Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1 (Dolores Cannon)

Cái tên Dolores Cannon có lẽ không được quen thuộc với nhiều độc giả, nhưng nào giờ cô ấy đã làm việc trong mảng thôi miên hồi quy được nhiều năm rồi. Dolores không phải là một học giả, nhưng cô ấy có sự tận tụy của một học giả, đối với chi tiết, sự chính xác, và sự thật. Cô không hề mệt mỏi trong việc theo đuổi tri thức, điều mà độc giả của cô sẽ biết khi họ đã đi theo con đường không ngừng nghỉ của cô ấy xuyên qua những mê cung tinh thần và tâm trí của con người. Không có gì đáng ngạc nhiên khi cô ấy đã có được một lượng lớn người theo dõi trong số những người am hiểu, những người bạn đồng nghiên cứu về những hiện tượng huyền bí. Tại nhà của Dolores, như bạn sẽ thấy, có rất nhiều chỗ ở (*).

Tôi gặp Dolores cách đây một vài năm, và cô ấy đã kể với tôi về công việc mà cô ấy đang làm. Cô ấy đã không hề tuyên bố là mình hiểu được toàn bộ những tài liệu mà cô ấy thu thập được từ những thân chủ của mình trong khi họ đang ở trong trạng thái thôi miên. Cô ấy không tuyên bố rằng mình biết tất cả các câu trả lời, nhưng với một tư duy cởi mở, cô ấy đã tin rằng những linh hồn tự cho rằng họ đang trò chuyện với cô thông qua miệng của những người đang sống, có thể là những sinh thể có thực, có lẽ là nằm ngoài thời đại của chúng ta, tồn tại ở một cảnh giới khác với cảnh giới của chúng ta.

Là một người đã quen thuộc với thuật thôi miên, tôi hứng khởi nhất là khi nghe những gì cô Cannon nói. Tôi đã học kỹ thuật thôi miên nhiều năm trước từ một bác sĩ nổi tiếng ở Florida. Sau đó, tôi có vinh dự được làm việc với một trong những người tiên phong hàng đầu trong lĩnh vực thôi miên lâm sàng, William S. Kroger, Bác sĩ Y khoa của Beverly Hills.

Tôi đã hỏi Dolores kỹ càng về những kỹ thuật của cô ấy và tin chắc rằng cô ấy không dẫn dắt các thân chủ của mình trong khi họ đang được thôi miên dưới sự hướng dẫn của cô, cũng như không cung cấp bất kỳ tài liệu nào mà được tiết lộ dưới sự thôi miên. Tôi đã nghe rất kỹ một số đoạn băng, tìm kiếm bất kỳ sai sót hay những phương pháp luận đáng nghi vấn nào đó. Tôi nhận thấy cô ấy cực kỳ cẩn thận, không hướng dẫn các thân chủ cũng như không nhắc nhở họ. Nếu có điều gì, thì cô ấy là người chuyên chú đứng sang một bên và để cho những tài liệu được truyền đạt lại mà không bị ảnh hưởng bởi những câu hỏi của cô ấy. Cô ấy không đưa ra những câu trả lời, lý thuyết, xác suất hay giả thiết nào. Thay vào đó, cô ấy để thân chủ dẫn dắt cô ấy qua suốt những buổi thôi miên, với những giọng nói khác trong các căn phòng khác kia.

Dolores Cannon là một người thực hành nghệ thuật thôi miên một cách nghiêm túc, và đặc biệt thành thạo kỹ thuật hồi quy. Tôi đã yêu cầu được đọc một số phần của một trong những bản thảo của cô ấy. Cô ấy đã gởi nó cho tôi và tôi đã rất ấn tượng với tài liệu mà cô ấy đã khám phá ra. Theo tôi, dường như cô ấy có hơi ngạc nhiên bởi tài liệu và cả bởi cách mà nó được đưa ra ánh sáng. Tài liệu của cô ấy rất hấp dẫn, ít nhất phải nói rằng, chúng được tổ chức rất tốt. Tìm mua: Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1 TiKi Lazada Shopee

Có những lý do chính đáng khiến cô ấy bị giật mình bởi những gì mà các thân chủ của cô ấy phải nói trong khi được thôi miên. Tôi đã hỏi cô về những thân chủ này. Nhiều người là những bà nội trợ ở nông thôn, sinh ra trong những gia đình nông dân, ít được học hành. Đây là những người mà người ta hẳn sẽ không coi là người trí thức. Do vậy, tài liệu dường như ấn tượng hơn là nếu nó đến từ ai đó mà vốn đã biết về những nghiên cứu siêu nhiên.

Dolors đã biết rằng cô ấy có được một số tài liệu thú vị. Cô ấy là một nhà văn rất giỏi. Cô ấy viết rõ ràng và rành mạch về những vấn đề phi thường. Tôi tin rằng những tác phẩm của cô ấy sẽ đạt được những tầm vóc lớn hơn nữa, khi bạn xem xét đến những gì cô ấy đã làm để xác minh những nguồn tài liệu mà không có ghi chép lại gì về chúng cả. Không giống như những nhà thôi miên khác, những người khám phá ra những sự thật đáng kinh ngạc hoặc khối kiến thức trong suốt những buổi thôi miên, cô ấy không hề vội vàng in lại những phát hiện của mình. Cô ấy cũng không đưa ra những phán đoán quá sớm, về những khám phá của mình. Thay vào đó, cô ấy kiểm tra chéo tài liệu mà cô ấy đã tìm kiếm từ tiềm thức, trong sự nỗ lực lớn nhất có thể, nhằm chứng minh rằng những dữ kiện có thể xác minh được đã được thu thập từ những thân chủ của cô ấy. Cô ấy làm điều này bằng hai cách.

Khi một linh hồn nói chuyện từ một thời đại khác, chẳng hạn như nhân chứng của vụ thảm sát ở Hiroshima, Dolores đã nghiên cứu những sự việc thông qua các nguồn được công bố. Điều này đã cho cô ấy cái nhìn có giá trị trong việc đánh giá tài liệu của cô ấy. Nhưng với một nét xuất sắc, cô ấy đã còn tiến xa hơn nữa. Cô ấy đã bắt đầu khám phá cùng một khoảng thời gian và trải nghiệm (hoặc kiến thức) tiền kiếp với những thân chủ khác, không ai trong số họ biết về nhau, biết về tài liệu kia, và thậm chí còn không sống cùng thị trấn hay khu vực với thân chủ là nguồn chính.

Cần phải lưu ý rằng các thân chủ của cô ấy đến từ mọi tầng lớp trong cuộc sống. Một số có trình độ học vấn cao hơn những người khác, sinh viên đại học, cũng như những người lao động. Một số giàu có, và một số đang sống một cuộc sống nghèo khổ. Tôi chắc chắn rằng một ngày nào đó công chúng của cô ấy sẽ muốn biết thêm về những người ẩn danh này, và dĩ nhiên là họ phải tiếp tục được giữ ẩn danh như vậy. Tuy nhiên, Dolores đã ghi lại đầy đủ tất cả các buổi thôi miên của cô ấy, ghi chú, giữ gìn các bình luận riêng của cô ấy, và lưu trữ các băng ghi âm của cô.

Hơn thế nữa, Dolores đã đi sâu vào lịch sử, xem xét các bản đồ và truy xuất tài liệu mà dường như đã củng cố các cuộc đối thoại của những người đã sống cách đây nhiều năm và hiện giờ đang nói chuyện với chúng ta thông qua những đối tượng mà không biết chút gì về những thời đại đó, hay các dân tộc đã sống trong những thời cổ đại. Điều này đưa chúng ta đến với Nostradamus.

Theo những gì tôi biết, thì Dolores Cannon đã chưa bao giờ đọc một bài thơ bốn câu nào của Nostradamus, và hầu như đã không biết gì về người đàn ông hoặc những lời tiên tri của ông ta trước khi phát hiện ra ông ta, trong khi đang đưa một thân chủ quy hồi về tiền kiếp. Khi tài liệu bắt đầu xuất hiện thông qua các thân chủ của cô ấy, mặc dù sự cám dỗ là rất lớn, cô ấy cũng đã không thực hiện bất kỳ nghiên cứu nào về người đàn ông và những ghi chép của ông ấy, cho tới khi dự án được hoàn thành. Trong những quyển sách của cô ấy, có liên quan đến những lời tiên tri của nhân vật lịch sử hấp dẫn này, Dolores cẩn thận phát họa nên những vấn đề mà đã nảy sinh thông qua việc thôi miên hồi quy của các thân chủ của cô ấy, và những gì cô ấy đã học được thông qua những nghiên cứu bên ngoài của mình.

Nostradamus đã hấp dẫn các học giả và những người hiếu kỳ trong nhiều thế kỷ. Những bài thơ bốn câu của ông ấy, mặc dầu phức tạp, dường như mời gọi những cuộc nghiên cứu sâu hơn, bởi vì ông ấy tuyên bố mình là một người có thể nhìn thấy tương lai. Trong nhiều năm, những học giả đã cố gắng giải thích những bài thơ tiên tri tối nghĩa của ông ấy, được viết bằng tiếng Pháp cổ, Latin và các ngôn ngữ khác, những ám chỉ của ông ấy về các sự kiện đã xảy từ thời ông ấy và sẽ xảy ra trong tương lai, thậm chí còn vượt xa hơn cả thế kỷ thứ 20.

Một cách ngắn gọn thì người đàn ông mà chúng ta gọi là Nostradamus là một thầy thuốc và một nhà chiêm tinh. Ông là người Pháp, sinh ra ở Saint Remi, tỉnh Provence, năm 1503. Ông học ở cả Avignon và Montpellier, và đã trở thành một thầy thuốc giỏi. Tên thật của ông là Michel de Notredame, nhưng khi sự quan tâm của ông dành cho chiêm tinh học tăng lên, ông đã Latin hóa tên mình, để rồi sau đó, ông được biết với danh xưng Nostradamus.

Ông được biết đến rộng khắp nhờ vào tài chữa trị cho những nạn nhân bị bệnh dịch hạch, đặc biệt là ở miền nam nước Pháp. Ông đã làm việc không mệt mỏi ở Aix và Lyons năm 1545 khi dịch bệnh hoành hành ở các thành phố đó. Chính trong suốt thời gian chết chóc này, Nostradamus đã bắt đầu thu hút sự chú ý của người ta với tư cách là một nhà tiên tri, một người tuyên bố rằng mình có thể dự báo được tương lai. Mười năm sau, vào năm 1555, ông xuất bản một tập hợp những lời tiên tri của mình dưới dạng các bài thơ bốn câu có vần điệu. Ông ấy gọi cuốn sách là Những Thế Kỷ.

Tài năng của ông với tư cách là một nhà chiêm tinh được biết đến rộng rãi và được ưa chuộng trong giới thượng lưu. Không ai khác ngoài Catherine de Medici, Nữ hoàng Pháp, đã mời ông đến triều của bà. Ở đó, ông đã xem lá số tử vi cho những người con trai của bà. Khi Charles đệ IX lên ngôi vua, ông ấy đã bổ nhiệm Nostradamus làm thầy thuốc của triều đình. Người đàn ông được biết đến với cái tên Nostradamus đã qua đời vào năm 1566, khi ông 63 tuổi. Đáng chú ý là, ông đã sống lâu hơn nhiều người đồng hương của mình, và ông ấy đã đạt được sự bất tử thông qua việc xuất bản những bài thơ tiên tri của mình. Ông là một người đàn ông bí ẩn trong thời đại của mình và vẫn như vậy mãi cho đến ngày nay.

Tuy nhiên, Dolores Cannon đã làm sáng tỏ một cách đáng kể về người đàn ông và những lời tiên tri của ông ấy thông qua công việc của cô ấy và những cuốn sách hiện đang được xuất bản, chính là kết quả của công việc đó.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Dolores Cannon":Ba Làn Sóng Tình Nguyện Viên Và Trái Đất MớiCon Người Đa ChiềuVũ Trụ Đa ChiềuVũ Trụ Xoắn - Quyển 2Vũ Trụ Xoắn - Quyển 3Những Người Trông Nom Trái ĐấtNhững Người Giám HộTừ Sau Khi Chết Đến Tái SinhVũ Trụ Xoắn - Quyển 1Vũ Trụ Xoắn - Quyển 4Vũ Trụ Xoắn - Quyển 5Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1Họ Đã Dạo Bước Cùng Chúa JesusCuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 2Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 3Di Sản Từ Các Vì SaoMột Linh Hồn Nhớ Về HiroshimaNăm Cuộc Đời Được Ghi NhớTìm Kiếm Tri Thức Thiêng Liêng Còn Ẩn GiấuJesus Và Những Người Essense

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1 PDF của tác giả Dolores Cannon nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

10 bài giảng về Thiền Vipassana [pdf]
“Khi con cái quấy khóc, vòi vĩnh, quấy nhiễu, bố mẹ thường vứt cho con chiếc điện thoại. Chiếc điện thoại thần kỳ chứa đựng cả thế giới trong đó, đủ màu sắc để trẻ chơi cho yên thân - yên thân trẻ và yên thân cả người làm bố làm mẹ. Bố mẹ lại không biết, như vậy là mình đã tự tay giết chết con mình. Đầu tiên là con mắt trẻ bị hư. Điều thứ nhì là cái não trẻ luôn luôn kích động. Khi mà đứa bé thích quá, thì lập tức não cũng như các bộ phận sẽ tiết ra hóa chất điều khiển toàn thân và ý của trẻ. Một trong những chất đó là Adrenaline tiết ra từ tuyến thượng thận, nó làm cho toàn thân rung lên, sướng lắm, khoái lắm, nhưng mà đó là CHẤT ĐỘC. Sự tích lũy của cái độc tố đó lâu ngày nó giết đứa trẻ, giết cái mắt nó mờ đi, giết cái trí nó ngu đần đi, và giết toàn cơ thể nó bị bệnh”. Trích bài 9 – Nhân quảNhiều người sẽ đặt câu hỏi, câu chuyện được trích ấy thì liên quan gì đến thiền? Có đấy, câu chuyện ấy là thí dụ rõ rệt nhất cho luật nhân quả, nhân A mà lại chứng quả B - người làm bố làm mẹ tưởng như đã cho con thứ tốt nhất nhưng lại sinh ra hậu quả khôn lường. Luật nhân quả thì liên quan gì đến thiền? Lại có đấy, vì nếu ngồi thiền mà không tin luật nhân quả thì chẳng có thành tựu gì hết, cũng chỉ là diễn thêm một vở tuồng mà thôi.Thưa các bạn,Vũ trụ vận hành có logic, và mỗi thực thể chúng ta cũng vậy, buộc phải phù hợp với logic của vũ trụ. Giả sử bạn không tin vào nhân quả, thì hãy tin vào điều đó. Khi các bạn thiền, nếu không hiểu rõ sự vận hành có tính quy luật ấy, thì tất cả chỉ mông lung như một trò đùa và bạn không thể tới cái đích cần tới. Chính vì lý do đó mà không ít người đã đặt câu hỏi ngơ ngác rằng: tôi đã thiền 4 năm mà sao không thấy gì khác cả? Thiền tuệ Vipassana là cuốn sách tập hợp 10 bài giảng về thiền Vipassana do tỳ kheo Thích Minh Tâm giảng  tại Tuệ Tâm Thiền Thư Quán vào Mùa An Cư năm 2019. Chúng tôi đã đánh máy lại, biên tập, in thành sách với mong muốn cuốn sách này có thể đến được với nhiều người, giúp cộng đồng nhận diện rõ thiền là gì, thiền thế nào cho được lợi lạc. Thiền chẳng thể giúp các bạn chứng thánh; nhưng chắc chắn thiền đúng sẽ mang đến cho các bạn sự hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại này.Nếu bạn có duyên cầm cuốn sách này trên tay, hãy đừng vội phản ứng với vài “liều thuốc đắng” trong từng bài giảng. Hãy biết nhặt nhạnh, thử nghiệm, trải nghiệm, chậm thôi, từ từ trải nghiệm. Chẳng có bài học nào quý giá bằng chính sự trải nghiệm của bản thân mỗi người!Nhóm hoằng pháp Tuệ Tâm, bao gồm:Ban biên tập: Nghiêm Lê – Vân AnhGhi hình và thu âm: Minh Điền, Song ThuĐánh máy: Phạm Thị Thanh Duyên,Võ Lê Trung, Đoàn Nhật Tân, Trịnh Thế Lữ, Nguyễn Khánh Hòa và nhóm công ty Ngàn ThôngXin kính báo!Thành kính tri ân Giảng Sư Thích Minh Tâm, vị thầy đã tận tụy giảng dạy Phật Pháp và Thiền cho hàng Phật tử chúng con tu tập.
Angkor (Đế Thiên Đế Thích) - Lê Hương
ANGKOR là tiếng gọi chung cho vùng đất trong tỉnh Siem Reap, lãnh thổ Cao-Miên, nơi có những đền đài xây toàn bằng đá nguyên khối chồng chất lên nhau, tạo thành một kỳ quan trên hoàn vũ. Vào đầu thế kỷ thứ 20, người Việt Nam sang đất bạn du-lịch hay cư ngụ đều có viếng thăm hoặc nghe nói đến kỳ công của các đăng Tiên-Vương Cao-Miện, mà không hiều vì sao lại gọi bằng danh từ Việt: ĐỂ-THIÊN ĐẾ THÍCH. Trải qua hàng trăm năm, đồng bào ta quen dùng tên này hơn là tên thật.Angkor gốc là tiếng Phạn; Nagara nghĩa là kinh đô. Vùng Angkor xưa kia là nơi Vua Cao-Miên đóng đỏ một thời gian dài từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 15 mới dơi lần xuống phía Nam. Trong vùng có hai ngôi đền lớn nhất mang tên ANGKOR THOM và ANGKOR WATH. Angkor Thom nghĩa là Kinh đô lớn, nơi nhà Vua cất Hoàng cung, Kim loan điện. Angkor Wath, hay Vat, nghĩa là Kinh đô chùa (?) là một ngôi đền vĩ đại và đẹp hơn tất cả đền đài, được nhà Vua xây cất sau cùng trước khi thiên đô. 
Áo Nghĩa Thư [pdf]
Uống nước uống tận nguồn.Một công trình khảo cứu dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào thay thế được kinh văn cội gốc. Giỏi lắm chỉ là một bộ xương khổ so với con người sống thật co linh hồn long lanh trong ảnh mắt và tỏa ra trong hơi thở. Ấy là chưa kể những công trình phản bội, làm sai nghĩa chiếm đến chín mươi phần trăm số sách khảo cứu. Xin kể một thí dụ. Trước khi đọc những mảnh tàn văn của Parmenide, triết gia vĩ đại phải Eléc, tôi đã tìm hiểu qua những bộ triết sử và nghiên cứu của những học giả Tây phương đã thừa hưởng công trình vài chục thế kỷ. Đến khi bắt đầu đọc, tôi đi từ sửng sốt này đến sửng sốt khác vì mọi sách khảo cứu mà tôi được biết đều phản bội, lật ngược lại chủ ý sâu xa của Parménide, của phái Elée, một triết phải không để lại nhiều sách vở nhưng được coi là một trong những trường phải lớn của tư duy Hy Lạp, của thế giới Tây phương. Thời gian tôi dùng để đọc dăm trang khảo cứu là một vài giờ, còn đọc thẳng vào vài trang bản văn là mười lăm đêm, mỗi đêm 4 tiếng đồng hồ, tức là 60 giờ. Đỏ là một chuỗi hàm số liên tiếp mà người đọc phải tự giải, nhưng giải xong thì thấy cả núi sách khảo cứu dầu đúng cũng không đi vào chiều sâu, vào cải thần, ấy thế mà lại giải sai.Nếu Parménide với triết phái Elée, được người Tây phương khảo sát nhiều thế kỷ vì tự coi là thừa kế triết học Hy Lạp, mà còn bị phản bội như thể thì những triết thư Ấn Độ như Upanishads được khảo sát ra san, ta có thể suy đoán được.Người Việt ta vài ngàn năm quen với một dòng của triết đạo Ấn Độ là Phật giáo, nhưng về những dòng khác thì mới bắt đầu từ vài chục năm nay. Cho đến bảy giờ những bộ căn bản nhất như Upanishads cũng chỉ được trích dẫn vài câu đã trở thành sảo ngữ trong vài cuốn khảo cứu. Đã đến lúc uống nước uống tận nguồn. Bởi thế cho nên chúng tôi lựa chọn ba bộ tiêu biểu được đạo sư có uy tín người Ấn Độ là Shri Aurobindo vừa thừa hưởng được truyền thống, vừa có căn bản triết học Tây phương để bình giải, trình bày cho chúng ta thời bấy giờ hiểu nổi.Ấn Độ có ba dòng lớn về triết học là: Bà-la- môn giáo, Kỳ-na giáo, Phật giáo. Trong lòng Bà la-môn giáo lại có sáu phải mà quan trọng nhất là hai phải. Số luận tức là Samkhya, Vệ Đàn-Đà tức Védanta nghĩa là Viên thành Vệ Đà.Gạt ra ngoài vấn đề so sánh giá trị nội tại của hai phải này, mà chỉ nói quan niệm của đa số người Ấn cũng như học giả thế giới thì Vệ Đàn Đà được coi như tiêu biểu cho tư tưởng Ấn Độ, là cái phần tinh túy nhất mà văn hóa Ấn Độ cung hiến cho nhân loại. Đó là tư tưởng nhất nguyên coi vũ trụ, nhân loại, Thượng đế chỉ là một, chỉ có một Đại Ngã, Đại Hồn. Bởi thế cho nên Upanishads nhắc đến Thượng để hay đáng Chủ Tề thì ta chở nền lẫn với nhất thần giáo mà chỉ coi là một lối nói tạm để bị vượt ngay trong một bộ sách như phép giải toán lập số khử số để đi đến đáp số cuối cùng. Nó là nhất nguyên luận mà người Tây phương gọi là phiếm thần giáo, Phật giáo Đại thừa gọi là nhất như thuyết. Vedanta với Đại thừa cùng một dòng tư tưởng, đó là điều hiển nhiên tuyệt đối.Kinh điển nòng cốt của Vedanta là những bộ Upanishads. Chúng tôi dịch là Áo Nghĩa Thư với danh từ thông dụng từ lâu của những nhà Phật học nhưng giá trị của nó không ở dưới những bộ được gọi là kinh thư như tử thư so với Ngũ Kinh. Là vì bên Ấn Độ, những bộ được gọi là Sutras, vẫn được dịch là kinh, chưa hẳn giá trị hơn những bộ không được gọi là Sutras. Bởi thế những bộ như Vedas tôn quí bậc nhất mà không gọi là sūtras. Và người ta đã có lý khi dịch kinh Vệ Đà. Vậy Áo Nghĩa Thư hay Áo Nghĩa Kinh cũng vậy.Những bộ này được xếp sau những bộ Vệ Đà nên được coi là Liễu Kết Vệ Đà hay Viện Thành Vệ Đà với hai nghĩa đen và bóng: Nó được coi là rút tỉa tinh hoa của Vệ Đà, đào sâu mở rộng cái trực giác thần diệu nhất giữa nhiều trực giác ở Vệ Đà phong phủ như cái mỏ. Đó là trực giác về nhất nguyên luận hay nhất như thuyếtNhững bộ Áo Nghĩa Thư thật nhiều, khởi từ trước hay ngang thời Phật Thích Ca đến cuối Trung cổ, nhưng những bộ căn bản được coi là có mười hai, mà ba bộ sau đây ở trong số đó. Những tác giả thường vô danh, những vị được nhắc đến ở bộ này bộ nọ là những bậc truyền miệng được người ta ghi lại thêm bớt mà có vị chỉ là nhân vật huyền thoại.Những bộ này thường được coi là thần kỳ bí hiểm, những bản dịch nhiều khi khác nhau đến mực đưa ra những nghĩa không liên quan gì với nhau. Nên chúng tôi lựa chọn những bộ do đạo sư người Ấn dịch ra Anh ngữ, hơn hẳn những bản dịch của những học giả Tây phương mà tôi có để đối chiếu. Bản dịch từ Anh ngữ ra Pháp ngữ v hai bộ Isha và Mundaka do ông Jean Herbert đã được đạo sư Aurobindo hiệu chính, còn bản dịch Kena do ông Jean Herbert cộng tác với hai bạn là Cunulle Rao và René Daumal tuy không được đạo sự hiệu chính nhưng chắc chắn dùng tin cậy để tôi dịch lại ra tiếng Việt vì ông Jean Herbert đã cả đời hiến mình cho việc dịch, khảo và truyền bá triết đạo Ấn Độ, có tiếp xúc với nhiều bậc thầy Ấn hiện sống.Chỉ xin có đôi lời về lối dịch của chúng tôi.chữ Tat, Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ là chữ Cela, Cái y để ám chỉ Chân Thể mà người nghe được coi là đã ngầm hiểu. Người Việt tu đã quen từ lâu với tiếng Chân Như nên chúng tôi dịch là Chân Như. Đó là trong cuốn Isha nhưng sang cuốn Kena thì tài phải dịch sát là Cái Ấy vì Chân Thể trong cuốn này được coi như là một nghi vấn, một ẩn số đối với chủ thần, mãi đến cùng mới nhận ra.Soham, tiếng Phạn, dịch sát ra Pháp ngữ là Je Suis Lui – chúng tôi dịch: Ta là Chân Như cũng vì lẽ trên.Tattvam asi: - Tu es Cela – chúng tôi dịch: Ngươi là Chân Như cũng vì lẽ trên.Chữ Étre thường được dịch là Hữu Thế mà theo Parménide, cổ triết gia Hy Lạp người đã xây dựng toàn bộ học thuyết trên ý niệm này, thì thuộc tỉnh lớn nhất của Hữu Thế là hằng hữu, bất sinh bất diệt, vậy chúng tôi dịch là Hằng Hữu để phân biệt với être thường không viết hoa dịch là hữu thể.Chữ Existence có hai nghĩa chính là thực hữu hay hiện hữu và sinh tồn, chúng tôi dịch thành hữu tồn, tuy cũng có khi là sinh diệt, khi là sinh hóa, khi là sáng hóa, vừa theo tinh thần triết học Ấn Độ vừa uốn theo sắc thái, nhịp độ tư tưởng rất biến hóa linh động của Aurobindo.Chữ Dissolution thường được dịch là hòa tan hay tiêu diệt chúng tôi dịch là tiêu nhập theo tinh thần ở dây.Chữ Jeu có nhiều nghĩa, mà kể ba là trò chơi, sự vận dụng, sự xếp đặt xảo diệu, chúng tôi dịch, là trò diệu hóa hay diệu hóa lực theo hệ thống tư tưởng của Aurobindo vẫn gọi bằng tiếng Phạn là Lila thay cho Mâyân tức Huyễn Hóa.Egoisme thường được dịch là vị kỷ, vị ngã, nhưng tư tưởng Ấn Độ còn suốt nguồn gốc vị ngã là chấp ngã vậy chúng tôi dịch là ngã chấp. Mental theo nghĩa của Tây triết là tâm trí và Mentalité là tâm tính, nhưng ở đây theo Ấn triết phải dịch là phàm thức và thức tỉnh đối với siêu thức tuy đôi chỗ có thể dịch đại khái là tâm thức hay thức và tâm tính.Đó chỉ là một vài trong số nhiều thí dụ về lối dịch của chúng tôi không thể hoàn toàn y theo những tự điển hiện hành, nhưng có lẽ độc giả cũng thừa thông cảm.Ngoài ra cũng nhắc đến một danh từ thường dùng đến là Phạm Thể dịch từ tiếng Phạn, Brahman. Theo quan niệm Ấn Độ thị Brahma là thần linh tối cao đã sinh ra vũ trụ, mà Brahman là bản thể của Brahmô cũng như chư thần, cũng như chúng ta cũng như vũ trụ theo lẽ nhất nguyên, vậy nếu Brahmà đã được dịch từ mấy ngàn xưa là Phạm Thiện thì bây giờ chúng tôi dich Brahman là Phạm Thể.Về cú pháp, nhiều chỗ mông lung, hàm súc vì huyền diệu mà ông Jean Herbert cùng các bạn phải vượt khuôn khổ của Pháp ngữ, vốn nổi tiếng là minh bạch, khúc chiết, để phản ảnh với những câu như buông lơi, lỏng lẻo nên phải đọc kỹ bình giải mới quyết nghĩa được. Xem kinh văn, nếu thấy những chỗ bí hiểm thì độc giả không nên khổ công tìm hiểu mà cứ tạm để đó, tiến đến phần bình giải sẽ vỡ ra.Đọc thẳng một bộ như thế này, quí vị sẽ thâm nhập hơn là loanh quanh mãi ở vành ngoài với những bộ khảo cứu có công dụng giúp ta bước đầu với những ý niệm đại khái như bộ xương khô so với người sống thực.THẠCH TRUNG GIA 
Bái Đính - Ngàn năm tâm linh và huyền thoại [pdf]
Trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt "phi hiện hữu" mà người ta gọi là tâm linh. Đời sống cá nhân cũng như cộng đồng (gia đình, làng, xã, quốc gia, dân tộc...) cũng như vậy. Mặt hiện hữu có thể nhận thức được bằng trực quan, cảm giác, có thể định tính, định lượng được cụ thể. Mặt tâm linh là những cái trừu tượng, mông lung, huyền bí, thiêng liêng nhưng không thể thiếu được trong đời sống. Từ ngàn xưa, khi triết học duy vật chưa có và ngay cả thời đại ngày nay điện tử, tin học và công nghệ thông tin bùng nổ, khoa học kỹ thuật phát triển đạt được những thành tựu phi thường, con người đã bay vào vũ trụ, lên sao Kim, sao Hoa thì mặt tâm linh cũng không thể thiếu, nếu như không nói nó là "thăng hoa" ở những biểu hiện vô cùng phong phú, đa dạng khác nhau. Cái cột chặt con người trong cộng đồng làng xã, quốc gia không chỉ có quan hệ hiện hữu ở lãnh thổ, biên giới, chủ quyền, trong đó có chủ quyền kinh tế - xã hội, mà còn nhiều quan hệ khác rất thiêng liêng. Đó là thế giới tâm linh với những biểu tượng, thần tượng, thánh tượng. những kỳ vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Đã đến lúc người ta thức nhận ra rằng, đời sống tâm linh là nền tung vững chắc nhất của mối quan hệ cộng đồng làng xã và rộng lớn hơn là của ca đất nước. Thế giới tâm linh là thế giới của cõi thiêng.