Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của tác giả Paul R. Niven & Ben Lamorte.   Tóm tắt Cuốn sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của tác giả Paul R. Niven & Ben Lamorte là một cuốn sách hướng dẫn chi tiết về cách áp dụng phương pháp OKRs trong doanh nghiệp. Cuốn sách được viết bởi hai chuyên gia hàng đầu về OKRs, với hơn 40 năm kinh nghiệm tư vấn và đào tạo cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Review Trong phần giới thiệu, Mai Xuân Đạt, tác giả cuốn sách OKRs - Hiểu đúng, làm đúng và là người sáng lập cộng đồng VNOKRs, đã chia sẻ những trải nghiệm của mình khi áp dụng OKRs trong doanh nghiệp. Anh đã từng thất bại trong lần thử nghiệm đầu tiên, nhưng sau đó đã thành công khi áp dụng phương pháp OKRs theo cách thực tế hơn. Mai Xuân Đạt đánh giá cao cuốn sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của Paul R. Niven & Ben Lamorte. Anh cho rằng cuốn sách này cung cấp một cái nhìn toàn diện về OKRs, từ các nguyên lý cơ bản đến các phương pháp thực hành thực tế. Cuốn sách cũng được viết dưới dạng câu chuyện, giúp người đọc dễ hiểu và dễ áp dụng. Ưu điểm Cuốn sách cung cấp một cái nhìn toàn diện về OKRs, từ các nguyên lý cơ bản đến các phương pháp thực hành thực tế. Cuốn sách được viết dưới dạng câu chuyện, giúp người đọc dễ hiểu và dễ áp dụng. Cuốn sách được viết bởi hai chuyên gia hàng đầu về OKRs, với hơn 40 năm kinh nghiệm tư vấn và đào tạo cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nhược điểm Cuốn sách có thể hơi khó hiểu đối với những người chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quản trị. Một số thuật ngữ trong cuốn sách có thể còn lạ lẫm với người đọc Việt Nam. Kết luận Cuốn sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những người muốn hiểu rõ hơn về OKRs và áp dụng phương pháp này hiệu quả. Cuốn sách phù hợp với các nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp, nhân viên kinh doanh và những người quan tâm đến phương pháp OKRs.   *** OKRs MƠ MỘNG VÀ THỰC TẾ MAI XUÂN ĐẠT – VNOKRs Nhà sáng lập cộng đồng VNOKRs Tác giả cuốn sách OKRs – Hiểu đúng, làm đúng Mùa hè năm 2018, tôi bắt đầu áp dụng OKRs cho một trong những công ty nhỏ với 10 nhân sự của mình, cẩn trọng thử nghiệm trước khi quyết định ứng dụng rộng rãi phương pháp này cho tất cả công ty mà tôi sở hữu. Khi đó, những gì tôi có chỉ là một tập tài liệu khoảng 12-13 trang A4, được dịch từ trang web reWork của Google, nơi họ chia sẻ cách họ làm việc, bao gồm cả OKRs. OKRs trông khá đơn giản! Chúng tôi áp dụng việc họp hằng tuần, kiểm tra tiến độ công việc và tiến trình của các Kết quả then chốt cũng như Mục tiêu. Mọi công việc đều được hoàn thành đúng tiến độ, nhưng Mục tiêu vẫn rất xa xôi. Đây là bộ OKRs của một trong các dự án của chúng tôi (và đã sai rất nhiều!). a1 a2 Nhiều tuần, rồi nhiều tháng trôi qua, công việc cứ hoàn thành còn mục tiêu ngày càng xa. Tôi bắt đầu cảm thấy OKRs không hữu ích chút nào. Sau nửa năm, chúng tôi ngừng ứng dụng phương pháp này. “Chỉ là Mục tiêu và các Kết quả then chốt, OKRs đơn giản và không giúp ích được gì.” Một năm sau, tôi tình cờ đọc được cuốn Measure what matters (Làm điều quan trọng) của John Doerr – người đã mang OKRs đến với thế giới, từ Intel. Đáng lẽ tôi không đọc vì tôi ấn tượng không tốt với OKRs. Tuy nhiên, sau rất nhiều chuỗi sự kiện xảy ra, tôi đã đọc nó! Bằng tài kể chuyện của mình, John Doerr đã sáng tạo ra một thế giới đầy mơ mộng, đẹp đẽ và cuốn hút. Qua những câu chuyện mà ông kể về các doanh nghiệp, tổ chức đã ứng dụng OKRs, tôi hiểu rằng mình đã vội vàng và không hiểu đúng ở lần ứng dụng đầu tiên. OKRs rất sâu sắc và mạnh mẽ. Nhưng mơ mộng và đẹp đẽ, không đồng nghĩa với việc tôi sẽ thành công nếu muốn ứng dụng OKRs một lần nữa. Hàng tá câu hỏi cần giải đáp, vô số phân vân và lo ngại. Tôi vẫn không hiểu mình đã sai ở đâu. Điều đó khiến tôi chùn bước. Và khi tôi tìm được Paul Niven và Ben Lamorte, cùng Felipe Castro, tôi tìm được khía cạnh Thực tế của OKRs. Điều này không có nghĩa tôi cho rằng OKRs mà John Doerr chia sẻ là không thực tế, nhưng OKRs của Paul Niven, Ben Lamorte hay Felipe Castro gần hơn với những gì mà bản thân tôi (hay các doanh nghiệp Việt Nam nói chung) thường làm. Vào lúc đó, cuốn sách này chưa có mặt tại Việt Nam. Tôi tìm được OKRs “kiểu Paul – Ben” qua website okrs.com do Ben Lamorte thành lập. Những gì tôi đọc được qua trang web này là cách mà họ nhìn nhận về OKRs, khoa học và thực tế nhất có thể. Tôi hiểu rằng tôi đã làm sai như thế nào và tại sao các Kết quả then chốt của tôi hoàn thành nhưng Mục tiêu thì vẫn mãi xa vời. Tôi thực sự nhận ra mình đã sai! (Ngoài ra, tôi còn học được thêm một điều quan trọng từ Felipe Castro, đó là quan điểm về việc theo dõi tiến độ định kỳ và check-in.) Tôi bắt tay vào làm lại ngay lập tức và không ngần ngại đưa OKRs vào công ty lớn nhất mà tôi sở hữu. Chúng tôi đã biến những hiểu biết của mình thành một công cụ là VNOKRs Tool, điều đó giúp hơn 100 nhân sự rời rạc thành một tập thể nhất quán với các nguyên tắc OKRs theo cách thực hiện thực tế nhất. Chúng tôi đã thành công sau hai chu kỳ (sáu tháng). Giờ đây, tôi biết chắc rằng mình làm chủ được OKRs. Tôi chia sẻ những hiểu biết mà tôi thu nhận được từ Paul Niven, Ben Lamorte (và tất nhiên là cả Felipe Castro) với nhiều chủ doanh nghiệp Việt Nam trong cộng đồng VNOKRs (OKRs Việt Nam) do tôi thành lập, điều đáng mừng là mọi người hiểu rất nhanh về OKRs và áp dụng tốt. Khi Mơ mộng kết hợp với Thực tế, chúng ta sẽ thực hiện được. Tôi mừng vì đã tìm ra Paul Niven và Ben Lamorte. Khi cầm cuốn sách này trên tay và đọc đầy đủ những gì Paul Niven cùng Ben Lamorte viết ra, một lần nữa, tôi dâng trào niềm hạnh phúc, cảm giác giống như được nhìn thấy công đoạn làm ra món ăn ngon mà mình yêu thích! Những gì tôi đã đọc được trước đó trên website okrs.com, là kết quả từ những phân tích về nguyên lý của các hoạt động trong tổ chức, công ty. Cuốn sách này đào sâu và bàn về khoa học quản trị, thông qua những câu chuyện thú vị, làm hiện ra một thế giới rộng lớn ẩn chứa đằng sau các vấn đề “đau đầu” của doanh nghiệp. Nếu chưa có nhiều trải nghiệm trong việc quản lý công ty và quản lý nhóm, bạn sẽ hơi khó lĩnh hội được nội dung của cuốn sách. Và các thuật ngữ cũng có thể khó hiểu một chút bởi theo tôi, chúng còn xa lạ tại Việt Nam. Nhưng tôi chắc chắn đây là cuốn sách “gối đầu giường” nên có, nếu bạn muốn theo đổi sự nghiệp quản trị nghiêm túc và lâu dài. Hãy đọc đi đọc lại cho tới khi hiểu được toàn bộ những gì mà Paul Niven cùng Ben Lamorte đã viết và hành trình quản trị của bạn sẽ trở nên vô cùng thú vị. Xin trân trọng giới thiệu. *** TẠI SAO CHÚNG TÔI VIẾT CUỐN SÁCH NÀY B ất kỳ công ty nào bắt tay vào triển khai OKRs sẽ sớm nhận ra sau khi công việc bắt đầu, OKRs không chỉ là một “dự án đo lường”. Mục tiêu cuối cùng là cải thiện hiệu suất thông qua xác định các mục tiêu và kết quả then chốt được làm mới thường xuyên nhằm đảm bảo sự nhanh nhạy trong thế giới kinh doanh, nơi tốc độ đang ngày càng thay đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, để đạt được thành công với OKRs, có rất nhiều quy trình và nhiệm vụ phải được thực hiện liền mạch. Có được sự hỗ trợ nhiệt tình từ các CEO, xác định nơi triển khai OKRs, nắm vững những sắc thái của OKRs hiệu quả, kết nối OKRs trong toàn công ty, báo cáo kết quả, nắm bắt những kiến thức quan trọng và đưa phương pháp luận vào văn hóa của tổ chức chỉ là một vài yêu cầu của một quá trình triển khai hiệu quả. Khi chúng tôi viết điều này, các phương pháp thực hành tiêu chuẩn và quy trình đã được chứng minh của OKRs vẫn còn khá non trẻ. Đây là một ngành học mới nổi và trong khi việc thực thi nó đang phát triển hằng ngày, cũng như các nhà tư vấn, nhà cung cấp phần mềm vẫn đang nỗ lực lấp đầy lỗ hổng kiến thức, thì chưa hề có hướng dẫn cụ thể về cách thực hiện cho các tổ chức đang lo lắng triển khai OKRs để tránh rơi vào những cạm bẫy tiềm tàng có thể làm hỏng việc này hoặc bất kỳ nỗ lực thay đổi nào khác. Cuốn sách này là câu trả lời của chúng tôi cho thách thức đó. Nó được viết để lấp đầy khoảng trống đang tồn tại giữa kiến thức và thực hành. Các tổ chức muốn đạt được những lợi ích của OKRs trước tiên cần nhận thức rõ ràng – và được trang bị thích hợp để vượt qua – các thách thức liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ trọng yếu này. Dựa trên những kinh nghiệm tư vấn OKRs toàn cầu của chúng tôi, cũng như các nghiên cứu sâu rộng mà chúng tôi đã tiến hành, những trang sách này sẽ đóng vai trò là một hướng dẫn toàn diện cho bạn trên toàn bộ phạm vi OKRs. Chúng tôi tin rằng các công cụ và kỹ thuật được đề cập trong cuốn sách sẽ thúc đẩy thành công của những người đang tham gia OKRs và thu hút thêm nhiều CEO khởi chạy các chương trình OKRs trong tổ chức của họ. Trước khi phác thảo cấu trúc của cuốn sách, hãy để chúng tôi chia sẻ với bạn về nền tảng và kinh nghiệm của mình. CHÚNG TÔI BẮT ĐẦU VỚI OKRs NHƯ THẾ NÀO? Ben “Khi đi bộ đường dài cùng gia đình, bạn chỉ cần bước đi và thưởng ngoạn phong cảnh, nhưng khi làm việc, bạn cần hiểu rõ về đích đến. Nếu không, bạn đang lãng phí thời gian của mình và của tất cả những người làm việc với bạn.” Những lời nói này đã thay đổi cuộc sống của Ben. Nguồn gốc của những lời khôn ngoan đó đến từ Jeff Walker, cựu CFO của Oracle. Walker đã chia sẻ lời khuyên này với Ben trong một cuộc trò chuyện cá nhân và sau đó mở rộng thành nguyên tắc trong một bài phát biểu mà ông gửi cho một nhóm chuyên gia hoạch định ở Palo Alto vào năm 2011. Trong buổi nói chuyện, Walker đã giải thích về các mục tiêu và kết quả then chốt (OKRs). Ông đã thảo luận về cách các doanh nghiệp phải phác thảo tương lai mà họ mong muốn dưới dạng các mục tiêu – những tuyên bố định tính và đầy khát vọng được thiết kế để đưa tổ chức tiến lên theo một hướng mong muốn. Sau đó, mỗi mục tiêu được chuyển thành một tập hợp các kết quả then chốt có thể đo lường. Nếu mục tiêu hỏi: “Điều chúng ta muốn làm là gì?”, kết quả then chốt sẽ hỏi: “Làm thế nào để biết liệu chúng tôi đã đạt được mục tiêu của mình?”. Ben ngay lập tức bị thu hút bởi sức mạnh tiềm tàng của OKRs và cảm thấy công cụ này sẽ trở nên quan trọng đối với công việc của anh, nhưng tại thời điểm đó, anh không biết nó sẽ biểu hiện như thế nào. Anh đã sớm tìm ra. Ben được một tổ chức mời hỗ trợ trong một dự án KPI (Chỉ số đo lường hiệu suất). Anh nhận nhiệm vụ và háo hức chờ đợi tài liệu chiến lược được CEO của công ty cung cấp. Khi đến nơi, Ben cảm thấy choáng ngợp. Các tài liệu và trang trình bày chiến lược chứa đầy những ý tưởng và mục đích tốt, nhưng chúng có sự pha trộn khó hiểu giữa các trụ cột chính yếu (ưu tiên của công ty), giá trị cốt lõi và số liệu kinh doanh. Ben vật lộn với cách tiếp cận dự án cho đến lúc về phòng khách sạn vào buổi đêm trước khi gặp CEO và CFO, anh mới chợt nhớ lại lời khuyên của Jeff Walker. Với suy nghĩ đó, Ben đã cô đọng tài liệu chiến lược thành một trang giấy duy nhất, chuyển những trụ cột chính yếu thành các mục tiêu và ấn định kết quả then chốt cho từng mục tiêu. Ngày hôm sau, anh sử dụng khung tổ chức của OKRs này để trình bày hiểu biết của mình về chiến lược của tổ chức. Sau phần trình bày đó, các CEO đều im lặng và yêu cầu một chút thời gian riêng. Ben rời khỏi phòng, tin chắc mình đã hiểu sai chiến lược và sẽ nhanh chóng được đưa đến sân bay để đáp chuyến bay tiếp theo về nhà. Với Ben, hai phút ở hành lang lúc đó tưởng chừng như hai giờ, nhưng khi được gọi trở lại phòng và nhìn thấy nụ cười của CEO, anh đã cảm thấy nhẹ nhõm: “Chúng tôi muốn anh tạo ra kiểu tài liệu như thế này cho mọi đơn vị và bộ phận kinh doanh trong công ty.” Sau khi giúp gần 50 nhóm trong công ty phác thảo và tinh chỉnh lại OKRs, đồng thời chứng kiến họ thành công với phương pháp này, Ben biết anh đã tìm thấy sứ mệnh của mình. Và cuốn sách này là kết quả sau hàng trăm giờ huấn luyện đội ngũ và quản lý của Ben. Paul Paul từng làm việc trong lĩnh vực đo lường hiệu suất và thực thi chiến lược gần hai thập kỷ. Anh biết đến các ý tưởng này thông qua sự tương tác với một công ty đang tìm cách cải thiện hiệu suất của họ. Đối với trường hợp của Paul, công ty đang hoạt động trong một ngành thay đổi mạnh mẽ cùng những đối thủ cạnh tranh nổi lên nhanh chóng và khách hàng yêu cầu phải cải thiện dịch vụ mà không được tăng giá. Một chiến lược mới được tạo ra: một chiến lược nếu được thực hiện hiệu quả sẽ mang lại các bộ kỹ năng chiến lược nâng cao cho toàn công ty, xem xét việc chỉnh sửa toàn bộ quy trình kinh doanh chính, mang đến giá trị cho khách hàng và tạo ra kết quả tài chính đột phá. Nhưng họ có thể thực hiện điều đó không? Chìa khóa là xác định các biện pháp họ sẽ sử dụng để tự chịu trách nhiệm cho mỗi mục tiêu của chiến lược. Sẽ mất thời gian, nhưng bằng cách tập trung vào bộ tiêu chuẩn cốt lõi để tìm hiểu về những gì hiệu quả và không hiệu quả của chiến lược, cuối cùng công ty đã thực hiện được những cam kết của mình với khách hàng, nhân viên và các cổ đông. Thực tế, khoảnh khắc “Aha” đến với Paul dưới dạng các khảo sát nhân viên được thực hiện trước và sau khi phát triển, cũng như sử dụng biện pháp đo lường chiến lược. Trước đó, chỉ một tỷ lệ nhỏ nhân viên nói rằng họ hiểu về chiến lược của công ty và cách họ có thể đóng góp. Tuy nhiên, sau khi sử dụng phương pháp đo lường chiến lược, tỷ lệ này đã tăng gần gấp năm lần đối với phần lớn nhân viên. Giống như Ben, Paul nhận thấy giá trị của việc áp dụng phương pháp đo lường đối với chiến lược và đặt ra mục tiêu giúp các tổ chức khai thác sức mạnh đó. Một số độc giả có thể quen thuộc với Paul qua công việc và các cuốn sách của anh về Thẻ điểm cân bằng (Balance Scorecard), một phương pháp phổ biến nhằm chuyển chiến lược thành các mục tiêu, tiêu chuẩn, chỉ tiêu và sáng kiến chiến lược, sử dụng bốn quan điểm khác biệt có liên quan về hiệu suất: tài chính, khách hàng, quy trình nội bộ và học tập và phát triển. Mô hình này đã được nhiều tổ chức trên toàn cầu chấp nhận và mặc dù không thể nghi ngờ hiệu quả của nó, nhiều công ty vẫn phải vật lộn với việc triển khai cũng như tối đa hóa lợi ích của mô hình thẻ điểm cân bằng. Một trong những vấn đề chính mà các tổ chức nêu ra là mức độ phức tạp của mô hình ngày càng gia tăng. Sự phân loại của mô hình thẻ điểm đã tăng lên trong nhiều năm qua kể từ khi nó được phát kiến vào những năm 1990, nhiều chuyên gia cũng đã đưa ra các sơ đồ ngày càng phức tạp, bổ sung nhiều phần thay đổi vào thứ ban đầu được coi là cách tiếp cận dễ-áp-dụng để đo lường chiến lược của tổ chức. Kết quả cuối cùng là, đối với nhiều tổ chức, bất chấp các lợi ích của nó, Thẻ điểm cân bằng có vẻ quá cồng kềnh để triển khai cho toàn bộ tổ chức, bao gồm những đội nhóm mong mỏi các phương pháp đơn giản nhưng mạnh mẽ nhằm đảm bảo công việc của họ tập trung vào những gì quan trọng nhất, dẫn đến việc thực hiện chiến lược của công ty. Rồi OKRs xuất hiện. Paul đang tìm kiếm một hệ thống “nhẹ hơn” nhưng vẫn mang lại lợi ích thực sự cho khách hàng, những người muốn tận dụng tối đa giá trị từ các chiến lược của mình. Anh đã khám phá ra OKRs thông qua các nghiên cứu của mình và nhanh chóng biết được công việc mà Ben đang làm trong lĩnh vực này. Cả hai đã gặp gỡ và gắn kết với nhau vì mong muốn giúp các tổ chức cải thiện hiệu suất, đồng thời tin tưởng rằng OKRs, dù đơn giản, nhưng có thể mang lại giá trị vượt trội cho bất kỳ công ty nào muốn cải thiện sự tập trung, thúc đẩy sự liên kết và nâng cao tính gắn kết. Họ bắt đầu cùng nhau làm việc với khách hàng từ năm 2015. CUỐN SÁCH NÀY ĐƯỢC TỔ CHỨC NHƯ THẾ NÀO? Cuốn sách bao gồm bảy chương. Sáu chương đầu tiên sẽ hướng dẫn bạn triển khai OKRs theo trình tự thời gian, chương cuối cùng giới thiệu một số tổ chức toàn cầu đang hưởng lợi từ OKRs. Trong chương mở đầu, chúng tôi chia sẻ về lịch sử của OKRs, tiếp theo là các định nghĩa và ví dụ về cả mục tiêu lẫn kết quả then chốt. Các tổ chức hiện đại đang phải đối mặt với nhiều thách thức cốt tử mà OKRs rất phù hợp để vượt qua. Các chương sau sẽ khám phá một số chủ đề quan trọng. Chương 1 kết thúc với cái nhìn tổng quan về nhiều lợi ích của OKRs. Để triển khai OKRs, bạn phải đảm bảo tổ chức của mình đã sẵn sàng bắt tay vào hành trình phía trước. Chương 2 khám phá cách thức tạo ra và sử dụng OKRs. Câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: “Tại sao bạn triển khai OKRs?”. Chủ đề tài trợ điều hành sẽ được thảo luận, bao gồm cả cách giành được tài trợ. Các cân nhắc về nơi phát triển OKRs sẽ được trình bày, tiếp theo là một kế hoạch toàn diện để phát triển OKRs. Chương này kết thúc bằng việc xác định bối cảnh chiến lược cho OKRs bằng cách sử dụng sứ mệnh, tầm nhìn và chiến lược. Để OKRs mang lại lợi ích, chúng phải được dự thảo cẩn thận và sở hữu một số đặc trưng riêng. Chương 3 phác thảo cách tạo ra OKRs hiệu quả. Các kết quả then chốt được kiểm tra, sau đó thảo luận về các chỉ số sức khỏe và chấm điểm OKRs. Chương này kết thúc bằng phần đánh giá về quy trình CRAFT (Create – tạo ra, Refine – tinh chỉnh, Align – liên kết, Finalize – hoàn tất và Transmit – chuyển giao) để tạo ra OKRs. OKRs phải được tạo ra trong toàn tổ chức để thúc đẩy sự gắn kết, tinh thần trách nhiệm và sự tập trung. Chúng tôi gọi đây là “Kết nối OKRs” và nó là chủ đề của Chương 4. Các quy trình và mẹo kết nối OKRs theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc trong tổ chức sẽ được khám phá. Để đạt được lợi ích tối đa từ OKRs, chúng phải được giám sát thường xuyên cả trong và sau khi kết thúc mỗi chu kỳ. Chương 5 khám phá chu kỳ đánh giá OKRs và cách phần mềm có thể giúp OKRs thành công. Chu kỳ xem xét OKRs bao gồm ba cơ chế chính, mỗi cơ chế được thảo luận bao gồm: các cuộc họp vào thứ Hai, kiểm tra giữa quý và đánh giá hằng quý. Nửa sau của chương nghiên cứu việc sử dụng phần mềm trong triển khai và quản trị OKRs. Để đảm bảo sự thành công lâu dài của OKRs, chúng phải được ăn sâu vào văn hóa của tổ chức. Chương 6 nghiên cứu về cách làm cho OKRs trở nên bền vững. Nhiều công ty coi OKRs là một “dự án”, nhưng đó là một quan niệm sai lầm. Chương này mở đầu bằng cuộc tranh luận tại sao bạn nên coi OKRs như một quá trình liên tục. Bất kỳ công ty nào sử dụng OKRs đều phải xác định xem có nên liên kết chúng với việc đánh giá hiệu suất và/hoặc lương thưởng không. Các liên kết tiềm năng như vậy với ưu-nhược điểm và những khuyến nghị cũng được khám phá chi tiết trong chương này. Chương này kết thúc với 10 vấn đề hàng đầu cần cân nhắc trước, trong và sau khi tạo ra OKRs, đồng thời phân tích cách thức cũng như có nên mời các chuyên gia tư vấn hay không. Chương 7 chia sẻ về câu chuyện của sáu tổ chức toàn cầu đang sử dụng OKRs để đạt lợi thế lớn. Các tổ chức được mô tả sơ lược trong chương này là: Zalando, Flipkart, Sears Holdings, TaxSlayer, GoNoodle và CareerBuilder. Chúng tôi tin rằng bạn sẽ vừa thưởng thức vừa học hỏi từ những tấm gương của các tổ chức đặc biệt và sáng tạo này. Các công ty ở bất kỳ giai đoạn phát triển OKRs nào cũng sẽ được hưởng lợi từ những lời khuyên trong cuốn sách. Tất nhiên, những nỗ lực khởi động OKRs sẽ thu được lợi ích từ các công cụ và kỹ thuật chi tiết từ thiết kế ban đầu đến việc tạo ra một hệ thống quản lý mạnh mẽ. Những tổ chức đang sử dụng OKRs cũng sẽ được hưởng lợi từ việc xem xét các chủ đề được trình bày ở đây. Các quy trình và bài tập được biên soạn có thể đóng vai trò như một điểm kiểm tra hoặc đánh giá chương trình để đảm bảo nó đang hoạt động với hiệu quả cao nhất. Và đối với bất kỳ ai đang sử dụng một định dạng khác của hệ thống quản lý chiến lược, chúng tôi mời bạn cân nhắc về nhiều lợi thế mà OKRs cung cấp. Dù bạn đang ở đâu trên hành trình OKRs của mình, chúng tôi cảm ơn bạn vì đã cho phép chúng tôi được làm hướng dẫn viên của bạn. PAUL R. NIVEN VÀ BEN LAMORTE San Diego và San Anselmo, California, tháng 5 năm 2016 Mời các bạn mượn đọc sách OKRs - Nguyên Lý Và Thực Tiễn của tác giả Paul R. Niven & Ben Lamorte.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Câu Chuyện Heineken
Vào một ngày mùa đông buồn tẻ vài năm trước, trụ sở chính của công ty quảng cáo Franzen Hey & Veltman (FHV) ngay bên ngoài Amsterdam đang ở trong tình trạng bất thường. Hai trong số các giám đốc của công ty, Giep Franzen và Tejo Hollander, đang lo lắng nhìn từ hành lang qua cơn mưa lất phất, nhìn một đoàn xe bất thường lướt tới lối vào. Ở phía sau xe giữa, một chiếc Bentley bọc thép khổng lồ, ngồi Alfred 'Freddy' Heineken, người nắm giữ đế chế bia Heineken trong tay. Chiếc xe limousine của anh ta bị kẹp giữa những chiếc xe hạng nặng của những 'cậu bé' đi cùng nhà sản xuất bia kể từ khi anh ta bị bắt cóc vào năm 1983. Ngày hôm trước, ba người trong số họ đã kiểm tra kỹ lưỡng tòa nhà FHV, khám xét căn phòng nơi Freddy ở để xem hai quảng cáo được đề xuất. và thậm chí kiểm tra máy chiếu để tìm các thiết bị bắn tiềm năng. Đội ngũ của FHV đã chuẩn bị cho màn chào sân sắp tới đến từng chi tiết cuối cùng. Họ không lãng phí nhiều thời gian vào các bài thuyết trình giới thiệu vì họ biết rằng Freddy không thể làm phiền khi nghe họ. Vào đêm trước của những sự kiện căng thẳng như vậy, đó là danh sách khách mời đứng đầu chương trình. 'Theo kinh nghiệm, chúng tôi biết rằng Freddy thích thể hiện sức mạnh của mình bằng cách đưa ra những quyết định gây sốc. Và lượng khán giả càng đông thì càng thôi thúc không thể kìm nén được ', một người trong số họ giải thích. "Vì vậy, mẹo là giữ cho danh sách lời mời càng ngắn càng tốt." Mặc dù nhiều doanh nhân cứng rắn bước qua các hành lang của công ty, những chuyến thăm hai lần một năm của Freddy luôn khiến những người trong giới quảng cáo phải bối rối. Họ đánh giá cao nhà tài phiệt lanh lợi vì bản năng quảng cáo và khả năng sáng tạo của ông. 'Nó không bao giờ ngừng làm chúng tôi ngạc nhiên. Marlies Ponsioen, cựu quản lý tài khoản Heineken tại FHV, cho biết. Nhưng các môn đệ của Freddy cũng biết rằng tâm trạng thất thường khó lường của anh ta có thể rất tàn khốc. Allan van Rijn, người đã đạo diễn các quảng cáo Heineken của FHV vào thời điểm đó, biết chính xác cách Freddy và những người phụ trách quảng cáo của anh ta hoạt động. Anh ấy giải thích rằng để chuẩn bị cho chuyến thăm của Freddy 'các nhân viên lễ tân đều đã làm tóc, dọn dẹp đống lộn xộn và những người quản lý mặc bộ đồ bà ba đẹp nhất của họ. Rốt cuộc, các khoản thế chấp của họ đang bị đe dọa. Sau đó, Freddy bước ra khỏi chiếc xe limo của mình với một bộ đồ nhàu nát và anh ta bước thẳng qua tất cả những chuyện nhảm nhí này. ' Bản thân Freddy thích nhắc lại rằng mối quan hệ huyền thoại của anh với quảng cáo được truyền cảm hứng từ một chuyến đi học đến trường của tập đoàn điện tử và chiếu sáng Philips ở Eindhoven. 'Họ không bán bóng đèn; họ bán ánh sáng, ông giải thích. Kể từ khi anh ấy trở về sau hai năm thực tập mở rộng ở Hoa Kỳ vào những năm đầu đôi mươi, cháu trai của người sáng lập Heineken đã tỉ mỉ xây dựng bản sắc của thương hiệu để nó thu hút người tiêu dùng trên toàn thế giới. Theo kế hoạch, ông trùm nhỏ bé đã đến sớm vào buổi chiều. Sau một vài cái bắt tay ở hành lang, anh được dẫn vào phòng họp đơn giản ở tầng một của văn phòng FHV, nơi có một máy chiếu được giấu sau tấm gương một chiều và một bên là màn hình ở phía bên kia. Khi đèn tắt và rèm được kéo ra, tất cả những người có mặt đều kín đáo quay sang Freddy Heineken và lo lắng xem xét những đường rãnh sâu trên khuôn mặt giống như chú chó chăn bò của anh ta. Các Một chút căng thẳng trên môi, một cái cau mày gợi ý quan tâm - ngay cả cách anh ta phì phèo điếu thuốc cực nhẹ dường như không bao giờ dứt của mình - có thể là điềm báo về một thảm họa sắp xảy ra. Xét cho cùng, Heineken là một trong những tài khoản được theo dõi nhiệt tình nhất trong lĩnh vực quảng cáo, và Freddy đã cai trị nó với góc cạnh chuyên chế đặc trưng cho toàn bộ vai trò lãnh đạo của ông. Kể từ khi giành lại được phần lớn cổ phần của gia đình mình tại Heineken vào những năm giữa hai mươi tuổi, Freddy đã cai trị một tập đoàn sản xuất bia hiệu quả chuyên sản xuất ra một loại rượu bia giòn. Điều này, ông đã biến thành một tập đoàn sản xuất bia với phạm vi quốc tế vô song, đồng thời vẫn theo dõi một cách gần như hoang tưởng về hoạt động kinh doanh rực rỡ và đặc biệt là danh tiếng của thương hiệu. Rất ít người bên ngoài Hà Lan nhận ra rằng Heineken không chỉ là tên của một loại bia mà còn là tên của vị vua chưa đăng quang của Hà Lan - một tỷ phú ngông cuồng nhưng hoàn toàn bình thường, người có thể vừa quyến rũ khó cưỡng lại vừa thô tục. Một số người phản đối, ông được những người khác ca ngợi vì đã biến một loại bia tương đối nhạt nhẽo thành một thương hiệu toàn cầu mang tính biểu tượng. Freddy có một vài quy tắc nghiêm ngặt để thành công. Chỉ ở Vương quốc Anh, Heineken mới làm sai công thức của mình - theo nhiều cách. Tuy nhiên, ngay cả ở đó, Freddy Heineken cũng được ca ngợi nhiều vì đã ủng hộ một chiến dịch quảng cáo kỳ quái đã trở thành biểu tượng và đưa Heineken đi đầu trong cuộc Cách mạng Lager. Nhân viên quảng cáo của FHV và Heineken đã dành khoảng ba tháng và 1,2 triệu guilders để xem quảng cáo của ông trùm. Sao chép một khái niệm trước đó, chúng bao gồm các đoạn phim ngắn, cắt nhanh đi kèm với các đoạn âm thanh phù hợp - ví dụ, có một ly bia văng qua quầy bar với âm thanh của động cơ gầm rú. 'Một lần nữa, ông Heineken?' Franzen nhẹ nhàng hỏi khi trục quay dừng lại. Bởi vì thông thường, khi Freddy thích quảng cáo, anh ấy mỉm cười hài lòng và yêu cầu xem chúng một lần nữa. Nhưng lần này chủ tịch trông có vẻ kém cỏi. "Không vui chút nào", anh ta càu nhàu - và điều đó, trong từ vựng của Heineken, tương đương với một bản án tử hình. Một trong những người tham gia cho biết: 'Nó giống như một ngọn núi lửa phun trào vào mặt chúng tôi'. 'Có một sự im lặng đến choáng váng. Tất cả chúng tôi đều trở nên trắng bệch. Chúng tôi biết rằng sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu phản đối. ' Vài tuần sau, những người làm quảng cáo bị sốc chỉ phát hiện ra điều gì đã xúc phạm Freddy: một đoạn phim ngắn với hai con chó đang âu yếm nhau dưới ghế quầy bar. Nó có nghĩa là một chút khó khăn, nhưng khi nhìn lại, ngay cả giám đốc cũng thừa nhận rằng Heineken đã đúng. Van Rijn nói: “Trước buổi thuyết trình, Freddy có lẽ đã uống một ly trong quán bar ở Amsterdam với Joe Bloggs. 'Anh ấy biết người xử lý máy chiếu ở cơ quan thậm chí còn giỏi hơn các giám đốc. Bằng cách đó, anh ấy có thể nói, không thất bại, công chúng sẽ phản ứng như thế nào. ' Thông thường trong những trường hợp như vậy, bụi sẽ nhanh chóng lắng xuống. Cảnh quay với những con chó đang chảy nước dãi đã được chỉnh sửa và sử dụng các quảng cáo. Một lần nữa Freddy Heineken đã có cách của mình, và với những bình luận ngắn gọn nhất. Trong những năm trước, Heineken đã gây chú ý vì nhiều lý do khác nhau, từ những món đồ chơi bắt mắt và cuộc phiêu lưu của tỷ phú đến tình bạn hoàng gia và vụ bắt cóc ngoạn mục. Nhưng khi đến với công ty của mình, Heineken đã tỏ ra không ngừng nỗ lực và hoàn toàn kiên định. Ông là người đứng sau câu chuyện phi thường của Heineken, được tạo nên từ những giao dịch mạo hiểm, cách tiếp thị thông minh và mức độ phù hợp. *** BARBARA SMIT là một nhà báo đã viết về các doanh nghiệp lớn choFinancial Times , International Herald Tribune và những người khác. Cuốn sách này được xây dựng dựa trên cuốn tiểu sử của cô về Heineken được xuất bản năm 1996, đã bán được gần 70.000 bản chỉ riêng ở Hà Lan. Cô cũng là tác giả của Pitch Invasion: Adidas, Puma and the Making of Modern Sport , được Metro mô tả là 'giống như Triều đại được viết lại bởi Le Cárre'. Cô ấy sống ở Pháp. *** Tất cả hoặc không có gì! Alfred 'Freddy' Heineken, người Hà Lan gây dựng thương hiệu sau Thế chiến thứ hai, thường thừa nhận rằng tài sản của ông bắt đầu từ họ của mình. Nếu có một chương trình máy tính để nghĩ ra các nhãn hiệu bia lý tưởng, nó có thể đã tạo ra 'Heineken'. Giống như nhiều loại bia phổ biến khác, cái tên này có ba âm tiết, nghe có vẻ thân thiện và mang âm hưởng của người Đức, gợi nhớ đến truyền thống sản xuất bia của tổ tiên. Kỳ lạ nhỏ, vì tên của bia Hà Lan là của Đức. Tên này có thể bắt nguồn từ Bremen, thành phố cảng Hanseatic ở miền bắc nước Đức. Được thành lập tốt trong thị trấn, Heinekens tự hào có huy hiệu của riêng họ, được phân chia theo một đường thẳng đứng với một bông hoa huệ ở bên phải và một cánh tay mở ở bên trái. Nhưng vào thế kỷ thứ mười tám, một số Heinekens đã định cư ở Cộng hòa Hà Lan, một quốc gia nổi tiếng với nền thương mại sung mãn cũng như thái độ tiến bộ đối với khoa học và tôn giáo. Hai thế hệ sau, những người nhập cư đã đến được Amsterdam, nơi họ điều hành một doanh nghiệp thịnh vượng và rất Hà Lan: Gerard Adriaan Heineken, người sáng lập nhà máy bia, là con trai của một nhà kinh doanh bơ và pho mát. Vào giữa thế kỷ 19, khi Gerard đang lớn, Amsterdam dường như đang ở trong tình trạng suy tàn. Những ngôi nhà đổ nát và mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ các con kênh đã nói lên sự suy tàn của một thành phố chỉ hai thế kỷ. trước đó, là một trong những cảng nổi tiếng nhất ở Châu Âu. Kể từ đó, thương mại đường biển đã làm cho Amsterdam trở nên giàu có đã bị người Anh và người Pháp tiếp quản. Được thúc đẩy bởi Cách mạng Công nghiệp, Anh, Đức và Hoa Kỳ đã trải qua quá trình mở rộng kinh tế khổng lồ khiến Hà Lan bị tụt hậu. Bốn cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan từ năm 1652 đến năm 1684 đã làm kiệt quệ tài chính và càng làm suy yếu ảnh hưởng của Amsterdam. Gần một nửa số người của thành phố được đăng ký là người nghèo khổ và nghèo khổ. Heinekens sống tương đối thoải mái. Việc buôn bán pho mát đã được ông nội của Gerard khéo léo gây dựng và được cha anh, Cornelis Heineken, mở rộng quy mô. Gia đình càng trở nên sung túc hơn khi Cornelis kết hôn với Anna Geertruida van der Paauw. Là một góa phụ bụ bẫm, bà mang đến cuộc hôn nhân hai đứa con và gia đình chồng trước tích cóp được ở đồn điền Tây Ấn. Cornelis và Anna tiếp tục có bốn người con. Thứ hai của họ, Gerard, sinh năm 1841, là con trai đầu lòng của họ. Vào thời điểm này, dịch bệnh đã tàn phá các thị trấn của Hà Lan, và chỉ có ba người con của gia đình đến tuổi trưởng thành. Họ được nuôi dưỡng để tôn vinh công việc khó khăn, và Gerard lớn lên thành một chàng trai siêng năng, 'thích phiêu lưu và trái tim nhân hậu'. Khi cha qua đời vào năm 1862, Gerard, khi đó mới 21 tuổi, có thể dễ dàng dành những ngày còn lại của mình để sống nhờ tài sản của gia đình. Thay vào đó, anh giao việc buôn bán pho mát cho các thành viên khác trong gia đình và tìm cách tạo nên tên tuổi của chính mình. Vào tháng 6 năm 1863, ông phát hiện ra một nhà máy bia để bán không xa ngôi nhà của gia đình. Gerard nhanh chóng tổ chức một cuộc họp với hai trong số các giám đốc của nhà máy bia, và ngay tối hôm đó, anh đã viết một bức thư khẩn cấp cho mẹ mình để yêu cầu bà hỗ trợ tài chính. Den Hoyberch (The Haystack) đã từng là một nhà máy bia nổi tiếng - một trong những nhà máy lớn nhất ở Cộng hòa Hà Lan - nhưng nó đã giảm mạnh trong vài thập kỷ. Gerard biết rất ít về sản xuất bia, nhưng anh chắc chắn rằng mình có thể vực dậy vận may của Haystack. Vì vậy, ông đề xuất tiếp quản hoàn toàn nhà máy bia. 'Tất cả các! Hoặc không có gì! Nếu không sẽ rất lãng phí thời gian! ' anh ấy đã viết thư cho mẹ mình. Anna Geertruida có lý do riêng để hỗ trợ tài chính cho con trai mình. Vào giữa thế kỷ 19, gin đã trở thành thức uống được lựa chọn của người Hà Lan (như ở London). Nó đã gây ra cảnh tượng khó coi ở Amsterdam và khốn khổ cho hàng trăm gia đình Hà Lan. Mỗi sáng Chủ nhật, khi lên đường đến nhà thờ, Anna Geertruida phải thương lượng với những gã say rượu ngâm rượu gin ngang dọc trên đường để chửi thề. Nếu con trai cô ấy sản xuất ra một loại bia sạch và đáng tin cậy, anh ấy có thể khuyến khích những người uống rượu từ bỏ loại rượu phá hoại của họ. Với sự ủng hộ của mẹ, Gerard Heineken theo đuổi các cuộc đàm phán để tiếp quản The Haystack. Nhà máy bia chính thức được đăng ký là tài sản của Heineken vào ngày 15 tháng 2 năm 1864, khi Gerard thành lập Heineken & Co. Mời các bạn đón đọc Câu Chuyện Heineken của tác giả Barbara Smit.
Bốn Sắc Thái Của Màu Xám - Nền Tảng Kindle Của Amazon
Làm thế nào ai đó có thể tạo ra một trò chơi đột phá cho điện thoại di động hoặc một tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn cho môi trường 3D nhập vai mà không hiểu rằng điện thoại di động và môi trường 3D là hai loại nền tảng máy tính khác nhau? Các nghệ sĩ, nhà văn, lập trình viên và nhà thiết kế giỏi nhất nhận thức rõ về cách một số nền tảng tạo điều kiện thuận lợi cho một số loại biểu hiện và đổi mới tính toán nhất định. Tương tự như vậy, khoa học máy tính và kỹ thuật từ lâu đã xem xét cách thức các hệ thống máy tính cơ bản có thể được phân tích và cải tiến. Các phương pháp tiếp cận khoa học và kỹ thuật cũng quan trọng như công việc của các nghệ sĩ sáng tạo, chúng tôi cũng có nhiều điều để học hỏi từ nghiên cứu nhân văn, chuyên sâu, bền vững về truyền thông kỹ thuật số. Chúng tôi tin rằng đã đến lúc các nhà nhân văn cần nghiêm túc xem xét mức độ thấp nhất của các hệ thống máy tính và mối quan hệ của chúng với văn hóa và sự sáng tạo. Loạt bài Nghiên cứu nền tảng đã được thành lập để thúc đẩy việc điều tra các hệ thống máy tính cơ bản và cách chúng kích hoạt, hạn chế, định hình và hỗ trợ công việc sáng tạo được thực hiện trên chúng. Loạt bài nghiên cứu nền tảng của phương tiện kỹ thuật số — các hệ thống máy tính, cả phần cứng và phần mềm, mà các nhà phát triển và người dùng phụ thuộc vào để phát triển nghệ thuật, văn học và trò chơi. Các cuốn sách trong bộ sách chắc chắn sẽ khác nhau về cách tiếp cận, nhưng tất cả chúng sẽ có chung một số tính năng nhất định: • Tập trung vào một nền tảng duy nhất hoặc một nhóm nền tảng có liên quan chặt chẽ • Kỹ thuật chặt chẽ và điều tra chuyên sâu về cách hoạt động của công nghệ máy tính • Nhận thức và thảo luận về cách các nền tảng máy tính tồn tại trong bối cảnh văn hóa và xã hội, được phát triển trên cơ sở các khái niệm văn hóa và sau đó đóng góp vào văn hóa theo nhiều cách khác nhau — ví dụ, bằng cách ảnh hưởng đến cách mọi người nhận thức về máy tính   Lời cám ơn   Four Shades of Grey đã được củng cố rất nhiều nhờ những gợi ý chu đáo từ các đồng nghiệp bao gồm Daniel Allington, Greg Barnhisel, Giles Bergel, Kathi Inman Berens, Chiara Bernardi, Karen Boyle, Inga Bryden, Dorothy Butchard, Eddy Borges-Rey, Daniel Boswell, Nick Canty, Laura Dietz, Beth Driscoll, Toke Riis Ebbesen, Carolin Esser-Miles, Andrew Ferguson, Molly Flatt, Simon Frost, Danielle Fuller, Alan Galey, Matt Hayler, Richard Haynes, Leslie Howsam, Matthew Kirschenbaum, Anouk Lang, Marcus Leaning, Fran Mason, John Maxwell, Tom Mole, Jim Mussell, Sarah Mygind, Simone Murray, Naomi Nelson, Corinna Norrick-Rühl, Stephen Pihlaja, Melanie Ramdarshan-Bold, Padmini Ray Murray, Staci Rowlison, Jonathan Rose, Matt Rubery, Mark Sample, Matt Schneider, Greg Singh, Claire Squires, Bronwen Thomas, Whitney Trettien và Maria Velez Serna. Julian McAuley đã hào phóng chia sẻ bộ dữ liệu Amazon của anh ấy với tôi. Nghiên cứu được hỗ trợ bởi một học kỳ nghỉ nghiên cứu tại Đại học Stirling vào mùa thu năm 2018 và một khoản trợ cấp SHARP-RBS để tham dự khóa học Sinh học Kỹ thuật số: Lý thuyết và Thực hành tại Trường Sách Hiếm. Nghiên cứu lưu trữ tại Stanford và Bảo tàng Lịch sử Máy tính đã được hỗ trợ bởi nguồn tài trợ hào phóng từ Hiệp hội Thư mục Hoa Kỳ và một Khoản tài trợ Khuyến khích Nghiên cứu Niềm tin của Carnegie. Lập luận của tôi cũng được hưởng lợi từ phản hồi trong các cuộc nói chuyện được mời tại Hội thảo Lịch sử Truyền thông, Trung tâm Lịch sử Sách của Đại học Edinburgh, và Khoa Nghiên cứu Thông tin của UCL, cũng như các bài báo hội nghị tại SHARP, By the Book, NUI Galway, Digital Nhân văn 2014, Người đọc trong Phong cách học, Mạng đọc kỹ thuật số, Học bổng xã hội về văn bản, Sách trong kỷ nguyên kỹ thuật số và Phục hồi sách. Nghiên cứu này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự giúp đỡ của các thủ thư và những người làm công tác lưu trữ. Các bộ phận cho mượn liên thư viện tại các trường Đại học Southampton, Stirling và Winchester đã hỗ trợ trong việc định vị tài liệu. Aurora Tucker và Sydney Olson là công cụ giúp tôi truy cập vào các tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Lịch sử Máy tính, cả bằng văn bản và máy. Toàn bộ nhóm tại Bộ sưu tập Đặc biệt của Đại học Stanford đã đặc biệt hữu ích, bao gồm cả Tim Noakes và Leif Anderson. Tôi cũng biết ơn sự hỗ trợ từ MIT Press, từ những gợi ý ban đầu hữu ích của Nick Montfort và Ian Bogost về việc cải thiện đề xuất của tôi thông qua sự hỗ trợ của Liz Agresta, Susan Clark, Bill Henry, Doug Sery và Noah Springer trong việc chuyển bản thảo thành sách. Những đề xuất hữu ích của ba nhà phê bình ẩn danh đã đảm bảo cuốn sách cuối cùng mạnh mẽ hơn nhiều. Các phần của chương 1 trước đây đã xuất hiện trong “Ebookness,” Convergence 23, không. 3 (2015): 289–305; và các phần của chương 7 xuất hiện trong “Đặt chung khu vực công cộng: Đọc tác phẩm kinh điển về mặt xã hội trên Kindle,” Ngôn ngữ và Văn học 25, không. 3 (2016): 211–225, cả hai đều xuất hiện với sự cho phép của SAGE. Các phần của chương 7 đã được xuất bản trước đây là “Giới hạn của Dữ liệu lớn để phân tích việc đọc,” Phần tham gia 16, không. 1 (2019): 237–257, một tạp chí truy cập mở. Cuốn sách này sẽ không tồn tại nếu không có sự hỗ trợ và lòng tốt của Marina, Michaela, Chris, Karen, Hannah, Will, Ellie, Pam và Geoff.   Lưu ý về chính tả   Sách điện tử: Thuật ngữ “sách điện tử” có ba cách viết chính: sách điện tử, sách điện tử, sách điện tử. Cũng giống như email bị mất dấu gạch ngang, tôi sử dụng "ebook" để phản ánh quá trình nhập tịch đã xảy ra trong thập kỷ qua. Ngoại lệ duy nhất sẽ là khi tham chiếu các thương hiệu đã sử dụng cách viết biến thể (ví dụ: Franklin eBookMan, Open eBook). Amazon : Mặc dù tên công ty đầy đủ là Amazon.com Inc., để dễ đọc, tôi sử dụng “Amazon” để chỉ Amazon.com Inc. và biểu thị các biến thể theo khu vực (ví dụ: Amazon.co.uk) nếu thích hợp. “Amazon” cũng sẽ kết hợp các công ty con như Amazon Technology. Hệ thống đọc : Khi nói về sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm và ảnh hưởng của nó đối với sự xuất hiện của văn bản ebook, tôi sử dụng “hệ thống đọc”, một thuật ngữ được đặt ra cho đặc tả EPUB gần tương đương với thuật ngữ trình duyệt web “tác nhân người dùng”.   Giới thiệu   Khi Jeff Bezos thành lập Amazon vào năm 1994, ông đã chọn bán sách như một quyết định kinh doanh thực dụng chứ không phải từ một tình cảm gắn bó với bản in. Sách có thể tồn tại trong sự khắc nghiệt của hệ thống bưu điện và dễ dàng cất giữ trong kho. Trong hai thập kỷ qua, Amazon đã phát triển từ một công ty khởi nghiệp bán sách trở thành một gã khổng lồ công nghệ trị giá hơn 1 nghìn tỷ USD vào tháng 2 năm 2020, với Bezos được vinh danh là người đàn ông giàu nhất thế giới kể từ năm 2017 ngay cả sau một vụ ly hôn trong khu vực 40 tỷ đô la. 1 Mặc dù Amazon đã phát triển các dịch vụ vượt xa phạm vi xuất bản, sách vẫn là một phần cốt lõi của thương hiệu công ty trong trí tưởng tượng của nhiều người. Amazon đã củng cố mối liên hệ này với sự ra mắt của Kindle vào năm 2007, thể hiện cam kết của công ty đối với sách mặc dù có tới 35% doanh số bán hàng đến từ các sản phẩm “phi truyền thông” vào năm 2006. 2 Sau nửa thập kỷ trì trệ đối với sách điện tử theo lời hứa vào đầu những năm 2000, Kindle là một sự can thiệp cần thiết và thúc đẩy phương tiện này từ một thị trường ngách trở thành một nguồn doanh thu ổn định cho các nhà xuất bản. Trong một thập kỷ kể từ khi Kindle ra mắt, sách điện tử đã bị các nhà xuất bản truyền thống tấn công liên tục. 3 Arnaud Nourry, Giám đốc điều hành của Hachette Book Group, đã phản đối sách điện tử trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2018, cho rằng “sách điện tử là một sản phẩm ngu ngốc. Nó giống hệt như bản in, ngoại trừ nó là bản điện tử. Không có sự sáng tạo, không có sự nâng cao, không có trải nghiệm kỹ thuật số thực sự ”. 4 Tuyên bố của Nourry phản ánh sự cạnh tranh thường thấy giữa sách điện tử và báo in hơn là cách hai định dạng ảnh hưởng lẫn nhau. Bất chấp nhiều hạn chế của Kindle và khả năng chống xuất bản theo định hướng in, Amazon xâm nhập vào phần cứng ebook xuất bản đã thay đổi không thể thu hồi. Thiết bị này đã có tác động mạnh mẽ đến quy trình công việc kỹ thuật số bằng cách khuyến khích các nhà xuất bản áp dụng các quy trình mới nhằm nâng cao chất lượng của tất cả các ấn phẩm, cả vật lý và kỹ thuật số, vì người đọc giờ đây sẽ mong đợi một ấn bản sách điện tử. Ngoài việc thúc đẩy các nhà xuất bản nắm lấy các hình thức kỹ thuật số, Kindle đã trao quyền cho một số độc giả bị thiệt thòi trước đây. Sự xuất hiện của các độc quyền Kindle chứng tỏ nhu cầu về các thể loại không được các nhà xuất bản ủng hộ theo truyền thống. Người đọc không được phục vụ bởi xu hướng xuất bản theo định hướng in ấn hướng tới những người bán chạy nhất giờ đây có thể tìm thấy vô số tài liệu đọc. Sách điện tử cũng cung cấp các tiện nghi vật lý mới: cha mẹ có thể cầm Kindle bằng một tay khi chăm sóc con mình, nhưng sách in có thể thích đọc trên giường hơn. Người đọc điện tử yêu cầu ít không gian hơn sách vật lý cho những người không thể xây dựng một thư viện lớn. Độc giả bị khiếm thị về vận động hoặc thị giác có thể được hưởng lợi từ khả năng thay đổi kích thước phông chữ hoặc sử dụng các tính năng chuyển văn bản thành giọng nói và sự ra đời của phông chữ OpenDyslexic vào năm 2015 đã đáp ứng nhu cầu của những độc giả có sự khác biệt trong học tập. Bất chấp những cải tiến này, các nhà phê bình và nhà xuất bản cho rằng xuất bản kỹ thuật số nên tích hợp các yếu tố đa phương tiện, thực tế ảo và trò chơi điện tử. Nhận xét của Nourry phản ánh mối quan hệ đối kháng giữa Amazon và việc buôn bán sách xuất phát từ những lo ngại liên tục về các chiến lược bán hàng của Amazon. Các cuộc thảo luận về sách điện tử thường là những cuộc luận chiến xung quanh "sự gián đoạn" hoặc tính chất trọng yếu và mùi vị của bản in. 5 Các nhà xuất bản đã phát triển một thị trường thích hợp cho các ấn bản bìa cứng sang trọng để đáp lại những độc giả vẫn cam kết in. Truyền giáo kỹ thuật số cạnh tranh chống lại chủ nghĩa Tin Lành trên báo in, nhấn mạnh các quan điểm cực đoan hơn là coi hai phương tiện truyền thông là bổ sung cho nhau. Trong cuốn sách này, tôi vượt ra khỏi sự đối kháng này để đánh giá tác động của các nhà xuất bản và ngành công nghiệp sách nói chung, nhường lại sự phát triển của sách điện tử cho một công ty tiêu biểu cho sự thái quá của chủ nghĩa tư bản muộn và văn hóa giám sát. Thông qua ống kính này, tôi phân tích Kindle đã mang lại lợi ích như thế nào cho việc xuất bản trong khi đồng thời hạn chế các cơ hội phát triển một nền tảng kỹ thuật số toàn diện và có tư duy tương lai. Cái tên "Kindle" phản ánh những căng thẳng đã gây ra cho nền tảng này. Cái tên này đã vấp phải những phản ứng tiêu cực do có mối liên hệ tiềm ẩn với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 của Ray Bradbury và việc đốt sách. Bezos vô tội, cho rằng cái tên này là một nỗ lực “nói về tương lai của việc đọc, nhưng theo một cách nhỏ nhặt, không phải khoe khoang,” để khơi dậy trí tưởng tượng thông qua việc đọc. 6 Anh ấy hy vọng Kindle sẽ trở thành đồng nghĩa với ebooks như một động từ giống như googling: "Khi tôi bị kẹt ở sân bay hoặc trên đường, tôi có thể Kindle tờ báo của mình, blog yêu thích hoặc nửa tá cuốn sách mà tôi đang đọc." 7 Theo Brad Stone, một phóng viên công nghệ của Businessweek , sự phát triển của nền tảng được thúc đẩy bởi mong muốn "phát triển mạnh mẽ như một người bán sách trong kỷ nguyên kỹ thuật số mới, [thông qua việc sở hữu] công việc kinh doanh sách điện tử giống như cách mà Apple kiểm soát lĩnh vực kinh doanh âm nhạc." 8 Sau thành công của iMac khi Steve Jobs trở lại Apple, công ty nhận thấy một thị trường âm nhạc kỹ thuật số đang phát triển. Để tận dụng xu hướng này, Apple đã phát hành iTunes vào tháng 1 năm 2001, với iPod sau đó 9 tháng. Sự kết hợp đã hợp pháp hóa việc tiêu thụ nhạc kỹ thuật số vào thời điểm Napster và các mạng ngang hàng khác thống trị trí tưởng tượng của công chúng. IPod cũng loại bỏ các rào cản gia nhập thông qua tích hợp dọc phần cứng, phần mềm và dịch vụ từ việc mua nhạc đến nghe khi đang di chuyển. Đây là khoản đầu tư đáng kể từ Apple. Sách điện tử cũng ở vị trí tương tự vào năm 2007, với một cộng đồng trung thành gồm những người có sở thích tận tụy nhưng không có chất xúc tác duy nhất để tiếp nhận rộng rãi hơn.   Mời các bạn đón đọc Bốn Sắc Thái Của Màu Xám - Nền Tảng Kindle Của Amazon của tác giả Simon Peter Rowberry.
Miniso - Cuộc Cách Mạng Bán Lẻ Toàn Cầu
Tại Việt Nam, lâu nay những sản phẩm của Miniso – một thương hiệu bán lẻ nổi tiếng vài năm gần đây tại nhiều quốc gia châu Á, thường được người tiêu dùng mua theo đường “xách tay”. Dù trước mắt vẫn còn đang nổ ra tranh cãi về thương hiệu này, rằng nó là hàng Nhật thật hay thực ra là của Trung Quốc thì vẫn không thể phủ nhận, tin Miniso về Việt Nam vẫn làm các tín đồ shopping, nhất là những người thích mấy vật dụng xinh xinh yêu yêu tỏ ra háo hức. Vậy cuối cùng Miniso là gì? Miniso: Chuỗi cửa hàng mọc lên như nấm khắp nơi Gõ cụm từ “Miniso” trên google, có tới gần nửa triệu kết quả hiện ra cho bạn. Theo thông tin từ website chính thức của Miniso, thương hiệu bán lẻ này được thành lập bởi nhà thiết kế Nhật Bản Miyake Jyunya và doanh nhân Trung Quốc Ye Guo Fu. Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 9 năm 2013. Miniso cũng đã bắt đầu “xâm lược” thị trường Đông Nam Á gần đây. Ở các nước như Philippines, Thái Lan, Singapore, Miniso gửi gắm hàng chục cửa hàng. Đến nay, hãng mong muốn một ngày nào đó sẽ sánh ngang chuỗi siêu thị 7-Eleven nổi tiếng. Không chỉ ở châu Á, thương hiệu Miniso đã bước đầu có mặt ở các thị trường khó tính tại Bắc Mỹ và châu Âu. Mục tiêu của Miniso là nâng số lượng cửa hàng trên toàn thế giới lên con số 6,000 trong vòng 5 năm tới. Miniso: Siêu thị thập cẩm Miniso đúng là một cửa hàng “lẩu thập cẩm” đúng nghĩa đen, họ có từ chiếc bút chì kẻ mắt giá 90 nghìn đồng đến chiếc tai nghe giá 900 nghìn, thậm chí cả máy hút ẩm và thiết bị massage cổ cũng có luôn. Những thành công và bài học từ Miniso Tính đến thời điểm hiện tại, MINISO được đánh giá là một trong những thương hiệu bán lẻ có mức tăng trưởng đột phá trên toàn cầu. Với hơn 3,000 cửa hàng tại hơn 78 quốc gia và vùng lãnh thổ, MINISO chạm mốc 750 triệu USD doanh thu toàn cầu vào 2015 và gần 1,5 tỷ USD vào 2016. Năm 2017, thương hiệu MINISO đạt ngưỡng 1,8 tỷ USD doanh thu và đã có mặt tại rất nhiều quốc gia phát triển như Mỹ, Canada, Nga, Singapore, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Hàn Quốc, Malaysia, Hong Kong với trung bình có thêm 80-100 cửa hàng mới khai trương mỗi tháng trên toàn cầu. Để có được sự phát triển và thành công như hiện tại, thương hiệu này đã luôn theo đuổi một cách nhất quán triết lý về phát triển thương hiệu và thiết kế sản phẩm, và xem đó là những giá trị cốt lõi làm nên sức mạnh của MINISO như hiện nay. Khi người tiêu dùng trở nên “luôn vận động” họ ưa thích những sản phẩm hoặc dịch vụ tiện lợi phục vụ tốt nhất cho cuộc sống bận rộn. Thói quen tiêu dùng của người Việt cũng thay đổi. Nếu như trước đây khách hàng chỉ mua đồ theo nhu cầu sử dụng thì giờ nhu cầu đó thường phát sinh vì bị thu hút bởi hình thức và sự khác biệt sản phẩm về màu sắc, kiểu dáng thời trang Miniso đang nắm bắt đúng xu hướng này. Các sản phẩm của Miniso được sáng tạo, thiết kế theo xu hướng thời trang mới nhất trên thế giới để biến những sản phẩm tiêu dùng thông thường thành những phụ kiện thời trang theo phong cách cá nhân. Để tỏ rõ là nhà bán lẻ theo xu hướng thời trang nhanh (fast fashion), cứ 3 tháng Miniso lại cho ra đời một mẫu sản phẩm mới. Những ngày đặc biệt trong năm như Năm mới, giáng sinh, lễ tình yêu, mùa hè hàng năm đều có bộ sưu tập đặc trưng theo đúng chủ đề. Trong khi các cửa hàng khác nhập hàng theo tháng, Miniso nhập theo tuần, hàng hóa sẽ được điều chuyển 3 ngày/lần. Hiện Miniso có gần 10.000 danh mục sản phẩm, tại Việt Nam có hơn 6.000 sản phẩm. Các sản phẩm này được nhập khẩu 100%, trong đó, 80% từ Trung Quốc, còn lại sản xuất tại Hàn Quốc, Thái Lan Hiện có trên 600 nhà sản xuất, gia công sản phẩm cho Miniso. Trong số đó, có 200 nhà máy Miniso mua lại, đầu tư nâng cấp từ các nhà máy cũ, năng suất sản xuất thấp để giảm thiểu chi phí, đồng thời tận dụng được cơ sở hạ tầng, nhân lực. Nhờ chiến lược này, Miniso có thể quản lý tốt giá thành và giảm chi phí hoạt động, chi phí đầu tư. Không chỉ vậy, các sản phẩm của Miniso luôn được săn lùng vì có mức giá rẻ, giao động từ 43.000 đồng – 129.000 đồng, phù hợp với mọi đối tượng, lứa tuổi. Với màn chào sân ấn tượng và tốc độ phủ sóng nhanh như vậy nên chỉ sau khi Miniso xuất hiện ở Việt Nam (năm 2016), có nhiều thương hiệu cùng mô hình ra đời. Trong đó có nhiều thương hiệu cùng sử dụng một số yếu tố gây hiểu nhầm tới Miniso. MINISO Cuộc cách mạng bán lẻ toàn cầu Cuốn sách “MINISO Cuộc cách mạng bán lẻ toàn cầu” không đơn giản là giúp những ai muốn tìm hiểu về nguồn gốc của Miniso, mà nó là sự thấu lược về sự vận động của hàng hóa, người tiêu dùng và thị trường hiện nay. Gía trị sản phẩm không chỉ nằm ở giá trị mang lại ở nó, mà còn ở dán lên mã thương hiệu Điều làm nên giá trị của một sản phẩm đôi khi không chỉ nằm ở việc đó là sản phẩm chất lượng ra sao, hữu dụng thế nào mà còn ở chỗ nó thuộc thương hiệu gì? Làm nên một thương hiệu phổ biến trong tâm trí người tiêu dùng vô cùng khó. Và việc đầu tiên chính là cần tìm được một ý nghĩa thương hiệu làm kim chỉ nam định hướng cho hành trình phát triển của thương hiệu. Sự chạm trán giữa kinh doanh truyền thống và kinh doanh hiện đại Các xu hướng kinh doanh đang dần thay đổi, được điều chỉnh và không ngừng hoàn thiện trên nền các ý tưởng mới, dựa vào công nghệ. Thêm vào đó, cùng một nền tảng, nhưng sự thành công hay thất bại của một mô hình kinh doanh mới hoàn toàn dựa vào cách triển khai, cách tiếp cận thị trường và cách vận hành, trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu khách hàng là gì để tạo ra mô hình mới sáng tạo hơn. Miniso - Cuộc Cách Mạng Bán Lẻ Toàn Cầu Vấn đề đặt ra là những mô hình kinh doanh, dịch vụ mới ra đời sẽ tác động thế nào đến kinh doanh truyền thống? Nhiều ý kiến cho rằng, thương mại truyền thống sẽ không mất đi mà nó sẽ được hỗ trợ bởi kênh bán hàng trực tuyến (online) để trở thành mô hình bán hàng đa kênh (omni-channel). Các doanh nghiệp phải học nhiều hơn để bắt kịp xu thế, cộng với lợi thế sân nhà, chuẩn bị sẵn sàng trước sự thay đổi của khách hàng trong kỷ nguyên số. Bên cạnh đó, DN truyền thống phải dần chuyển sang mô hình bán hàng đa kênh để thích ứng tốt với nền kinh tế chia sẻ, nếu không sẽ bị tụt hậu. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt trên thị trường Kinh tế thị trường đã kinh doanh là phải có cạnh tranh. Cạnh tranh thường thông qua giá, thời gian, chất lượng phục vụ và tính linh hoạt. Các DN phải chấp nhận sự thật này để chủ động bước vào cạnh tranh. Phải tìm hiểu xem đối thủ hơn mình ở điểm nào để từ đó khắc phục các điểm yếu. Chẳng hạn, trong kinh doanh taxi, các DN đang áp dụng một biểu giá phẳng, còn Grab thì áp dụng mức giá rất linh động, tùy từng thời điểm. Vậy các DN có thể tính toán giá linh động được không? Mặt khác, phải nâng cao thái độ phục vụ của nhân viên theo các tiêu chí tiện lợi, nhanh chóng, rõ ràng, minh bạch về giá và thời gian đi. Nói chung là DN cần phải làm minh bạch về dịch vụ của mình để thu hút khách. Trong kinh doanh dịch vụ, DN càng chú ý đến các nhu cầu chi tiết nhất của khách hàng thì tỷ lệ thành công càng cao. Thực tế cho thấy, những dịch vụ được đề cập trong bài viết chỉ là những sản phẩm khởi đầu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Theo dự báo, sẽ còn hàng loạt loại hình dịch vụ ra đời ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tương lai cũng sẽ được số hóa từ điểm đầu cho đến điểm cuối. Các dịch vụ này hoàn toàn có thể thực hiện xuyên biên giới, sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh còn khốc liệt hơn so với hiện nay. Sự biến đổi liên tục của công nghệ sẽ còn tiếp tục tạo ra thách thức mới, khó thể thỏa mãn xung đột giữa cái cũ và cái mới. Nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc các cơ quan quản lý nhà nước phải ngồi lại để bàn bạc, tạo ra cơ chế chính sách phù hợp, tạo sân chơi bình đẳng cho các DN. Ví dụ, hiện nay thuế áp dụng cho các DN nội địa thế nào thì với DN FDI cũng phải có chính sách thuế tương đương, làm sao các mô hình kinh doanh này vẫn tồn tại nhưng bảo đảm cạnh tranh công bằng. Không để xảy ra tình trạng mô hình kinh doanh này phải nộp thuế, mô hình kia thì không. Các cơ chế, chính sách mới vừa đảm bảo sự khuyến khích kinh doanh truyền thống thay đổi, vừa không hạn chế kiểu kinh doanh mới xuất hiện, nhưng không làm méo mó thị trường. Sự thay đổi trên thị trường diễn ra hàng ngày, hàng giờ, chúng ta muốn bắt kịp xu thế, muốn không lạc hậu, muốn tạo ra những giá trị cho hoạt động kinh doanh thì buộc phải hiểu và đánh giá được tình thế đang diễn ra trên thị trường hiện nay. “Miniso cuộc cách mạng bán lẻ toàn cầu” sẽ là cẩm nang trang bị cho bạn những kiến thức mới mẻ, phong phú về thương hiệu Miniso nói riêng nhưng sẽ là hệ thống kinh doanh trên thị trường nói chung hiện nay.
Hội chứng Uniqlo
Hội chứng Uniqlo không phải là một trong số những cuốn sách ca tụng về Uniqlo đang tràn ngập trên thị trường, cũng không phải cuốn chỉ dẫn về phương thức hoạt động của Uniqlo hay phân tích về sự phát triển của Fast Retailing (Tập đoàn bán lẻ lớn của Nhật, công ty mẹ của Uniqlo). Nó cũng không nghiên cứu về sự nghiệp của ngài Yanai Tadashi (Người sáng lập và Chủ tịch của Fast Retailing, chủ nhân thương hiệu Uniqlo). Nếu muốn tìm hiểu về những điều đó, các bạn hoàn toàn có thể tìm đọc những cuốn sách do chính ngài Yanai viết là Một lời, chín lỗ hay Có thể đánh mất thành công chỉ sau một ngày. Hội chứng Uniqlo sẽ chỉ ra sự thật rằng bối cảnh cho sự thành công bất ngờ của Uniqlo chính là một nền văn hóa tiêu dùng đang suy thoái do sự sụt giảm của kinh tế và kìm hãm cảm tính của giới trẻ, đồng thời làm rõ hiện tượng sụt giảm tiêu dùng trong xã hội được gọi tên là “hội chứng Uniqlo”, mở rộng chủ đề nghiên cứu từ phong cách tiêu dùng toàn cầu hóa đến cấu trúc nền kinh tế. Trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hóa với số lượng người trẻ ngày càng sụt giảm, Nhật Bản dần mất đi sức cạnh tranh và trở nên tụt hậu so với một châu Á đang trên đà phát triển. Chúng ta cần xem xét từ cả hai phía, nước Nhật và châu Á, để tìm ra đối sách phù hợp nhằm thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Thêm vào đó, tôi muốn đưa ra những nhận định, dự đoán xem liệu Uniqlo – thương hiệu chất lượng cao đang độc chiếm thị trường Nhật Bản, được thiết kế dành riêng cho thị trường trong nước nay đã gặt hái được thành công ở một số quốc gia đã và đang phát triển – liệu có đạt được mục tiêu dài hạn là đến năm 2020 vượt mốc doanh thu 5.000 tỉ yên và lợi nhuận 1.000 tỉ yên hay không. Lập trường của cuốn sách Hội chứng Uniqlo này không phải là khẳng định và nghiên cứu những thành công của Uniqlo mà là phân tích trực diện tình hình thị trường và mô hình doanh nghiệp ở Nhật Bản, so sánh với các mô hình doanh nghiệp không chỉ ở Âu Mỹ mà còn ở cả châu Á bằng cái nhìn tỉnh táo để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu, đồng thời xác định những cơ hội và thách thức của Uniqlo nói riêng và Fast Retailing nói chung trong tương lai. Với những nghiên cứu về Uniqlo từ trước đến giờ, cuốn sách này sẽ mang lại những đánh giá về Uniqlo trên góc độ toàn cầu, từ đó đưa ra những cảnh báo cũng như triển vọng trong tương lai của giới kinh doanh. *** Thông qua cuốn sách Hội chứng Uniqlo (Uniqlo Syndrome), tác giả Kensuke Kojima chỉ ra sự thật rằng bối cảnh cho sự thành công bất ngờ của Uniqlo chính là một nền văn hóa tiêu dùng đang suy thoái do sự sụt giảm của kinh tế và kìm hãm cảm tính của giới trẻ, đồng thời làm rõ một hiện tượng sụt giảm tiêu dùng trong xã hội, được gọi là “Hội chứng Uniqlo”, mở rộng chủ đề nghiên cứu từ phong cách tiêu dùng toàn cầu hóa đến cấu trúc nền kinh tế. Vào khoảng những năm 2000, thị trường thời trang giá rẻ của Nhật Bản rơi vào trạng thái hỗn loạn. Hàng loạt “ông lớn” như Aeon, Jeans Mate hay Right – On đều bị rơi vào những “bi kịch”. Nền thời trang giá rẻ Nhật Bản bị đặt trong tình trạng báo động. Nguyên nhân đến từ đâu? Có một “kẻ đứng sau”, và cho đến bây giờ, “kẻ đứng sau” đó vẫn sẽ luôn bị chỉ trích là “kẻ châm ngòi” cho cuộc chiến giữa các thương hiệu giá rẻ đã làm hỗn loạn thị trường Nhật Bản. Vậy, “kẻ đứng sau” là ai? Câu trả lời chính là: Uniqlo Uniqlo (còn được gọi là GU cấp thấp) đã từng làm chao đảo thị trường đồ jeans của các thương hiệu quốc gia. Đây là các thương hiệu lớn, nổi tiếng trên phạm vi toàn quốc (gọi là các NB – National Brand), tuy nhiên, tất cả đều lao đao trong một cuộc chiến giá bán, mà ở đó, “kẻ châm ngòi” chính là Uniqlo. Ngày 10/03/2009, hãng GU thuộc tập đoàn Fast Retailing cho ra mắt mẫu quần jeans có giá chỉ 990 yên (khoảng hơn 200.000 VNĐ). Một cuộc cạnh tranh về giá đã nổ ra. Aeon và Daiei đáp trả với mức giá 880 yên, đỉnh điểm là Don Quijote tung ra mức 660 yên. Tiếp sau là GAP tặng miễn phí 500 cặp quần kỉ niệm được thiết kế riêng cho dịp này. Jeans Mate cũng nhân dịp khai trương cửa hàng ở Shinsaibashi đã tặng sản phẩm cho 100 vị khách đầu tiên trong 4 ngày liên tiếp. Cuộc chiến về giá trên thị trường đồ jeans dường như không có điểm dừng. Nó kéo dài và dần trở thành một cuộc phá giá sản phẩm jeans, khiến nhiều người không còn biết đâu là giá trị thực của mặt hàng này. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do CEO của Fast Retailing, ngài Yanai Tadashi, đã quyết định tiến hành chiến lược về giá khi bắt đầu phát triển sản phẩm jeans 990 yên của GU. Những cửa hàng giá rẻ của GU buộc phải đặt cược và giảm giá đến một nửa để hướng đến mục tiêu tăng trưởng nhanh. Chính vì vậy, sản phẩm 990 yên được tung ra thị trường như một món hàng chấp nhận lỗ để thu hút khách hàng. Nhờ chiến lược ấy, doanh số bán hàng của GU tăng lên nhanh chóng, nhưng mặt trái là hãng không chỉ phá giá thị trường đồ jeans mà còn khiến cả thị trường tiêu dùng hỗn loạn. Không chỉ vậy, trong cơn bão phá giá, hàng loạt nhà cung cấp vải và sợi cho thị trường đồ jeans cũng phải chuyển dịch sang các nước có chi phí sản xuất thấp hơn như Trung Quốc để tránh nguy cơ sụp đổ toàn bộ thị trường. Chiến lược phá giá của GU đã làm chao đảo cả thị trường thời trang Nhật Bản, khi mà cơn sốt jeans bắt đầu qua đi từ mùa xuân năm 2006. Hậu quả là, thị trường hàng may mặc Nhật không ngừng thu nhỏ lại, bởi hai lý do sau: Sự suy thoái của các NB Người tiêu dùng đang phải cắt giảm các khoản chi tiêu dành cho mua sắm Hàng loạt hệ quả kéo theo. Thị trường may mặc Nhật thu nhỏ dẫn tới hệ thống cửa hàng bách hóa suy thoái. Sự suy thoái này kéo theo việc những thương hiệu thời trang lớn dần rời khỏi kệ hàng của các cửa hàng bách hóa. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường các cửa hàng tiêu thụ hàng tồn kho, dẫn tới thị trường này ngày càng mở rộng. Chưa bao giờ thị trường may mặc giá rẻ tại Nhật Bản lại trở nên hỗn loạn đến như vậy. Hội chứng Uniqlo không có điểm dừng Trước sự phát triển thần kỳ của Uniqlo, việc những cửa hàng bán lẻ và bán buôn muốn tìm hiểu phương pháp phát triển sản phẩm và công nghệ kỹ thuật của hãng là lẽ đương nhiên. Cùng với đó, các trung tâm mua sắm và cửa hàng bách hóa cũng nhập các sản phẩm của Uniqlo vào kinh doanh. Tuy nhiên, phong trào này diễn ra ồ ạt mang đến hiệu quả ngược, do những công ty đi trước đã thâu tóm thị trường không phù hợp với mình và cuộc cạnh tranh về giá dần khiến doanh thu và lợi nhuận giảm sút. Những thương hiệu ra đời sau phải cạnh tranh trong một môi trường đầy biến động, không có hiệu quả và chứa rất nhiều rủi ro. Trong hoàn cảnh như vậy, các doanh nghiệp không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi làn sóng Uniqlo. Hiện tượng này được gọi chính xác nhất là “Hội chứng Uniqlo”. Uniqlo mở rộng đối tượng khách hàng với nhiều nhóm sản phẩm phong phú như áo khoác, tất chân, khăn quàng và gần đây còn tiến tới cả áo, quần bó với rất nhiều chủng loại.  Chiến lược bán hàng đã đưa doanh thu đạt đỉnh. Việc kết hợp phát tờ rơi và chính sách giảm giá (giới hạn số lượng) đã thực sự thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, khi nhận xét về bản chất của việc mở rộng phạm vi khách hàng bằng phương pháp phát triển từng chủng loại sản phẩm của Uniqlo, ngài Yanai Tadashi cho rằng: “Trong ngành may mặc, âu phục đồng nghĩa với thời trang, và rất nhiều khách hàng thông thường phù hợp và có đủ khả năng chi trả cho mặt hàng này. Nếu cung cấp mặt hàng chất lượng với mức giá hợp lý để trở thành một phần trong cuộc sống của khách hàng, thị trường của công ty có thể mở rộng không giới hạn”. Những chuỗi cửa hàng và các nhà bán lẻ không hiểu được bản chất này mà chỉ chăm chăm học theo Uniqlo thì sẽ rất khó nắm bắt được tâm lý khách hàng. Có rất nhiều ý kiến về thế giới thời trang và ngành bán lẻ mà Uniqlo đang tham gia nhưng không ai có thể phủ nhận rằng với châm ngôn “Thay đổi trang phục, thay đổi nhận thức, thay đổi thế giới”, Uniqlo đã mang đến sự độc đáo và mở rộng đối tượng khách hàng của mình. Một minh chứng điển hình cho hội chứng Uniqlo chính là bộ phận bán lẻ hàng may mặc của Aeon. Sau khi bùng nổ làn sóng sản phẩm lông cừu, Aeon đã tiếp nối những sản phẩm đặc thù của Uniqlo như quần bó và áo len cashmere. Họ đáp trả sản phẩm đồ jeans 990 yên của GU bằng thương hiệu 880 yên. Kết quả là, dẫu nhiều người lầm tưởng rằng bộ phận bán lẻ hàng may mặc của Aeon đã phát triển gần tương xứng với Uniqlo nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Thị phần của sản phẩm 880 yên bị thị phần của các sản phẩm 1.990 và 2.990 yên nuốt gọn, cân bằng giữa các nhóm sản phẩm dần bị phá vỡ. Điều tồi tệ nhất chính là trong khi mải theo đuổi và tìm kiếm những dòng sản phẩm bán chạy, bộ phận hàng may mặc của Aeon đã chìm vào vòng xoáy khủng hoảng, khiến cán cân thương mại mất cân bằng. Thêm vào đó, từ mùa xuân năm 2006, khi nền kinh tế có dấu hiệu đi lên, Aeon lại chọn phương hướng hoạt động giống những cửa hàng bách hóa, lãng phí thời gian và tài nguyên vào những mặt hàng xa rời nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy, dù tình hình kinh tế có khởi sắc, doanh thu của Aeon vẫn bị giảm. Như vậy, có thể thấy, dù là Aeon hay bất cứ thương hiệu lớn nào khác, nếu không tập trung vào khách hàng của mình mà chỉ chăm chăm học hỏi chiến lược kinh doanh của các đơn vị khác thì khó có thể thành công. Dù là hội chứng Uniqlo, hay “cải cách”, hay đi theo đường lối của các cửa hàng bách hóa, các công ty cũng không được phép xa rời nhu cầu thực tế của khách hàng. Quỹ đạo tăng trưởng của Uniqlo Theo thông tin tổng hợp từ Thời báo Kinh tế Nhật Bản cuối năm 2009, Uniqlo đứng đầu tất cả các hạng mục sản phẩm trong suốt 10 năm đầu của thế kỷ XXI. Fast Retailing cũng là một trong những doanh nghiệp có sức tăng trưởng nhanh nhất trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Sau “20 năm đánh đổi”, doanh thu của Uniqlo đã tăng 115 lần (chỉ tính thị trường quốc nội), đồng thời tận dụng tốt tình trạng giảm phát để trở thành doanh nghiệp tượng trưng cho lối sống ngày càng giản dị của nước Nhật. Từ thương hiệu quốc gia thành thương hiệu quốc tế Uniqlo là hình mẫu trong việc duy trì hình ảnh sản phẩm cho mọi lứa tuổi, mọi giới tính. Bắt đầu từ một cửa hàng thường phục bên đường, Uniqlo dần phát triển thành chuỗi cửa hàng dành cho người dân địa phương, sau này còn phát triển thêm những sản phẩm thể thao và những sản phẩm mang phong cách Mỹ. Công ty luôn cố gắng để cân bằng giữa việc theo đuổi xu hướng và việc sản xuất những mặt hàng thông dụng để duy trì doanh thu. Sau làn sóng áo khoác thể thao, tính đại chúng của công ty cũng tăng dần lên, các sản phẩm về sau như những mẫu thường phục cao cấp hay áo giữ nhiệt cũng dần được khách hàng đón nhận khiến công ty khẳng định được vị thế là một thương hiệu thường phục nổi tiếng toàn quốc. Một cuộc khảo sát đã được thực hiện để điều tra xem liệu Uniqlo có thể đáp ứng được nhiều tầng lớp khách hàng khác nhau không. Theo khảo sát xu hướng người tiêu dùng được Brand Data Bank thực hiện trong giai đoạn từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 1 năm 2009, với hơn 30.000 người trên toàn quốc, Uniqlo chiếm ưu thế tuyệt đối với nữ giới trừ những người trong độ tuổi từ 60 đến 64 và nam giới trong độ tuổi 20 đến 54. Điều này chứng minh rằng công ty đã thành công trong việc kinh doanh mặt hàng thường phục và những sản phẩm cơ bản đồng thời được công nhận là một thương hiệu quốc gia. Lý do Uniqlo nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi là việc khiến khái niệm “chất lượng cao” trở thành một khái niệm dễ hiểu. Đó không phải là những khái niệm cao xa chỉ có người trong ngành mới hiểu, mà là những tiêu chuẩn, những “chuẩn mực cơ bản của ngành thời trang” khiến các đối tượng đại chúng cũng có thể dễ dàng đánh giá. Cụ thể là những tiêu chuẩn như nguyên liệu hay độ bền của mũi khâu, dù sử dụng hay giặt giũ cũng không dễ bị sứt chỉ hay hỏng hóc, không quan trọng là nguyên liệu đó có cao cấp hay không. Với phương châm “quá nhiều cũng đồng nghĩa với thừa thãi, không cần thiết”, Uniqlo đã xây dựng một tiêu chuẩn căn bản, dễ hiểu cho ngành thời trang, không thiếu cũng không thừa. Việc tuân thủ quá chặt chẽ tiêu chuẩn từ các chuyên gia ngược lại khiến thương hiệu không thể duy trì được sự ủng hộ, cũng như tiêu tốn nhiều kinh phí. Chính nhờ việc áp dụng phương pháp loại bỏ những giá trị không cần thiết để tập trung tạo nên một “sản phẩm vừa đủ những yếu tố quan trọng”, Uniqlo nhận được sự ủng hộ của đông đảo mọi tầng lớp. Đây chính là con đường để Uniqlo trở thành thương hiệu được đón nhận ở cả những nước phát triển và những nước đang phát triển, đặt nền móng cho sự mở rộng phát triển trên phạm vi toàn cầu. Khi đã nhận được sự ủng hộ đông đảo từ người tiêu dùng trong nước và trở thành một NB, việc Uniqlo chuyển mình thành một thương hiệu toàn cầu không hề khó. Uniqlo bước chân vào thị trường quốc tế với hàng loạt những cửa hàng được mở ra tại London, Thượng Hải, Seoul, New Jersey, New York, Paris, Singapore,.... Kết quả là, đến cuối tháng 2 năm 2010, thị trường Âu Mỹ đã có 17 cửa hàng, Trung Quốc, Đài Loan có 59 cửa hàng, Hàn Quốc có 46 cửa hàng, Singapore có 3 cửa hàng, tổng cộng là 125 cửa hàng. Sau đó, lần lượt tại Moscow, Đài Bắc cũng có sự xuất hiện của các cửa hàng Uniqlo. Câu chuyện về sự chuyển mình của Uniqlo từ thương hiệu quốc gia thành thương hiệu toàn cầu đang diễn ra một cách sôi nổi. Tuy đã trở thành một thương hiệu quốc gia nhưng số lượng những người ghét Uniqlo cũng không phải là ít. Có không ít người “cảm thấy xấu hổ khi mặc đồ Uniqlo”. Nguyên nhân chính là do đây là một thương hiệu giá rẻ và được sử dụng tràn lan bởi số đông. Uniqlo mang đến cảm giác về một thương hiệu được sản xuất đại trà theo quy mô công nghiệp và thiếu bản sắc riêng, tạo ra một khoảng cách không nhỏ giữa “những người xấu hổ” với những người yêu thích sự độc đáo của các thương hiệu như Giordano hay Benneton. Những người không thể chấp nhận được những sản phẩm thuộc thời đại số hóa hay mang sắc thái công nghiệp thì sau này cũng không thể trở thành khách hàng của Uniqlo. Uniqlo là một hình mẫu doanh nghiệp cổ điển Có thể nói ngay từ đầu Uniqlo đã lựa chọn phát triển một cách đầy sáng tạo theo hình mẫu doanh nghiệp kiểu SPA. SPA là gì? Nó là một hình thức kinh doanh mới, xuất phát từ hình thức kinh doanh tên là “Specialty store retailer of Private label Apparel” – Cửa hàng bán lẻ đặc quyền của thương hiệu may mặc quốc gia. Sau đó, hình thức này được mở rộng ra với những công ty vừa sản xuất vừa mở cửa hàng bán lẻ các sản phẩm may mặc, được gọi là SPA. Hình thức SPA luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa nhà sản xuất và nhà bán lẻ. Nhà sản xuất sẽ thực hiện toàn bộ quy trình từ lên kế hoạch, phát triển và quản lý quá trình sản xuất. Tuy nhiên, trong giai đoạn quá độ chuyển đổi sang hình thức SPA, để vượt qua những trở ngại về nguồn lao động và đẩy nhanh tốc độ phát triển, các công ty này đã phải bắt tay với những công ty thương mại hay những công ty trong ngành công nghiệp phụ trợ. Ngay từ đầu, trong ngành sản xuất các sản phẩm may mặc, SPA được coi là định hướng phát triển theo chiều dọc, tuy nhiên, có rất nhiều công ty chỉ tập trung phát triển giá trị gia tăng của riêng mình bằng cách tận dụng bối cảnh sản xuất và tự lên kế hoạch, định dạng thương hiệu riêng. Trái với xu hướng đó, Uniqlo chú trọng đến việc phát triển nguyên vật liệu và quản lý sản xuất. Theo chiến lược điều chỉnh dựa trên những tiêu chuẩn đồng đều, lợi nhuận của công ty sẽ được thể hiện bằng một đường cong nụ cười, không thể đứng ngoài sự sụt giảm chung của chuẩn mực thế giới. Quá trình hội nhập ngày càng phát triển người ta càng nghi ngờ liệu rằng Uniqlo với chiến lược hội nhập theo chiều dọc có thể duy trì được những lợi thế về chi phí sản xuất hay không. Hình thức sản xuất của Uniqlo giống hệt những nhà sản xuất đồ điện gia dụng hợp tác với các dịch vụ sản xuất may mặc và thuê nhà máy sản xuất từng phụ tùng. Thực tế, hình thức này không có bất cứ ưu điểm nào về chi phí cũng như tốc độ. Có thể Uniqlo sẽ trở thành một khối hóa thạch bị kìm kẹp trong câu chuyện về chất lượng sản phẩm đi ngược với chuẩn mực thế giới mà mức chi phí lại trên trời, bước theo vết xe đổ của Toyota. Cũng có thể Uniqlo sẽ ưu tiên giảm chi phí và phá bỏ câu chuyện thần thoại về chất lượng đã tồn tại từ lâu. Cũng giống như Toyota, Uniqlo không thể tránh khỏi những khó khăn do việc tự mâu thuẫn. Trong bối cảnh như vậy, có lẽ chúng ta nên thừa nhận thương hiệu GU đã chấp nhận hi sinh chất lượng để hình thành định dạng “thương hiệu giá rẻ” mới đúng là đường hướng phát triển của thị trường toàn cầu, bao gồm cả những thị trường mới nổi. Uniqlo – “Người mở đường” hay “Kẻ châm ngòi”? Dẫu còn quá vội vàng khi kết luận Uniqlo là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế nhưng không thể phủ nhận rằng đây chính là thương hiệu mở đường cho làn sóng hàng may mặc giá rẻ. Trong xã hội ngập tràn “Fast fashion” như hiện nay, Uniqlo không chỉ nên tập trung vào phân khúc sản phẩm giá rẻ đã tấn công mà sau bốn năm phát triển với “tuyên ngôn giá rẻ”, giờ là lúc hãng phải nâng cao giá trị sản phẩm ở khía cạnh chất lượng, tạo ra một thương hiệu dựa trên cơ sở “mức giá tương đương với chất lượng sản phẩm”. Thế nhưng, trong lĩnh vực đồ jeans, Uniqlo vẫn sẽ luôn bị chỉ trích là kẻ châm ngòi cho cuộc chiến giữa các thương hiệu giá rẻ đã làm hỗn loạn thị trường. Kết Trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hóa với số lượng người trẻ ngày càng sụt giảm, Nhật Bản dần mất đi sức cạnh tranh và trở nên tụt hậu so với một châu Á đang trên đà phát triển. Một cách khách quan, cần xem xét từ cả hai phía, nước Nhật và châu Á, để tìm ra đối sách phù hợp nhằm thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Thêm vào đó, tác giả Kensuke Kojima muốn đưa ra những nhận định, dự đoán xem liệu Uniqlo – thương hiệu chất lượng cao đang độc chiếm thị trường Nhật Bản, được thiết kế dành riêng cho thị trường trong nước nay đã gặt hái được thành công ở một số quốc gia đã và đang phát triển –  liệu có đạt được mục tiêu dài hạn là đến năm 2020 vượt mốc doanh thu 5.000 tỉ yên và lợi nhuận 1.000 tỉ yên hay không. Hội chứng Uniqlo không phải là một cuốn sách ca tụng thương hiệu Uniqlo, hiện đang tràn ngập trên thị trường, cũng không phải là cuốn sách chỉ dẫn phương thức hoạt động của Uniqlo hay phân tích về sự phát triển của Fast Retailing – Tập đoàn bán lẻ lớn của Nhật, công ty mẹ của Uniqlo. Nó cũng không nghiên cứu về sự nghiệp của ngài Yanai Tadashi – Người sáng lập và Chủ tịch của Fast Retailing, chủ nhân thương hiệu Uniqlo. Lập trường của cuốn sách này không phải là khẳng định và nghiên cứu những thành công của Uniqlo, mà là phân tích trực diện tình hình thị trường và mô hình doanh nghiệp ở Nhật Bản, so sánh với các mô hình doanh nghiệp không chỉ ở Âu Mỹ mà còn ở cả châu Á, bằng cái nhìn tỉnh táo để tìm ra điểm mạnh cũng như điểm yếu, đồng thời xác định những cơ hội và thách thức của Uniqlo nói riêng và Fast Retailing nói chung trong tương lai. Với những nghiên cứu về Uniqlo từ trước đến giờ của tác giả Kensuke Kojima, cuốn sách Hội chứng Uniqlo sẽ mang lại những đánh giá về Uniqlo trên góc độ toàn cầu, từ đó đưa ra những cảnh báo cũng như triển vọng trong tương lai của giới kinh doanh. Tác giả: DO   Mời các bạn đón đọc Hội chứng Uniqlo của tác giả Kensuke Kojima & Vũ Linh (dịch).