Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Mưa - Nevil Shute

Tác giả Nevil Shute đã mất năm 1960, nhưng dự báo của Ông về một nước Anh hùng cường trong Khối Thịnh Vượng Chung đã thấy rõ. Đấy cũng là nhờ sự đóng góp tích cực của Vương Triều qua hình ảnh sống động, đầy gan dạ, mưu trí và đầy lòng nhân đức của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị và lòng trung thành của người dân Anh trong 50 năm qua, trước bao thử thách. Câu chuyện tình lãng mạn của một phi công người Úc lai một phần tư da đen với cô thư ký của Nữ Hoàng, tuy có hơi ước lệ trong khung cảnh của Hoàng Gia, nhưng đầy kịch tính của một xã hội nền nếp, gia phong của nước Anh, cộng với sự khoáng đạt, đầy nhiệt tình của một nước Úc đang trên đà phát triển. Chọn tác phẩm “Mùa Mưa” (In the wet) để dịch, Tôi muốn kêu gọi lòng thương yêu, đùm bọc trong Hoàng Gia Nguyễn Phước trước những thành quả lịch sử hết sức vĩ đại của Tiên Đế. Còn gì nữa mà chia năm xẻ bảy, còn gì nữa mà tranh phần, đoạt lợi, để con cháu nghìn đời mai mỉa !. Tôi lại muốn kêu gọi sự đoàn kết tôn giáo để nhân loại tránh đi bao nỗi thống khổ, chết chóc triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp bằng một vị Cha Xứ của Thiên Chúa Giáo La Mã và một Mục Sư Tin Lành đều được người dân Úc trọng nễ như nhau như là những vị Thừa Sai của Chúa mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra trong một xã hội dân chủ pháp trị, thì quyền bầu cử của người dân là quan trọng hơn cả, nó định đoạt tương lai và vận mạng của một dân tộc. Vậy 7 quyền bấu cử Quốc Hội của nước Úc cũng đáng cho ta học hỏi, rút kinh nghiệm để làm cho đất nước phồn vinh. Và nếu chúng ta có được cái “Tâm Bồ Đề”, tâm Từ Vô Lượng, quả đất này sẽ không còn cảnh tranh bá đồ vương, tàn sát lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng một “thiên đàng hạ giới”, cõi Nát Bàn ngay trong tim mình. *** Trước đây tôi chưa bao giờ chịu khó ngồi viết những chuyện dài dòng như thế này, tuy cũng đã viết nhiều những bài giảng đạo hay những đề tài khác cho các tạp chí trong họ đạo. Nói thật tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện hay cần viết dài hay ngắn như thế này cho thích hợp, nhưng chẳng có ai ngoài tôi ra đọc truyện này nên chẳng lấy đó làm quan trọng. Tuy vậy, sự thật là tôi cũng đã băn khoăn lo nghĩ từ khi ở Blazing Downs trở về nên cũng thường xuyên bị mất ngủ và không thể làm việc hết mình cho họ đạo, tuy rằng các buổi lễ ở nhà thờ vẫn tiến hành như thường lệ và máy móc. Tôi nghĩ rằng nếu cố gắng viết ra thì tâm hồn cũng nhẹ nhõm phần nào, điều mà từ lâu tôi vẫn đè nặng trong tâm tư, hơn nữa, sau khi viết, tôi sẽ gởi cho ngài Giám mục đọc qua. Điều băn khoăn của tôi, có lẽ tôi cảm thấy mình càng ngày càng già đối với công việc của họ đạo có hơi kỳ lạ này và điều đó chứng tỏ là trường hợp này tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì khi bề trên đã quyết định. Viết tư liệu không phải dễ dàng gì ở nơi đây vì Landsborough là một thị trấn nhỏ. Chốc nữa tôi sẽ đi xuống cửa hàng sách Duncan để mua ít giấy viết, nhưng cửa hàng chỉ có những tập giấy mỏng để viết thư và những tập vở mà cô giáo Foster dùng cho các học sinh lớn tuổi hơn khi các em đã qua thời kỳ dùng bảng viết. Tôi mua sáu tập và hy vọng còn cần nhiều hơn nữa khi đã viết xong những điều cần nói ra, nhưng trong cửa hàng chỉ còn vỏn vẹn chín tập vở nên không muốn làm họ kẹt. Tôi đã yêu cầu họ mua thêm, và họ đã đặt hàng ở Townsville, chuyến máy bay tuần tới mới có. Để trung thực với những ai đọc tác phẩm của tôi viết, tôi nghĩ là nên nói thật về mình, ngõ hầu sẽ được đánh giá chính xác và có được tín nhiệm về những điều tôi viết hay không. Tôi tên là Roger Hargreaves, đã được thụ phong mục sư thuộc giáo hội nước Anh bốn mươi mốt năm qua, tháng trước đây tôi đã qua tuổi sáu mươi ba. Tôi sinh năm 1890 ở Portsmouth thuộc miền Nam nước Anh và đã tôt nghiệp trường cấp ba Portsmouth. Tôi đã được thụ phong vào năm 1912 và trở thành mục sư của nhà thờ Thánh Mark, thành phố Guildford. Năm 1914, thế chiến bùng nổ, tôi vào quân đội với chức vụ Tuyên uý. Tôi đã làm chủ lễ ở Gallipoli và ở Pháp. Trong chiến tranh tôi rất may mắn, bởi vì tuy bị một quả pháo dập ở Delville Wood trong suốt cuộc chiến Somme, tôi chỉ nằm bệnh viện vài tuần lễ và chỉ bốn tháng sau là trở ra tiền tuyến ngay. Sau chiến tranh tôi vẫn chưa có chỗ cố định và không muốn trở về với công tác giáo xứ trong một thị trấn nước Anh. Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, chưa có gia đình và cũng chẳng có gì phải vướng bận nhiều khiến giữ chân tôi ở lại Anh. Theo tôi trong lúc còn trẻ trung và sức lực cũng nên hiến cuộc đời mình cho việc phụng vụ đến nhiều nơi khó khăn hơn và sau khi thảo luận với cha Giám mục, tôi sang Uùc theo chương trình huynh đệ Bush ở Queensland. Tôi đã phục vụ cho chương trình này bốn mươi năm, đi lại rất nhiều nơi từ Cloncurry đến Toowoomba, từ Birdsville đến Burdekin. Trong suốt mười bốn năm, tôi chưa có chỗ ở cố định và thường không ngủ quá hai đêm ở cùng một nơi. Chương trình huynh đệ này trả cho tôi mỗi năm năm mươi Anh kim, số tiền này cũng đủ để may mặc và chi tiêu cá nhân. Tôi cũng được cung cấp một số tiền nhỏ để chi phí cho việc đi lại nhưng tôi chưa phải dùng tới. Dân chúng ở vùng xa xôi hẻo lánh hầu hết đều có lòng tốt muốn giúp tôi đi lại từ nơi này đến nơi khác trong các lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi hay ma chay. Họ thường lấy xe hơi chở tôi đến một địa điểm tiếp theo. Vào mùa mưa, khi ngập bùn, xe hơi không đi được, họ lại cho tôi mượn một con ngựa, khoảng chừng ba tháng để tôi có tiếp tục công việc cho hết mùa mưa. Năm 1934 tôi bị đau ruột thừa ở một nơi tên là Goodwood gần Boulia; cách Longreach ba trăm dặm về phía tây có một bệnh viện. Vào thời ấy, chưa có bác sĩ lưu động bằng máy bay. Tôi được họ chở trên xe tải trong hai ngày. Thời tiết thì quá nóng nực, đường đi thì gập ghềnh, khó khăn lắm mới tới được bệnh viện. Đến được đấy, tôi bị viêm màng bụng và gần chết. Tôi nghĩ mình cũng sẽ chết thôi nếu không nhờ công ty xe hơi Billy Shaw ở Goodwood chở tôi chạy suốt đêm. Sau khi phẫu thuật, thằng tôi trông thật thảm thương và khó mà bình phục trở lại. Vì vậy tôi miễn cưỡng xin thôi việc chương trình huynh đệ và trở về nước Anh. Đức giám mục hết sức nhân từ và sắp xếp cho tôi một đời sống khá thoải mái ở nhà thờ Thánh Peter thuộc địa phận Godalming và tôi đã định cư ở đây, rồi kết hôn với cô Ethel. Những năm mới lập gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tôi đã dằn lòng chứ không đã viết ra tất cả. Ethel chết năm 1943, lúc chúng tôi chưa có con. Vào thời chiến, ở nước Anh, một mục sư có nhiều việc phải làm và tôi không cảm thấy tiếng gọi phục vụ quan trọng hơn khi chiến tranh chưa chấm dứt. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng miền Godalming cần một mục sư có gia đình hơn là một người goá vợ và còn rất nhiều miền ở Queensland cần một người đàn ông có kinh nghiệm như tôi, dầu người đó đã năm mươi sáu tuổi. Tôi đã từ bỏ giáo khu và trở lại Uùc như là một mục sư trên một chiếc tàu biển di dân, và tôi thật sự nhận ra rằng chương trình huynh đệ còn muốn nhận tôi trở lại công tác dầu tôi đã lớn tuổi. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng nhận ra rằng công tác ở vùng xa xôi hẻo lánh dễ hơn nhiều trước đây mười năm. Chiến tranh đã làm đường sá thay đổi và cải tiến, có một điều là các đài thu và phát vô tuyến đã được sử dụng đại trà ở các nhà ga xa xôi hẻo lánh, do đó sự liên lạc đã dễ hơn nhiều. Điều quan trọng hơn cả là đã có nhiều người sử dụng máy bay, hầu như đâu cũng có phi trường, và những dịch vụ cho khách thường xuyên đã được mở. Tất cả những sự cải tiến này đã tạo thuận lợi cho một vị mục sư muốn phục vụ hết mình cho các tín đồ hơn là trước đây. Tôi cũng nhận ra rằng nhiều nơi ở trong quận của tôi ở có thể đến thăm dễ dàng, có thị trấn cứ sáu tháng tôi có mặt một lần, khác với trước đây phải mất hai năm mới tới được một lần như lúc tôi mới đến nước Úc lần đầu. Năm 1950 ở xứ Tân Guinea bị khan hiếm trầm trọng các nhà truyền giáo. Có một lúc người ta bỏ đi hay vì bệnh tật nên chỉ còn một mục sư của Giáo hội nước Anh ở đấy mà phải phục vụ một miền rộng một trăm tám mươi mốt ngàn dặm vuông ở Papua và lãnh thổ Ủy trị. Hình như tôi cũng đã nghĩ đến những nhu cầu quá lớn của họ so với nhu cầu ở Queensland và được sự thoa? thuận của chương trình huynh đệ, tôi đã tự nguyện đi đến đó một vài tháng để giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn. Khi tôi đi máy bay đến cảng Moresby, tôi đã năm mươi chín tuổi, đối với công việc như thế này, tôi cảm thấy mình quá già, vì chẳng có ai khác dám đi. Trong một năm, tôi đã đi đến nhiều nơi trong xứ, từ con sông Fly đến Rabaul, từ các mỏ vàng ở Wau đến các đồn điền Samarai. Bây giờ tôi mới lo là mình quá bất cẩn không mang theo Paludrine vì vào tháng chín năm 1951 tôi bị bệnh sốt rét nặng ở Saramaua và phải nằm viện đến mấy tuần lễ ở cảng Moresby, do đó cũng chấm dứt luôn công tác của tôi ở Tân Guinea. Sở dĩ tôi nói đến chứng sốt rét bởi vì sau này tôi còn bị tái đi tái lại nhiều lần nữa, tuy có phần nhẹ hơn. Có một địa điểm mà trong các phần này tôi đã nói đến. Có người nói với tôi rằng khi chứng sốt rét đã bị một lần, vài năm sau có thể bị tái lại, trước khi dứt hẳn và lần tái phát này không mấy trầm trọng như cơn bệnh tôi đã bị lần đầu ở Salamaua. Tôi cũng biết là mình điều hành công việc tạm ổn tuy đang bệnh; nhất là vấn đề đi lại, có khi tôi cũng hoãn hành lễ trong một ngày và nằm cho mồ hôi toát ra. Tuy nhiên cơn đau đầu tiên quá nặng làm tôi yếu người hẳn đi, nên rời bỏ Tân Guinea mà chẳng mấy tiếc nuối, để trở về sống với các bạn hữu ở trên đồi Atherton Tableland phía sau Cairns thuộc miền Bắc Queensland, mong bình phục và khỏe mạnh trở lại. Đức Giám mục vào thời ấy, vẫn đi lại đều trong Quận và Ngài đã viết thư đề nghị là sẽ đến thăm tôi và bàn bạc những chuyện mà tôi thấy chưa xứng đáng được Ngài quan tâm như thế. Tôi đi xuống Innisfail để gặp Ngài ở đấy vì tôi cảm thấy đã bình phục nhiều. Qua câu chuyện thân mật, Ngài đã đề cập đến tuổi tác của tôi và mong muốn tôi tiếp tục làm việc nhưng ít năng nổ hơn. Ngài nói là Ngài nóng lòng mở lại nhà thờ Giáo xứ Landsborough và muốn cử một Mục sư lo việc họ đạo tại địa phương. Ngài đã đề cập đến kinh nghiệm của tôi ở vùng nông thôn và hỏi nếu tôi bằng lòng sẽ cử tôi đến đấy vài năm để xây dựng lại tinh thần Giáo hội ở trong Quận ấy. Ngài cũng không mong tôi đi hết họ đạo rộng gần hai mươi tám ngàn dặm vuông, trong một vùng mà dân cư thưa thớt, vì Ngài hy vọng trong một năm thôi là có một mục sư trẻ về thay thế. Dĩ nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề khó khăn cho nhà thờ, nhưng Ngài nói là sẽ gởi cho tôi một chiếc xe tải trong vài tháng tới, mặc dầu nó đã hơi cũ. Xe chẳng thấy tới, nhưng tôi đã điều hành tốt mà không có xe. Landsborough là một thị trấn nằm phía trên vịnh Carpentaria, người ta thường gọi là Gulf Country. Cách đây năm mươi năm, thị trấn rộng hơn bây giờ. Thời săn vàng bùng nổ, cả thị trấn có chừng hai mươi lăm khách sạn, hầu hết là quán nhậu, nhưng bây giờ chỉ còn lại hai. Có chừng tám mươi cư dân da trắng ở đấy gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em và một số dân da đen độ hai ba trăm người trồi sụt bất thường, họ sống trong điều kiện đáng thương, trong các túp lều che bằng các tấm sắt rỉ, ở ngoại ô thành phố. Nơi ấy cách Cloncurry hai trăm dặm và cách Cairns và thị trấn Townsville về phía biển năm trăm dặm bằng đường hàng không. Ở đấy có một bệnh viện điều hành bởi hai chị em cô y tá và một nhà riêng cho bác sỹ mặc dầu từ trước tới giờ chẳng có bác sỹ nào bị lôi cuốn về thực tập ở đấy. Gặp trường hợp khẩn cấp, người ta gọi về Cloncurry và bác sỹ cứu hộ sẽ đến bằng máy bay. Trong chiến tranh người ta xây ở đấy một phi trường thật tốt và mỗi tuần một lần cũng có máy bay chở thư và đồ tiếp tế đến. Nhà thờ ở Landsborough thuộc loại kiến trúc rất đơn giản, phía ngoài đóng bằng cây, mới được xây dựng lại cách đây ba mươi năm sau một vụ cháy rừng. Tôi thấy nhà thờ được trang bị quá sơ sài nên định bụng nếu nhận được chút ít tiền là tôi sẽ sơn trong và ngoài luôn thể. Nhà thờ chỉ có ghế dựa chứ không có ghế dài hành lễ và đây cũng có cái lợi vì cứ hai hay ba tháng một lần, chúng tôi có đoàn chiếu bóng lưu động ở Landsborough và chúng tôi có thể đem những ghế dựa này ra khỏi nhà thờ đặt trong sảnh Shire hay trước sân nhà sách Duncan vào mùa nắng. Cá nhân tôi cũng thấy tiện lợi nữa, vì trong tòa Cha sở chẳng có ghế bàn gì cả, nếu có ai đó muốn đến gặp tôi, tôi có thể đến nhà thờ mượn ghế và trả lui cho buổi lễ sau. Cả nhà thờ và tòa Cha sở chẳng được ai ngó ngàn tới, bởi vì vị mục sư cuối cùng bị rắn cắn chết năm 1935 và từ đấy chẳng có mục sư sở tại nào ở Landsborough cho tới khi tôi tới nhận việc vào mùa thu 1952. Dĩ nhiên, nhà thờ thỉnh thoảng cũng được sử dụng để làm lễ do các Mục sư vãng lai. Còn chính bản thân tôi sử dụng nhà thờ trong rất nhiều dịp khi tôi có mặt ở trong Quận, để mong tìm hiểu những gì thuộc địa phương Landsborough. Tôi rất hoan hỉ được đi trên đó, bởi vì tùy theo những chuẩn mực của nước Anh, nhưng không còn nhiều đối với một giáo xứ. Có lẽ theo chuẩn mục của nước Anh, tôi không mấy giống một mục sư. Theo tôi đó là một nơi tôi có thể tiếp tục tiến hành công tác đã quen thuộc và cũng từ đấy tôi có thể góp nhặt một số sách mới, cũng như được sống thoải mái và tương đối tiện nghi. Dầu cho đã trình bày với đức Giám mục, tôi cũng phải nhận ra rằng, cá nhân tôi không còn là người đàn ông trước khi bị bệnh sốt rét. Tôi hy vọng cơn bệnh sẽ qua đi và thể lực sẽ được phục hồi. Tôi hy vọng như thế vì có quá nhiều việc để làm mà quỹ thời gian chẳng còn bao năm nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa của tác giả Nevil Shute.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hỡi Người Tình
Luật sư trẻ Hàn Đinh dính sét ái tình ngay từ buổi đầu gặp gỡ cô người mẫu La Tinh Tinh - con gái rượu của ông La Bảo Xuân, giám đốc một nhà máy chế dược. Vụ án điều tra đầy rắc rối quanh cái chết của Tứ Bình, nữ công nhân trong nhà máy, cùng cái chết bất ngờ của ông La đã đẩy Hàn Đinh và La Tinh Tinh xích lại gần nhau. Tình yêu của Hàn Đinh thực sự bị thử thách khi La Tinh Tinh khẩn cầu anh làm luật sư biện hộ cho Long Tiểu Vũ - người yêu cũ của cô khi Tiểu Vũ bị tình nghi giết Tứ Bình. Hàn Đinh đã thành công khi minh oan cho Long Tiểu Vũ, nhưng đồng thời anh cũng mất luôn La Tinh Tinh. Tuy nhiên, mọi chuyện vẫn chưa dừng ở đó... Tiểu thuyết "Hỡi người tình" của nhà văn Hải Nham - người được mệnh danh là tiểu thuyết gia ăn khách nhất Trung Quốc. Tiểu thuyết này đã được chuyển thể thành phim truyền hình 21 tập cùng tên năm 2003. Bộ phim đã được dựng lại vào năm 2009 bởi đạo diễn Kiều Lương. *** Đây là lần đầu tiên sau hai mươi năm có mặt trên đời, Hàn Đinh nhìn thấy tận mắt cảnh máu đổ. Dù rằng vết dao rõ mồn một, dù rằng máu đã chảy, nhưng cảnh tượng lưu lại trong đầu anh lại có cảm giác thật êm dịu. Nét mặt Long Tiểu Vũ an lành, giống như vừa đi vào giấc ngủ. Sắc mặt anh ta tái nhợt, không một sắc hồng của máu, nhưng lại sống động lạ thường. Đầu anh ta gối lên hai đầu gối mẹ Tứ Bình, mặc cho người đàn bà hiền từ ấy nhẹ nhàng vuốt mái tóc đen nhánh trên trán anh ta. Tất cả mọi người có mặt đều nhón chân thật khẽ. Im lặng. Đến ngay cả La Tinh Tinh cũng kìm nén tiếng thổn thức, cơ hồ sợ nó sẽ làm kinh động đến giấc ngủ của Long Tiểu Vũ. La Tinh Tinh nhẹ nhàng ngồi xuống, đỡ lấy cánh tay anh ta. Máu thi thoảng vẫn túa ra từ vết cứa sâu hoắm. Nàng như không nhìn thấy Diêu Đại Duy đang lấy tay tìm mạch ở cổ Long Tiểu Vũ, như không nghe thấy tiếng trầm buồn của Diêu Đại Duy khi ông ta tuyên bố đương sự đã chết. Nàng từ từ gỡ bàn tay Long Tiểu Vũ đang nắm chặt. Trong lòng bàn tay dính đầy máu ấy là vòng ngọc trai trắng muốt lạnh như băng được điểm xuyết một viên ngọc màu xanh! Nhân viên mặc thường phục bước tới, đỡ lấy mẹ Tứ Bình. Khi được cõng ra khỏi căn phòng, sắc mặt bà ta hoảng hốt, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Sau đó, họ đỡ La Tinh Tinh dậy. Hàn Đinh định bước tới đón La Tinh Tinh, nhưng bị tấm lưng to bè của một nhân viên công an lực lưỡng ngăn lại. Căn phòng nhỏ bé quá. Anh với nàng gần nhau trong gang tấc, nhưng lại bị ngăn cách bởi một bức tường người. Anh nhìn họ bế La Tinh Tinh - khi ấy đã ngất xỉu - ra khỏi căn gác xép đầy mùi tanh của máu. Anh định gọi tên nàng, nhưng giọng nói chưa kịp phát ra, đã bị Diêu Đại Duy vỗ vào vai từ phía sau. - Đi thôi. Hiện trường cần được bảo vệ. Cậu để lại bao nhiêu vết tích tại hiện trường mà cũng không sợ chúng tôi nghi ngờ cậu là hung thủ ư? Hung thủ? Tôi liệu có thể là hung thủ? Một tiếng sau. Tại trụ sở công an Thiệu Hưng, Hàn Đinh đã làm xong biên bản xét hỏi. Sau khi ký tên mình vào trang đầu tiên của tờ biên bản, anh hỏi Diêu Đại Duy - người đã xét hỏi anh: - Nếu Long Tiểu Vũ bị giết, và em lại để lại hiện trường quá nhiều những vết giày và vân tay, liệu em có trở thành nghi phạm? Mời các bạn đón đọc Hỡi Người Tình của tác giả Hải Nham.
Thoát Đến Phương Tây
Chung khảo Man Booker Prize 2017 Trong một thành phố bất ổn, giữa một quốc gia chực chờ bùng phát nội chiến, hai người trẻ phải lòng nhau: Nadia, dưới lớp áo choàng phủ kín từ đầu đến chân, là một cô gái độc lập và nổi loạn; Saeed trí thúc, nhẹ nhàng và truyền thống. Hỗn loạn và bạo lực bùng vỡ cũng là lúc bắt đầu dậy lên tin đồn về những cánh cửa có thể đưa người tị nạn vượt thoát sang một nơi khá  Thoát Đến Phương Tây theo bước hành trình của Nadia và Saeed xuyên qua các cánh cửa, vượt không gian và thời gian, đến những nơi chốn xa lạ và một tương lai bất định, để kể lại một câu chuyện tình yêu đầy hy vọng, trắc ẩn và nhân bản. Thoát Đến Phương Tây được The New York Times Book Review bình chọn là một trong mười cuốn sách hay nhất năm 2017. Thoát Đến Phương Tây không mở lối đến một xã hội lý tưởng, mà đến một tương lai gần, đến với những hình thù mờ ảo của những kẻ xa lạ mà chúng ta có thể thấy qua một ô cửa phía xa. Tất cả chúng ta có thể làm là bước qua ô cửa đó và gặp họ.  - Viet Thanh Nguyen, The New York Times Book Review Một trong những tiếng nói có tầm ảnh hưởng nhất đối với thời đại chúng ta. - India Today *** Ở một thành phố đang mưng mủ bởi vết thương của những người tị nạn nhưng vẫn giữ được vẻ yên bình, hay chí ít là chưa công khai nổ ra chiến tranh, một chàng trai trẻ đã gặp một cô gái trẻ tại một lớp học và không nói lời nào với cô ấy. Trong nhiều ngày liền. Anh tên là Saeed còn cô tên là Nadia. Anh có một bộ râu, không tới mức xồm xoàm mà như một hàm ria lởm chởm được tỉa tót công phu, còn cô luôn quấn quanh người một chiếc áo thụng đen buông dài từ yết hầu đến đầu ngón chân. Hồi đó, người ta ít nhiều vẫn được tận hưởng việc ăn mặc theo ý muốn, quần áo hay đầu tóc cũng vậy, mặc dù tất cả đều ở trong khuôn khổ nhất định, nên những lựa chọn bề ngoài này có ý nghĩa riêng đối với hai người họ. Có vẻ là một điều lạ lùng khi những người trẻ tuổi đang sống trong những thành phố chênh vênh bên bờ vực thẳm như thế này vẫn tới lớp – ở đây là một lớp học buổi tối về xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của doanh nghiệp – nhưng sự đời vốn vẫn thế, trong các thành phố cũng như trong cuộc sống; mới phút trước thôi chúng ta còn đang tất bật với những chuyện lẻ tẻ thường nhật, vậy mà ngay sau đó chúng ta đang nằm chờ chết; với lại, ngay cả cái kết luôn lơ lửng chờ đợi ấy cũng không làm trì hoãn những khởi đầu và phiêu du trong cuộc đời chúng ta cho tới khi nó xảy ra. Saeed phát hiện một vết chàm duyên dáng trên cổ Nadia, một đốm hạt xoàn màu nâu ngả vàng thỉnh thoảng vẫn di chuyển lên xuống theo nhịp thở của cô, dù không phải lúc nào cũng thế. Không lâu sau khi nhận ra điều này, Saeed bắt chuyện với Nadia lần đầu tiên. Vẫn chưa có một trận oanh tạc nào xảy ra trong thành phố của họ, ngoại trừ vài vụ xả súng và một cuộc đánh bom xe ô-tô. Trong khi lồng ngực của dân chúng rung nhẹ lên bởi những tiếng nổ thưa thớt như tiếng vang dưới âm tốc từ những cái loa ngoại cỡ dùng trong các buổi diễn âm nhạc, Saeed và Nadia đã thu dọn xong sách vở và đang trên đường rời lớp học. Trên cầu thang, anh quay về phía cô và hỏi, “Nghe này, em có muốn đi uống một ly cà-phê,” và sau một quãng dừng ngắn ngủi, nói thêm vào như để làm cho lời mời bớt vẻ suồng sã trước bộ trang phục kín đáo của Nadia, “ở căng-tin với anh không?” Mời các bạn đón đọc Thoát Đến Phương Tây của tác giả Mohsin Hamid.
Tư Duy Lại Nghệ Thuật Bán Hàng
Là một nhân viên bán hàng, mỗi ngày bạn đều phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi: - Tại sao tôi không thể có thời gian cho các khách hàng tiềm năng? - Tại sao tôi lại không thấy được những email và cuộc gọi quan trọng? - Làm sao xử lý với sự hạn chế của nhà cung cấp? - Làm sao để nổi bật so với những đối thủ cạnh tranh tương tự? … Câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ biến đổi từng ngày trong thị trường hiện đại. Tác phẩm “Tư duy lại nghệ thuật bán hàng” xuất hiện kịp lúc để giúp bạn thay đổi suy nghĩ và hành động, từ đó trở nên nổi bật, làm việc nhanh hơn và đạt được doanh số bán hàng lớn hơn. *** Mọi thứ bắt đầu từ đây T ôi viết cuốn sách này chỉ với một mục đích: thách thức bạn thay đổi hoàn toàn tư duy bán hàng truyền thống. Bằng cách bỏ qua những tư duy thông thường trong môi trường bán hàng hiện nay, thay thế bằng những phán đoán phi thường, bạn sẽ trở nên nổi bật và đạt được những hợp đồng có giá trị hơn. Tôi thành lập doanh nghiệp của mình vào năm 2002 – một việc làm khá ngu ngốc vào thời điểm đó. Bong bóng dot-com nổ tung và sự kiện 11/9 làm rung chuyển cả hành tinh. Thế giới chìm sâu vào hỗn loạn và bất ổn. Nhưng vì sứ mệnh của mình, tôi đã làm việc, dẫn dắt và cố vấn cho những người bán hàng trong suốt hai thập kỷ. Và tôi đã nhận thấy: khi những tiến bộ công nghệ thay đổi cách con người giao tiếp, kinh doanh và mua bán, những người bán hàng tài năng và những chủ doanh nghiệp lại lao vào ngõ cụt. Giới kinh doanh đã thay đổi, còn họ thì không. Tua nhanh đến năm 2017. Ngày nay, không hề thiếu những cuốn sách, bài giảng online, trang blog, đồ họa, video, trang web hướng dẫn, giải thích từng bước phức tạp của nghệ thuật bán hàng hay dạy về social selling*. Nhưng vẫn còn thiếu thứ gì đó. Vì, dù có hàng trăm lời khuyên, tôi vẫn tiếp tục phải nghe những câu hỏi giống nhau của những người bán hàng từ mọi ngành công nghiệp trên khắp thế giới: * Social selling: hình thức bán hàng bằng tài khoản cá nhân trên mạng xã hội. • Làm thế nào để trở nên thật nổi bật nếu đối thủ cũng cung cấp lợi ích như tôi? • Làm thế nào để tiếp cận khách hàng nhanh hơn? • Làm thế nào để quá trình tìm kiếm khách hàng tiềm năng** dễ dàng hơn? Và làm thế nào khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy tôi? ** Tiếng Anh là: Prospecting process. • Làm thế nào để vượt qua những đối thủ đã có chỗ đứng trong giới? • Làm thế nào để tạo doanh thu từ những khách hàng tiềm năng? • Làm thế nào để bán được hàng mà không cần phải giảm giá sản phẩm? • Làm thế nào để có thể hoàn thành hết những điều quan trọng trên chỉ trong vòng 24 giờ một ngày? Tại sao những câu hỏi như thế này vẫn chưa được trả lời nhỉ? Khi mới vào nghề, hầu hết những lời khuyên bạn nhận được là: hãy tập trung vào việc bán “cái gì”. Chính suy nghĩ này đã tạo ra một thế hệ những người làm việc máy móc. Nhiều người trong số đó vốn rất thông minh nhưng lại đi làm những việc cực kỳ ngu ngốc. Và khi cấp trên yêu cầu gọi điện nhiều hơn, gặp mặt khách hàng nhiều hơn, nhanh nhanh chóng chóng chốt đơn hàng, mọi việc càng trở nên điên rồ. Những người khác thì chỉ đi theo một lối mòn, làm những điều quen thuộc, làm những điều đối thủ đã làm và nhầm tưởng con đường mòn ấy là đường chân trời. Cuốn sách này buộc những người bán hàng phải rời bỏ lối mòn. Nó đòi hỏi bạn phải suy nghĩ… và sau cùng là tư duy một cách khác biệt về những vấn đề cần giải quyết. Nó cung cấp lý do “tại sao”: Tại sao khó khăn này lại dai dẳng đến vậy, tại sao những giải pháp này không có tác dụng, vậy mà giải pháp khác lại hiệu quả. Và cung cấp phương thức “làm thế nào”: cách để làm việc thông minh hơn, cách đẩy nhanh tiến trình bán hàng trong thế giới nơi những người mua hàng đang đứng trước cơn sóng thần của vô số những lời mời chào, cố gắng ganh đua, giành lấy sự chú ý của họ. Một mặt, hỡi những người bán hàng, chúng ta chưa từng có cơ hội nào tốt đến vậy. Ta có một hệ thống các kênh xã hội giúp ta xác định, kết nối và tìm hiểu về những khách hàng tiềm năng. Công nghệ giúp lưu trữ, sắp xếp và tận dụng thông tin để phát triển phân khúc khách hàng hiện hành và tìm thêm những phân khúc mới. Mặt khác, khách hàng đang mất dần niềm tin vào những người bán. Email, những lời rao vặt khẳng định sẽ đem đến lợi nhuận, giảm thiểu chi phí hay nâng cao hiệu suất giờ đây bị xem như thư rác hoặc chiêu trò quảng cáo vô căn cứ. Nếu những khách hàng tiềm năng của bạn hài lòng với tình hình hiện tại, họ sẽ có nhiều cách để tránh tiếp xúc với bạn. Và nếu khách hàng cần một người bán, họ sẽ tự tìm hiểu, nói theo ngôn ngữ của chúng ta, họ sẽ tự thực hiện quá trình “rà soát đặc biệt”*. Dù đúng dù sai, họ sẽ có những phán đoán và ấn tượng nhất định về bạn, về công ty và sản phẩm của bạn trước khi bạn kịp nói gì. * Tiếng Anh là “due diligence”: Khái niệm dùng chung cho hoạt động khảo sát, thẩm định, đánh giá, phân tích một dự án, một hoạt động kinh doanh hoặc một hoạt động thực hiện trên cơ sở các tiêu chí đã đề ra từ trước. Bán hàng không phải là vấn đề gì quá to tát và trừu tượng. Nó là điều bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Vấn đề là nó khiến bạn tốn nhiều thời gian, công sức và tiền bạc vào những điều ngu ngốc. Hệ quả chính là chu trình bán hàng chậm*, những thương vụ đàm phán không đem lại lợi nhuận, thậm chí là thất bại. Tất cả những điều trên ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty bạn – và thu nhập của chính bạn. * Tiếng Anh là “slow sale cycle”. Cuốn sách này sẽ truyền tải đến bạn cách tư duy phản trực giác, chỉ ra sự sai lầm của câu nói “Always Be Closing” (Chốt giao dịch mọi lúc mọi nơi) và đem đến một kiểu bán hàng ABCs mới, có thể mang lại đơn hàng lớn nhanh hơn. Nó loại bỏ những câu nói rập khuôn hẳn kiểu “rao vặt thang máy”**, “giá trị độc đáo” và “kỹ thuật chốt đơn hàng” trong từ điển của những người bán hàng thông minh. Nó sẽ nhắc nhở bạn, dù cho công nghệ và các phương tiện truyền thông đang phát triển nhanh như thế nào, chính con người mới là nhân tố quyết định có mua hàng hay không. Và con người là những cá nhân cảm tính, khó đoán với nhiều quan điểm khác nhau. ** Thuật ngữ bán hàng: Tiếng Anh là “elevator pitches”, kỹ thuật chào hàng nhanh, gọn, nhằm nhanh chóng chốt đơn hàng. Cuốn sách này sẽ ném bạn vào hiện thực rằng, nếu bạn muốn vượt qua những thách thức trong nghề, bạn phải thay đổi tư duy. Mỗi phần của cuốn sách sẽ làm sáng tỏ những lý lẽ thông thường khiến những người bán hàng vô tình khiến những thách thức lớn nhất chồng chất thêm. Nó cũng truyền tải những suy nghĩ khác biệt và hành động thiết thực để thúc đẩy doanh số bán hàng. Cuốn sách này không nhằm mục đích thay thế hay đối đầu với những cuốn sách tuyệt vời viết về đề tài bán hàng khác. Điều tôi muốn là khiến những cuốn sách ấy trở nên có giá trị hơn sau khi bạn kết thúc cuốn sách này. Mục đích của nó là khơi gợi suy nghĩ và thúc đẩy hành động. Nó không tập trung vào quy trình bán hàng phức tạp hay đàm phán. Nếu những cuốn sách khác tập trung vào những thứ bạn “phải làm”, thì cuốn sách này nêu ra những điều bạn phải “làm ngược lại”. Bạn sẽ muốn đặt nó giữa mặt bàn, trên ghế hay trong xe ô tô, coi nó như một huấn luyện viên trong sự nghiệp. Nó sẽ thay đổi cách tư duy của bạn khi cần phải thực hiện một cuộc gọi chào hàng, cuộc hẹn đầu tiên với khách hàng hay trong một bài thuyết trình quan trọng. Chân lý cơ bản là: Thành quả có được là nhờ hành động. Hành động có được là do suy nghĩ. Khi bạn thay đổi cách suy nghĩ, bạn thay đổi kết quả - tất cả điều này chính là lẽ không thường. Tìm kiếm thành quả từ cuốn sách này Chúng ta đang sống trong thế giới của những đoạn video ngắn nhằm kích thích sự chú ý. Sự thật là khả năng tập trung của chúng ta chỉ tương đương một con muỗi mắt. Ta muốn tư duy khéo léo, nhưng ta cũng muốn tư duy thật nhanh. Vậy hãy tư duy thật đơn giản, thích hợp và khả thi. Và trên hết, hãy khiến chúng đem lại kết quả hữu hình. Và tôi viết cuốn sách này cho những con muỗi mắt. Mỗi chương với độ dài tầm vết muỗi cắn được viết bằng ngôn ngữ của bạn và được chứng minh bằng những câu chuyện về người tốt, người xấu và tên vô lại: người bán hàng chân chính, những con số thống kê đáng giật mình và những thành công có được nhờ thay đổi sự nghiệp. Đây là 5 mẹo để đảm bảo bạn sẽ nhận được điều gì đó từ cuốn sách này: Cài đặt lại Hãy đọc Chương 1 trước để cài đặt lại cách tư duy của bạn. Đọc nó với một cái đầu tò mò – tò mò về quan điểm, về cách thức bán hàng, và về công việc của chính bạn. Bạn sẽ không đồng ý với tất cả mọi thứ, vậy cũng không sao. Tôi sẽ chỉ yêu cầu bạn suy nghĩ thật kỹ về mọi ẩn ý đằng sau những con chữ trên trang giấy, trước khi lật sang những trang sau. Sau đó, hãy chuyển sang những chương khác, mang tư duy mới khi tìm hiểu về từng bước trong tiến trình bán hàng, và dừng lại ở Chương 8, chương sẽ đem lại tư duy quản lý thứ tài sản số một mà bạn sở hữu: bản thân bạn. Đọc lướt Tôi khuyến khích bạn đọc cuốn sách một lần từ đầu đến cuối, rồi lướt qua những chương có liên quan khi cần thiết. Gặp khó khăn khi tìm khách hàng tiềm năng? Nhảy qua Chương 2 và 3 để hiểu rõ mục đích của bản thân. Bị quá tải với khối lượng công việc? Ngụp lặn qua Chương 8 để lấy lại sự tập trung. Đang cần viết một bản kế hoạch đề xuất? Đọc lại Chương 5 trước khi thuyết phục khách hàng thất bại. Và nếu bạn cần thứ gì đó có căn cứ? Quay lại Chương 1 để tìm lại những điều không thường. Cam kết Hãy suy nghĩ về hoạt động bán hàng của bạn. Từ cuốn sách này, hãy chọn ra điều có thể đem lại nhiều lợi ích nhất, và cam kết thực hiện nó. Đừng thử làm mọi thứ, nếu không rốt cuộc bạn sẽ chẳng hoàn thành được thứ gì. Thiết lập một thói quen mới. Chỉ khi bạn thành thạo một nhân tố trong những lẽ không thường này thì mới được chuyển sang những nhân tố tiếp theo. Hứa hẹn Cam kết trước đông người giúp bạn có khả năng thành công cao hơn, vì thế hãy rủ bạn bè của mình. Rủ tất cả mọi người trong nhóm đọc cuốn sách này. Dùng những buổi gặp mặt cả nhóm để thảo luận một mẹo nào đó trong một trường hợp cụ thể ở ngoài đời. Lập ra thử thách hằng tháng cho nhóm. Và cùng nhau cam kết chia sẻ những câu chuyện thành công vào những buổi gặp mặt trong tương lai. Quay lại Ngày nay, bạn sẽ thấy rất nhiều cuốn sách đã lỗi thời ngay khi bạn truy cập trang web Amazon. Tôi không muốn cuốn sách này bị tác động bởi thời gian. Những điều đặc biệt và khác thường trong cuốn sách này sẽ còn tồn tại lâu hơn sự nghiệp của bạn. Vì thế, đừng quăng nó trên giá hay để nó nằm ngủ đông trên kệ tủ nào đó. Hãy coi nó như một huấn luyện viên cá nhân khi cần thiết. Một cuốn sách tự lực cho những siêu sao trong ngành bán hàng. Hãy quay lại đọc những trang sách này thật nhiều lần, cho đến khi những điều khác thường trong đây trở thành những thói quen hằng ngày của bạn. Hãy tận hưởng cuốn sách này nhé. *** Vì tính bảo mật và riêng tư nên tôi đã thay đổi tên một vài người bán hàng được nói đến trong những chương sau. Mời các bạn đón đọc Tư Duy Lại Nghệ Thuật Bán Hàng của tác giả Jill Harrington.
Tôi Đi Đây
“Tôi đi đây” là sự kết hợp của nhiều thể loại tiểu thuyết: hình sự với những pha giết người, bắt cóc; kinh dị với xác chết hồi sinh; phiêu lưu với chuyến hành trình kỳ quái lên Bắc cực và thể loại tiểu thuyết tâm lý với những kẻ luôn trốn chạy khỏi gia đình, công việc…   “Tôi đi đây” là lời chào từ biệt của một thể kỷ không có khả năng nhận biết được nó đang đi về đâu và thậm chí còn quên hỏi mình đi đâu. Đây là một cuốn tiểu thuyết hiện thực phản ảnh chúng ta đang mất khả năng nhìn nhận thực tế như thế nào và cuộc sống tuột khỏi chúng ta ra sao…” (Pierre Lepape – Le monde) để dẫn tới một kết luận rằng con người không thể nào trở nên nghiêm túc được khi lao vào những thói tự do quá trớn. *** Jean Echenoz, sinh năm 1947 , tại Orange. Jean Echenoz là một nhà văn người Pháp.   Các tác phẩm: - Ravel, 2006  - Au piano, 2003  - Jérôme Lindon, 2001  - Je m'en vais, 1999, Prix Goncourt 1999  - Un an, 1997  - Les grandes blondes, 1995  - Nous trois, 1992  - Lac, 1989  - L'occupation des sols, 1988  - L'équipée malaise, 1987  - Cherokee, 1983, Prix Médicis 1983  - Le méridien de Greenwich, 1979 *** Tôi đi đây là lời chào từ biệt của nhân vật Ferrer trong tác phẩm, đó cũng là lời chào thoái lui của dịch giả bất lực nhìn theo bản dịch bất thành! Tôi đi đây phải chăng cũng là lời chào thoái thác trách nhiệm của NXB Hội Nhà văn, sự quay lưng của độc giả Việt Nam với nền văn học Pháp? Ngày nay, chúng ta không còn ngạc nhiên trước một bản dịch có vấn đề nữa. Phần lớn những bản dịch ẩu được ký tên bởi những dịch giả trẻ, thiếu kinh nghiệm hoặc những người làm trái nghề (dịch giả tay ngang). Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy những bản dịch tương tự mà tác giả của nó là những dịch giả có tiếng, có nhiều kinh nghiệm. Đặc biệt đó là những bản dịch các tác phẩm lớn của thế giới. Bản Việt ngữ Tôi đi đây của Phạm Văn Ba dịch từ tiểu thuyết Je m'en vais của Jean Echenoz, tác phẩm đoạt giải Goncourt năm 1999, là một thí dụ tiêu biểu. Dịch giả Phạm Văn Ba sinh năm 1959. Tức là vào thời điểm bản dịch này được hoàn tất (2002), ông không còn trẻ nữa. Phạm Văn Ba đã từng du học ở Pháp, điều này cho ta giả thiết rằng ông không phải không biết tiếng Pháp và văn hóa Pháp. Việc ông đã từng đoạt Giải thưởng văn học dịch với bản dịch Les Yeux baissés (Đôi mắt nhìn xuống) của Tahar Ben Jelloun chứng tỏ ông là một dịch giả có tầm cỡ. Mà thông thường thì dịch giả tầm cỡ thường dịch các tác phẩm tầm cỡ. Có lẽ vì thế mà ông đã chọn dịch Je m'en vais của Jean Echenoz. Thế nhưng, tôi thật sự ngỡ ngàng khi đọc so sánh bản gốc và bản Việt ngữ của dịch giả này. Bản dịch này đầy rẫy những lỗi và lỗi. Những lỗi dịch này không phải do vô tình hay hữu ý mà do trình độ tiếng Pháp và văn hóa Pháp của người dịch chưa đúng tầm để dịch một tác phẩm văn học, để dịch một giải Goncourt lại càng không. Trước một bản dịch như vậy, tôi không thể làm gì khác là liệt kê ra đây những lỗi dịch tệ hại nhất khiến bạn đọc nào chỉ biết chút ít tiếng Pháp thôi cũng phải giật mình…   Mời các bạn đón đọc Tôi Đi Đây của tác giả Jean Echenoz.