học tại trường Bách khoa Zurich. Bà là người vợ đầu tiên của Einstein và là mẹ của Hans Albert, Eduard và Lieserl. Là một người sôi nổi, có nghị lực nhưng cũng cả nghĩ và hay buồn, bà đã vượt qua nhiều trở ngại mà một nhà vật lý nữ trẻ tuổi, nhiều khát vọng phải đối mặt. Bà ly thân với Einstein năm 1914 và ly dị năm 1919. ROBERT ANDREWS MILLIKAN (1868-1953): Nhà vật lý thực nghiệm người Mỹ. Ông là người xác nhận định luật hiệu ứng quang điện của Einstein, và cũng là người mời Einstein làm học giả thỉnh giảng tại Caltech. HERMANN MINKOWSKI (1846-1906): Thầy dạy toán cho Einstein tại trường Bách khoa Zurich. Ông xem Einstein là “kẻ lười biếng”, ông cũng chính là người xây dựng công thức toán học cho thuyết tương đối hẹp dưới dạng không-thời gian bốn chiều. GEORG FRIEDRICH NICOLAI (1874-1964): Sinh ra tại Lewinstein. Ông là một bác sỹ theo chủ nghĩa hòa bình. Ông cũng là một người có máu phiêu lưu đầy sức hấp dẫn và có tài tán tỉnh. Ông là bạn và là bác sỹ của Elsa Einstein. Có lẽ ông cũng là người yêu của Ilse, con gái Elsa. Ông đã cùng Einstein viết một bài tổng luận về hòa bình năm 1915. ABRAHAM PAIS (1918-2000): Nhà vật lý lý thuyết sinh ra tại Hà Lan. Ông trở thành đồng nghiệp của Einstein ở Princeton và là người viết tiểu sử khoa học cho Einstein. MAX PLANCK (1858-1947): Nhà vật lý lý thuyết người Phổ. Ông là người bảo trợ của Einstein thời gian đầu và giúp đưa Einstein về Berlin làm việc. Bản năng bảo thủ của ông, cả trong cuộc sống và trong vật lý, khiến ông có quan điểm khác với Einstein, nhưng họ vẫn là những đồng nghiệp nhiệt tình và trung thành với nhau cho đến khi Đức Quốc xã nắm quyền. ERWIN SCHRÖDINGER (1887-1961): Nhà vật lý lý thuyết người Áo. Ông là người tiên phong trong lĩnh vực cơ học lượng tử, ông đứng về phía Einstein và bày tỏ sự nghi ngại về bản chất của tính bất định và xác suất. MAURICE SOLOVINE (1875-1958): Sinh viên triết người Romania ở Bern. Ông cùng Einstein và Habicht lập ra nhóm “Hội nghiên cứu Olympia”. Ông xuất bản các công trình của Einstein bằng tiếng Pháp và trao đổi thư từ trong suốt đời mình với Einstein. LEÓ SZILÁRD (1898-1964): Nhà vật lý sinh ra tại Hungary. Ông là người có sức quyến rũ nhưng cũng có nét lập dị. Ông gặp Einstein ở Berlin, và được nhận bằng sáng chế cho chiếc máy làm lạnh chế tạo cùng Einstein. Nhận ra phản ứng dây chuyền của hạt nhân, năm 1939, ông cùng Einstein viết thư lên Tổng thống Franklin Roosevelt để cố thuyết phục Tổng thống chú ý đến khả năng chế tạo bom nguyên tử. CHAIM WEIZMANN (1874-1952): Nhà hóa học sinh ra ở Nga. Ông di cư sang Anh và trở thành Chủ tịch của Tổ chức Phục quốc Do Thái Thế giới. Năm 1921, ông đưa Einstein tới Mỹ lần đầu và dùng Einstein để tạo sức hút cho chuyến gây quỹ. Ông là Tổng thống đầu tiên của Israel, và Einstein đã được mời kế nhiệm vị trí này khi Weizmann qua đời. GIA ĐÌNH WINTELER: Einstein trọ tại gia đình này khi học ở Aarau, Thụy Sĩ. Jost Winteler5 là thầy dạy lịch sử và tiếng Hy Lạp của Einstein. Bà Rosa, vợ Winteler, đối với Einstein cũng như người mẹ thứ hai. Trong số bảy người con của họ, Marie trở thành bạn gái đầu tiên của Einstein, Anna lấy bạn thân nhất của Einstein là Michele Besso, và Paul cưới em gái Maja của Einstein. HEINRICH ZANGGER (1874-1957): Giáo sư triết học tại Đại học Zurich. Ông là bạn của cả Einstein lẫn Marić, và là người giúp hòa giải những mâu thuẫn cũng như đứng ra làm trung gian dàn xếp cho cuộc ly dị của họ.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Einstein Cuộc Đời Và Vũ Trụ PDF của tác giả Walter Isaacson nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cấu Trúc Của Các Cuộc Cách Mạng Khoa Học (Thomas S. Kuhn)
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ mười hai* của tủ sách SOS2, cuốn Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học của Thomas S. Kuhn. Cuốn sách này đã trở thành kinh điển từ lần xuất bản đầu tiên năm 1962. Bản dịch dựa vào bản xuất bản lần thứ ba năm 1996. Đây là một cuốn sách về triết học khoa học, phân tích cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học, cấu trúc các cộng đồng khoa học, sự phát triển của khoa học. Ông phân sự phát triển của các khoa học thành các giai đoạn tương đối “ổn định” mà ông gọi là khoa học thông thường, bị ngắt quãng bởi các thời kì được gọi là cách mạng khoa học. Trong khoa học thông thường về cơ bản không có cạnh tranh, các nhà khoa học tiến hành công việc khoa học như việc giải các câu đố. Khi các dị thường (sự không khớp giữa các tiên đoán và quan sát) xuất hiện, các nhà khoa học thường tìm cách giải quyết nó, và thường thành công. Tuy vậy có các dị thường có thể gây ra khủng hoảng. Khoa học khác thường nổi lên trong các giai đoạn như vậy. Nảy sinh nhiều trường phái khác nhau. Vì có tự do tư duy và cạnh tranh, thường chỉ có một trường phái duy nhất sống sót, và khoa học lại bước vào pha khoa học thông thường mới. Tuy ông lấy các thí dụ chủ yếu từ lĩnh vực vật lí học, cuốn sách đề cập đến khoa học nói chung, và chủ đề của nó càng có ý nghĩa đối với các khoa học xã hội, các khoa học “chưa” thật “trưởng thành”. Khái niệm paradigm do ông đưa ra được thảo luận chi tiết trong cuốn sách này. Theo từ điển các từ Việt Nam tương ứng với paradigm là mẫu, mô hình. Do chưa có thuật ngữ Việt thống nhất tương ứng, chúng tôi tạm dùng từ “khung mẫu” để chỉ khái niệm này. Khung mẫu là cái mà một cộng đồng khoa học chia sẻ, là hình trạng (constellation) của các cam kết của một cộng đồng khoa học, là mẫu dùng chung của một cộng đồng khoa học. Có lẽ nên dùng nguyên paradigm thay vì “dịch” ra tiếng Việt. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc thường chỉ phiên âm các khái niệm mới, không đặt vấn đề “dịch” khái niệm ra tiếng mẹ đẻ vì việc dịch như vậy là không thể làm được và không có ý nghĩa [ma trận xuất phát từ matrix phiên âm qua tiếng Trung Quốc là một ví dụ khá quen thuộc]. Trong bản dịch này khung mẫu không phải là từ “được dịch” của paradigm, nó là một từ được dùng để chỉ khái niệm paradigm. Bạn đọc đừng bận tâm paradign, khung mẫu, matrix, ma trận “có nghĩa” là gì, chúng chỉ là những cái tên, các nhãn của các khái niệm. Tìm mua: Cấu Trúc Của Các Cuộc Cách Mạng Khoa Học TiKi Lazada Shopee Phải tiếp cận với các khái niệm trước và sau đó dùng các tên hay các nhãn như vậy để gọi chúng. Ta sẽ bắt gặp thêm các khái niệm như cộng đồng khoa học, cách mạng khoa học, khoa học thông thường, khoa học khác thường, v.v. trong cuốn sách này. Tất nhiên trong một cộng đồng ngôn ngữ việc thống nhất tên gọi của các khái niệm là hết sức quan trọng.Cuốn sách sẽ bổ ích cho các triết gia, các nhà sử học, các nhà khoa học (tự nhiên và xã hội), các sinh viên, và tất cả những ai quan tâm đến khoa học, đến sáng tạo. Người dịch đã cố hết sức để làm cho bản dịch được chính xác và dễ đọc, song do hiểu biết có hạn nên khó thể tránh khỏi sai sót. Phần chỉ mục nội dung, ở mỗi mục chính, có kèm theo thuật ngữ tiếng Anh để bạn đọc tiện tham khảo. Mọi chú thích của tác giả được đánh bằng số. Tất cả các chú thích đánh dấu sao (*) ở cuối trang là của người dịch. Trong văn bản đôi khi người dịch có đưa thêm từ hay cụm từ để cho câu được rõ nghĩa, phần đó được đặt trong dấu [như thế này].Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cấu Trúc Của Các Cuộc Cách Mạng Khoa Học PDF của tác giả Thomas S. Kuhn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kể Chuyện Về Kim Loại Hiếm Và Phân Tán (X. I. Venetxki)
Đọc cuốn sách này, các bạn sẽ được biết:về những kho báu được khám phá trong thời đại chúng ta và cuốn sổ đen bằng chứng ghi nhận một chiến công khoa học vĩ đại;về món thưởng khổng lồ do Napoleon hứa hẹn nhưng rốt cuộc chẳng ai được hưởng và việc những đống đá cũ vô tích sự đã trở thành thực sự vô giá như thế nào;về mẩu tin lạ kỳ đăng trên báo đã làm hại thanh danh của một nhà hóa học Anh và bí quyết ngọn lửa đó bị những người tư tế Bengali giấu kín;về nguyên tố đã biến mất trên hành tinh chúng ta tương tự các loài khủng long và những hợp kim hiện chưa ai biết do máy tính điện tử dự đoán; Tìm mua: Kể Chuyện Về Kim Loại Hiếm Và Phân Tán TiKi Lazada Shopee về vụ mất cắp mà chắc gì Serlok Honmxơ đã khám phá ra nổi và dự đoán do Agata Krixi đưa ra;về việc đã xác định được niên đại của đá nham thạch có như thế nào và về một làng nhỏ Thụy Điển có thể làm những quốc gia lớn phải ganh tị;về những kim loại và hợp kim được “lệnh” vào vũ trụ để tiến hành các thí nghiệm quan trọng, và về “bộ ria mép” đã trở thành mốt;về đợt kiểm tra nghiêm ngặt mà nhờ thế đã khám phá được một nguyên tố hóa học mới, và về đám mây kim loại trên bầu trời Côlumbia;về “nỗi giận” lớn do “người cha đỡ đầu” gây ra đối với một kim loại quý và những “tấm danh thiếp” đẹp của các nguyên tố;về sự giúp đỡ của một số kim loại đối với các nhà hình pháp học và về nhiều cái khác nữaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kể Chuyện Về Kim Loại Hiếm Và Phân Tán PDF của tác giả X. I. Venetxki nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.