Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bánh Xe Nghiệt Ngã

Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhân Hình Quán - Yukito Ayatsuji
Nhân Hình Quán là tác phẩm có màu sắc khác biệt nhất, cũng ngột ngạt nhất trong cả series Quán! Sau khi cha mất, Soichi trở về nhà tổ, tiếp quản tài sản thừa kế đồ sộ, đồng thời tiếp quản cả những hình nhân cha để lại trong ngôi nhà này. Tất cả đều mất một phần thân thể, hoặc mặt hoặc tứ chi. Điều đó không khỏi khiến những người thích trinh thám, liên hệ đến vụ án phanh thây trong Tokyo hoàng đạo án. Nhưng đặc biệt hơn, các hình nhân này đã đặt theo những vị trí cố định, xoay mặt theo những hướng cố định. Dù khó chịu về sự có mặt của chúng, Soichi cũng không dám di dời hoặc thay đổi, bởi di ngôn của người cha quá cố chính là: Phải giữa nguyên các hình nhân. Tuy không thể làm trái lời cha, nhưng không gì ngăn Soich khám phá bí mật ẩn sau các hình nhân đó. Trong lúc Soichi miệt mài với trò chơi suy luận của mình thì các án mạng liên hoàn theo nhau xảy ra ngay bên ngoài, gần chỗ anh dạo chơi, chỗ anh uống cà phê, thậm chí sát cạnh nhà. Cùng với sự hỗ trợ từ xa của người bạn giỏi suy luận là Shimada Kiyoshi, Soichi đã tìm ra mối liên hệ giữa Nhân Hình Quán với các “Quán” khác, cũng như phá giải được chân tướng của các án mạng gần và xa mình. Một loạt sự thật của quá khứ lẫn hiện tại bắt đầu được phanh phui, bí mật về chính bản thân Soichi cũng theo đó hé lộ… *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Thập Giác Quán gồm 12 chương (không kể mở đầu và hồi kết), xoay quanh chuyến hành trình một tuần ghé thăm hoang đảo Tsunojima của bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K. Mỗi nhân vật đều có cho mình một biệt hiệu riêng mượn từ tên các nhà văn trinh thám Âu-Mỹ mà họ ngưỡng mộ, theo thứ tự lần lượt là: Yamasaki Yoshifumi – Edgard Poe, Suzuki Tetsuro – John Dickson Carr, Matsuura Junya – Ellery Queen, Iwasaki Yoko – Agatha Christie, Oono Yumi – Emma Orczy,  Higashi Hajime – Gaston Leroux và Morisu Kyoichi – S.S Van Dine. *** Thư của Shimada Kiyoshi Gửi cậu Hiryu Soichi, … … Cách đây mấy hôm, tôi nhận được thư của bác gái, cho biết cậu đã bình phục và ra viện. Thật mừng vì không còn gì đáng ngại nữa. Tôi rất muốn đến tận nơi để chúc mừng cậu khỏi bệnh, nhưng do vướng bận nhiều việc nên không đi được. Thay vào đó, tôi đành viết bức thư này, mong cậu lượng thứ cho. Ai chẳng muốn tuổi xanh còn mãi, thế mà tính đến tháng Năm vừa rồi, tôi cũng đã 38 tuổi rồi. Quen biết cậu từ năm 22 tuổi, đến nay đã mười sáu năm trời! Đúng như người xưa thường nói, thời gian vụt trôi tựa bóng câu qua cửa sổ. Cho đến giờ, tôi vẫn chưa kết hôn, lại chẳng có việc làm ổn định. Chắc là sớm muộn gì tôi cũng phải kế thừa gia nghiệp, trông nom ngôi chùa của gia đình, nhưng giờ cha tôi còn khỏe mạnh minh mẫn, chưa có ý định lui về nghỉ ngơi. Tôi mà phàn nàn thêm về công việc thì thể nào cũng bị trời phạt mất. Không làm gì thì lại nay đây mai đó, dính vào những sự vụ không cần thiết, cuối cùng bị người ta xì xào này nọ. Chủ yếu là tại tôi bản tính tò mò, đến giờ vẫn chưa sửa được. Mà thôi, dẫu sao tôi tin rằng, khi nhiều tuổi hơn, chắc sẽ dần dần kiềm chế được phần nào. Tháng Tư năm nay, tôi lại tình cờ vướng vào một vụ hết sức bất ngờ. Đó là án mạng xảy ra trong một tòa nhà có tên Mê Lộ Quán, nằm ở rìa thôn T, trên bán đảo Tango. Vụ việc này được giới truyền thông đưa tin rầm rộ, có lẽ cậu cũng biết rồi. Điều bất hạnh là hai ba năm nay, mấy nơi tôi viếng thăm đều xảy ra những ca tương tự. Cứ như thể tôi được Thần Chết chiếu cố… À, không phải. Tôi cho rằng không phải Thần Chết chiếu cố tôi, mà chiếu cố đến mấy tòa ‘Quán’, tất cả đều là tác phẩm của cùng một vị kiến trúc sư. Chắc cậu còn nhớ câu chuyện tôi kể vào mùa thu năm ngoái, khi đến bệnh viện thăm cậu chứ? Chính là câu chuyện về ông kiến trúc sư lập dị Nakamura Seiji, về những tòa nhà kỳ quái mà ông ta xây dựng ở rất nhiều nơi trên đất nước, cùng những vụ án gần liền với chúng. Thời điểm thăm cậu là ngay sau vụ Thủy Xa Quán ở Okayama nên tâm trạng tôi có phần phấn khích, chẳng để ý mình đang ngồi trong viện nữa, cứ huyên thuyên suốt. Cũng bởi cậu đang dưỡng bệnh, bị cấm đọc sách nên không khỏi buồn tẻ, cậu lại quen Fujinuma Issei và Fujinuma Kiichi con trai ông ấy, nên tự nhiên tôi mới nói nhiều như vậy. Bấy giờ, xem chừng cậu cũng khá hứng thú với ông Nakamura Seịji và những ‘tác phẩm’ đó. Cùng là người làm nghệ thuật, quả nhiên rất dễ đồng cảm, nhỉ? Mà nhân tiện, cậu bắt đầu vẽ tranh lại rồi phải không? Mong cậu hãy quên đi những điều không vui và tiếp tục sáng tác. Từ hồi còn đi học, tôi đã rất thích tranh cậu vẽ. Dù không am hiểu hội họa nhưng tôi vẫn nhận ra sự hấp dẫn đặc biệt của chúng. Chúng có sức hút kỳ lạ chẳng khác gì bức Muôn vàn ảo ảnh của Fujinuma Issei mà tôi từng được chiêm ngưỡng ở Thủy Xa Quán. Thư trót viết lan man dài dòng, mong cậu thông cảm. Tôi định thu xếp để đến thăm cậu một ngày gần đây. Nếu cậu cần gì, cứ cho tôi biết, đừng ngại. Tôi rất vui nếu giúp được cậu. Xin tạm dừng bút ở đây. Cho tôi gửi lời hỏi thăm bác gái nhé! Trân trọng. Thứ Ba, ngày 30 tháng Sáu năm 1987 Shimada Kiyoshi Mời các bạn đón đọc Nhân Hình Quán của tác giả Yukito Ayatsuji.
Cạm Bẫy Hồng Nhan - Jean Louis Viot
Jean-Louis Viot sinh ra ở Laval. Ông bắt đầu sự nghiệp tại l'Hôtel de Police ở Alençon (61 tuổi) và cũng làm việc tại l'Hôtel de Police ở Le Mans. Năm 1981, ông trở thành Đại úy Cảnh sát tại Phòng Nghiên cứu và Điều tra của l'Hôtel de Police ở Dieppe.  *** Mallet đấy cánh cửa kính của trụ sở. Các phòng tạm giam đầy nghẹt. Sở Cảnh sát đã trở về nhịp điệu bình thường của nó. Ít ra đó cũng là ấn tượng đầu tiên hai ngày sau khi ông chủ tiệm bánh mì bị bắt. Trong khi đó, báo chí vẫn tiếp tục khai thác đề tài này một cách triệt để. Các cuộc trao đổi rầm rì, những cái bắt. Tay, các cuốn sổ trực mùi cà phê buổi sáng, không khí của thời gian khởi đầu của một ngày. Không hứng thú, Mallet mở cửa phòng làm việc, cởi áo bludông ra và treo nó lên móc, bực dọc đi trong hành lang về phía phòng họp của bên An ninh. Vẫn các đồng hồ ghi điện đầy bụi bặm, cái cầu thang cũ kỹ với tay vịnh lóng lẻo. Mallet bước lên không gây tiếng động. Anh đi ngang qua tiệm, bánh mì đã đóng cửa sau khi Nogđ bị bắt. Vào giờ này chắc bà vợ ông ta cũng đã hay cái tin khủng khiếp đó rồi. Trên kia hẳn là Coussinel đang mong chờ sự viếng thăm của viên thanh tra. Tuy nhiên khi mở cửa, Coussinel không tỏ vẻ ngạc nhiên. – Tôi đến đế hỏi thăm tin tức của ông đầy, Mallet cắt nghĩa. Ông tử tế quá. Mời ông vào. Tay ông già hơi run. Ông kéo một cái ghế, mời ông thanh tra ngồi lên đó. Aurélien kéo lê một rôbô gãy hư đi khắp trong phòng. – Thằng bé này phản ứng như thế nào ? Viên thanh tra hỏi. – Ồ nó chưa hình dung được sự việc. Tôi phải nói là mẹ nó bận phải đi xa. ... Mời các bạn đón đọc Cạm Bẫy Hồng Nhan của tác giả Jean Louis Viot.
Cái Rìu, Cây Đàn Koto Và Cánh Hoa Cúc
​Seshi Yokomizo (1902-1981). Nhà văn Nhật Bản. Sau khi học về ngành dược, ông chuyển sang viết bài cho những tạp chí hình sự. Yokomizo, một Simenon thực sự của Nhật – bốn mươi tác phảm được phát hành với hàng chục triệu bản – là nhà văn viết truyện trinh thám được đọc nhiều nhất trong xứ sở của ông. Truyện dưới đây đã được đạo diễn Ichikawa Kon dựng thành film. Ông sinh ra ở Kobe. Seishi Ykomizo là nhà văn viết truyện trinh thám, hình sự xuất sắc của Nhật Bản, các tác phẩm trinh thám của ông được đọc giả Nhật đọc nhiều nhất. Năm 1921 tác phẩm đầu tay của ông “Tháng tư kinh hoàng” được đăng trên báo Thanh niên- tờ báo sau này ông làm tổng biên tập (1927-1932). Năm 1947 ông cho xuất bản tiểu thuyết trinh thám “Sự kiện Honjin giết người” được giải thưởng của hội các nhà văn viết truyện trinh thám. Sau đó ông liên tiếp cho xuất bản những truyện trinh thám, hình sự đặc sắc, với thám tử nổi tiếng Kintaichi, Kôsuke có mặt trong các vụ phá án. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim truyền hình Giải thưởng: Giải thưởng của hội các nhà văn viết truyện trinh thám (1947)  *** Các tác phẩm: - Tháng tư kinh hoàng - Sự kiện Honjin giết người - Thôn tám mộ - Đảo tù - Ác quỷ thổi sáo đã đến - Ong chúa - Dòng họ Inugami - Cái rìu, cây đàn Koto và cánh hoa cúc *** Kindaichi hắng giọng và quay sang Sukekiyo : - Sukekiyo, vụ án thứ nhất thế là đã rõ.Chúng ta bước sang vụ án thứ hai. Để tôi hỏi và ông trả lời. Đồng ý chứ ? Sukekiyo thẫn thờ gật đầu. - Ngày 25 tháng 11, ông có mặt ở Toyobata. Suketomo đã đem tiểu thư Tamayo đến đó. Việc tồi bại này khiến ông phẫn nộ nên ông đã đánh Suketomo và trói ông ta vào ghế. Sau đó, ông điện thoại cho Saruzo. - Vâng! Và tôi nghĩ rằng khi Saruzo đến cứu Tamayo, anh ta cũng sẽ cởi trói cho Suketomo. - …Nhưng, Saruzo chẳng làm điều đó mà chỉ đưa tiểu thư về, cho nên vào khoảng 7, 8h gì đó, có lẽ Suketomo đã tự cởi trói rồi trở về đây bằng chiếc thuyền của Saruzo… - Cái gì?...Tối hôm đó Suketomo đã trở về đây ? Giọng ông cảnh sát trưởng ngạc nhiên. - Vâng, thưa ông cảnh sát trưởng. Vết dây trói hằn trên ngực Suketomo chứng tỏ rằng sợi dây khá lỏng. Nhưng khi chúng ta tìm ra ông ta thì ông ta lại bị trói chặt, sợi dây như muốn cứa vào thịt. Đây là bằng chứng cho thấy ông ta đã bị trói lần thứ hai. Sukekiyo run lên: - Lại cũng là một tình thế đáng nguyền rủa…Sau khi rời Toyobata, tôi quyết định đến định cư vĩnh viễn ở Tokyo. Nhưng phải có tiền đã. Thế là tôi lẻn về gặp Shizuma. Trong khi chúng tôi đang trò chuyện thì có ai đó nhảy rào vào nhà…Chúng tôi nhìn qua cửa sổ và nhận ra Suketomo. Hắn loạng choạng đi về phía toà nhà chính…Đột nhiên có hai cánh tay từ trong bóng tối vươn ra và quáng vật gì đó như một sợi dây vào cổ hắn…Hắn chỉ chống cự được một lát rồi ngã xuống. Thủ phạm bước ra khỏi bóng tối. Tôi…tôi – Sukekiyo lắp bắp. Vâng, lại là một sự tình cờ khốn khổ ! Đây không phải là lần đầu tiên mà là lần thứ hai, Sukekiyo chứng kiến tác phẩm gớm ghiếc của mẹ mình… Matsuko lên tiếng, giọng thản nhiên , không thèm đếm xỉa đến những ánh mắt đang chòng chọc nhìn bà : - Tôi đang học đàn với bà Kokin…Tôi muốn làm một việc gì đó nên đã vào phòng Sukekiyo và qua cửa sổ phòng, tôi thấy Suketomo đang chèo thuyền về. Suốt từ tối, Umeko đã làm náo động cả nhà vì không tìm thấy nó…Tôi kín đáo bước ra khỏi nhà và chờ đợi nó trong bóng tối và với chiếc dây thắt lưng kimono của tôi… Matsuko chợt cười. Nụ cười thật đáng sợ. - Chính vào lúc đó bà đã bị thương ở ngón tay trỏ vì chiếc cúc áo của Suketomo? Chiếc cúc đã bị đứt… - Có lẽ…Tôi cũng không để ý nữa, chỉ khi trở về phòng, tôi mới biết tay mình bị chảy máu. Tôi nén đau và tiếp tục chơi đàn. Nhưng bà giáo Kokin đã nhận ra… ... Mời các bạn đón đọc Cái Rìu, Cây Đàn Koto Và Cánh Hoa Cúc của tác giả Seshi Yokomizo.
Sao Chiếu Mệnh - Sidney Sheldon
Sách Nói Sao Chiếu Mệnh   Cuốn sách kể về cuộc đời của Lara Cameron, một phụ nữ đã thành công rực rỡ trong nghiệp kinh doanh địa ốc. Xuất phát từ một gia đình rách nát ở Nova Scotia, nàng đã tự hứa với bản thân sẽ thâu tóm thật nhiều quyền lực để chứng tỏ với cha nàng rằng ông cụ đã sai khi nói về nàng. Đẹp nhưng không diêm dúa, quyền lực nhưng không bạo lực, Lara đã đấu tranh hết mình vì mục tiêu đó. Nàng đã thành công, nhưng nàng vẫn muốn nhiều hơn... Trong bối cảnh toàn cầu, từ London đến New York, từ Reno đến Rome, nàng tìm thấy mọi điều khát khao, và nàng đã chiến thắng. Theo cá nhân tôi, cùng với cuốn Nếu còn có ngày mai, If tomorrow comes, đây là một trong những cuốn truyện hay nhất của Sidney Sheldon. Mọi chuyện đều diễn tiến hợp lý trong cái bất hợp lý của nó. Một người phụ nữ khôn ngoan, mạnh mẽ, tham lam và nhiều mánh khóe.  *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Glace Bay, Nova Scotia 10 tháng Chín, 1952 James Cameron đang nằm trong một nhà thổ, say khướt, vào đúng cái đêm vợ ông sinh đôi, một trai một gái. Ông nằm trên giường, kẹp giữa hai ả gáỉ điếm cũng sinh đôi thì Kirstie, mụ chủ nhà chứa đập cửa thình lình. - James! - Mụ hét lên, đẩy mạnh cửa, bước vào. - Bà làm cái trò gì thế, - James giận dữ quát. - Tôi đã chui vào tận trong này mà vẫn không được yên ổn sao? - Xin lỗi đã gián đoạn thú vui của ông, James. Nhưng bà vợ ông... - Mặc xác mụ ta, - James Cameron gầm lên. Vợ ông đang đẻ... - Vậy hả? Thì cho mụ đẻ. Đấy là chuyện đàn bà các người. - Nhưng bác sĩ gọi điện đến. Ông ta tìm hỏi mãi mới biết ông ở đây. Vợ ông đang nguy kịch lắm. Ông nên đến với bà ấy xem sao. James lồm cồm ngồi dậy, trườn ra khỏi giường, mắt đờ đẫn, cố tỉnh lại. - Mụ khốn khiếp. Không để cho người ta được yên nữa - ông ngước nhìn mụ chủ chứa. - Thôi được rồi. Tôi đi. - Rồi đưa mắt nhìn hai ả gái điếm loã lồ trên giường. - Nhưng tôi không trả tiền hai cô này đâu. Tôi chưa làm được gì. Được! ông hãy mau về nhà trọ đi đã, - mụ chủ quay sang hai ả điếm: - Còn hai đứa, đi theo tao. James Cameron là một gã đàn ông mặt mũi trông như đã có thời là người dòng dõi cao quý, nhưng bây giờ thì sa đoạ đến mức không còn gì là tư cách nữa. Ông đã ngoài năm chục tuổi và làm quản lý một trong những nhà trọ của lão chủ ngân hàng Sean McAllister. Trong năm năm qua, James Cameron cùng với vợ là Peggy chia nhau số công việc nặng nhọc tại đấy. Bà thì lau dọn nhà và nấu ăn cho hai tá khách trọ. James thì lo thức uống cho họ. Thứ Sáu nào ông cũng làm nhiệm vụ đi thu tiền thuê trọ của khách ở cả bốn nhà trọ khác nữa trong thị trấn Glace Bay về nộp cho chủ là lão McAllister. Ngoài ra còn một việc nữa là khi nào thấy cần giải sầu, ông lại uống rượu say khướt. James Cameron hận đời. Dường như ông đã nếm đủ mọi nỗi uất hận của kẻ thất thế và không còn thấy cuộc đời có gì thú vị nữa. Năm ông mới một tuổi, gia đình ông bỏ quê hương ở Scotlanđ bên Anh, di cư sang đây với hai bàn tay trắng và cha mẹ ông phải vật lộn vất vả với cuộc sống. Cha ông bắt con vào làm thợ trong mỏ than từ lúc James mới mười bốn tuổi. Năm mười sáu tuổi, ông bị tàn tật vì một tai nạn nhỏ và thôi việc. Năm sau, cha mẹ ông qua đời trong một tai nạn đường sắt. Vì vậy James thấy nỗi khổ cực của ông đâu phải do ông. Ông đổ cho số phận ông hẩm hiu. Nhưng ông có hai ưu thế lớn. Hình dáng ông đẹp trai và khi cần ông có thể làm người xung quanh mến mộ. Trong một lần nghỉ cuối tuần ở Sydney, một thị trấn gần Glace Bay, ông gặp một cô gái Mỹ trẻ tuổi, dễ thương, tên là Peggy Maxwell. Cô đến đó nghỉ hè cùng với gia đình. Peggy không xinh đẹp gì lắm nhưng cha mẹ cô rất giầu, trong khi James đang nghèo xác, James bèn chài cô gái. Và bất chấp cha mẹ phản đối, Peggy đã lấy James. - Tôi sẽ cho con Peggy một khoản hồi môn là năm ngàn đô la, - bố Peggy nói với chàng rể. Anh hãy dùng khoản tiền đó để làm vốn làm ăn. Anh có thể đầu tư vào bất động sản và chỉ sau năm năm số tiền sẽ tăng gấp đôi. Tôi sẽ giúp anh. Nhưng James không đợi được đến 5 năm. Không hỏi ý kiến ai hết, ông bỏ số tiền bố vợ cho, chung vốn với một người bạn kinh doanh dầu lửa bất hợp pháp. Sau mười ngày, công việc tan tành, mất sạch cả vốn lẫn lãi. Bố vợ ông nổi cáu, kiên quyết không chịu giúp con rể lần nữa. - Anh là thằng ngu, James. Tôi không bỏ tiền ra cho thứ ngu như anh nữa? James lấy vợ định để đào mỏ ai ngờ lại đâm thành cực nhọc thêm. Bởi từ nay ông có thêm một cái miệng nữa phải nuôi mà ông lại đang thất nghiệp. Chính lão Sean McAlhster đã cứu ông. Lão chủ nhà băng này tuổi đã gần sáu mươi, dáng thấp tè và béo múp míp, có một đồng hồ quả quít vàng đeo trên sợi dây cũng bằng vàng. Lão đến sống ở thị trấn Glace Bay này cách đây hai chục năm và lập tức thấy ngay những thuận lợi ở vùng này. Thợ mỏ và dân nghèo từ khắp các nơi ùn ùn kéo đến thị trấn và không tìm ra nhà để ở. McAllister có thể cho họ vay tiền để xây nhà nhưng lão không làm thế. Lão thấy cách rẻ tiền hơn là xây những nhà trọ cho họ ở thuê. Hai năm sau lão đã có trong tay một khách sạn cùng năm nhà trọ, và tất cả đều chật ních. Rất khó tìm người quản lý các nhà trọ đó, bởi công việc của quản lý hết sức vất vả. Phải trông nom ngần ấy căn phòng, nấu ăn cho khách trọ và làm sao thu được đủ tiền của khách. Trong khi đó lão không muốn trả công cao. Vừa mới có một người quản lý đòi thôi việc, lão McAllister bèn phát hiện ra James Cameron có thể làm thay. Ông thường vẫn đến nhà băng của lão vay tiền và luôn trả chậm. Lão bèn sai người đến gọi James. - Tôi có việc làm cho anh đây, - McAllister nói. - Ông nói thật đấy chứ? - Anh gặp may. Tôi đang có một công việc tuyệt vời, mở ra nhiều triển vọng. - Làm ở nhà băng phải không? - James Cameron hỏi, trong lòng khấp khởi mừng. Nhà băng là nơi lắm tiền, làm ở đó thế nào chẳng kiếm được chút gì rơi vãi. - Không - McAlhster nói. - Anh là người có cái mã đẹp lại biết cách ăn nói. Anh nên làm công việc tiếp xúc với nhiều loại người. Tôi muốn thuê anh làm quản lý cho nhà trọ của tôi ở phố Cablehead. - Ông bảo làm quản lý nhà trọ ư? - James khó chịu hỏi. - Chứ sao nữa, - lão chủ nhà băng nói. - Anh chị đang chưa có chỗ ở tử tế. Bây giờ trông nom nhà trọ cho tôi, trước hết anh chị có nơi ăn chốn ở đàng hoàng, lại thêm một khoản tiền lương nhỏ nữa. - Nhỏ là bao nhiêu? - Tôi rộng tay với anh, James. Tôi trả anh hai mươi nhăm đô la một tuần. - Hai mươi nhăm thôi à? - Tuỳ anh thôi. Nhận hay không tuỳ anh. Còn khối người muốn làm chân này. Cuối cùng James không còn sự lựa chọn nào khác. - Thôi, cũng được. ... Mời các bạn đón đọc Sao Chiếu Mệnh của tác giả Sidney Sheldon.