Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Câu Chuyện Dòng Sông (Hermann Hesse)

Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt,

Tất Đạt, người con trai Bà La Môn đĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”. Mắt chàng thoáng những nét trầm tư mỗi lúc chàng dạo chơi trong khu rừng xoài, khi nghe mẹ hát, trong những buổi học với cha, hay khi chuyện trò cùng những người thức giả. Tất Đạt từ lâu đã sớm dự phần trong các cuộc đàm luận của những bậc tri thức, thường tranh biện với Thiện Hữu và cùng bạn thực tập suy tư quán tưởng. Chàng có thể đọc tiếng “Om”* trong im lặng - nói tiếng ấy trong tâm khi thở vào và thở ra, với tất cả tâm hồn, vầng trán chàng chói ngời tia sáng trí tuệ.

Cha chàng rất sung sướng vì con thông minh và khát khao hiểu biết. Ông tin tưởng chàng sẽ lớn lên thành một học giả, một mục sư, một hoàng tử trong giới Bà La Môn.

Mẹ chàng đầy kiêu hãnh khi nhìn con đi, đứng, khoẻ mạnh, xinh đẹp, dẻo dai. Tất Đạt chào mẹ với một dáng điệu nho nhã.

Và mỗi khi Tất Đạt dạo bước qua phố phường, với vầng trán cao, đôi mắt vương giả, dáng điệu thanh tao, thì những cô gái Bà La Môn bỗng nghe lòng rộn lên một niềm yêu thương rào rạt. Tìm mua: Câu Chuyện Dòng Sông TiKi Lazada Shopee

Thiện Hữu bạn chàng, con một người Bà La Môn, yêu chàng hơn ai hết. Chàng yêu đôi mắt và giọng nói trong trẻo của Tất Đạt. Chàng yêu dáng đi của Tất Đạt, cử động của chàng. Chàng yêu tất cả những điều Tất Đạt làm và nói, và trên tất cả, chàng yêu kiến thức của Tất Đạt, những tư tưởng đẹp đẽ và đầy nhiệt tình, ý chí mạnh mẽ và thiên tính cao vời của chàng. Thiện Hữu biết rằng chàng trai kia sẽ không trở thành một người Bà La Môn tầm thường, một người hành lễ tế thần biếng nhác, một kẻ ham nói phù chú, một người hùng biện khoác lác, một mục sư xảo quyệt, hay chỉ một con chiên ngoan ngớ ngẩn giữa đàn chiên đông. Không, và chính chàng, Thiện Hữu cũng không muốn trở thành một Bà La Môn như trăm ngàn Bà La Môn khác. Chàng muốn theo Tất Đạt, con người khả ái tuyệt vời kia. Vì nếu Tất Đạt có ngày trở thành một vị chúa tể, nếu có một ngày chàng bước vào cõi quang minh, thì lúc ấy Thiện Hữu muốn theo chàng như bạn chàng, như người tôi tớ của chàng, như cái bóng của chàng.

Mọi người đều yêu quí Tất Đạt như thế. Chàng làm cho họ vui vẻ hạnh phúc. Nhưng chính chàng, Tất Đạt, lại không hạnh phúc. Lúc lang thang dọc những con đường hồng trong vườn, khi ngồi trầm tư trong bóng xanh nhạt của cụm rừng, khi rửa đôi chân trong buổi thánh tẩy với tư thái đầy trang nghiêm, đâu đâu chàng cũng được mọi người quí trọng và là nguồn vui cho tất cả. Tuy thế thâm tâm chàng lại không được yên vui. Mộng ảo và những suy tư khắc khoải dồn vào tâm tưởng chàng từ khúc sông cuồn cuộn, từ những vì sao lấp lánh, từ ánh mặt trời chan hoà. Mộng tưởng và vọng động xâm chiếm chàng, dâng lên từ làn khói của những cuộc tế thần, phát ra từ những thánh thi tuôn tràn từ những giáo lý của các vị Bà La Môn.

Tất Đạt bắt đầu thấy những hạt giống khổ đau trong chàng. Chàng bắt đầu cảm thấy tình thương của song thân cũng như tình thương của Thiện Hữu không thể cho chàng hạnh phúc bình an, không thể thoả mãn chàng. Chàng bắt đầu ngờ rằng phụ thân đáng kính của chàng và các sư phụ khác, những vị Bà La Môn thông thái đã truyền hết cho chàng những tri kiến của họ rồi, tất cả kiến thức của họ đã trút vào túi khôn của chàng rồi. Nhưng túi khôn không đầy, trí năng chàng không thoả mãn, linh hồn chàng không bình yên và con tim không an nghỉ. Nước tịnh thuỷ tắm hàng ngày thật tốt, nhưng đây cũng chỉ là nước, không thể rửa sạch tội lỗi, không làm vơi bớt khổ đau của tâm hồn. Những cuộc tế thần và khấn nguyện cùng Thượng đế thật là tuyệt diệu, nhưng đấy phải chăng là tất cả... Và thần linh ấy là gì... Có phải thật là đấng sáng tạo ra thế giới... Không phải rằng linh hồn duy nhất đã tạo ra vũ trụ hay sao... Và thần linh phải chăng là những hình thái được tạo dựng như tôi và người, những sinh vật phù du... Và như thế phải chăng rất nên dâng lễ cho các thần linh... Và ta phải dâng cúng lễ vật cho ai nữa, phải kính nể ai nữa nếu không phải thần linh. Linh hồn duy nhất... Và linh hồn ở đâu, trái tim bất diệt ở đâu, nếu không phải Tự ngã, trong phần thâm sâu, bất diệt mà mỗi người đều mang sẵn... Nhưng đâu là Tự ngã ấy, phần thâm sâu ấy...

Đấy không phải là thịt xương, cũng không phải tư tưởng hay ý thức. Những người trí thức đều dạy chàng như thế. Vậy thì nó ở đâu... Đi tìm Tự ngã, Linh hồn ấy, có nơi nào khác đáng đặt chân không... Không ai chỉ đường, vì không ai biết, từ cha chàng, thầy chàng, những bậc thức giả cho đến những bài thánh thi.

Những người Bà La Môn và những thánh kinh của họ biết hết về mọi sự, họ đã đi sâu vào mọi vấn đề - sự tạo thiên lập địa, nguồn gốc của ngôn ngữ, thức ăn, hơi thở vào, thở ra, sự sắp đặt của những giác quan, hành động của những thần linh. Họ thông thạo vô số vấn đề - nhưng có bỏ công không, nếu họ không thấu hiểu vấn đề quan trọng độc nhất...

Nhiều câu thơ của thánh kinh nhất là Áo Nghĩa Thư - có nói về cái thâm sâu ấy. Kinh chép rằng: “Linh hồn mi là cả vũ trụ”. Khi một người ngủ, người ấy đi vào trong phần thâm sâu của mình va an trú trong linh hồn. Những câu thơ này chứa đựng một trí tuệ tuyệt diệu, mọi hiểu biết của thánh hiền đã diễn tả đầy trong ngôn ngữ diễm lệ, trong trẻo như mật hoa mà những con ong hút được. Không, vốn liếng tri thức to tát ấy, đã được bao thế hệ kế tiếp của những người hiền triết Bà La Môn kết tập duy trì, không thể nào dễ khinh thường. Nhưng đâu là những người Bà La Môn, mục sư, hiền triết đã thành công - không những trong sự nắm vững được tri thức sâu xa nhất này mà còn trong sự chứng nghiệm tri thức ấy... Đâu là người đã được điểm đạo để có thể, khi đạt đến linh hồn trong giấc ngủ, giữ linh hồn ấy lại trong trí thức, trong đời sống, khắp nơi, trong ngôn ngữ và hành động hàng ngày... Tất Đạt quen biết rất nhiều vị Bà La Môn đáng kính, nhất là cha chàng, một người thánh thiện, thông thái và được quí trọng. Cha chàng thật đáng kính phục với phong độ trầm tĩnh uy nghi. Ông sống một đời sống tốt đẹp, lời nói thì khôn ngoan, tư tưởng thì thanh cao, tế nhị - nhưng cả đến ông ta, người biết nhiều như thế, ông ta sống có hạnh phúc chăng... Có được bình an chăng... Ông ta lại không là người không ngớt tìm kiếm đó sao... Ông lại không liên tục tìm đến nguồn với cơn khát không bao giờ được thoả mãn, đến những cuộc tế thần, hay tìm đến sách vở và những cuộc luận đàm của dòng Bà La Môn đấy hay sao... Tại sao cha, người không có lỗi lầm ấy, phải rửa sạch tội lỗi và ráng sức tẩy mình mỗi ngày... Thế thì linh hồn không có ở trong cha hay sao...

Nguồn suối không có sẵn trong chính tâm ông sao... Người ta phải tìm thấy nguồn ở ngay trong tự thân mình, phải chiếm hữu nó. Mọi việc làm khác đều là mò mẫm sai lầm.

Đấy là những suy tư của Tất Đạt, nỗi khát khao của chàng, nỗi sầu muộn của chàng.

Chàng nhẩm lại với mình những lời trong quyển thánh kinh: “Thật ra tên của Đại ngã là chân lý. Thật vậy, ai biết điều này sẽ đi vào thế giới thần tiên mỗi ngày”. Thế giới thần tiên ấy có vẻ như gần, nhưng chưa bao giờ chàng hoàn toàn đạt đến nó thật sự, chưa bao giờ chàng thoả mãn được nỗi khát khao to lớn nhất. Và trong số những bậc hiền triết mà chàng quen biết và nghiền ngẫm lời dạy, cũng không có một ai hoàn toàn đạt đến cõi ấy - thế giới thần tiên. Không một ai giải thích được niềm khát khao tối hậu.

- Thiện Hữu, Tất Đạt nói với bạn, bạn hãy đi cùng tôi lại cây bàng kia. Chúng ta hãy tập thiền quán.

Họ đến cây bàng và ngồi cách nhau hai chục bước. Khi chàng ngồi, sẵn sàng đọc chữ “Om”, Tất Đạt lẩm nhẩm đọc câu thơ: “Om là chiếc cung, mà tên là linh hồn. Thượng đế, là đích mũi tên. Ở đó người nhắm đến không lay chuyển”.

Khi giờ tập toạ thiền ấy đã qua, Thiện Hữu đứng dậy. Trời đã về chiều. Ấy là giờ thánh tẩy buổi chiều.

Thiện Hữu gọi tên bạn, nhưng Tất Đạt không trả lời. Chàng ngồi đăm chiêu, đôi mắt chú mục như hướng về một cõi xa xăm, đầu lưỡi hơi lộ ra giữa hai hàm răng bầu biếc. Chàng không có vẻ như đang hô hấp; chàng ngồi như thể mất hút trong quán tưởng, nghĩ “Om”, linh hồn như mũi tên hướng về Đại ngã, Thượng đế.

Một ngày kia, vài vị Sa Môn đi qua thành phố của Tất Đạt. Là những người khổ hạnh lang thang, họ gồm ba người đã gầy mòn, không già không trẻ, đôi vai đầy bụi và rướm máu, gần như trần trụi, thân thể rám nắng, họ có vẻ cô đơn lạ lùng và tương phản với thế giới loài người. Xung quanh họ bao phủ một làn không khí của lòng say mê tận tuỵ và xã kỷ không chút tiếc thương.

Chiều ấy sau giờ quán tưởng, Tất Đạt nói với bạn: “Ngày mai tôi sẽ đi theo những vị Sa Môn. Tất Đạt sẽ trở thành Sa Môn như họ”. Thiện Hữu choáng váng khi nghe những lời nói ấy và đọc niềm cương quyết trên nét mặt cương nghị của bạn, một niềm cương quyết không chuyển hướng tợ mũi tên phóng khỏi tầm cung. Khi nhìn nét mặt bạn, Thiện Hữu nhận rõ ngay giờ đã đến; Tất Đạt sắp bước lên đường chọn lựa; định mệnh chàng bắt đầu ló dạng và cùng với định mệnh Tất Đạt, định mệnh Thiện Hữu cũng theo cùng. Và mặt Thiện Hữu bỗng tái xanh như tàu lá, chàng kêu lên:

- Ồ! Tất Đạt! Liệu phụ thân anh có cho phép chăng...

Tất Đạt nhìn bạn như một người tỉnh giấc. Nhanh như chớp chàng đọc thấu tâm can bạn, nỗi lo âu, lòng tùng phục.

- Đừng phí lời, Thiện Hữu - Chàng khẽ nói. Ngày mai, lúc rạng đông tôi sẽ bắt đầu đời sống Sa Môn.

Chúng ta đừng thảo luận chuyện ấy nữa.

Tất Đạt bước vào phòng khi cha đang ngồi trên một tấm đệm. Chàng tiến đến sau lưng cha và đứng lặng cho đến khi cha biết có chàng.

- Con đấy ư, Tất Đạt... Ông hỏi. Cứ nói lên cho cha nghe những gì con đang nghĩ.

- Thưa cha, nếu cha cho phép, con đến thưa cha rằng con muốn rời nhà ngày mai, để đi theo những người khổ hạnh. Con muốn trở thành một vị Sa Môn. Con tin rằng cha sẽ không ngăn cản.

Người hiền triết Bà La Môn lặng im rất lâu, lâu quá đến nỗi khi những vì sao đã lạc qua song cửa nhỏ và chuyển hướng, sự im lặng trong gian phòng mới được đánh tan. Người con đứng lặng, hai vòng tay khép chặt. Người cha cũng bất động ngồi trên chiếc thảm. Những ngôi sao băng qua nền trời. Rồi ông bảo:

- Không lẽ cha, một người tu đạo lại thốt lời giận dữ hùng hổ, nhưng cha rất bất bình. Cha không muốn con lặp lại lời xin ấy một lần nữa.

Bậc hiền nhân từ từ đứng lên. Tất Đạt vẫn khoanh tay đứng lặng.

- Tại sao còn đợi đấy... Cha chàng hỏi.

- Cha cũng hiểu tại sao rồi. Chàng đáp.

Người cha rời phòng, bất mãn và đi nằm.

Khi đã một giờ trôi qua không ngủ được, vị hiền nhân đứng dậy, đi bách bộ ra khỏi nhà. Ông nhìn qua cửa sổ nhỏ và thấy Tất Đạt vẫn đứng khoanh tay bất động. Ông có thể thấy chiếc áo nhạt của chàng thấp thoáng. Tâm hồn bất an, người cha trở về giường nằm. Một giờ nữa lại trôi qua, ông không ngủ được, lại trở dậy đi bách bộ, ra khỏi nhà và thấy trăng đã lên. Ông nhìn qua cửa sổ. Tất Đạt còn đứng đấy bất động, vòng tay vẫn khép; mảnh trăng chiếu sáng trên chân chàng. Người cha đi ngủ, lòng xao xuyến.

Một giờ sau ông trở ra và hai giờ sau ra lại, nhìn qua cửa sổ thấy Tất Đạt vẫn còn đứng đó trong ánh trăng, trong ánh sao, trong đêm tối. Ông yên lặng trở lại hàng giờ, và vẫn thấy Tất Đạt đứng đấy bất động. Lòng ông tràn ngập giận, lo, sợ và buồn.

Vào giờ cuối đêm, trước bình minh, người cha trở lại, đi vào phòng và thấy đứa con niên thiếu vẫn còn đứng.

Ông trông thấy dáng chàng cao xa lạ với mình. Ông gọi:

- Này Tất Đạt, sao con còn đợi kia...

- Cha đã biết tại sao.

- Con có đợi được đến mai, trưa, chiều hay không...

- Con sẽ đứng và đợi.

- Con sẽ mệt mỏi, Tất Đạt...

- Con không mệt mỏi.

- Con sẽ buồn ngủ, Tất Đạt...

- Con sẽ không buồn ngủ.

- Con sẽ chết, Tất Đạt...

- Con sẽ chết.

- Và con thà chết còn hơn là nghe lời cha con...

- Con luôn luôn nghe lời cha.

- Vậy thì con hãy bỏ ý định của con đi...

- Con sẽ làm những gì cha dạy bảo.

Ánh sáng đầu tiên của ngày lan vào phòng. Người Bà La Môn trông thấy hai đầu gối của Tất Đạt run nhẹ, nhưng gương mặt chàng bình thản, đôi mắt nhìn vô tận. Người cha nhận ra rằng Tất Đạt không thể ở lại với mình lâu hơn - rằng Tất Đạt sắp rời bỏ mình. Ông đặt tay lên vai Tất Đạt và bảo:

- Con sẽ đi vào rừng làm thầy Sa Môn. Nếu con tìm thấy hạnh phúc trong rừng sâu, hãy trở về và chỉ lại cho ta. Nếu con thấy đấy chỉ là ảo tưởng, hãy trở về, và chúng ta sẽ lại cúng tế các thần linh. Bây giờ hãy hôn mẹ con và thưa lại cho mẹ hay nơi con đến. Còn ta đã đến giờ ra sông làm lễ thánh tẩy.

Ông buông vai Tất Đạt và ra đi. Tất Đạt lảo đảo bước. Chàng cố gượng cúi chào cha và tìm mẹ theo lời cha dặn.

Khi Tất Đạt rời châu thành yên tĩnh đang say ngủ vào lúc rạng đông với đôi chân tê cóng, một bóng người âm thầm xuất hiện từ căn lều cuối cùng và theo dõi chàng. Đó là Thiện Hữu. Tất Đạt mỉm cười.

- Bạn đến đấy à!

-

Tôi vừa đến. Thiện Hữu trả lờiDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hermann Hesse":Câu Chuyện Dòng SôngẢo HóaĐâu Mái Nhà XưaĐôi Bạn Chân TìnhMối Tình Của Chàng Nhạc SĩNarcisse Và GoldmundNhà Khổ Hạnh Và Gã Lang ThangTuổi Trẻ Băn Khoăn

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Câu Chuyện Dòng Sông PDF của tác giả Hermann Hesse nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chuyển Pháp Luân (Lý Hồng Chí)
Luận Ngữ Bài giảng thứ nhất 1. Chân chính đưa con người lên cao tầng2. Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau3. Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu Tìm mua: Chuyển Pháp Luân TiKi Lazada Shopee 4. Khí công là văn hoá tiền sử5. Khí công chính là tu luyện6. Luyện công vì sao không tăng công7. Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp Bài giảng thứ hai 1. Vấn đề liên quan đến thiên mục2. Công năng dao thị3. Công năng túc mệnh thông4. Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới5. Vấn đề hữu sở cầu Bài giảng thứ ba 1. Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử2. Công pháp Phật gia và Phật giáo3. Tu luyện phải chuyên nhất4. Công năng và công lực5. Phản tu và tá công6. Phụ thể7. Ngôn ngữ vũ trụ8. Sư phụ cấp gì cho học viên9. Trường năng lượng10. Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào Bài giảng thứ tư 1. Mất và được2. Chuyển hoá nghiệp lực3. Đề cao tâm tính4. Quán đỉnh5. Huyền quan thiết vị Bài giảng thứ năm 1. Đồ hình Pháp Luân2. Kỳ Môn công pháp3. Luyện tà pháp4. Nam nữ song tu5. Tính mệnh song tu6. Pháp thân7. Khai quang8. Khoa chúc do Bài giảng thứ sáu 1. Tẩu hoả nhập ma2. Luyện công chiêu ma3. Tự tâm sinh ma4. Chủ ý thức phải mạnh5. Tâm nhất định phải chính6. Khí công võ thuật7. Tâm lý hiển thị Bài giảng thứ bảy 1. Vấn đề sát sinh2. Vấn đề ăn thịt3. Tâm tật đố4. Vấn đề trị bệnh5. Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công Bài giảng thứ tám 1. Tịch cốc2. Trộm khí3. Thu khí4. Ai luyện công thì đắc công5. Chu thiên6. Tâm hoan hỷ7. Tu khẩu Bài giảng thứ chín 1. Khí công và thể dục2. Ý niệm3. Tâm thanh tịnh4. Căn cơ5. Ngộ6. Người đại căn khí ……… Cuốn «Chuyển Pháp Luân» không đẹp đẽ về văn chương bề mặt, thậm chí không phù hợp với ngữ pháp hiện đại. Tuy nhiên, nếu tôi dùng ngữ pháp hiện đại để chỉnh lý cuốn [sách] Đại Pháp này, thì sẽ xuất hiện một vấn đề nghiêm trọng: quy phạm kết cấu của ngôn ngữ văn chương [dẫu] trau chuốt, nhưng sẽ không có nội hàm cao hơn và sâu hơn. Bởi vì việc sử dụng từ vựng quy phạm hiện đại hoàn toàn không cách nào biểu đạt được chỉ đạo của Đại Pháp tại các tầng khác nhau ở cao hơn và biểu hiện của Pháp tại mỗi từng tầng, cũng như [không thể] dẫn đến diễn hoá [về] bản thể và công của học viên cùng các loại biến hoá về thực chất trong đề cao [tầng]. ……… Lý Hồng Chí5 tháng Giêng, 1996Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyển Pháp Luân PDF của tác giả Lý Hồng Chí nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chân Phật Pháp Trung Pháp (Đang Cập Nhật)
Có một hôm, khi thiền định, nghe trong không trung có tiếng nói: “Chúng sanh mê muội, con đường tu pháp lắm nẻo đi, khổ luân chưa giải, sao không giáo hóa” Ta hỏi: “Phải giáo hóa như thế nào?” “Sao không thuật lại chi tiết vô thượng khẩu quyết” “Là nói bí mật tất cả các Chư gia ủy thác, sao không cố hết lòng truyền thụ?” Tìm mua: Chân Phật Pháp Trung Pháp TiKi Lazada Shopee “Chính thị chư Phật thương lấy chúng sanh, tâm phát từ bi, khinh nang khẩu thụ.”, “Đã được như thế thì không còn là điều bí mật nữa” “Ngọn nguồn thùthắng, thành tựu Chân Phật, Liên Sanh tốc tả.” Lúc này trong không trung thập phương tam thế chư Phật, ngân vang lời tụng: Liên Sinh Kim Cang Tôn Thượng Sư, Vô Thượng Trang Nghiêm Đại Tổng Trì. Chư Phật thập phương đồng cầu thỉnh. Thuyết pháp cộng quy bản tôn hải. Từ mẫn tỉ thuật đại khẩu quyết. Giải thích Kim Cang đại bí mật. Triển chuyển độ tận hữu tình chúng. Như thị công đức chân bất hư”. Sau khi tôi xuất định, trong long có sự cảm ngộ, biết rằng tôi tuy viết ra các Pháp bản như “Bí trung Chân Phật Bí” và “Mật tạng kỳ trung kỳ”, nhưng chưa hoàn toàn thuật lại một cách tỉ mỉ và chi tiết những câu khẩu quyết trong đó, những khẩu quyết trong đó, tại sao tôi lại chưa nói, chỉ là do “Cảnh giới của Phật (phần Quả) không thể nói.” Nếu muốn mang những điều “không thể nói” cũng viết ra, thì chỉ có dung phương pháp “tượng trưng” mới có thể giải thích rõ ràng được. Ví dụ: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dùng “Không” để nói về cảnh giới của Phật. Duy Ma Sĩ dùng “Tĩnh tựa sấm rền” của sự mật bất phát. Ngày nay, Phật sống Liên Sinh muốn dùng “Chân Phật Pháp Trung Pháp” của Thiên Mã Hành Không để “tượng trưng”. Thật ra, các cách thức tu Pháp, rộng lớn như biển cả, cho dù viết lên hơn ngàn quyển sách, cũng không thể viết hết ra được, Pháp bản có pháp đơn giản dễ hiểu, cũng có pháp khá thâm sâu, có pháp thể hiện ra bên ngoài, cũng có pháp ẩn trong nội tại, có pháp sơ sài, cũng có pháp nghiêm mật, có pháp là dòng pháp phụ, cũng có pháp là dòng pháp chính. Ngày nay, muốn tôi nói về “Vô thượng khẩu quyết của việc tu pháp”, thật sự không phải là việc dễ dàng. Những Pháp môn chư Bồ Tát đã truyền mệnh phải viết ra, thì không thể không viết, tôi chỉ mong rằng văn bút và lời khẩu thuật của mình không phải là chiếc bánh vẽ, càng không phải giả danh, không có giả dối, không phải xuyên tạc, không gán ghép gượng gạo. Đệ tử của “Phật sống Liên Sinh", trên thế giới đã có 200 ngàn người, để lại vết tích cả ở Tây Âu, có sự kế thừa mật thiết, được tổng hợp lại trong năm bộ Vạn Pháp Mật Tông, lúc ẩn lúc hiện tựa như Thần Long trên trời, biến hóa khôn lường, biết tất cả mọi Đại Pháp, tựa như kho tàng hư không, cái gọi là hình ảnh Tam Bảo, được hội tụ trong nhất thể. Và hôm nay viết ra “Chân Phật Pháp Trung Pháp”, khẩu quyết vô thượng của việc tu pháp, đây là điều từ bi hỉ xả thật sự, Hành giả tuyệt không thể dựa vào những ngôn từ lí luận và triết học, mà phải dựa vào sự “thực tu” chân chính, chỉ có thực tu mới có thể nhìn thấu hết sự huyền diệu, mới có được sự dung hợp giao lưu với Phật quang. Vô thượng khẩu quyết của “Chân Phật Pháp Trung Pháp”, sẽ tỉ thuật rõ thân thể làm sao có thể biến nhỏ lại, nhỏ đến mức giống như một hạt cát, bất cứ nơi nào nhỏ hẹp nào cũng có thể chui vào được. Làm thế nào để biến thân thể lớn lên, lớn đến nỗi bao trùm cả vũ trụ. Ở trong hư không, cảnh giới tựa mây tựa mưa tựa khói. Vào đến Thiên Cung và sự phân thân biến hóa, thậm chí đến được cảnh giới Bất Khả Thuyết của Phật, Cái không thể nói trong đó thì phải tượng trưng nói ra như thế nào. “Chân Phật Pháp Trung Pháp”, là đại khẩu quyết của việc thực tu tu pháp, tất cả bí mật rõ ràng bên trong đều tồn tại trong đó, tôi cho rằng đây là tâm pháp trân quý, là tâm đắc của bản thân, đạt được nữa là đạt được sự giải thoát hoàn toàn, tôi sẽ thuật lại một cách tỉ mỉ rõ ràng một lần nữa.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đang Cập Nhật":Thực Hành Lửa TímHãy Có Lý Trí Để Nhận BiếtChân Phật Pháp Trung PhápMục Đích Đời Sống Con Người499 Điều Cấm Kỵ Trong Phong ThủyĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chân Phật Pháp Trung Pháp PDF của tác giả Đang Cập Nhật nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
36 Tầng Trời (Quân Trần)
36 Đại La Thiên Cõi Tối Đại Niết Bàn Ngọc Hoàng Thượng Đế Tam Thanh thiên 35 Ngọc Thanh Cảnh Thanh Vi thiên Cõi Đại Niết Bàn Nguyên Thỉ Thiên Tôn 34 Thượng Thanh Cảnh Vũ Dư thiên Cõi Cận Niết Bàn Linh Bảo Thiên Tôn 33 Thái Thanh Cảnh Đại Xích thiên Cõi Niết Bàn [Tiên thể] Thái Thượng Lão Quân Phạn thiên 32 Bình Dục Cổ Dịch thiên Tìm mua: 36 Tầng Trời TiKi Lazada Shopee Cõi Bồ Đề [Kim thân] A La Hán (Arahanta) [Giải thoát khỏi Tam Giới] phá 5 kiết sử cuối - Sắc ái (chấp phước cõi trời) - Vô sắc ái (chấp phước thiền định) - Kiêu mạn - Phóng dật (lười biếng) - Vô minh 31 Long Biến Phạm Độ thiên 30 Ngọc Long Đằng Thắng thiên 29 Vô Thượng Thường Dung thiên vùng ngăn cách TAM GIỚI & TỊNH ĐỘ Vô Sắc Giới 28 Tú Nhạc Cấm Thượng thiên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên Hết thô tưởng, còn tế tưởng 27 Hàn Sủng Diệu Thành thiên Vô Sở Hữu thiên Tâm không chấp hiện tượng 26 Uyên Thông Nguyên Đỗng thiên Thức Vô Biên thiên Tâm trùm khắp pháp giới 25 Hạo Đình Tiêu Độ thiên Không Vô Biên thiên Tâm rỗng rang thanh tịnh Sắc Giới 24 Vô Cực Đàm Thệ thiên Vô Song (Sắc Cứu Kính) thiên Ngũ Tịnh Cư thiên Huệ Căn sung mãn A Na Hàm (Anagami) [Bất lai] hoàn toàn phá 2 kiết sử - Tham dục (tình dục) - Sân hận 23 Thượng Thiệt Nguyễn Nhạc thiên Thiện Hiện thiên Định Căn sung mãn 22 Vô Tư Giang Do thiên Thiện Kiến thiên Niệm Căn sung mãn 21 Thái Hoàng Ông Trọng thiên Vô Nhiệt thiên Tấn Căn sung mãn 20 Thủy Hoàng Hiếu Mang thiên Vô Phiền thiên Tín căn sung mãn 19 Hiển Định Cực Phong thiên Vô Tưởng thiên Đệ Tứ thiền thiên xả niệm, thanh tịnh không lạc, không khổ vượt qua vô thức & ý thức khai mở thần thông 18 Thái An Hoàng Nhai thiên Quãng Quả thiên 17 Nguyên Tái Khổng Thăng thiên Phúc Ái thiên 16 Thái Hoán Cực Dao thiên Phúc Sinh (Tịnh Cư) thiên 15 Huyền Minh Cung Khánh thiên Biến Tịnh thiên Đệ Tam thiền thiên xả niệm lạc trú nội tâm vi diệu thanh tịnh vượt qua vô thức kềm chế bản năng 14 Quang Minh Đoan Tĩnh thiên Vô Lượng Tịnh thiên 13 Hư Minh Đường Diệu thiên Thiểu Tịnh thiên 12 Trúc Lạc Hoàng Già thiên Quang Minh thiên Đệ Nhị thiền thiên hết tầm hết tứ trí tuệ sắc bén kiến giải vô ngại biết trước giờ chết 11 Diệu Minh Tông Phiêu thiên Vô Lượng Quang thiên 10 Huyền Minh Cung Hoa thiên Thiểu Quang thiên 9 Xích Minh Hòa Dương thiên Đại Phạm thiên Sơ thiền thiên chánh niệm tỉnh giác phá 5 triền cái (tham, sân, trầm, trạo, nghi) ly dục sinh hỷ còn tầm còn tứ 8 Thái Cực Mông Ế thiên Phạm Phụ thiên 7 Hư Vô Việt Hành thiên Phạm Chúng thiên Dục Giới 6 Thất Diệu Ma Di thiên Tha Hoá Tự Tại thiên Tự Tại Vương (thiên ma Ba Tuần) Tư Đà Hàm (Sakadagami) [Nhất lai] - áp chế 2 kiết sử - Tham dục (tình dục) - Sân hận Tu Đà Hoàn (Sotapatti) [Thất lai] - phá 3 kiết sử - Giới Cấm Thủ (cố chấp) - Nghi (giao động niềm tin) - Thân kiến (ích kỷ) 5 Nguyên Minh Văn Cử thiên Hoá Lạc thiên Thiện Hoá Vương 4 Huyền Thai Bình Dục thiên Đâu Suất thiên Ngoại Đâu Suất San Đâu Suất Đà Vương Nội Đâu Suất Di Lặc Bồ Tát 3 Thanh Minh Hà Đồng thiên Dạ Ma thiên Tu Dạ Ma Vương 2 Thái Minh Ngọc Hoàn thiên Đao Lợi thiên Thiên Chủ Đế Thích 1 Thái Hoàng Hoàng Tằng thiên Tứ Đại Thiên Vương thiên Đông Trì Quốc ThVg Nam Tăng Trưởng ThVg Tây Quảng Mục ThVg Bắc Đa Văn ThVgĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 36 Tầng Trời PDF của tác giả Quân Trần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luyện Tinh - Khí - Thần (Đạo Cao Đài)
- TAM BỬU TRONG PHÉP LUYỆN ĐẠO Tam bửu trong phép Luyện đạo: TINH: A: Essence of material body. P: Essence du corps matériel. Tìm mua: Luyện Tinh - Khí - Thần TiKi Lazada Shopee KHÍ: A: Vital energy. P: Énergie vitale. THẦN: A: Mind. P: Esprit. Ba chữ "Tinh, Khí, Thần" trong trường hợp Luyện đạo có ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn với trường hợp dâng Tam bửu cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu. Chúng ta đọc đoạn Thánh Ngôn sau đây của Chí Tôn: TNHT: "Thầy cắt nghĩa: Mỗi kẻ phàm dưới thế đều có hai xác thân: một cái phàm gọi là Corporel, còn một cái thiêng liêng gọi là Spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng. Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi TINH, KHÍ, THẦN mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc đạo, mà có TINH, KHÍ, không có THẦN thì không thế nhập mà hằng sống được. Còn có THẦN không có TINH, KHÍ thì khó huờn đặng Nhị xác thân. Vậy ba món báu đó phải hiệp mới đặng. Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch, mới nhẹ hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn Khôn đặng. Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng. Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết." Trong Đại Thừa Chơn Giáo, trang 52 và 69, có giải về Tinh Khí Thần, xin trích ra sau đây: "Như con người lo lắng, vọng tưởng điều nầy sự nọ thì lao Thần; còn ham muốn mơ mộng phú quí vinh hoa thì tản Khí; bằng say đắm tình trường dục hải thì tổn Tinh. Hễ Tam bửu hao mòn thì nào khác chi ngọn đèn tàn, dầu hao tim lụn, leo lét canh khuya, khi mờ khi tỏ, tất nhiên một hồi phải tắt ngay. Vả như Tam bửu hư hoại thì tự nhiên Ngũ Hành, Ngũ Tạng cũng phải xiêu bè suy nhược theo nhau."Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đạo Cao Đài":Kinh Sám HốiThượng Đế Giảng Chân LýPhật Mẫu - Diêu Trì Kim MẫuTìm Hiểu Về Thiên Tai Và Thiên CơĐại Giác Thánh KinhVì Sao Thờ Chữ KhíLuyện Tinh - Khí - ThầnChiết Tự Chữ HánThánh Ngôn Hiệp TuyểnBước Đầu Học ĐạoGóp Nhặt Chuyện ĐạoThất Chân Nhân QuảGiáo Lý Đạo Cao Đài Cơ BảnTriết Lý Đại ĐồngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luyện Tinh - Khí - Thần PDF của tác giả Đạo Cao Đài nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.