Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Manon Lescaut - Abbe Prevost

Đời văn của linh mục Prévost thật khác thường: người đương thời từng say mê chuyền tay nhau đọc những pho tiểu thuyết bề thế của Prévost, chăm chú lắng nghe những bài diễn giảng của ông. Nhưng đến đầu thế kỷ XIX, ánh hào quang của những áng văn đó đã lu mờ đi, những bài diễn giảng kia không còn hợp với khẩu vị của công chúng thời nay nữa. Và bản thân tên tuổi của Prévost chắc hẳn rồi cũng sẽ mai một, nếu ông không để lại tập Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Thiên truyện tuy chiếm một chỗ đứng hết sức nhỏ nhoi trong toàn bộ cái di sản văn chương khá đồ sộ của nhà văn, nhưng nó đã mang lại cho Prévost một vinh quang thực sự bất tử và đưa ông lên hàng những đại biểu lớn nhất của văn chương thế giới. Antoine Francois Prévost sinh ngày mồng 1 tháng Tư năm 1697 tại thành Eđen (tỉnh Arthur) trong một gia đình tư sản rất được trọng vọng. Hồi bé, cậu học tại quê nhà, trong một trường sơ học của dòng Jésuistes. Bước sang tuổi thiếu niên, Prévost đã được bố mẹ thu xếp để cậu con sẵn sàng dấn thân vào con đường phụng sự Chúa. Vừa chớm đến tuổi trưởng thành, năm 16 tuổi, ông đã là sinh đồ của một chủng viện dòng Jésuistes ở Paris. Tại đây, người ta đã nhanh chóng nhận ra những khả năng xuất sắc của chàng trai, nên chỉ hai năm sau (1715), Prévost đã được gửi tới thị trấn La Flèche, theo học tại một trong những cơ sở đào tạo lớn nhất thời bấy giờ – trường Henri IV. Theo chương trình học thì tại đây, Prévost sẽ phải nghiền ngẫm giáo lý, triết học và các khoa học nhân văn khác. Nhưng mới học chưa đầy một năm, chẳng rõ vì lý do gì, ông đã từ giã La Flèche, ra đi. Từ đó, Prévost bắt đầu dấn thân vào không biết cơ man nào là những cuộc phiêu lưu, để cho miệng thế đã không ngớt lời dèm pha, thêu dệt nên đủ mọi thứ chuyện trong suốt nhiều năm sau đó. Các nhà văn học sử đã phải tốn khá nhiều giấy mực mới đẩy lùi được những lời đơm đặt nhảm nhí, bôi lọ tiểu sử của Prévost. Nhưng chỉ cần tính riêng những điều không thể chối cãi được trong đời tư của nhà văn, ta cũng đủ thấy ông đã phải sống một cuộc đời hết sức phức tạp, đầy sóng gió và mâu thuẫn, nhất là trong những năm còn đang độ trẻ trung. Rời La Flèche, Prévost sung ngay vào quân đội, làm một anh lính thường. Tòng ngũ chưa đầy hai năm, ông lại muốn về lại với cuộc sống tu hành (năm 1719), nhưng đã bị cự tuyệt. Prévost tức tốc sang ngay La Mã, hy vọng rằng sẽ cạy cục được các đấng bề trên của dòng Jésuistes cho mình được quyền tái nhập, để tiếp tục học hành. Nhưng giữa đường, chẳng may ông thọ bệnh. Một viên sĩ quan đã đứng ra giúp đỡ Prévost, đưa ông vào nhà thương và lo liệu cơm nước, thuốc thang. Nhưng chẳng bao lâu sau ông mới vỡ nhẽ ra rằng viên sĩ quan nọ chẳng phải chỉ vì nhân từ mà cưu mang ông; trong thâm tâm, gã còn nuôi một ý định khác: dụ dỗ chàng trai quay lại với cuộc đời binh nghiệp. Các khoản chi phí ông ta bỏ ra cho Prévost, chẳng qua chỉ như là món tiền ứng trước để ít nữa sẽ khấu vào đồng lương chú lính trẻ. Bởi thế, gã buộc Prévost phải tiếp tục tòng ngũ như trước. Để khỏi tái đăng bất đắc đĩ, Prévost bỏ sang Hà Lan. Được ít lâu, ông lại quay về quê, sống với gia đình. Có lẽ đây chính là thời kỳ nhà văn phải nếm trải cuộc phiêu lưu, tương tự như cuộc phiêu lưu tả trong thiên truyện nổi tiếng sau này. Cũng giống như nhân vật chính cuốn truyện, Prévost đã nhất quyết đi theo người tình mình yêu say đắm, đang bị cảnh sát bắt giữ, nhưng giữa đường thì lăn ra ốm, không còn kịp theo chân đám tù nhân kia, và từ đó mãi mãi mất hút tăm tích người yêu. Đau khổ và tuyệt vọng, Prévost bèn tìm cách lánh đời, và ông lại quay về với kinh bổn, nhưng lần này không phải trong dòng tu cũ, mà của dòng Bénédictin, vốn nổi danh với những trước tác khoa học, nhất là sử học nói riêng, Sau một năm thụ huấn, Prévost làm lễ tuyên thệ (1721). Nhưng ông không sao kham nổi nếp sống câu thúc giữa bốn bức tường âm u, và lòng vẫn không nguôi nhớ nhung cảnh sống phóng khoáng ngày nào. Quan hệ giữa ông với các vị chức sắc cai quản dòng tu cứ trở nên ngày một rắc rối dần. Bởi thế, chỉ trong vòng bảy năm thôi (1721-1728), Prévost đã phải tám lần thay đổi nơi tu luyện. Đó chính là thời kỳ Prévost bắt đầu lao vào sáng tác. Tại các trai phòng của tu viện Blanc-Manto và Saint-Germain des Prés, ông đã hoàn thành bốn tập đầu bộ Ký sự của một trang quý tộc lánh đời, thiên tiểu thuyết đã được coi là tác phẩm đã làm rạng danh cho tác giả. Hai tập đầu thiên truyện ra mắt công chúng vào đầu năm 1728. Sự xuất hiện của hai tập tiếp theo, tập III và tập IV, trùng với thời kỳ xảy ra một bước ngoặt ghê gớm trong đời nhà văn: ông bí mật trốn khỏi tu viện, lên đường về Paris. Dòng tu Bénédictin mưu toan ỉm đi vụ xì-căng-đan đó, thuyết phục ông quay về, nhưng vô hiệu. Bởi thế, họ đã phải nhờ đến viên cục trưởng cảnh sát kinh thành can thiệp, yêu cầu bắt giữ vị tu sĩ bỏ trốn. Ngày 6 tháng Một năm 1728, cảnh sát kinh thành ký lệnh bắt giam. Nhưng đáng nực cười là trong đơn kiện, dòng tu Bénédictin đã ghi rõ ràng kẻ bị truy nã là tác giả bộ Ký sự của một trang quý tộc - thiên truyện đang làm xôn xao dư luận Paris lác bấy giờ. Chỉ mươi hôm sau, ngày 19 tháng Một, kiểm duyệt cũng đã ký lệnh cho phép in tập III và tập IV Ký sự của một trang quý tộc. Hay tin cửa ngục đang mở rộng để chờ mình, Prévost hối hả rời quê nhà, sang Anh. Từ đó lại bắt đầu một chặng đường luân lạc mới là đồng thời cũng là giai đoạn hoạt động sáng tác sôi nổi nhất của nhà văn. Prévost tha hương từ năm 1729 đến hết năm 1734. Có thời, ông đã phải làm gia sư cho một quý tộc Anh, nhưng phần lớn thời giờ và tâm huyết lại dành cho viết lách. Năm 1751, Prévost bỏ sang Hà Lan. Trong chuyến đi này, chắc hẳn nhà văn đã mang sẵn trong hành trang Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, và định đưa cho các nhà in ở Amsterđam xuất bản, Tuy nhiên, ngây ngất với những thành công tuyệt đỉnh của bộ Ký sự, các nhà kinh doanh sách Hà Lan chỉ muốn nhận từ tay ông những tập tiếp theo của bộ tiểu thuyết đó. Vì túng bấn, Prévost phải bắt tay viết tiếp hai tập nữa, mặc dù Ký sự hoàn toàn chẳng cần phụ thêm một dòng tục biên nào. Do nhu cầu thương mại, bộ tiểu thuyết đã được gắn thêm hai tập mới trong đó có một tập là Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, mặc dù chính tác giả cũng đã phải thú thực trong Lời tựa ở đầu sách rằng câu chuyện tả ở đây chẳng hề liên quan gì với những biến cố đã thuật lại trong Ký sự. Như thế là, thiên truyện nhỏ khiến cho danh tiếng của linh mục Prévost trở nên bất tử đã ra mắt độc giả lần đầu ngay từ năm 1751, với tư cách là phụ lục của bộ Ký sự của một trang quý tộc mà ngày nay đã hoàn toàn bị lãng quên. Các sáng tác của Prévost sở dĩ được nhiều người hâm mộ trước hết là do tính hấp dẫn của chúng. Các tác phẩm của ông hầu như trang nào cũng vẽ lên một biến cố rất đỗi lôi cuốn – khi thì cảnh bắt cóc hoặc giết người, khi thì một cuộc truy nã, và đâu đâu cũng đầy rẫy những sự trùng khớp hết sức tình cờ, hành động tả ở đây phần nhiều đều diễn ra tại những căn nhà ẩm thấp, những lâu đài âm u, những cánh rừng hoang vắng hoặc những xứ sở xa lạ. Trong các nhân vật chính, bao giờ cũng phải có mặt một con “quỷ dữ”, tâm địa hắc ám, hành tích đầy bí ẩn, hiện thân cho cái ác. Người đọc còn bị lôi cuốn bởi những nét mới lạ mà Prévost lồng vào tính cách các nhân vật: tiểu thuyết nào của ông cũng khắc họa những con người tâm can bị thiêu đốt bởi những khát vọng mãnh liệt, có thể nuốt chửng hết thảy mọi thứ trên đời và lí trí không sao cưỡng nổi. Và niềm khát vọng giữ vai trò chủ chốt ở đây phần nhiều đều là những mối tình say đắm. Tình yêu trong các sáng tác của linh mục Prévost là thứ khát vọng tiền định, bản năng, không sức nào kiềm chế nổi, và phần nhiều đều bi thảm – dẫn người ta đến cho tuyệt vọng, chỉ còn biết quyên sinh, lắm khi còn đẩy người ta đến chỗ lao đầu vào những tội ác rùng rợn. Đồng thời, các nhân vật của Prévost trước sau vẫn coi tình yêu là một thứ hạnh phúc cao cả, mà chỉ những ai có diễm phúc lớn may ra mới được nếm trải; và chính vì diễm phúc đó, người ta dám sẵn sàng vứt bỏ hết thảy mọi thứ. Với tư cách là nhà tâm lý học, Prévost vốn chịu ảnh hưởng của những kịch tác gia phái cổ điển là Corneille và Racine, tác giả của những vở bi kịch mà cái giữ vai trò chủ đạo bao giờ cũng là những khát vọng không sao kìm chế nổi. Nhưng nếu những tình cảm được khắc họa trong các tác phẩm đó đều là những tình cảm trừu tượng và là số phận của những đấng anh hùng huyền thoại hoặc những nhân vật lịch sử phi phàm (các bậc vua chúa, các vị tướng soái), thì trong các thiên tiểu thuyết của Prévost, những khát vọng kia đều bùng cháy lên trong tâm can những kẻ địa vị xã hội khiêm nhường hơn; và chính nhờ vậy mà phẩm giá của họ đều vượt lên trên cái mức bình thường. Bởi thế, khát vọng nào của các nhân vật do Prévost tạo dựng cũng đều xung khắc gay gắt với những nhân tố thông thường trong cuộc sống của người đời – điều kiện vật chất, nếp nghĩ và nếp sống của gia đình, những định kiến của thế tục, v.v… Năm 1734, Prévost mới được quyền về lại quê hương: Giáo hoàng gia ân cho nhà văn được tiếp tục thử thách đức tin tại các tu viện như trước. Năm 1736, một đại quý tộc có quyền hành nhất nước Pháp thời kỳ ấy là hoàng thân Conti đã mời Prévost sung vào đoàn tùy tùng của ông ta, giữ chức linh mục trong hoàng cung, Prévost nhận lời ngay, vì đây là một chức hữu danh vô thực – không phải gánh vác một trọng trách nào, mà cũng chẳng được hưởng một thứ bổng lộc nào – nhưng lại cho phép ông được sống ở bên ngoài tu viện, danh tiếng lừng lẫy của nhà văn lớn nhất đương thời đã khiến giới thượng lưu và các xa lông văn chương mở rộng cửa đón ông, Prévost lại có thêm nhiều bạn mới là nhiều người hâm mộ mới. Tuy nhiên, cũng chính vào thời kỳ đó, Prévost đã lại phải lìa bỏ quê nhà lần nữa. Số là vào những năm đó, giới thượng lưu Pháp vốn sính một hình thức thông tin lạ đời: xuất bản các tạp chí viết tay, loan truyền đủ mọi thứ tin tức, kể cả những tin đồn thất thiệt, lẫn những chuyện đơm đặt hồ độ, chẳng đếm xỉa gì đến sự thật, của các vương tôn, công tử nhàn nhã. Đám thư lại có hoa tay phụ họa vào, ngồi nắn nót chép những trang tạp chí nọ để gửi đến đám khách hàng đặt mua. Prévost đã quá khinh suất, bằng lòng giúp đỡ việc biên tập về văn phong cho một trong những tạp chí loại đó. Một vị quý tộc có thân thế bất đồ đã bị tờ tạp chí này vu khống, ông ta bèn ra lệnh bắt giam chủ bút. Các nhà chức trách bắt đầu mở cuộc điều tra. Đến khi đó biết được rằng Prévost có nhúng tay vào việc biên tập, thì viên cục trưởng cảnh sát liền yêu cầu ông phải rời ngay nước Pháp. Prévost lại phải lưu lạc ở chốn đất khách quê người một năm rưỡi nữa, lúc ở Bỉ, lúc ở Frankfurt. Mãi đến lúc về lại Pháp, ông mới bắt đầu được hưởng một cuộc sống yên hàn, và danh tiếng ông mới đạt đến đỉnh cao chói lọi. Từ đó, Prévost mới được biết thế nào là sự thư thái tâm hồn và sự no đủ về vật chất. Prévost vẫn không rời bỏ sự nghiệp sáng tác cho đến tận giây phút trút hơi thở cuối cùng. Ông mất ngày 25 tháng Một năm 1763 vì vỡ tim trong một lần dạo chơi quanh điện Chanteille, ở ngoại ô Paris. *** Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, như đã nói, ra mắt lần đầu vào năm 1731 ở Hà Lan với tư cách là phụ lục của tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc. Ở Pháp, kiệt tác này không được đánh giá cao ngay từ đầu, thành ra mãi đến năm 1733 mới được ấn hành. Tờ “Báo của cung đình và kinh thành Paris”, số ra ngày 21 tháng sáu năm 1733, đã đăng một mẩu tin như sau: “Mới đây, tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc đã ra mắt công chúng. Thiên truyện được viết tài tình và lôi cuốn đến mức ngay cả những kẻ bình thường cũng phải mủi lòng cho thân phận của một gã bịp bợm và một ả buôn phấn bán hương”. Nhưng chỉ ít lâu sau, các nhà chức trách kinh đô đã phải ký lệnh thu hồi và thiêu hủy quyển sách. Trong hồ sơ lưu trữ hiện còn giữ được biên bản tịch thu năm bản truyện của một chủ hiệu sách ở kinh thành và hai bản nữa của một chủ hiệu khác. Việc tịch thu sách trên thị trường dĩ nhiên không hề làm lu mờ danh tiếng của thiên truyện, và người đương thời vẫn háo hức chuyền tay nhau các ấn bản do nhiều nhà kinh doanh sách Hà Lan in ra, đang ồ ạt tràn vào đất Pháp tác bấy giờ. Việc cấm lưu hành Truyện hiệp sĩ đơ Griơ, coi đây là tác phẩm vô đạo đức, giữa lúc phong hóa suy đồi chưa từng thấy, giờ đây xem chừng rất khó hiểu. Nhưng có lẽ chính sự băng hoại đạo đức đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không đánh giá đúng và không hiểu hết tư tưởng chính mà tác giả gửi gắm vào tác phẩm: người đương thời chỉ nhìn thấy ở đây câu chuyện về những cuộc phiêu lưu suồng sã, rẻ tiền của đôi trai gái hư thân mất nết. Đây là cách lý giải về nguyên nhân khiến người đương thời không đánh giá đúng thiên truyện của Prévost do chính A.I. Gertxen đưa ra. Sự cấm đoán đó đã thôi thúc Prévost đứng lên bảo vệ tác phẩm của chính ông trong tờ tạp chí “Đồng tình và phản đối” do bản thân nhà văn sáng lập và xuất bản từ năm 1735 – 1740. Prévost đã cố xoa dịu cái ấn tượng mạnh mẽ do tác phẩm gây ra và cải chính những lời quở trách mình là đã sáng tác ra một quyển sách “vô đạo đức”. “Công chúng đã đọc một cách say sưa tập cuối bộ Ký sự của một trang quý tộc, có in câu chuyện về cuộc phiêu lưu của hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Chúng tôi coi đây là một chàng trai có những thiên bẩm rực rỡ và sức lôi cuốn bất tận, say mê đến mức rồ dại một cô gái trẻ, vừa rất yêu chàng, nhưng vừa thích sống một cuộc đời phù hoa, trăng gió, hơn là đeo đuổi những hạnh phúc cao cả, có thể giúp cho người yêu bộc lộ hết những tài năng trời cho và làm rạng danh cho dòng dõi cao quý của chính chàng. Trước mắt chúng ta là một kẻ nô lệ bất hạnh của tình yêu; tuy nhìn thấy trước được mọi nỗi khốn đốn đang chờ mình, nhưng chàng trai không còn đủ sức để lẩn trốn chúng, đẩy lùi chúng; chàng đã hiên ngang đứng ra hứng chịu mọi nỗi khốn đốn ấy, mặc cho chúng giày vò mình, hoàn toàn chẳng đếm xỉa gì đến những phương sách khả dĩ giúp mình giành được một chỗ đứng dễ chịu hơn; tóm tại, đó là trang nam nhi vừa hư hỏng, vừa đạo đức, luôn đeo đuổi những ý định tốt lành, nhưng lại hành động một cách xấu xa, nếp cảm nghĩ thì rất đáng quyến rũ, nhưng hành vi thì đáng phỉ báng. Chẳng qua là một tính cách độc đáo. Tính cách của nàng Manông Lexcô lại càng độc đáo hơn. Nàng biết rõ thế nào là phải trái, thậm chí còn rất mực coi trọng lẽ phải, nhưng toàn làm những việc đáng chê trách. Nàng yêu tha thiết hiệp sĩ đơ Griơ, nhưng nỗi thèm khát cảnh giàu sang và hoa lệ đã khiến nàng phản lại những tình cảm của chính mình đối với chàng trai, chạy theo một gã tài chính lắm tiền. Phải làm chủ được một nghệ thuật thế nào mới có thể thu hút nơi cảm tình của độc giả, gợi lên nơi họ sự thông cảm đối với những bất hạnh mà cô gái hư thân mất nết này phải hứng chịu! Tuy cả hai đều là những kẻ hư hỏng, nhưng người ta vẫn thấy thương họ, vì thấy rằng sự hư hỏng ấy chung quy chỉ là hậu quả của sự yếu lòng và si mê; hơn nữa, ta cũng thấy rõ rằng trong thâm tâm, cả hai đều lên án gay gắt hành vi của chính mình và đều thừa nhận rằng cách cư xử như vậy là rất đáng chê trách. Xem thế đủ biết tuy miêu tả cái xấu, nhưng tác giả tuyệt nhiên không đem nó ra mà truyền giảng. Tác giả chỉ vẽ lên ở đây ảnh hưởng của những dục vọng cuồng si, đã khiến cho lý trí trở nên bất lực, khi mà con người bị cầm tù bởi nỗi bất hạnh là đem phó mặc lý trí của bản thân cho dục vọng thao túng…” Thiên truyện bị cấm lưu hành suốt hai chục năm dài đằng đẵng. Mãi đến năm 1735 mới lại được in ra, lần này thành hai tập mỏng, kèm theo không biết bao nhiêu sửa chữa, thậm chí còn đưa vào một tình tiết mới, tuy không hề làm thay đổi nội dung chính của câu chuyện. Từ đấy trở đi, Manông Lexcô mới giành được một chỗ đứng vững chãi trong các sáng tác xuất sắc nhất của văn chương thế giới xưa nay. *** Đề tài được Prévost luận giải trong Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô là thứ tình yêu tiền định, đủ sức nhấn chìm hết thảy mọi thứ ở đời. Đây là đề tài, như đã nói, vốn chiếm vị trí chủ chốt trong sáng tác của nhà văn. Nhưng khác với những bộ tiểu thuyết trường thiên của Prévost, cốt truyện vốn hết sức phức tạp và lắt léo, Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông là một áng văn bố cục cân đối và hài hóa khác thường. Nét đặc sắc ấy sở dĩ có được chắc hẳn, chính là do tính chất tự thuật của nó: cái bi kịch làm chất liệu của thiên truyện cũng chính là tấn bi kịch đầy xúc động mà tác giả đã nếm trải với tất cả tâm hồn mình một cách đủ sâu sắc, đến mức chẳng cần phải thêm thắt bất cứ một suy tưởng hay một biến cố hư cấu nào. Prévost đã dựng lên được một hình tượng về một “cô gái sa đọa”, có sức lôi cuốn mãnh liệt đến mức gần như lấn át hết hình ảnh của chàng hiệp sĩ chung tình của chính mình trong cảm thức của người đọc. Một chứng cứ, thoạt nhìn rất nhỏ nhặt, nhưng đầy sức thuyết phục, là: ngay từ đầu thế kỷ trước, các nhà kinh doanh sách đã tùy tiện “đổi” lại nhan đề tập sách từ Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô thành Truyện nàng Manông Lexcô và hiệp sĩ đơ Griơ; ít lâu sau, nữ nhân vật đã lấn át hẳn tên tuổi của chàng hiệp sĩ ở bìa sách: tên truyện, bây giờ chỉ còn vẻn vẹn ba chữ: Nàng Manông Lexcô. Mãi gần đây, các nhà xuất bản ở Pháp mới trở lại với cái tên cũ, do chính tác giả đặt cho quyển truyện, việc đảo ngược họ tên hai nhân vật tưởng chừng rất nhỏ nhặt, nhưng thực ra đã động chạm đến một vấn đề lớn: ai là nhân vật chính và tấn bi kịch, mà nhà văn muốn thuật lại với chúng ta trong tác phẩm, là bi kịch của người nào, và dĩ nhiên chẳng phải vô cớ mà Prévost đã để tên hiệp sĩ đơ Griơ lên ở đầu; chính chàng, hiệp sĩ đơ Griơ, chứ không phải Manông Lexcô, mới là nhân vật chính của tấn bi kịch trong truyện. Hơn nữa, mối xung đột được Prévost lồng vào các biến cố là ở đây tại chính là sự xung khắc gay gắt giữa hai tính cách: hiệp sĩ đơ Griơ và người con gái mà chàng say đắm yêu. Ví thử đơ Griơ cũng vô đạo đức như Manông thì cuộc hội ngộ giữa hai người chắc chắn sẽ chẳng kéo theo một tấn bi kịch nào: vì gắn bó số phận mình với Manông, chàng sẽ hóa thành một gã ma-cô tốt số; và với cái vẻ ngoài đầy quyến rũ của Manông, cuộc sống của họ rồi đây chắc hẳn sẽ trôi qua một cách êm ả trong no đủ, chẳng còn phải bận bịu, lo toan gì nữa… Vả chăng, cả người anh của Manông, lẫn bản thân nàng đều đã nhắc nhở hiệp sĩ nên đi theo chính con đường ấy. Nhưng toàn bộ sự tình chính là ở chỗ đơ Griơ và Manông là hai tính cách khác hẳn nhau; cả bản chất đạo đức, lẫn diện mạo tinh thần của cả hai đều rất ít có những nét chung. Bi kịch của đơ Griơ chính là ở chỗ chàng không thể chia sẻ với Manông một lý tưởng về tình yêu cao thượng, mà chỉ có nó mới đáp ứng được lòng mong mỏi của chàng; trong khi đó thì toàn bộ tấn bi kịch của Manông chung quy chỉ là sự thiếu thốn những điều kiện sinh hoạt vật chất. Nghe theo sự mách bảo của ý nguyện chính mình, Prévost đã thuật lại câu chuyện qua lời hiệp sĩ. Hình thức tự truyện cho phép nhà văn bộc lộ một cách hết sức sâu sắc và chân thực toàn bộ thế giới bên trong của nhân vật. Tấm lòng cao thượng bẩm sinh và nếp nghĩ quá thiên về lý tưởng đã không cho phép đơ Griơ nhận ra con người thực của Manông, chỉ họa hoằn lắm, và thường là vào lúc vắng bóng người yêu, đần óc chàng mới đủ sáng suốt để cảm nhận sự độc hại về đạo đức của chính mình, và càng nhận rõ được sự suy đốn đó sâu sắc bao nhiêu, chàng càng tin chắc thêm bấy nhiêu sự ươn hèn của bản thân và càng thấy rõ sẽ không còn biết lấy đâu ra sức lực nữa để mà chống trả, vì nghị lực chàng đã tiêu ma đi hết bởi lẽ vướng vào mối tình bất hạnh này. Trung thành với những lý tưởng cao cả của chính mình về tình yêu, hiệp sĩ đã cư xử với Manông như một hiện thân thuần khiết nhất của nữ tính, cần nhớ rằng trong suốt cuốn truyện, đơ Griơ đã không hề đã động lấy một lời về con người thể chất của Manông, về nét mặt của nàng. Đối với chàng, Manông là một thực thể tuyệt đối, hao hàm trong bản thân nó hết thảy mọi sự hoàn thiện. Và với tư cách một hiệp sĩ chân chính, đơ Griơ đã hiến thân cho thần tượng mình ngưỡng mộ hết thảy mọi thứ đang có – tên tuổi, địa vị xã hội, gia đình, bước đường công danh, cuộc sống sung túc; và nếu cần, sẵn sàng hiến luôn cả mạng sống của chính mình. Hình tượng của Manông, xét về các phẩm chất nghệ thuật, là một trong những hình tượng hoàn mỹ nhất của văn chương thế giới. Ở đây, nhà văn đã kết hợp được thành một thể thống nhất hai khía cạnh tương phản gay gắt – vẻ ngoài đầy sức quyến rũ và sự hạn hẹp về thế giới nội tâm của nữ nhân vật – bằng một tài nghệ phi thường đến mức người đọc luôn luôn bị quyền lực của hai tình cảm đối lập nhau chi phối: vừa thán phục và vừa căm giận. Tuy nhiên, cũng đừng quên rằng hình tượng Manông mà chúng ta cảm nhận ở đây là qua lời kể của đơ Griơ – một người thuật chuyện nhiệt thành đến mức khó có ai theo kịp. Đơ Griơ lúc nào cũng không tiếc lời biện hộ cho nàng và chỉ hãn hữu lắm mới cảm nhận được ít nhiều rõ nét những thói hư tật xấu của cô gái, Manông là một phụ nữ mất hết mọi nền nếp đạo lý, là một con người trí lực kém cỏi và tầm nhìn cực kỳ thiển cận, chật hẹp, cho nên sẽ rất lầm lạc, nếu khẳng định rằng cái ngự trị trong thiên truyện là ý niệm “tính người tối đa” (chelovecheskij maksimum). Không cần tuyên bố công khai rằng chủ nghĩa khoái lạc nhất thiết phải là bạn đồng hành cố hữu của thói xem thường các quy phạm đạo đức vẫn được xã hội chấp nhận, ta vẫn có quyền coi việc đánh đồng hình tượng Manông với ý niệm “tính người tối đa” là việc làm quá ư ngây thơ: tính người đâu phải chỉ thu gọn ở những bộ trang phục lộng lẫy, ở những bữa dạ tiệc thịnh soạn, ở những chiếc vé xem hát đắt tiền và những trò tiêu khiển miên man. Cội nguồn tạo dựng, ngay cả khi xét trong phạm vi của nữ giới đơn thuần đi nữa, cũng xa lạ đối với Manông. Ta không tài nào hình dung nổi nàng trong cương vị của một người mẹ, một người vợ, tảo tần nuôi con dạy cái và thu vén việc cửa nhà. Hơn nữa, Manông còn mang sẵn trong con người mình bản năng tàn phá – hễ tiếp cận với nàng, mọi thứ đều lập tức trở nên đồi bại. Ngay cả đám tôi tớ của Manông, do chứng kiến cảnh sống chung của nàng với đơ Griơ, cũng đã tiêm nhiễm phải những thói xấu của chủ: họ cũng lấy cắp tiền nong, tư trang của chủ, y hệt như nàng đã lấy cắp của đám khách làng chơi đến giải buồn. Manông không đủ sức mang lại hạnh phúc cho người nàng yêu: ngay cả khi đã đứng vững chân trên một mảnh đất chắc chắn như mối tình rất mực thủy chung của đơ Griơ đi nữa, nàng vẫn không sao xây dựng được một hạnh phúc lứa đôi bền chặt. Đến như tình cảm máu mủ, ruột rà, nàng cũng hoàn toàn xa lạ, Không như đơ Griơ, lúc nào cũng ngóng chờ được trở về sum họp với cha già, với người em, với người bạn thời thơ ấu, Manông không bao giờ tưởng đến gia đình và đả động đến gia đình. Ngay cả bạn gái, nàng cũng không có. Trong khi đơ Griơ bao giờ cũng canh cánh bên lòng hình ảnh người bạn Tibecgiơ, thậm chí cả khi hai người xa cách, thì Manông hoàn toàn chẳng có một ai để mà kết thân. Nàng không hề dành sẵn đất cho tình bằng hữu. Cần nhận thấy rằng trong thiên truyện của Prévost, từ phía đơ Griơ đã xuất hiện toàn những nhân vật chính diện (cha chàng, em chàng, Tibecgiơ, ông đơ T… – và thậm chí cả viên cai ngục ở nhà tù Priut nữa), thì từ phía Manông chỉ xuất hiệu toàn những nhân vật phản diện (anh nàng, đám khách làng chơi liên tục thế chân nhau). Manông tựa hồ như một thứ ma lực, chỉ lôi cuốn về phía mình toàn những cái xấu, cái ác, cũng rất đáng chú ý là hết thảy những kẻ “ngưỡng mộ” Manông, được nhà văn dựng lại trong truyện, đều chỉ đến với nàng không từ một động cơ nào khác, ngoài những dục vọng đê cấp; họ không hề ngờ vực mảy may nào sự thành công của chính họ, vì ai cũng thừa biết rằng nàng không phải là “món khó gần”. Không hề thấy một gã nào trong số họ đến với nàng là do những tình cảm chân thành thôi thúc. Nói cho công bằng, thì khi sang đến Mỹ, hành vi của Manông có phần ít đáng chê trách hơn lúc còn ở quê nhà. Nhưng vị tất đã có thể xem đây là kết quả của sự ăn năn hay sự cải hóa tự nhiên của tâm tính. Sang đất Mỹ thời ấy là cả một cuộc hành trình dài dằng dặc – hàng trăm cây số rong xé trên đất Pháp, thêm hai tháng trường lênh đênh trên thuyền buồm giữa đại đương, rồi điều kiện sống khắc nghiệt ở Tân thế giới, thân phận hèn kém của kẻ bị lưu đày, và những thiếu thốn, thua thiệt đủ mọi đường – tất cả những cái đó không thể không làm tổn hại đến sức mạnh tinh thần và thể chất của Manông. Sang đến Mỹ, nàng đã hóa thành một con người khác – đau khổ, kiệt sức, tuyệt vọng, từ bỏ hẳn lối sống buông thả và nông nổi ngày nào. Nét nổi bật của thiên truyện là Prévost đã miêu tả một cách tỉ mỉ lạ thường những đặc điểm về sinh hoạt của thời đại. Hành động tả trong truyện diễn ra đúng vào thời kỳ Trùng Hưng (1715 – 1723), khi mà xã hội Pháp say sưa lao vào một lối sống buông thả hoàn toàn, vào những năm chót cùng của triều đại Louis XIV dài lê thê. Cái ngự trị trong chốn cung đình là sự hà khắc và thói đạo đức giả. Không khí đó đã ảnh hưởng rất sâu đậm đến toàn bộ nếp sinh hoạt bên ngoài xã hội, sau ngày Louis XIV chết đi, ngôi báu đã lọt vào tay người chắt là Louis XV (vì cả con, lẫn cháu vua đều đã về chầu Chúa trước tổ phụ), bấy giờ mới chỉ là một cậu bé con thơ dại. Bởi thế, mọi quyền bính trong nước, trên thực tế, đều nằm trong tay quan nhiếp chính Philippe Orléans ham vui và nông nổi. Thần dân trong nước tức thì phản ứng ngay lại với bầu không khí tẻ nhạt, giả dối, từng chiếm địa vị thống trị dưới thời đức vua già lụ khụ ngày xưa, xã hội Pháp tức thì trút một hơi thở phào nhẹ nhõm và lao ngay vào cuộc sống ăn chơi, phè phỡn, cho bõ những ngày dài câu thúc, kiêng khem mới đây. Linh mục Prévost quả đã làm sống lại trong truyện một cách chính xác phi thường nhiều đặc điểm của nếp sống thời ấy. Các sử gia thời Trùng Hưng đều nhất trí thừa nhận rằng những tình tiết nhỏ nhặt, như thể thức lưu đày sang Mỹ những tù nhân bị khép tội phát vãng, địa điểm các sòng bạc và lề thói sát phạt của đám dân máu mê, những thể chế tồn tại trong các sở cẩm, các trại giam, cũng như các tửu điếm, v.v..., nhất nhất đều xác thực. Tác giả không tự cho phép mình bỏ qua bất cứ chi tiết nào từng được chứng kiến tận mắt. Bức tranh do nhà văn vẽ lại về cuộc sống thời bấy giờ quả chân xác đến mức khó lòng quở trách. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những xung đột được Prévost khắc họa ở đây đều chỉ tiêu biểu cho cái thời đại lịch sử ấy, bởi lẽ những trở lực ngăn cản đơ Griơ và Manông vươn đến hạnh phúc không chỉ đơn thuần là ở các thể chế xã hội thời Trùng Hưng, mà chính là ở tính cách của Manông. Nền văn chương thế kỷ XVIII vốn không thiếu gì những sáng tác miêu tả những trở lực do các thiên kiến của giai cấp quý tộc vô tư sản dựng lên trên bước đường đi đến hạnh phúc của các đôi nam thanh nữ tú, chỉ cần đơn cử ra đây một dẫn chứng: trong Nàng Héloise mới, hạnh phúc của Julie và Xanh Pré cũng đã sụp đổ, chung quy chỉ vì Xanh Pré xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tấn bi kịch của đơ Griơ có một ngọn nguồn hoàn toàn khác, và không thể đã hết trách nhiệm lên đầu hoàn cảnh xung quanh, nói riêng là người cha già của hiệp sĩ. Ông thân của đơ Griơ chống lại cuộc hôn nhân giữa con mình với Manông không phải vì nàng xuất thân từ tầng lớp dân thường, mà chính vì nàng là một nhân cách suy đốn về đạo đức, không thể mang lại hạnh phúc cho con trai của chính mình, cha của đơ Griơ là một người từng trải, và hiểu được thế nào là nhân tình thế thái. Câu chuyện trốn nhà ra đi của Manông với con trai ông, người nàng mới quen biết qua loa, rồi hoàn cảnh diễn ra cuộc hội ngộ đó, và chắc hẳn chính số phản phúc của Manông, đã tố giác người tình khi vừa hay biết được rằng chàng không lấy đâu ra tiền để chu cấp cho mình – tất cả những sự kiện ấy đã giúp ông thấu hiểu được chân tướng của Manông và có đầy đủ mọi lý lẽ để chống lại cuộc hôn nhân. Không một ông cha hay bà mẹ nào, chẳng riêng gì ở thời Trùng Hưng, mà ở bất cứ thời đại nào khác, lại có thể tán thành với dự tính của một anh con trai mười bảy, do chính mình đứt ruột đẻ ra, đem gắn bó số phận với một cô gái giang hồ, chuyên ăn cắp vặt và toàn ngấm ngâm mưu mô những chuyện làm ăn gian lận. Tìm cách biện hộ cho Manông, xuê xoa hay nhắm mắt làm ngơ với những căn nguyên sâu xa của cái nhân cách tồi tệ đó có nghĩa là hạn chế bớt mức độ gay gắt, tính độc đáo và tầm bao quát của hình tượng ấy, do đó, không đánh giá hết chiều sâu tâm lý và tài nghệ của nhà văn. Người bạn hơn tuổi của đơ Griơ, chàng Tibecgiơ, được tác giả khắc họa như một người bạn mẫu mực, trung thành. Từ lâu rồi, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy: các nhân vật chính diện, nhất là trong văn chương thế kỷ XVIII, bao giờ cũng là những nhân cách kém sắc sảo, “nghèo nàn” hơn các nhân vật phản diện, Nhưng ở Tibecgiơ, đức khôn ngoan và lòng chung thủy trong hành vi tuyệt nhiên không làm hình tượng chàng trở nên mờ nhạt và vô vị. Tibecgiơ tuy kiên định trong đức tin, nhưng vẫn tỏ ra rất mực khoan dung đối với đơ Griơ; chàng rất nghiêm khắc, nhưng đồng thời vẫn rất người, ví thử Tibecgiơ chỉ là một anh chàng cố chấp, ti tiện và thông thái rởm, chỉ biết truyền giảng những bài học luân lý tẻ nhạt đơn thuần, thì không đời nào đơ Griơ lại quý trọng chàng đến thế, Tibecgiơ là người bạn chân tình, ngay thẳng, đầy lòng bao dung, nhưng không bao giờ tha thứ cho bạn về những việc làm nông nổi. Sự trung thành, tận tụy của chàng đã đạt đến đỉnh cao của đức xả thân: để cứu bạn, chàng sẵn sàng hy sinh hết thảy, theo chân bạn sang tận đến Mỹ, mặc đã chuyến đi ấy vào thời Prévost phải kéo đài hàng mấy tháng trường và phải trải qua bao nhọc nhằn, vất vả, thậm chí có khi phải mạo hiểm đến cả tính mạng nữa. Đơ Griơ đánh giá rất cao tình bạn giữa chàng và Tibecgiơ, chàng tin chắc rằng không một thử thách nào có thể bẻ gãy được mối quan hệ thân thiết đó. Tibecgiơ là người độc nhất mà đơ Griơ có thể cởi mở hết tấm lòng, và chính nhờ những cuộc tranh cãi tay đôi với Tibécgiơ, chàng đã lần gỡ được thực chất của mối tình say đắm mình đang đeo đuổi và tìm thấy lời giải đáp cho những câu hỏi đang dằn vặt tâm can. Trong những cuộc tranh cãi ấy, quan điểm của hai người hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đó không hề cản trở họ hiểu nhau (nhất là Tibecgiơ đối với tâm tư của đơ Griơ). Lý lẽ do Tibecgiơ đưa ra, đơ Griơ hoàn toàn không thể chấp nhận được, vì những lý lẽ ấy chẳng những bao hàm cả sự kết án cách hành động của chàng, mà còn công khai bác bỏ hoàn toàn cái ảo tưởng của chàng về cuộc sống hạnh phúc với Manông. Dẫu sao, chàng hiệp sĩ bất hạnh cũng chẳng còn ai khác nữa để mà tâm sự: chàng biết rõ rằng người bạn ấy sẽ đem đến cho mình chẳng phải chỉ có những lời chỉ trích, mà còn có cả sự cảm thông, sự nâng đỡ và sự thấu hiểu. Nhân tiện cần ghi nhận rằng chưa bao giờ đơ Griơ đã thử cố trò chuyện với Manông về những đề tài thường xuyên được đề cập đến trong những cuộc tranh luận với Tibecgiơ. Trước ngày gặp Manông, đơ Griơ chắc hẳn vẫn luôn luôn chia sẻ các quan niệm của Tibecgiơ. Sự giống nhau đó chính là nền tảng của tình bạn giữa hai người, là cội rễ của sự kính trọng lẫn nhau giữa họ. Sự bất đồng quan điểm giữa đơ Griơ và Tibecgiơ chỉ là một chuyện nhất thời, và rất có thể sự bất đồng đó, nếu không hoàn toàn mất đi, thì ít ra cũng sẽ đỡ gay gắt hơn, một khi những thế lực chia rẽ họ mất tác dụng. Theo nhận định rất sắc sảo của nhà nghiên cứu văn học Arsen Usse, Tibecgiơ là lương tâm của hiệp sĩ đơ Griơ. Tài nghệ mà nhà văn đem ra để sáng tác nên Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô đã đưa thiên truyện không bao lăm trang này vào hàng những kiệt tác vĩ đại nhất chẳng những của văn chương Pháp, mà cả của văn chương thế giới. Thiên truyện được viết bằng một bút Pháp giản dị và hài hòa lạ thường; lời văn chuẩn xác, trong sáng và đầy âm hưởng, không nhường bước trước bất cứ một áng vấn mẫu mực ưu tú nào trong văn chương Pháp thời cổ điển và thời Khai sáng. Câu chuyện của đơ Griơ về những nỗi bất hạnh và đau khổ của chính chàng được thuật lại một cách chân thật, không chút khoa trương, không chút tô vẽ cốt gây ấn tượng; nhưng đằng sau cái vẻ ngoài kìm giữ đó, người đọc vẫn luôn cầm thấy một nỗi say mê sôi sục. Cả về phương điện bố cục nữa, thiên truyện cũng thật hoàn mỹ: ngay từ mấy trang đầu, tác giả đã đưa chúng ta đi thẳng vào diễn biến câu chuyện, và hứng thú của chúng ta vẫn không hề giảm sút mảy may cho đến lúc đọc dòng chót cùng tác phẩm. Nhưng công lao chủ yếu của linh mục Prévost dĩ nhiên là ở chỗ ông đã tạo dựng được hai hình tượng văn học thực sự bất hủ. Hiệp sĩ đơ Griơ là mẫu mực của một tình yêu rất mực thủy chung, của đức hy sinh và của lòng vị tha vô bờ hến. Nhà văn đã vẽ lên trước mắt chúng ta những tâm tư đau khổ và phức tạp của chàng trai một cách đầy thuyết phục đến mức ta sẵn lòng tha thứ hết cho chàng mọi lỗi lầm chàng đã phạm phải và luôn vững tin vào sự cao thượng và sự trong sạch về đạo đức của chàng. Còn hình tượng Manông thì thật khó tìm một điển hình văn học nào sánh ngang về sự hoàn mỹ trong văn chương thế giới xưa nay. Nhà văn đã ký thác nơi cô gái đầu óc trống rỗng, tâm hồn chai sạn, tầm mắt hạn hẹp và đạo đức đốn mạt ấy một vẻ quyến rũ mãnh liệt đến mức khiến ta suýt quên đi những thói hư tật xấu của nàng và sẵn sàng hâm mộ nàng cũng chẳng kém gì đích thân hiệp sĩ đơ Griơ. Arsen Usse đã nhận xét rất đúng rằng dù nhân tình của Manông có đông đến bao nhiêu đi chăng nữa, con số đó vẫn chẳng thấm tháp vào đâu so với đám người ngưỡng mộ cô nữ nhân vật mà linh mục Prévost đã dắt đến bên chân nàng. Thật vậy, đã hai thế kỷ trôi qua, nhưng Manông vẫn đầy sức quyến rũ. Từ các trang sách của nhà văn, tiếng cười say nồng của nàng vẫn vang vọng mãi không thôi và ánh mắt huyền bí, ranh mãnh của nàng vẫn lôi cuốn chúng ta như ngày nàng mới ra mắt. E. GUNST[1] Đức Dương dịch Mời các bạn đón đọc Manon Lescaut của tác giả Abbe Prevost.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ
Mười năm trước thiếu nữ Miêu Cương Hoa Thanh Nguyệt mới 12 tuổi đã thổ lộ tình cảm với Diệp Nhượng lúc ấy 16 nhưng kết quả bị cự tuyệt. Dưới cơn giận dữ cô đã viết trong nhật ký của mình: “Được lắm Diệp Nhượng, nhớ kỹ hôm nay anh cự tuyệt tôi nhá! Bằng không tôi trù anh lên núi đao xuống biển lửa, biến thành rùa đen, thành chó con, thành con lợn đầu to!” Mười năm sau Diệp Nhượng công thành danh toại vào nhầm một tiệm cà phê thần bí và vừa gặp đã trúng tiếng sét ái tình với chủ tiệm Hoa Thanh Nguyệt. Ở chung lâu ngày Diệp Nhượng quyết định cầu hôn Hoa Thanh Nguyệt. Mẹ ơi, thôi xong Diệp Nhượng biến thành rùa đen! Diệp Nhượng lại biến thành chó! Diệp Nhượng nói dối Hoa Thanh Nguyệt thế là bị lửa đốt! Diệp Nhượng không nhận ra nữ đồng nghiệp có ý với mình thế là bị vác lên núi đao! *** Miêu Cương là một nơi thần kỳ. Thời tiết oi bức, vĩnh viễn khiến áo sơ mi người ta ướt đẫm mồ hôi. Diệp Nhượng vươn hai ngón tay ghét bỏ mà cầm ống tay áo rồi cúi đầu ngửi ngửi —— quả nhiên áo sơ mi của anh đã dính cái mùi độc đáo phiêu đãng trong không khí của Miêu Cương. Đây là cái mùi khó mà hình dung, nếu nhất định phải nói thì chính là vị ngọt ngấy quyện với mùi hơi nước không lưu thông được. Vị lãnh đạo đầu trọc bụng to đi phía trước móc khăn tay ra lau mồ hôi trên trán và chỉ vào một tòa nhà màu trắng ba tầng cách đó không xa nói: “Đồng chí Diệp, đây là viện nghiên cứu của chúng tôi. Hưởng ứng lời kêu gọi của đất nước nên chúng tôi mới dời địa điểm từ thủ đô tới đây. Tuy Miêu Cương hẻo lánh nhưng nội thành vẫn tạm được…… Hơn nữa nếu ở chỗ này làm việc thì phí tổn nghiên cứu phát minh sẽ thấp hơn đồng thời kinh phí nghiên cứu sẽ cao hơn. Có điều vẫn khó mà giữ được nhân tài……” Diệp Nhượng ừ một tiếng và nhàn nhạt gật đầu. Tảo Địa Phật thấy thế thì biết anh không để lời mình vào lòng thế là thở dài: “Khí hậu, văn hóa, ẩm thực nơi này…… khác biệt quá lớn nên rất nhiều thanh niên có tài đến đây xem một cái là đi luôn, aizzzz…… Cũng không có cách nào, tuy biết đoàn đội chúng ta làm công việc có tiền đồ nhất nhưng người trẻ tuổi cũng muốn suy nghĩ tới hiện thực, những việc như kết hôn, sinh con, giáo dục hay chữa bệnh gì đó…… Tôi cũng hiểu lựa chọn của bọn họ.” Vị lãnh đạo này diện mạo nhìn thì đơn giản, giống một anh nông dân làm kinh doanh nhưng trên thực tế lại là hạng trâu bò trong giới nghiên cứu phát minh công nghệ chủ chốt. Nhưng ông ấy làm người khá tùy tiện, không để ý tới bề ngoài. Lúc còn trẻ ông ấy cũng thon thả lắm, thậm chí còn mang theo tiên phong đạo cốt nên mới được vô số nhân viên trong viện nghiên cứu xưng là: Tảo Địa Tăng (Sư quét rác – lấy theo tên một vị sư võ công cao thâm bậc nhất trong tiểu thuyết Kim Dung, là người tài nhưng thân phận bí ẩn, ít lộ diện). Nhưng hiện tại ông ấy đúng là béo, cũng vì tâm tình lúc nào cũng như Phật nên danh xưng từ Tảo Địa Tăng đã thăng lên thành Tảo Địa Phật. Tảo Địa Phật: “Đồng chí Diệp đã ăn cơm khi ở trên máy bay rồi à?” Diệp Nhượng: “Tôi đã ăn rồi.” Vốn Diệp Nhượng đang tính tới trung tâm nghiên cứu xem xét một vòng là đi ngay nhưng Tảo Địa Phật lại nói những lời vừa rồi chẳng khác gì vẽ cái vòng ở chân anh khiến một người da mặt mỏng như anh cũng ngượng ngùng không thể quay bước đi ngay. Tảo Địa Phật: “Như vậy đi, chúng ta tìm một quán cà phê ngồi xuống tâm sự trước xem nghiên cứu đang tiến triển tới đâu cũng như đãi ngộ dành cho cậu thế nào……” Tảo Địa Phật vòng qua góc đường và kéo cửa một quán cà phê nói: “Xin mời.” Tiệm cà phê gọi là Thâm Hạng, được trang hoàng rất có cá tính, vừa cổ xưa lại kỳ lạ, vừa nguyên thủy lại mang theo chút quỷ dị thần bí. Vừa vào cửa đã thấy một hành lang trưng bày thật dài và u ám hiện ra trước mắt. Tảo Địa Phật giới thiệu rằng cửa tiệm này có một nửa là khu triển lãm và một nửa là tiệm cà phê. “Rất có hơi thở nghệ thuật.” Tảo Địa Phật nói, “Tranh treo hai bên hành lang đều là tác phẩm của chủ cửa hàng. Cô ấy còn trẻ nhưng đã nổi danh, đúng là có thiên phú…… Chính là cái loại trời cao tự tay bồi dưỡng ấy.” Tranh treo hai bên hành lang cực kỳ đối lập, một bên là màu sắc mãnh liệt như lửa đỏ, còn một bên lạnh nhạt, dịu dàng như ánh trăng. Hàng mày vẫn nhíu chặt của Diệp Nhượng rốt cuộc cũng giãn ra. Đôi mắt đen nhánh của anh nhìn chằm chằm mấy bức tranh hai bên, bước chân cũng chậm lại. Trong lúc bất giác anh đã đi tới cuối hành lang nơi có hoa cỏ rũ xuống làm thành một tấm mành thiên nhiên. Diệp Nhượng như đang ở trong mộng mới vừa tỉnh, anh ngẩng đầu xuyên qua khe mành thì thấy bên trong im ắng, không có một vị khách nào. Ngọn đèn tỏa ánh sáng ấm áp tụ lại trên quầy gỗ. Trên quầy bày một cây đàn cello, ở giữa là ghế cao, có một cô gái đang ngồi trên đó. Cô mặc một cái váy dài màu trắng, mái tóc dài đen nhánh kéo sau người, bản thân cô thì ngồi đưa lưng về phía này. Cô đang vẽ tranh, trên vải là những hình thù màu sắc tươi đẹp. Tảo Địa Phật kêu khổ: “Thôi xong, tôi quên mất hôm nay là thứ bảy, tiệm không buôn bán. Đồng chí Diệp, hay chúng ta đổi chỗ khác đi……” Diệp Nhượng lại như không nghe thấy mà đi thẳng qua, đẩy mành ra. Ánh sáng trên toàn bộ thế giới đều như tụ trên người cô. Diệp Nhượng không khống chế được hai chân mình, cứ thế mê muội đi qua, đôi mắt nóng cháy như lửa nhìn chằm chằm người đang vẽ phía trước cũng những ngón tay dính màu vẽ của cô. Mấy cái vòng bạc và chuỗi hạt treo trên cổ tay trắng nõn của cô lao xao va chạm khi cô vẽ. Diệp Nhượng như si như say nhìn bóng dáng xinh đẹp của cô. Cô không dùng cọ vẽ. Dù không nhìn thấy mặt người trước mặt nhưng Diệp Nhượng biết ánh mắt cô khi nhìn vào mảnh vải chồng chất màu sắc sáng ngời kia hẳn là si mê và chăm chú. Anh hơi nghiêng đầu lẳng lặng nhìn cô vẽ tranh. Màu sắc đẹp đẽ chồng lên nhau giống như đang vẽ cảnh trong mơ. Dần dần những màu đậm nhạt cùng đường nét mơ hồ đó cũng hiện ra hình thái rõ ràng, từ mộng bay ra thành hình. Đó là một con phượng hoàng từ dung nham của thượng cổ bay ra. Diệp Nhượng như có thể nghe thấy có ai đó đang nhẹ giọng hát ca ngâm tụng bên tai mình, là một bài ca dao viễn cổ anh không biết. Tảo Địa Phật đành phải nhỏ giọng giới thiệu với anh: “Đây là bà chủ tiệm, Hoa Thanh Nguyệt, là nghệ thuật gia nổi danh của Miêu Cương. Người địa phương đều gọi cô ấy là nghệ thuật gia vu cổ, nói tranh cô ấy vẽ hạ cổ người khác bằng màu sắc khiến người ta không thể không đắm chìm. Chủ đề tranh của cô ấy đa phần là về sống chết và việc hiến tế thần thượng cổ. Trước kia cậu du học nước ngoài có từng dạo bảo tàng không? Cô ấy vẽ một bộ tranh gọi là Thiên cổ họa, trong đó vẽ thần điểu Chu Tước của Miêu Cương và được bảo tàng nước ngoài mua lại. Nhiều quốc gia đều có trưng bày bức tranh ấy, rất nổi tiếng!” Diệp Nhượng chẳng nghe được một câu nào vào tai. Hiện tại anh và Tảo Địa Phật không ở cùng một không gian. Chủ tiệm chậm rãi thu tay lại, tranh đã vẽ xong. Giống như cảm nhận được ánh mắt nóng cháy phía sau lưng thế là cô gái trẻ quay đầu lại nhìn Diệp Nhượng. Trong nháy mắt ấy Diệp Nhượng đúng là ngu luôn. Thông qua hội họa và màu sắc hạ cổ cho người ta ư? Là thiếu nữ này sao? Không…… Dù tranh cô vẽ quả thực đẹp tới độ người ta phải chìm đắm trong đó nhưng thứ thực sự hạ cổ anh lại là một cái ngoái đầu kinh diễm này. Trên thế giới này nhất định có tồn tại những thứ huyền học mà khoa học không thể giải thích được. Ví dụ như vừa gặp đã yêu. Một phút trước Diệp Nhượng còn đang nghĩ phải làm sao để cự tuyệt lời mời gia nhập viện nghiên cứu ở Miêu Cương của Tảo Địa Phật. Ấy vậy mà một phút sau anh đã lập tức xé vé máy bay quay về, chỉ vì một cái ngoái đầu của cô chủ tiệm cà phê. Anh thề sẽ cắm rễ ở Miêu Cương này để hưởng ứng lời kêu gọi chấn hưng khoa học kỹ thuật của quốc gia. “Xin chào, tên tôi là Diệp Nhượng.” Vừa hoàn hồn Diệp Nhượng đã cài xong cúc ở tay áo sơ mi và duỗi tay ra nói, “Tranh cô vẽ rất đẹp, cô lại càng đẹp hơn.” “Diệp Nhượng?” Chủ tiệm hơi trợn mắt, ngón tay nhuộm màu của cô hơi run run, đầu ngẩng lên đánh giá anh. Người đàn ông trẻ tuổi khéo léo đứng trước mặt cô mặc một cái áo sơ mi không một nếp nhăn, toàn thân tỏa ra hơi thở tinh anh. Tóc anh màu đen, đôi mắt màu đen mang theo chút u buồn nhưng ánh mắt lại hơi nhíu, trước sau vững vàng bình tĩnh lộ rõ tự tin…… Nhìn kỹ vẫn có thể nhìn ra bộ dạng thiếu niên lúc trước, quả nhiên là Diệp Nhượng. Diệp Nhượng. Thật lâu sau cô mới như tỉnh mộng và nhẹ nắm tay anh nói: “Xin chào, tôi là Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lại cong môi sâu hơn, ý cười nhuộm cả đuôi lông mày khi anh nhìn cô gái Miêu Cương trước mặt. Nói là xinh đẹp thì cũng không quá chuẩn xác. Đẹp hay xinh đẹp là những từ quá mức đơn điệu, không thể nào khái quát được sự rực rỡ của cô. Nếu dùng mỹ lệ thì quá tục, dùng yêu dị thì quá không tôn trọng…… Mỹ nhân Miêu Cương! Như đóa hoa trắng độc nhất vô nhị nở rộ trong sơn cốc, dưới ánh trăng. Đóa hoa này vừa có thể cứu người vừa có thể hạ cổ. “Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lặp lại tên cô. Hoa Thanh Nguyệt nghe thấy thế thì đôi mắt hơi sáng lên giống như đang chờ đợi cái gì đó. Diệp Nhượng nói: “Là cái tên hay.” Ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt cứng lại, tay buông xuống, miệng mím chặt. Diệp Nhượng cũng không nhận thấy sự thay đổi trên khuôn mặt cô còn Hoa Thanh Nguyệt thì lễ phép cười và chào hỏi Tảo Địa Phật: “Chú Phó.” “Thật là xin lỗi, viện nghiên cứu mới vừa thành lập nên chú vội đến quên cả thời gian, thứ bảy còn tới quấy rầy……” Tảo Địa Phật vội xin lỗi. Hoa Thanh Nguyệt cười nói: “Không sao.” Tên tuổi cô ở nơi này không nhỏ, người địa phương đều nhận ra cô, cũng biết cô mở quán cà phê này chỉ để nghe những câu chuyện xưa lấy linh cảm. (Truyện này của trang runghophach.com) Thứ bảy là ngày cô sáng tác và luyện tập nên không làm buôn bán. Vì thế cho dù có người quên mà tới vào ngày thứ bảy thì khi nhìn thấy cô sáng tác bọn họ sẽ lặng lẽ lùi ra ngoài. Biết rõ quấy rầy cô nên Tảo Địa Phật vội vàng giới thiệu Diệp Nhượng: “Thanh Nguyệt, vị tiên sinh này là nhân tài mà lãnh đạo ở thủ đô đặc biệt mời từ nước ngoài về. Nếu có duyên thì về sau cậu ấy chính là người đứng đầu nhóm nghiên cứu của bọn chú đó.” “Khó có nhân tài chịu tới nơi này.” Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Tảo Địa Phật: “Vậy được rồi, chúng tôi không dám quấy rầy nữa.” Diệp Nhượng nhướng mày, thiếu chút nữa đã than thở ra tiếng. Sao đi sớm thế? May mà Hoa Thanh Nguyệt đã nói: “Không sao, cháu cũng vẽ xong rồi, mọi người ngồi đi, cháu sẽ đi nấu cà phê.” Tảo Địa Phật cười vui hơn hớn: “Ai u, chú thấy mát mặt quá! Cảm ơn Tiểu Nguyệt!” “Không sao, mời chào nhân tài mới quan trọng.” Hoa Thanh Nguyệt hé miệng cười, đôi mắt sáng ngời híp thành trăng non. Tảo Địa Phật vui vẻ ngồi xuống và bắt đầu nói chuyện phiếm với Diệp Nhượng. Diệp Nhượng không cảm thấy hứng thú với lời ông ấy nói vì thế không được vài câu anh đã đổi đề tài tới Hoa Thanh Nguyệt. Anh hỏi: “Lúc tới đây tôi nghe nói Miêu Cương bên này có không ít khu vực vẫn giữ lại truyền thống của Vu tộc từ quá khứ. Bọn họ giỏi vẽ bùa, niệm chú, hiến tế gì đó. Tôi thấy tranh cô vẽ phần lớn thể hiện văn hóa liên quan tới vu hịch, chẳng biết là vì thích hay muốn mượn cái này tuyên truyền cho văn hóa bản địa?” Hoa Thanh Nguyệt không trả lời mà dựa bên quầy mỉm cười nhìn Diệp Nhượng hỏi: “Đây là lần đầu tiên Diệp tiên sinh tới chỗ này sao?” “Miêu Cương ấy hả?” Diệp Nhượng nói, “Đây là lần thứ hai, cha mẹ tôi là người làm khảo cổ vì thế khi còn nhỏ tôi từng theo họ tới đây một lần.” Hoa Thanh Nguyệt rũ mắt nhẹ nhàng xoa ngón tay dính màu và hỏi: “Vậy ấn tượng của anh với Miêu Cương thế nào?” “Lần đó thì tôi chỉ nhớ rõ nơi này rất nóng.” Diệp Nhượng nói, “So với truyền thuyết thì Miêu Cương tôi nhìn thấy khi đó chỉ là một nơi bình thường, vừa ướt vừa nóng, cũng không có lực hấp dẫn thần bí nào cả.” Hoa Thanh Nguyệt tiếp tục hỏi: “Lần đầu tiên đến Miêu Cương anh không có ký ức khắc sâu nào à?” Diệp Nhượng hồn nhiên chẳng nhận ra chỗ kỳ quái trong câu hỏi của cô. Anh chỉ ngẩng đầu nhìn cô, mặt mày đầy ý cười đáp: “Không có. Chắc là vì lần đầu tới Miêu Cương tôi không gặp được người nào xinh đẹp đáng yêu như cô đây. Thật ra tôi không có ấn tượng quá nhiều với lần đầu tiên tới nơi này.” Tươi cười của Hoa Thanh Nguyệt biến thành cô đơn. —- Diệp Nhượng ở lại, ký hợp đồng ba năm. Khi gọi điện thoại cho cha mẹ mình anh nói tới đãi ngộ, quả thực rất tốt. Anh nói điều kiện nghiên cứu khoa học bên này tuy mới chỉ ở bước đầu nhưng mọi người đều nghiêm túc làm việc, phương diện kinh phí cũng không có khó khăn. “Cho nên con đã quyết định ở lại.” Anh nói. “Nhất định là con có lý do khác, nơi đó dù có đãi ngộ cỡ kia cũng không đủ để con ở lại.” Cha mẹ nói thẳng, “Phong thổ nơi ấy hẳn không phải lý do giữ con lại…… vậy là người sao?” Diệp Nhượng nghĩ tới Hoa Thanh Nguyệt thì cười gật đầu: “Vâng, là vì người, con vẫn đang theo đuổi.” Diệp Nhượng là người theo phái hành động, vừa định ra mục tiêu anh đã lên kế hoạch sau đó bắt đầu hành động. Huống chi anh còn dùng nhiệt tình tích cóp hơn hai mươi năm để theo đuổi Hoa Thanh Nguyệt thế nên sự tình tiến triển rất thuận lợi. Ít nhất Diệp Nhượng cho rằng ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt nhìn về phía anh quả thực có yêu thích. Cứ như thế sau nửa năm Diệp Nhượng lập tức nghĩ tới việc cầu hôn. Hôm nay anh tính toán chính thức tỏ tình, là loại hướng tới kết hôn ấy. Hoa đã đặt, đã xin nghỉ, nhẫn đính hôn anh cũng đã chuẩn bị xong, địa điểm tỏ tình đã ổn, vạn sự đã hoàn hảo chỉ chờ Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Buổi sáng nhẫn tới. Diệp Nhượng mở hộp kiểm tra và lẩm bẩm: “Chỉ còn thiếu mỗi hoa.” Lúc này trong lòng anh bỗng nhiên có một tiếng nói vang lên: “Ngươi thật lòng hả? Muốn một đời một kiếp ấy hả?” Diệp Nhượng theo bản năng nghĩ: “Đương nhiên, nếu không thật lòng thì tôi vội vã bận rộn cái gì chứ? Nếu không cầu một đời một kiếp thì vì sao tôi phải mang thật lòng ra theo đuổi cô ấy?” Nhất kiến chung tình, nhất vãng tình thâm, tất cả những thứ ấy thực sự xảy ra trên người anh. Anh tin tưởng khoa học, cũng tin tình yêu. Lạch cạch —— Hộp nhẫn rơi trên mặt đất. Chuông cửa vang lên. “Diệp tiên sinh có nhà không? Hoa anh đặt tới rồi.” Ngoài cửa lưới có anh chàng đưa hoa vói vào phòng thét to. Tầm mắt Diệp Nhượng mơ hồ vì thế anh lắc lắc đầu đi về phía cửa. …… Từ từ? Diệp Nhượng sửng sốt ngừng ở cửa rồi ngẩng đầu. Then cửa cao quá —— là anh hoa mắt à? “Hả? Không ở nhà sao?” Anh chàng đưa hoa vặn mở tay nắm cửa và tò mò tiến vào. Miêu Cương chính là có cái điểm này không tốt, người địa phương thuần phác ngay thẳng, không hề có cảm giác giới hạn là gì. Vốn Diệp Nhượng đang muốn ngăn cản anh chàng đi vào nhưng thấy anh chàng đưa hoa đột nhiên trở nên khổng lồ thế là anh cũng choáng váng hết cả đầu. Anh chàng đưa hoa cúi đầu, ánh mắt đối diện với ánh mắt của Diệp Nhượng, ngay sau đó anh ta lộ vẻ kinh ngạc và hớn hở ngồi xuống nói: “A! Chó con!! Đáng yêu thế!” Diệp Nhượng nhìn thấy bàn tay cực đại của anh chàng đưa hoa chậm rãi vươn tới chỗ mình sau đó trời đất quay cuồng. Đôi tay kia cứ thế bế anh lên, còn mạnh mẽ xoa đầu anh nữa chứ. “Ai u, là con chó con Diệp tiên sinh nuôi à?” Anh chàng đưa hoa khen lấy khen để, “Lần trước tới không thấy mày, lông màu xám nữa chứ, đẹp thế…… Mày còn hơi bị giống Diệp tiên sinh đấy nhé!” Diệp Nhượng: “……” Khoan đã! Cái! Mẹ! Gì! Thế! Này?!! Mời các bạn mượn đọc sách Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ của tác giả Phượng Cửu An.
Cùng Ngày Ly Hôn Với Đại Lão Tôi Biến Nhỏ
Khúc Kim Tích xuyên thành sao nữ vô danh trong một cuốn sách. May mắn thay, sao nữ có ông chồng bí mật: Siêu sao Thẩm Thính. Chết nỗi là, sao nữ suýt thì đã cắm sừng Thẩm Thính. Để tránh khỏi kết cục bi thảm của bản thân, Khúc Kim Tích chủ động đề nghị ly hôn. Chẳng ngờ đúng ngày ly hôn gặp tai nạn xe, cô biến thành một con mèo con, bị cảnh sát xách về đồn. Cùng đường bí lối, Khúc Kim Tích vươn móng viết mấy chữ như giun bới: Bố cháu là Thẩm Thính, số điện thoại xxxxx. Cảnh sát: “Anh Thẩm đúng không, phiền anh tới đồn cảnh sát xx đón… con gái anh về.” Thẩm Thính: “???”            Fan đều biết Thẩm Thính không thích động vật, cho đến một ngày, phát hiện bên cạnh anh thế mà lần lượt xuất hiện đủ loài động vật. Tất nhiên họ không biết rằng, đó đều là Khúc Kim Tích biến thành. Thẩm Thính nuôi riết thành nghiện chọc chọc nhím nhỏ Khúc Kim Tích: “Lần sau, biến thành gấu trúc thử?” Ngày hôm sau, Khúc Kim Tích biến thành một bé gấu trúc. Khúc Kim Tích: “…”                    Kịch nhỏ: Hiện trường hoạt động, Khúc Kim Tích biến thành bạch tuộc hồng không cẩn thận rơi tõm vào ly rượu. Không lâu sau, sao nữ tép riu Khúc Kim Tích đột nhiên hiện hình, ôm Thẩm Thính cọ tới cọ đi, miệng gọi: “Bố!” Hiện trường chết máy. Hôm sau, weibo Thẩm Thính tung ra chứng nhận kết hôn: Tôi không có đứa con gái lớn như thế. Toàn cầu: !!!                Note: Mặc dù thích truyện có não nhưng có vẻ blog này chỉ hợp đào truyện không não rồi (có cái truyện nhiều não nhất thì bị đào rồi bỏ xó). Truyện này kiểu nhẹ nhàng ngốc nghếch dễ thương, coi thể loại với giới thiệu là biết nó thuần giải trí, tiểu bạch văn rồi ha, khuyến cáo đọc không nên mang não. Chọn truyện này thứ nhất vì bạn nữ chính, trời đất ơi sao bạn ấy lại có thể cưng và moe tới vậy, cưng lắm lắm, đặc biệt những khi biến hình, có thể nói những cảnh biến hình chính là điểm sáng nhất của truyện. Thứ hai, đấy là truyện không bôi đen nguyên chủ, tức người bị nữ chính nhập vào. Bạn nguyên chủ truyện này, tuy là ban đầu bạn ấy có một vài hành động hơi nữ phụ, nhưng khi đọc, dần dà lại thấy hành động của bạn ấy là có nguyên do và có thể hiểu được, chỉ là hơi ngốc với hơi dại dột tí, và sau cùng tác giả đã cho bạn này một cái kết trọn vẹn. Thứ ba thì, là vì tác giả đã cho một lời giải thích về việc xuyên không của nữ chính và cả việc bạn ấy liên tục biến hình thành đủ loại động vật, đồ đạc, và với tớ thì lời giải thích này là đủ thuyết phục. Chúc các bạn đọc vui. *** “Mau nhìn kìa, cô ta lại còn dám đến?” “Nom bộ đồ cô ta mặc kia, dám phải nhặt từ hàng vỉa hè ấy chứ, cũng dám gọi là lễ phục?” “Đi thảm đỏ cùng với loại người này, đúng là mất mặt.” “Bỏ tiền vào ké tiếng chứ gì.” Tỉnh lại giữa những tiếng xoi mói móc mỉa, Khúc Kim Tích mở bừng mắt, quét toàn diện cảnh tượng trước mắt: Đây là một căn phòng rất rất rộng, có rất nhiều người, trai xinh gái đẹp, xung quanh còn có không ít ống kính. Khu hậu trường thảm đỏ. Năm con chữ bật ra trong óc. Nói cách khác, trong phòng này, mười người thì có chín là nghệ sĩ ngôi sao, đang đợi đi thảm đỏ. Lúc này, trong não tự động nảy ra một hình ảnh. Trong hình, cô đang trao đổi với một nhân viên chương trình: “Chị Hồng, làm ơn đi, em đưa chị năm mươi ngàn, chị cho em tham gia đêm weibo, dù chỉ ngang qua thảm đỏ lộ mặt thôi cũng được.” Nhân viên chương trình: “Tám mươi ngàn.” “Dạ được!” Khúc Kim Tích: “…” Chuyện quái chi đây? Không được, cô phải thăm dò tình huống cho rõ. Dò hỏi một người trông như là nhân viên nhiếp ảnh, biết được vị trí của nhà vệ sinh, Khúc Kim Tích mải mốt chạy đi. Trên đường còn nghe có người nhỏ giọng châm chích, chẳng biết là nhân viên trong đây hay mấy nghệ sĩ vẻ ngoài lộng lẫy bóng bẩy kia. “Không mặt mũi ở lại rồi?” “Mặt dày đi đu bám Thẩm Thính, đáng kiếp.” “Lần đó cô ta cố tình trượt ngã, ngã ngay vào Thẩm Thính, fan tăng lên cả triệu đó.” “Ha ha, toàn là người mắng chứ gì.” … Vào phòng vệ sinh, Khúc Kim Tích nghĩ bụng cái tên Thẩm Thính này sao nghe quen quen, hình như đã nghe đâu đó rồi. Song ngay khi nhìn thấy người trong gương, cô ngưng bặt. Trang điểm đậm kiểu Âu Mỹ phối với cái đầm ngắn màu vàng trẻ trung, giày ống đen gót cao, kiểu phối đồ khiến người ta khó thở này… Thực ra trang điểm nom cũng được, hiềm nỗi phối màu đậm quá, hoàn toàn không phù hợp với bộ đồ và đôi giày này mới gây hiệu quả thị giác khiến người ta dè sợ. Váy ngắn trẻ trung thì phải phối cùng kiểu trang điểm nhẹ nhàng tươi trẻ chớ, trang điểm đậm vầy là muốn hù ai chết tươi đây. May mà trong tay có túi xách, bên trong là dụng cụ trang điểm đơn giản, còn có một gói bông tẩy trang. Khúc Kim Tích gỡ mi giả trong tâm trạng cạn lời, mở gói bông tẩy trang, định bụng lau sạch lớp trang điểm. Cánh cửa phản chiếu trong gương đột ngột bật mở, một thanh niên trẻ tuổi mặc vest, đi giày da bước vào. Khúc Kim Tích: “???” Cô nhìn sang bên cạnh theo phản xạ, chắc chắn đây là phòng vệ sinh nữ. “Sợ rồi à?” Nom anh chàng độ chừng hăm bốn, hăm lăm tuổi, gương mặt điển trai khôi ngô, khóe môi nhếch cong, hé ra nụ cười mỉm hút hồn. Khúc Kim Tích ngắm anh chàng mất hồn. “Trưng bộ mặt không quen biết anh làm gì, từ bao giờ diễn xuất lại tốt thế rồi?” Anh ta vươn tay riết quanh eo cô, kéo cô lại gần, bàn tay phủ trên lưng cô trượt lên mờ ám. Khúc Kim Tích nổi da gà kín tay, đẩy phắt anh ta ra. Người đàn ông vẫy cái tay bị bộp đau, đôi mày quặp xuống: “Khúc Kim Tích, em nổi điên gì vậy?” “Hay là…” Phút chốc lại rộ cười, “Em đổi kịch bản rồi?” Đầu Khúc Kim Tích kêu lên ong ong, bất giác làm theo lời anh ta, chắp tay để trước người, cảnh giác lại xa lạ: “Anh là ai?” “Chơi mất trí nhớ à.” Chàng trai khẽ cười. Khúc Kim Tích vờ ra vẻ không vui khi bị lột trần, sau đó lại trở về xa lạ cảnh giác. Quả nhiên, người đàn ông càng đoan chắc cô đang chơi trò “mất trí nhớ”. Anh ta đi lên, nét mặt nặng tình tha thiết, nắm chặt tay Khúc Kim Tích: “Tích Tích, em quên rồi ư? Anh là Mạnh Thiên Hạo, người em yêu nhất đây.” “Mạnh Thiên Hạo?” Sao cả cái tên này cũng quen tai thế?! “Được rồi, đừng quấy nữa, sắp phải đi thảm đỏ rồi, còn chơi tiếp thì sẽ lỡ giờ mất.” Anh ta ra chiều muốn hôn cô, cặp mắt chứa chan tình tứ, “Nếu em muốn chơi, đợi đi thảm đỏ xong anh sẽ từ từ chơi với em.” Khúc Kim Tích lùi một bước về sau. Đáy mắt Mạnh Thiên Hạo vụt lướt qua vẻ chán ghét, tiện đà buông cô ra, bỏ lỡ vẻ không dám tin chợt hiện trên mặt cô rồi vụt biến mất. Thẩm Thính, Mạnh Thiên Hạo, đi thảm đỏ… Một loạt sự việc cuối cùng khiến Khúc Kim Tích chợt bừng tỉnh, những người trong này, hoàn toàn ăn khớp với một cuốn sách cô từng đọc trước đó. Cuốn sách bạn giới thiệu cho cô, nói bên trong có một nữ phụ làm nền tên giống hệt tên cô, còn nói kết cục cuối cùng của nữ phụ bi thảm đau xót, gợi khiến cô tò mò, không nhịn được mới lướt lướt cuốn sách nọ. Trong sách, nữ phụ tên Khúc Kim Tích là một sao nữ vô danh tép riu, mơ mộng trở thành siêu sao tầm cỡ, ngồi ôm vô số trai tơ trẻ măng, chẳng ngờ chó ngáp phải ruồi kết hôn với siêu sao Thẩm Thính. Nhưng Thẩm Thích không thích cô ấy, không chạm vào cô ấy, không cho cô ấy công khai quan hệ giữa họ ra bên ngoài. Trừ một tờ đăng ký kết hôn, hai người chẳng khác gì hai kẻ xa lạ. Khúc Kim Tích không cam tâm, bắt đầu tìm đường chết, phát hiện không giành được hồi đáp từ Thẩm Thính thì dứt khoát ngoại tình, tìm một gã tình nhân, cuối cùng thành công khiến Thẩm Thính đưa ra đề nghị ly hôn. Cô nàng chẳng phải kẻ hiền lành dễ đuổi, đưa ra yêu cầu, ly hôn thì được thôi, nhưng phải có một nửa tài sản của Thẩm Thính. Đoán chừng bản thân tác giả cũng không thể chấp nhận nhân vật dưới ngòi bút của mình tác quái nhường ấy, bèn tặng cô nàng một sự cố bất ngờ — quay phim rơi xuống vách núi, xương cốt bầy hầy. Lúc ấy Khúc Kim Tích đọc thấy nữ phụ cùng tên với mình chết thảm thiết như vậy, trong lòng loáng thoáng khó chịu nên không đọc tiếp, ai mà ngờ bản thân lại xuyên vào trong cuốn sách này! Tên Mạnh Thiên Hạo trước mắt này, chính là tên tình nhân mà chủ cũ thân thể này léng phéng. Trong sách Mạnh Thiên Hạo là tên ăn bám dựa vào đàn bà để leo lên. Khúc Kim Tích kết hôn với Thẩm Thính, lợi ích duy nhất là mỗi tháng sẽ nhận được một khoản tiền tiêu vặt từ họ Thẩm, con số rất khả quan. Chút tiền này không thể giúp cô ấy tạo dựng mạng lưới quan hệ trong giới giải trí, tuy thế nuôi một gã mặt trắng vô danh khỏe mạnh cũng muốn vào giới giải trí thì kể vẫn đủ. Cầm tiền của Thẩm Thính đi nuôi tình nhân… Dẫu Thẩm Thính có làm từ gỗ, nếu biết được cũng sẽ tức thành củi khô phừng lửa thôi. Huống hồ, anh ta còn chẳng phải khúc gỗ. Cứ nghĩ tới kết cục của nguyên chủ trong sách, Khúc Kim Tích lại rợn lạnh toàn thân.   Mời các bạn mượn đọc sách Cùng Ngày Ly Hôn Với Đại Lão Tôi Biến Nhỏ của tác giả Đường Hoàn Hoàn.
Chanh Mật Ong
Tớ bị cuồng nhạc Indie, pop ballad, và tất cả những bài hát có giai điệu chill chill, mang chút hơi hướng cổ điển, nếu bồ có cùng sở thích với tớ thì tuyệt vời >< ----------------------- Acclaim: 1. Chanh Mật Ong được viết bởi Thanh Thanh (_arthan_) từ 1/3/2022 và được bảo lưu mọi quyền bởi Wattpad, mọi tình tiết, nhân vật, bối cảnh và ý tưởng đều do người viết nắm giữ. 2. Truyện viết với mục đích phi thương mại. Tác giả không đồng ý, cũng không ủy quyền cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào mang truyện ra khỏi Wattpad và đăng lên các trang web khác. 3. Không chấp nhận mượn ý tưởng, chuyển ver, đạo nhái... dưới bất kỳ hình thức nào. (Bổ sung) Tớ phải xử lý rất nhiều vụ đạo nhái, có những bạn bê nguyên từ cốt truyện đến cách đặt tên nhân vật, cố gồng để viết theo giọng văn và lối viết của tớ, thậm chí đem đạo phẩm đi PR khắp nơi... Đừng nhắn tin hỏi xin tớ về việc mượn ý tưởng, Chanh Mật Ong rất đặc biệt với tớ, cho nên tớ sẽ không bao giờ đồng ý, và mọi hành vi đạo truyện sẽ bị xử lý thẳng tay. Nếu cậu vô tình đọc được bộ truyện nào giống Chanh Mật Ong thì đừng ngần ngại nhắn tin báo cho tớ nhé, tớ sẽ biết ơn cậu nhiều lắm lắm. Truyện vẫn đang trong quá trình sáng tác nên không thể tránh khỏi những sai sót, mọi người có thể comment thẳng vào truyện, tớ sẽ note hết lại góp ý của mọi người và sửa toàn bộ một lượt khi kết thúc truyện. Cảm ơn mọi người rất nhiều! Warning: 1. Truyện thuần Việt 100%, lấy bối cảnh ở Hải Phòng, có một số địa điểm là có thật. 2. Truyện có yếu tố LGBT, bởi vì tớ có rất nhiều bạn bè thuộc cộng đồng LGBT, và tớ cực kỳ yêu thương trân trọng các bạn ấy. 3. Đây là một câu chuyện hoàn toàn hư cấu, tất cả chi tiết, nhân vật đều là tưởng tượng, sự trùng hợp ngoài đời chỉ là ngẫu nhiên. 4. Ngôn ngữ sẽ được sử dụng chân thực và ít hoa mĩ nhất có thể, có thể xuất hiện một số từ nhạy cảm, chửi thề... đề nghị độc giả cân nhắc trước khi đọc. 5. Độ tuổi khuyến khích đọc: 15+ Prologue: Khánh lười biếng ngả đầu vào vai tôi, mái tóc mềm mại của nó cọ khẽ vào cổ khiến tôi thấy hơi nhồn nhột. Tôi hơi hích vai muốn đẩy nó ra, nhưng có vẻ như cái hành động biểu thị sự phản đối của tôi càng khiến nó thêm thích thú, và đầu nó thì vẫn chẳng suy suyển lấy một centimet nào trên vai tôi cả. Khoang mũi tôi tràn ngập mùi dầu gội và mùi nước xả vải nhẹ nhàng tỏa ra từ trên người nó.  Thơm quá. Tôi sẽ bị nghiện mùi của nó mất. "Châu Anh..." Khánh lơ đãng lên tiếng "Mày thích người như thế nào?" "Hả?" Tôi giả vờ chưa nghe thấy câu hỏi của nó, hai tay vẫn bận rộn bấm máy tính giải đề Vật Lý. "Ý tao là" Khánh vươn tay cướp lấy máy tính của tôi, ép tôi phải tập trung vào câu chuyện của nó "Gu của mày là gì?" Tôi bất lực tựa người vào thành ghế, qua loa trả lời: "Chắc là một người dịu dàng, chững chạc và trưởng thành... quan trọng là phải giỏi hơn tao." Khánh nhăn mặt trả lại máy tính cho tôi, nó nằm ườn ra bàn, bĩu môi nói: "Sao chẳng giống tao chút nào thế?" Dù đang làm cái hành động trẻ con chết đi được kia thì trông nó vẫn đẹp trai y như diễn viên Hàn Quốc ấy. Cuộc đời đúng là bất công mà. Tôi khúc khích cười xoa rối mái tóc mềm mại của nó. "Nhưng mà..." Khánh nghiêng đầu nhìn tôi, mỉm cười "Mày thì đúng gu tao đấy." "À... tao cảm ơn." Tôi hơi bối rối thu tay lại, cố làm ra vẻ bình tĩnh tiếp tục giải đề. "Không có gì." Khánh lại nở nụ cười tỏa nắng quen thuộc, và tim tôi lại không kìm được mà loạn nhịp. -------------------- Lần đầu tớ dùng văn phong thuần Việt để viết truyện, rất mong nhận được góp ý của mọi người! Chúc các cậu đọc truyện vui vẻ! Mời các bạn mượn đọc sách Chanh Mật Ong của tác giả Thanh Thanh.
Thể Xác và Tâm Hồn
Xuất bản năm 1943, tác phẩm Thể xác và Tâm hồn thành công vang dội khi được vinh danh tại giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Bộ tiểu thuyết được công chúng và giới phê bình văn học đánh giá cao, nhưng cũng đồng thời làm dấy lên tranh luận sôi nổi về những góc khuất của nghề Y được phơi bày trong tác phẩm.  Bức tranh hiện thực sâu sắc trong hoạt động y tế cũng như đời sống xã hội nước Pháp vào nửa đầu thế kỷ XX đã được tác giả khắc họa chân thực với những bất công trong xã hội, những tình yêu éo le, những cảnh đời ngang trái, những kẻ cơ hội, những bác sĩ cố chấp... Và cả những tâm hồn cao thượng, những y bác sĩ tận tâm, dám hy sinh, dám dấn thân và đi đến tận cùng đức tin của mình. *** Thể xác và Tâm hồn: Câu chuyện xúc động về ngành Y Theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, "Thể xác và tâm hồn" như một bức panorama, phơi bày những khía cạnh về đời sống ngành y của nước Pháp, rộng ra là cả thế giới. Từ xưa đến nay, Y học gắn liền với tiến trình phát triển của nhân loại. Thuở xa xưa, nhiều nền văn minh đang ở đỉnh cao rực rỡ phút chốc bị xóa sổ vì những dịch bệnh khủng khiếp. Điều đó chứng minh rằng, con người cần chăm sóc sức khỏe, hay cần phải phát triển y học trước nhất. Vì vậy, ngành y ở Việt Nam luôn là một trong những ngành quan trọng được đầu tư vì sự phát triển toàn diện của người dân. Trong năm vừa qua, Việt Nam được y tế thế giới biểu dương là quốc gia thành công nhất trong phòng, chống dịch COVID-19, huy động được toàn bộ hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tham gia phòng chống COVID-19 với chi phí thấp nhất. Có được thành công như vậy phần lớn nhờ những đóng góp không mệt mỏi của toàn dân nói chung và đội ngũ y bác sĩ nói riêng. Chính vì thế Phúc Minh Books cho ra mắt bộ sách Thể xác và tâm hồn của tác gia Maxence van der Meersch, một bộ sách nổi tiếng về ngành y thế kỉ 19 như một sự tri ân đối với những người anh hùng tuyến đầu đã hy sinh chống dịch. Thể xác và tâm hồn được xem là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong văn nghiệp của Maxence Van der Meersch. Bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội này từng được vinh danh Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943 và dịch sang 13 ngôn ngữ khác nhau. Maxence Van der Meersch (1907-1951) là một trong những nhà văn nổi bật của văn học Pháp thế kỷ XX. Ông từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L'Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại thành phố Angers những năm 1937 - 1938, Thể xác và Tâm hồn đã vẽ nên một bức tranh hiện thực rộng lớn, sâu sắc về đời sống xã hội, cũng như hoạt động y tế tại Pháp trong những năm nửa đầu thế kỷ XX, liên quan đến các bệnh lý tâm thần và bệnh lao. Hình tượng nhân vật chính Michel cũng chính là cuộc đời của bác sĩ Paul Carton, một vị bác sĩ mà nhà văn Maxence Van der Meersch vô cùng biết ơn và ngưỡng mộ - bởi ông cho rằng vợ mình, Thérèse, sống sót khỏi bệnh lao là nhờ công ơn của Paul Carton. Điểm nổi bật của nhân vật chính - Michel tuy là một chàng trai có xuất phát điểm tốt hơn đám bạn, có cha là một vị bác sĩ tiếng tăm, có địa vị trong giới Y học tại trường Đại học nổi tiếng, nhưng anh không vì thế mà kiêu ngạo. Trái lại anh hết sức học tập trau dồi khả năng phẫu thuật cũng như y đức. Dường như trái ngược với những cậu bạn cùng khóa chỉ chăm chăm dựa vào thế lực và nạn chia bè phái giữa các giáo sư đầu ngành với nhau để tiến thân, Michel chủ trương tin vào bản thân cũng như những giá trị cốt lõi. Cậu sẵn sàng từ bỏ sự sắp xếp của cha trên con đường hoạn lộ tươi sáng để được sống độc lập. Michel còn dành thời gian để theo đuổi cách chữa bệnh lao mới, đồng thời sống vì người bệnh mà không toan tính cũng như trục lợi trên bệnh tình của họ. Bản thân tác phẩm này khi ra mắt tại Pháp đã bị giới y học chỉ trích nặng nề bởi họ cho rằng Maxene van der Meersch chỉ là kẻ ngoại đạo không am hiểu sâu sắc về ngành y, nhưng nó lại được giới phê bình và công chúng đón nhận bởi nhà văn đã lột tả, khá chân thực những góc khuất của giới y-bác sĩ trong bối cảnh xã hội Pháp những năm 1937-1938 (Vấn nạn rượu bia, mại dâm; hậu quả của đời sống sinh hoạt thiếu khoa học, cách khám chữa bệnh quan liêu tắc trách, tranh giành danh vọng, địa vị trong gia đình/xã hội). Vậy nên tính thời đại của câu chuyện trong Thể xác và tâm hồn thực sự vẫn còn giá trị trong thời đại ngày nay. ***  “Thể xác và tâm hồn ” - cuốn sách tri ân những “Anh hùng áo trắng“  Bộ sách “Thể xác và tâm hồn “ của tác gia Maxence van der Meersch, một bộ sách nổi tiếng về ngành y thế kỉ 19 như một sự tri ân đối với những người anh hùng tuyến đầu đã hy sinh chống dịch COVID-19. “Thể xác và tâm hồn” của tác gia Maxence van der Meersch, một bộ sách nổi tiếng về ngành y thế kỉ 19 như một sự tri ân đối với những người anh hùng tuyến đầu đã hy sinh chống dịch. "Thể xác và tâm hồn" được xem là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong văn nghiệp của Maxence Van der Meersch. Bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội này từng được vinh danh Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943 và dịch sang 13 ngôn ngữ khác nhau. Maxence Van der Meersch (1907-1951) là một trong những nhà văn nổi bật của văn học Pháp thế kỷ XX. Ông từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L’Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại thành phố Angers những năm 1937 - 1938, "Thể xác và Tâm hồn" đã vẽ nên một bức tranh hiện thực rộng lớn, sâu sắc về đời sống xã hội, cũng như hoạt động y tế tại Pháp trong những năm nửa đầu thế kỷ XX, liên quan đến các bệnh lý tâm thần và bệnh lao.Hình tượng nhân vật chính Michel cũng chính là cuộc đời của bác sĩ Paul Carton, một vị bác sĩ mà nhà văn Maxence Van der Meersch vô cùng biết ơn và ngưỡng mộ - bởi ông cho rằng vợ mình, Thérèse, sống sót khỏi bệnh lao là nhờ công ơn của Paul Carton.  Điểm nổi bật của nhân vật chính - Michel tuy là một chàng trai có xuất phát điểm tốt hơn đám bạn, có cha là một vị bác sĩ tiếng tăm, có địa vị trong giới Y học tại trường Đại học nổi tiếng, nhưng anh không vì thế mà kiêu ngạo. Trái lại anh hết sức học tập trau dồi khả năng phẫu thuật cũng như y đức. Dường như trái ngược với những cậu bạn cùng khóa chỉ chăm chăm dựa vào thế lực và nạn chia bè phái giữa các giáo sư đầu ngành với nhau để tiến thân, Michel chủ trương tin vào bản thân cũng như những giá trị cốt lõi. Cậu sẵn sàng từ bỏ sự sắp xếp của cha trên con đường hoạn lộ tươi sáng để được sống độc lập. Michel còn dành thời gian để theo đuổi cách chữa bệnh lao mới, đồng thời sống vì người bệnh mà không toan tính cũng như trục lợi trên bệnh tình của họ. Bản thân tác phẩm này khi ra mắt tại Pháp đã bị giới y học chỉ trích nặng nề bởi họ cho rằng Maxene van der Meersch chỉ là kẻ ngoại đạo không am hiểu sâu sắc về ngành y, nhưng nó lại được giới phê bình và công chúng đón nhận bởi nhà văn đã lột tả, khá chân thực những góc khuất của giới y-bác sĩ trong bối cảnh xã hội Pháp những năm 1937-1938 (Vấn nạn rượu bia, mại dâm; hậu quả của đời sống sinh hoạt thiếu khoa học, cách khám chữa bệnh quan liêu tắc trách, tranh giành danh vọng, địa vị trong gia đình/xã hội.) Vậy nên tính thời đại của câu chuyện trong "Thể xác và tâm hồn" thực sự vẫn còn giá trị trong thời đại ngày nay. Bảo Châu *** Giới thiệu tác giả và tác phẩm MAXENCE VAN DER MEERSCH, nhà văn Pháp, sinh năm 1907 tại thành phố Roubaix, tốt nghiệp ngành Luật và Văn chương, mất năm 1951. Tác phẩm “NGÔI NHÀ TRONG CỒN CÁT” (1932), TỘI LỖI CỦA THẾ GIAN (1934), MARIA, CÔ GÁI VÙNG FLANDRE (1935), DẤU VẾT CỦA CHÚA (1936, giải thưởng VIỆN HÀN LÂM GONCOURT), THỂ XÁC VÀ TÂM HỒN (1943, giải thưởng VIỆN HÀN LÂM PHÁP), CÔ GÁI NGHÈO (1948) v.v...   THỂ XÁC và TÂM HỒN là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội vô cùng phong phú, nó phơi bày trước mắt người đọc một bức tranh đời thực rộng lớn và sâu sắc: những bất công đầy dẫy trong xã hội đồng tiền khi đám thượng lưu giàu có mặc sức hưởng thụ và chà đạp lên đạo lý, nhân phẩm, còn người lao động nghèo sống trong cảnh tối tăm cùng cực; những tâm hồn cao thượng dám đấu tranh cho lý tưởng nhân đạo và lẽ phải: những tình yêu éo le và những cảnh đời ngang trái, những tài năng say mê hy sinh vì sự nghiệp và những mánh khóe chạy theo bả vinh hoa... Bên cạnh đó người đọc sẽ còn bị lôi cuốn về những trang viết chân thực và thú vị về một nghề nghiệp rất cao cả, rất cực nhọc và cũng rất bí hiểm: ngành y. Mời các bạn mượn đọc sách Thể Xác và Tâm Hồn của tác giả Maxence Van der Meersch.