Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thư Gửi Đứa Trẻ Chưa Từng Sinh Ra

Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra – Quyển sách mà mọi phụ nữ nên đọc. Chỉ khoảng 150 trang sách mỏng nhẹ nhưng Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra sẽ làm bất kỳ ai xáo động, tất nhiên trước hết là những người phụ nữ. Và cho dù bạn đã làm mẹ hay chưa, quyển sách này sẽ chạm đến tận thẳm sâu tâm hồn bạn, chính là nỗi niềm của các bà mẹ nói chung và của những người từng phải lâm vào tình huống bỏ đứa con đang hoài thai của mình.   Nữ tác giả người Ý Oriana Fallaci đã viết nên một quyển sách thật sự khác biệt, vẫn còn nguyên giá trị dù đã ra đời gần 40 năm (tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1975) về tình mẫu tử, về việc làm mẹ và chuẩn bị tiếp nhận một sinh linh đến trong cuộc đời.   Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra lấy chủ thể là một phụ nữ đang có thai với bạn trai. Tiểu thuyết là những dòng tự sự của người mẹ dành cho đứa con, cảm xúc của cô khi mang thai, những vấn đề cô phải trải qua khi quyết định giữ lại sinh linh mà cha nó không muốn nó tồn tại…   Đã có hàng tá quyển sách xúc động các bà mẹ viết cho con mình, ngay từ khi chúng đang còn là một bào thai. Nhưng với Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra, độc giả sẽ “choáng” vì cách người mẹ cho đứa trẻ vẫn chưa thành hình ấy được thấy hết những thực tế của việc tồn tại. Đó là một bức tranh khốc liệt của việc làm người, vượt qua các rào cản của định kiến, của lề thói. Người mẹ không đặt bất cứ kỳ vọng nào lên đứa con tương lai nhưng cô dành sự quan tâm khi nêu ra những thực tế phải đối diện, niềm âu lo kèm theo những hy vọng. Những trang viết thấm đượm suy tư, đầy âu yếm, lúc lại phẫn nộ đến tuyệt vọng, khi thì chất chứa yêu thương.   Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra là quyển sách mà bất cứ phụ nữ nào cũng nên đọc, để biết dù ở vai trò nào, tình mẫu tử luôn là vĩ đại. Và với nam giới, cũng cần đọc để hiểu thêm người phụ nữ của mình.   *** Nhưng nếu con sinh ra là đàn ông, ta cũng vẫn vui mừng. Có lẽ còn vui mừng hơn, bởi con sẽ thoát được nhiều điều nhục nhã, biết bao phục dịch và bao cảnh lạm dụng. Nếu sinh ra là đàn ông, con sẽ không phải tận dụng khuôn mặt xinh xắn để được chấp nhận ngay từ cái nhìn đầu tiên, hay một thân hình đẹp để che giấu trí thông minh của mình. Con sẽ không phải nghe những phán xét ác nghiệt khi con ngủ với ai đó mà con thích; người ta sẽ không nói với con rằng tội lỗi sinh ra vào ngày con hái trái táo. Con sẽ ít phải đấu tranh hơn…   Theo Thế giới văn hóa *** Oriana Fallaci, sinh ngày 29 tháng Sáu năm 1929 tại Firenze, Oriana Fallaci là nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Italia. Bà sinh ra trong một gia đình chống phát xít và có cha là một thủ lĩnh của phong trào đấu tranh chống Mussolini. Năm 14 tuổi, Oriana Fallaci tham gia Kháng chiến. Chiến tranh thế giới II kết thúc, bà theo học tại Đại học Firenze. Ngay từ rất sớm, Oriana Fallaci đã cảm nhận được bản năng viết lách trong con người mình. Bà từng viết những thứ mà bà gọi là “những truyện ngắn ngây ngô” từ năm 9 tuổi, và đến năm 16 tuổi, bà bắt đầu mở rộng sang chủ đề cảnh sát và bệnh viện. Oriana Fallaci đặc biệt nổi tiếng với vai trò nhà báo, và được nhà viết tiểu sử Jill M. Duquaine tôn vinh là “nhà báo chính luận xuất sắc nhất thời hiện đại.” Bà mất ngày 15 tháng 9 năm 2006 tại thành phố quê hương. Thư gửi đứa trẻ chưa từng sinh ra được xuất bản lần đầu tiên năm 1975, được coi là “một trong những trang viết đẹp đẽ nhất của phụ nữ về mang thai, nạo phá thai và những dằn vặt nội tâm.” *** Đêm qua ta biết là con tồn tại: một giọt sống thoát thai từ hư vô. Ta đang nằm, mắt mở to trong đêm tối, và đột nhiên ta biết con ở đó. Con tồn tại. Điều đó giống như một viên đạn xuyên vào ngực ta. Tim ta ngừng đập. Và khi nó điên cuồng đập trở lại trong tiếng đại bác bàng hoàng, ta có cảm giác mình bị quăng vào cái giếng nơi mọi thứ đều không chắc chắn và đáng sợ. Giờ thì ta bị khóa chặt trong nối sợ hãi thấm đẫm khuôn mặt ta, tóc ta, ý nghĩ của ta. Ta lạc lối trong nỗi sợ đó. Con hãy hiểu rằng đó không phải là sợ người khác. Ta chẳng bận tâm đến người khác. Đó không phải là sợ Chúa. Ta không tin vào Chúa. Đó không phải là sợ đau. Ta không hề sợ đau. Ta sợ con, sợ điều đã giật con ra khỏi hư vô để gắn con vào cơ thể ta. Ta chưa bao giờ sẵn sàng chào đón con, mặc dù ta biết con hiện hữu, như thể ta đã chờ đợi con từ lâu. Ta vẫn luôn tự vấn bản thân câu hỏi khủng khiếp: Thế nếu con không muốn được sinh ra? Thế nếu một ngày kia con gào lên trách cứ ta: “Ai bảo mẹ đem con vào thế giới này, tại sao mẹ đưa con đến thế giới này, tại sao?” Cuộc đời là một nỗ lực lớn, con ạ. Đó là cuộc chiến lặp lại hằng ngày, và những giây phút vui vẻ hạnh phúc là những khoảng lặng ngắn ngủi mà vì chúng, người ta phải trả một cái giá tàn khốc. Làm sao ta biết được sẽ là không đúng nếu vứt bỏ con đi? Làm sao ta nói được là con sẽ không thích bị ném trả vào thinh lặng? Con không thể nói với ta: giọt sống của con chỉ là một tổ hợp tế bào vừa chớm bắt đầu. Thậm chí có lẽ còn chưa là sự sống, mới chỉ là khả năng của sự sống. Ấy thế mà ta ước gì con có thể giúp ta, dù chỉ với cái gật đầu, một dấu hiệu thoáng qua. Mẹ ta nói rằng ta đã cho bà một dấu hiệu như thế, và đó là lý do khiến bà mang ta đến thế giới này. Con biết không, mẹ ta đã không muốn có ta. Ta được hình thành bởi lầm lỗi, từ giây phút bất cẩn của những kẻ khác. Với hy vọng ta sẽ không sinh ra, hằng đêm, bà pha thuốc vào ly nước. Rồi vừa khóc, bà vừa uống hết ly nước. Bà uống thuốc đều đặn cho đến cái đêm ta cựa quậy trong bụng bà, và đá cho bà một cái để bảo đừng có vứt ta đi. Đang đưa ly nước lên môi, bà liền đẩy ra xa rồi hất hết chỗ nước đó đi. Vài tháng sau, ta lăn ra rạng rỡ dưới ánh mặt trời. Ta không biết điều đó là tốt hay dở; khi hạnh phúc ta nghĩ điều đó là tốt, khi bất hạnh ta nghĩ điều đó là dở. Nhưng thậm chí, ngay cả khi cảm thấy khổ sở, ta cũng không hối hận vì đã được sinh ra, bởi không gì tệ hơn việc chẳng-là-gì-cả. Để ta nhắc lại lần nữa: ta không sợ đau. Con người được sinh ra với sự đau đớn; nỗi đau lớn lên cùng ta, và ta quen với nó cũng như quen với việc có hai chân, hai tay. Thực sự ta thậm chí cũng chẳng sợ chết, chết có nghĩa là ít nhất cũng là đã từng được sinh ra, từng được thoát thai từ hư không. Điều ta thực sự sợ hãi, ấy là chẳng-là-gì-cả, không là gì, chưa từng tồn tại, dù là tình cờ, hoặc lầm lỗi, hoặc do sự bất cẩn của những kẻ khác. Rất nhiều phụ nữ tự hỏi tại sao họ phải mang thai đứa trẻ đến thế giới này? Để rồi nó sẽ bị đói khát, để rồi nó sẽ bị giá rét, để rồi nó sẽ bị phản bội và nhục mạ, để rồi nó sẽ bị chết trong chiến tranh hay do bệnh tật? Họ chối bỏ hy vọng rằng sự đói khát của nó sẽ được bù đắp, giá lạnh sẽ được sưởi ấm, rằng lòng trung thành và kính trọng sẽ đồng hành cùng nó trong suốt cuộc đời, rằng nó sẽ cống hiến cuộc đời cho nỗ lực xóa bỏ chiến tranh và bệnh tật. Có thể họ đúng. Nhưng chẳng lẽ phải lựa chọn không-là-gì-cả còn hơn là chịu đau khổ? Thậm chí, ngay cả khi gạt nước mắt vì những thất bại, vỡ mộng, dằn vặt, ta vẫn chắc chắn rằng khổ đau vẫn còn hơn không-là-gì-cả. Và nếu ta áp dụng điều này với sự sống, với nan đề có sinh ra hay không, từng tế bào thần kinh trên cơ thể ta gào lên rằng được sinh ra còn hơn là không được sinh ra. Nhưng liệu ta có thể áp đặt cách biện luận này với con? Chẳng phải điều đó có nghĩa là ta đang đem con đến với thế giới này chỉ vì bản thân ta và không vì ai khác? Ta không quan tâm đến việc đem con đến thế giới này chỉ vì bản thân ta và không vì ai khác. Ta chẳng cần gì con cả.       -- 2 --   Con chẳng gửi cho ta hồi đáp nào, con chẳng tỏ dấu hiệu nào. Mà sao con có thể làm được điều đó kia chứ? Mới chỉ quá ít thời gian: nếu ta có hỏi bác sĩ về sự tồn tại của con, ông ta sẽ chỉ mỉm cười. Nhưng ta đã quyết định thay con: con sẽ được sinh ra. Ta quyết định như thế sau khi nhìn thấy con trong bức ảnh. Đó không phải là ảnh con, đương nhiên rồi, mà là hình ảnh phôi thai được ba tuần tuổi, in trên một tạp chí trong bài viết về quá trình hình thành sự sống. Khi nhìn bức ảnh, nỗi sợ trong ta tan biến cũng nhanh như khi nó đến. Con trông như một bông hoa huyền bí, một bông hoa lan trong suốt. Phía trên có thể nhìn thấy một thứ như cái đầu với hai khối tròn rồi sẽ phát triển thành bộ não. Phía dưới đó là một cái hốc sẽ phát triển thành khoang miệng. Lúc con ba tuần tuổi, gần như không thể nhận thấy con – chú thích ghi như thế. Hai mi li mét rưỡi. Tuy vậy, trong con đang lớn dần thứ sẽ thành đôi mắt, một thứ gì đó trông tựa như cột sống, hệ thần kinh, dạ dày, gan, ruột, phổi. Tim con đã hiện hữu và khá to: tính theo tỷ lệ thì lớn hơn tim ta chín lần. Nó bơm máy và đập đều đặn kể từ ngày tuổi thứ mười tám: làm sao ta có thể vứt bỏ con? Với ta, con hình thành do tình cờ hay do sai lầm thì cũng không quan trọng, chẳng phải thế giới chúng ta đang sống cũng khởi đầu do tình cờ, hay có lẽ là từ một sai lầm nào đó sao? Nhiều người bảo rằng ban đầu chẳng có gì cả, tất cả chỉ là một sự bình lặng khủng khiếp, một sự tĩnh lặng vô cùng; thế rồi có ánh lóe sáng, một sự chia tách, và cái chưa từng tồn tại giờ xuất hiện. Sự chia tách ngay sau đó được nối tiếp bằng những chia tách khác: càng lúc càng khó dự đoán, càng lúc càng điên rồ, bất chấp hệ quả… Và trong số những hệ quả đó xuất hiện một tế bào, cũng là vì tình cờ hoặc có lẽ do nhầm lẫn, mà ngay lập tức nó được nhân lên hàng triệu, hàng tỉ lần cho đến khi cây cối, cá, và con người được sinh ra. Con nghĩ có ai cân nhắc nan đề này trước khi có cái lóe sáng kia không? Con nghĩ có ai băn khoăn chuyện tế bào đó có thích hay không? Con nghĩ có ai bận tâm đến sự đói khát, lạnh lẽo, bất hạnh của tế bào đó không? Ta không nghĩ là có. Kể cả nếu có ai đó – ví như một vị Chúa sánh với sự khởi thủy của thuở hồng hoang ban đầu, vượt khỏi không gian và thời gian – thì ông ta cũng sẽ không bận tâm tới cái tốt và cái xấu. Mọi thứ đã xảy ra vì nó có thể xảy ra, cho nên nó đã phải xảy ra, theo một đòi hỏi là sự đòi hỏi duy nhất về tính chính đáng. Và mọi việc diễn ra với con cũng như thế. Ta chịu trách nhiệm về lựa chọn đó. Ta làm thế không phải vì ích kỷ, con ạ: ta thề là việc đưa con đến thế giới này không hề khiến ta thích thú. Ta không thấy cảnh mình đi trên phố với cái bụng căng phồng, ta không thấy cảnh mình cho con bú, tắm cho con, dạy con tập nói. Ta là một phụ nữ đang đi làm và ta có nhiều ràng buộc khác, nhiều mối quan tâm khác: ta đã nói rồi, ta không cần con. Dẫu vậy, ta vẫn sẽ đồng hành cùng con, dù con có thích hay không. Ta sẽ áp đặt lên con chính những đòi hỏi đã áp đặt lên ta, lên mẹ của ta, bà của ta, cụ của ta, cứ thế cho đến tận sinh linh đầu tiên được một con người sinh ra, dù sinh linh đó có thích hay không. Có lẽ nếu sinh linh đó được phép lựa chọn, nó sẽ kinh hãi mà rằng: không, tôi không muốn được sinh ra. Nhưng chẳng ai hỏi ý kiến nó, thế nên nó được sinh ra, sống rồi chết đi sau khi đã sinh ra một sinh linh khác cũng không được hỏi để lựa chọn, và rồi hết sinh linh này tới sinh linh khác cứ lặp lại y hệt, cứ thế suốt hàng triệu triệu năm cho tới thời đại chúng ta. Và mỗi lần đều có một sự áp đặt mà thiếu nó, chúng ta không thể tồn tại. Hãy dũng cảm lên con! Con nghĩ hạt cây không cần dũng cảm để xuyên thủng mặt đất và đâm chồi ư? Chỉ cần một con gió cũng đủ quật gãy chồi cây, chỉ cần bàn chân của một con chuột nhắt là đủ nghiền nát nó. Nhưng nó vẫn đâm chồi và đứng vững, rồi trưởng thành để phát tán những hạt khác. Và trở thành một phần của cánh rừng. Nếu một ngày nào đó con hét lên: “Tại sao mẹ lại đem con đến thế giới này, tại sao?” Ta sẽ trả lời: “Ta đã làm điều mà những cái cây đã và đang làm, từ hàng triệu triệu năm nay. Ta đã nghĩ đó là điều đúng, nên làm.”   Mời các bạn đón đọc Thư Gửi Đứa Trẻ Chưa Từng Sinh Ra của tác giả Oriana Fallaci.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoa Hồng Sa Mạc
Có điều gì gắn kết một tay cướp biển đã chết cách đây 600 năm, một người Argentina quyết cứu rừng vùng Patagonia, một thầy giáo lưu vong vẫn mơ về ngôi trường của mình và thức giấc với bụi phấn trên ngón tay, một người vùng Bengal yêu những con tàu và trên đường đưa chúng tới nghĩa trang tàu thì kể chuyện cho chúng nghe? Từ khắp mọi ngóc ngách, những số phận nhỏ bé ấy được xâu chuỗi dưới ngòi bút của Luis Sepúlveda trong một hành trình đặc biệt: hành trình chống lại sự vô danh, chống lại quên lãng. Bằng ngôn ngữ đầy chất thơ như tiếng sóng dồi của biển cả hay ngọt ngào như thịt một loại quả nhiệt đới, bằng ngòi bút đầy nhân văn, Sepúlveda kể lại câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai biết tới nhưng lại trở thành những anh hùng theo cách của họ, như chính những bông hồng nở giữa sa mạc Atacama.  *** #Review HOA HỒNG SA MẠC | LUIS SEPULVEDA Cùng là một bông hoa nhưng người thì thấy đẹp, kẻ lại chê kém sắc. Cùng là một tác phẩm nhưng người thì say mê, kẻ lại bảo khó đọc. Với Hoa hồng sa mạc của nhà văn Luis Sepulveda cũng thế. Nhưng rõ ràng một tác phẩm nhận được nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau thì tác phẩm đó mới có giá trị cao. Luis Sepulveda được nhiều đọc giả yêu quý với những tác phẩm giàu tính nhân văn như Chuyện con mèo dạy hải âu bay, Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp… Nhưng theo đánh giá chủ quan, tôi thích thú nhất là cuốn Hoa hồng sa mạc. Bởi ở đó, tôi bắt gặp sắc màu của nhân văn, làn gió của ngôn từ, và đặc biệt là sự phong phú của tri thức. Có đọc giả bảo khó đọc, khó tiếp cận nhưng theo tôi, nếu dấn thân hết mình vào tác phẩm, nếu chậm rãi lần hồi theo mạch truyện, bạn sẽ cảm nhận rõ những nét đẹp sắc cạnh của viên kim cương Hoa hồng sa mạc này. Tác giả đã khéo léo phết thêm sự long lanh, óng ánh cho những con chữ giàu sức gợi “Sự kháng cự yếu ớt của ánh sáng ban ngày êm ái buông lơi trước vòng xâm chiếm của bóng tối”, “Màn đêm đang ép mọng nước trái cây, đánh thức đam mê ở côn trùng, làm dịu nỗi bất an của chim chóc, làm mát da lũ bò sát, truyền lệnh nhảy múa cho đám đom đóm”… Đến với tác phẩm, đầu tiên, ta sẽ mãn nhãn với ngôn từ, cách liên tưởng, ví von đầy mê hoặc, gợi cảm vô cùng. Đó là thứ gió thuận làm cánh buồm căng phồng, rướn thân trắng giong ra biển chữ phía trước. Nơi biển chữ ấy, ta mê mẩn với vẻ đẹp của thiên nhiên, núi, rừng bao la, trầm trồ trước sự kì vĩ, đa dạng sinh học chưa kịp bị con người tàn phá với bàn tay nhơ nhuốc tội lỗi và tính hám lợi. Phép tả thực cùng sự thích thú, tình yêu thiên nhiên đã quyện hòa tạo nên những bức tranh tuyệt bích. Tôi say sưa trong từng đoạn văn như thế này “Trên những thân cây nổi lập lờ mặt nước, lũ rùa mời gọi nhàn tản ngắm nhìn hai mươi nghìn loài bướm của rừng Manu, bởi nơi đây là mảnh đất của sắc màu, và không chỉ có loài bướm làm minh chứng mà còn có theobroma, một loại phong lan đỏ tươi, phát lân quang lúc hoàng hôn… hoặc như môi nàng hôn phu, một loại phong lan khác màu xanh biển toả hương vani. Ta còn thấy hương sắc trong từng Manu khơi gợi vị giác như hương sắc của trái tabernamontana mời gọi khách khát nước uống múi nước mọng màu cam và thơm mát của mình”. Cảm nhận tinh tế, nội dung giàu ý nghĩa, cách viết đầy nghệ thuật đã tạo nên những câu văn mềm mại như dải lụa vắt ngang mặt song như thế. Đặc biệt, tác giả còn cung cấp cho người đọc một kiến thức mang tính thời sự khi đề cập đến một hiện tượng có thật đầy thú vị: Sa mạc Atacama ở Chile, một trong những sa mạc khô cằn nhất trên thế giới, đã phủ hồng sắc hoa sau khi đắm mình trong những cơn mưa. Sa mạc cũng trở nên đầy sức sống với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nơi nào thiên nhiên mơn mởn, căng tràn thì nơi ấy nhịp sống lại cựa quậy mạnh mẽ biết bao. Song song đó là nỗi đau xót, là cái trừng mắt lên án của nhà văn trước những hành động huỷ hoại thiên nhiên như tên quý tộc lập dị Fitzcarraldo dấn thân vào rừng sâu để tàn phá cây cối, rồi sự kiện xây dựng nhà máy thuỷ điện ở Laponia lấy đi bao diện tích rừng, nạn huỷ diệt tài nguyên rừng của vùng Patagonia thuộc Chile dưới tay những công ty gỗ Nhật Bản… Những sự kiện được dẫn ra khiến ai cũng phẫn nộ. Đặc biệt trong giai đoạn môi trường đang kêu cứu thảm thiết như hiện nay thì cuốn sách càng có ý nghĩa hơn nữa. Nó là một đóm lửa góp vào ngọn lửa đấu tranh chống lại sự huỷ hoại môi trường. Nó là tiếng gọi khẩn thiệt hãy giang tay cứu lấy thiên nhiên. Đan xen điều đó còn có những câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai để ý đến được vinh dự đặt chân lên những trang viết của Luis. Ông kể chậm rãi, nhịp điệu nhẹ nhàng, trong mỗi câu chuyện được kể, ta như được đặt chân đến những miền đất xa xôi khác nhau. Mỗi người trong tác phẩm của ông đều có một câu chuyện riêng làm ông lay động. Ông xâu chuỗi lại để những số phận nhỏ bé ấy không bị lãng quên. Biết đâu họ còn là điển hình cho những phận người trong cuộc sống này? Tính nhân văn cứ như thế tự nhiên lấp lánh như ánh sáng đàn đom đóm đêm, lung linh, huyền ảo và đẹp vô cùng. Đặc biệt, cuốn sách tuy mỏng nhưng giá trị lại lớn bởi những kiến thức nhà văn đem lại. Những tên người, những địa danh, những khuynh hướng chính trị… mà ông dẫn ra đã đủ khẳng định vốn tri thức phong phú và sự mày mò, tìm hiểu của một danh nhân. Bìa sách xanh mát thật sự phù hợp với chủ đề thiên nhiên xanh và con người mãi xanh mà Luis Sepulveda chuyển tải đến người đọc. - TRẦN THỊ THÚY DIỄM - sachnhanam.com -   *** Luis Sepúlveda sinh ngày 4/10/1949 tại Ovalee, Limari, Chile. Ông là một nhà văn, đạo diện, nhà báo và nhà hoạt động chính trị. Sau khi học Trung học ở Santiago, ông học ngành sản xuất phim tại Đại học quốc gia Chile. Ông hoạt động chính trị cùng đoàn thanh niên cộng sản từ năm 1961. Tác phẩm tiêu biểu: Lão Già Mê Đọc Truyện Tình - Luis Sepúlveda Chuyện Con mèo dạy Hải âu bay - Luis Sepúlveda Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp - Luis Sepúlveda Chuyện Con Chó Tên Là Trung Thành Chuyện Con Mèo Và Con Chuột Bạn Thân Của Nó Kết thúc thế giới  Bóng tối của quá khứ chúng ta Hoa Hồng Sa Mạc ... Giải thưởng: Ông già mê đọc chuyện tình – giải thưởng Premio Tigre Juan, một giải thưởng văn học cho các vấn đề sinh thái.  Giải Premio France Culture Etrangêre (1992), Premio Terra (1997), Premio de la Crítica en Chile (2001). Kết thúc thế giới: giải Premio Juan Chabás Chuyện con mèo dạy hải âu bay: giải Bernard Award Versele label (1998), 3rd Prize Salicornia Animals Book Festival for Youth (1998), Price Gabler Youth Book Fair 1997 in Concarneau Năm 2009: giải thưởng Premio Primavera de Novela cho tiểu thuyết La sombra de lo que fuimos (Bóng tối của quá khứ chúng ta) Mời bạn đón đọc Hoa Hồng Sa Mạc của tác giả Luis Sepúlveda.
Bay Quanh Mặt Trăng - Jules Verne
Bạch Lan dịch Tựa khác: Lên Cung Trăng (Trúc Đỳnh dịch) Tiếp theo cuốn Từ Trái Đất lên Mặt Trăng, Barbicane, Ardan và Nicholl quyết định làm một chuyến bay quanh Mặt Trăng. Nhưng trước tiên họ phải đến được Mặt Trăng đã. Liệu chuyến đi của họ có thành công hay không? Họ có đến được Mặt Trăng không, có quay trở về được không, thu hoạch được gì từ Mặt Trăng? Bản dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của Nguyễn Thành Thống, với sự hiệu đính của Cung Giũ Nguyên. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Đảo Lincoln của tác giả Jules Verne. Mời các bạn đón đọc Bay Quanh Mặt Trăng của tác giả Jules Verne.
Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa - Đới Tư Kiệt
Tại vùng núi "Thiên Phụng" hoang vu, có hai trí thức trẻ được đưa về cải tạo trong cuộc đại cách mạng văn hóa. Giữa những người dân lần đầu nhìn thấy vĩ cầm hay một chiếc đồng hồ có con gà trống sặc sỡ, họ tìm thấy một người bạn-người tình xinh đẹp: cô thợ may Trung Hoa, giữa những tháng ngày tăm tối và vô vọng, họ tình cờ có được những tác phẩm nổi tiếng của văn học phương tây. Vậy là đủ cho những cuộc phiêu lưu! Mặc kệ những ngày lao động cực nhọc, mặc kệ những thành kiến, mặc kệ những âu lo về tương lai mờ mịt... họ đắm mình trong cảm giác yêu đương hoang dại mới mẻ, đắm mình trong những tác phẩm cổ điển của Balzac, Duyma. Có thể nói, văn chương đã cứu vớt, an ủi, xoa dịu tâm hồn hai chàng trai trẻ, đưa họ tới gần hơn cô bé thợ may xinh đẹp, nhưng cũng chính văn chương đã đưa cô rời xa họ, bởi những tác phẩm của Balzac đã làm cô hiểu ra "sắc đẹp của người đàn bà là một kho tàng vô giá". Sức hấp dẫn của Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa đến từ những trang viết sinh động, hài hước và cay đắng về hiện thực cải tạo của cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa trong cuộc đại Cách mạng văn hóa, từ văn phong đẹp, từ những chi tiết đặc sắc giàu tính điện ảnh của nhà văn-đạo diễn Đới Tư Kiệt, và đặc biệt, từ cái kết bất ngờ làm người đọc phải ồ lên ngỡ ngàng vì tác động nhiều chiều của văn chương. Tất cả đã đem lại cho Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa nét riêng bên những tác phẩm cùng viết về thân phận con người trong một giai đoạn lịch sử Trung Quốc đầy biến động.  Nhận định về tác phẩm:   "Có rất ít cuốn sách làm tôi xúc động như cuốn này. Tôi đánh giá nó rất cao. Bản thân tôi cũng bí mật làm quen với văn hóa phương Tây nhờ văn học trong Cách mạng Văn hóa khi tôi lần đầu tiên được đọc bản chép tay bản dịch tiếng Trung cuốn Jane Eyre của Bronte. Đới Tư Kiệt đã trình bày kinh nghiệm này một cách tuyệt vời. Bất cứ ai muốn hiểu văn học nghệ thuật phương Tây ảnh hưởng thế nào đến Trung Quốc đều nên đọc sách này " - Anchee Min - nhà văn, tác giả Đỗ quyên đỏ, Làm vợ Mao "Một câu chuyện như thôi miên, cổ điển và hiện đại, một chủ nghĩa hiện thực vừa ngụ ngôn vừa bạo dạn, đầy chi tiết quý giá, lay động sâu xa đến trí tưởng tượng và trái tim tôi" - Amy Tan-nhà văn, tác giả Phúc Lạc Hội, Con gái thầy lang "Một câu chuyện đơn giản, với lối kể quyến rũ...Điều khiến truyện nổi bật chính là cách nó đề cập và khơi dậy vẻ đẹp của những trải nghiệm nhân tính vượt khỏi khung cảnh một vùng đồi núi ở miền tây Trung Quốc" - Justin Hill, Times Literary Supplement "...Một tiểu thuyết vui vẻ, cảm động, tinh quái và trên hết là làm ta say mê...Dù thấm đẫm sự dí dỏm và hài hước, "Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa" vẫn là một khúc lãng mạn, một  tiểu thuyết về sức mạnh của nghệ thuật trong việc mở rộng cánh cửa của trí tưởng tượng, dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa... " - Micheal Dirda - The Washington Post Book World *** Nếu bạn từng đọc “Rừng Na Uy” hoặc xem bộ phim cùng tên thì tác phẩm của Đới Tư Kiệt sẽ làm bạn cảm thấy có nhiều nét tương đồng hoặc ngược lại. Đọc “Rừng Na Uy” ta gặp nhiều “người quen” trong “Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa”.   Thứ nhất là mật độ của sex khá dày, thứ hai là không khí chán chường bế tắc của thanh niên. Bởi Đới Tư Kiệt chọn bối cảnh Trung Quốc thời kì cách mạng văn hóa để đưa vào câu chuyện của mình. Câu chuyện hồi tưởng của nhân vật xưng tôi về khoảng thời gian khi chưa tới tuổi 20,  và một người khác tên Lạc, được đưa đến để "tự cải tạo" năm 1971. Ở đó, cô bé thợ may hiện ra trước họ tựa "nàng công chúa của núi Thiên Phụng đi đôi giày màu hồng nhạt bằng vải mềm". Cô tự học viết, học đọc từ người cha thợ may của mình và viết bức thư đầu tiên gửi Lạc.   Và Lạc - mang cơn sốt rét, cùng "căn bệnh ma quỷ" từ hầm mỏ tìm đến nhà cô. Cô chạy ra suối hái một loại thảo dược có bông từa tựa cánh hoa đào để chữa bệnh cho anh. Đêm đến, những sơn dân tận cùng miền sơn cước Trung Hoa lẳng lặng đến nhà cô thợ may để nghe Lạc kể chuyện.   Anh kể rất hay. Đến nỗi khi kết thúc truyện Cô hàng hoa bé nhỏ, tất cả đều thút thít, khóc vì xúc động, gió núi dường cũng xao xuyến, thổi tắt ngọn đèn duy nhất, để trong bóng tối, cô bé thợ may cúi xuống trao cho Lạc một nụ hôn. Về sau, hai người đã thành thân và âu yếm nhau như vợ chồng, dưới cây bạch quả to lớn, đẹp lộng lẫy, trồng ở cuối thung lũng phía đông ngôi làng của cô bé, nơi mà Lạc gọi là: Thung lũng Tình yêu. Nơi ấy, họ lén đọc những dòng nên thơ trong tiểu thuyết Balzac chép trên mặt áo da cừu và trải những ngày thắm thiết, bay bổng khỏi vòng cấm kỵ... Ở một thời kì bị cấm đoán ngặt nghèo, thanh niên thành phố bị đưa về vùng quê để cải tạo vụng trộm từ việc đọc những tác phẩm của Balzac cho tới ngắm trộm người đẹp ở bên sông. Nếu đọc một lần, bạn sẽ hơi bực mình và nghĩ sex trong truyện là thứ đưa vào để câu khách rẻ tiền. Nhưng ngẫm hơn một chút, ta nhận ra đó sự tàn nhẫn. Tàn nhẫn khi đưa những thanh niên chưa trưởng thành về vùng quê khi họ còn mờ tịt các vấn đề giới tính, mọi hành động chỉ ở dạng bản năng từ việc thủ dâm cho tới làm tình với một cô gái còn ở tuổi vị thành niên.   Đới Tư Kiệt đã chọn vẻ đẹp thuần khiết của diễn viên Châu Tấn cho vai cô bé thợ may. "Cô bé thợ may có đôi mắt đẹp nhất huyện Vĩnh Cảnh sống trong một thôn nghèo heo hút, cheo leo, trên đỉnh Thiên Phụng".   Trần Khôn được chọn vào vai Lạc trong bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm ăn khách của ông. Nhưng Trần Khôn lại phong trần hơn so với vai diễn của thanh niên tuổi ngoài 20 với đầy sự tò mò về cuộc sống xung quanh, sự bất mãn khi bị kìm kẹp bởi luật lệ cứng nhắc. Bằng giọng kể trần thuật ngắn gọn, xúc tích, Đới Tư Kiệt mang tới cho người đọc một câu truyện mang tính nhân văn sâu sắc gói gọn trong cuốn sách mỏng.   Những hình ảnh được miêu tả sống động từ vẻ đẹp cơ thể của những thanh niên mới lớn cho tới thiên nhiên của vùng quê thanh bình nhưng đầy rẫy sự biến động bên trong. Ngôn ngữ đa nghĩa của Trung Quốc được truyền tải hoản hảo bằng tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ mang nhiều sự châm biếm, tinh thâm của phương Tây.   Một cuốn sách thực sự có chiều sâu giữa rất nhiều tác phẩm mì ăn liền do văn học mạng Trung Quốc tạo ra. *** Đới Tư Kiệt sinh năm 1954 tại Trung Hoa. Từ 1971 tới 1974 ông bị đi học tập cải tạo như mọi thanh niên khác trong thời Cách mạng Văn hoá. Ông rời Trung Hoa sang Pháp năm 1984 và sống ở đó cho tới nay. Balzac et la Petite Tailleuse chinoise là tiểu thuyết đầu tay của ông, do Gallimard xuất bản năm 2000 tại Pháp, và trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm với 5 giải thưởng, và đã được quay thành phim do chính ông đạo diễn. Bản tiếng Việt Balzac và Cô Bé Thợ May Trung Hoa sau đây dịch theo bản tiếng Anh, Balzac and the Little Chinese Seamstress, của Ina Rilke, Alfred A. Knopf xuất bản năm 2001 tại New York.   Mời các bạn đón đọc Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa của tác giả Đới Tư Kiệt
Vịnh Pha Lê - Lisa Kleypas
Một cô gái mang lời nguyền không bao giờ tìm thấy tình yêu… Một chàng trai không có linh hồn, khao khát cô nhiều hơn cả cuộc sống… Họ gặp nhau trên một hòn đảo nhỏ phía Tây bắc Thái Bình Dương, nơi những điều kỳ diệu bàng bạc trong không gian, và định mệnh là một quyền năng quá mạnh mẽ để thách thức… Khi Justine Hofmann được sinh ra, mẹ cô đã thả một lời nguyền để bảo vệ cô tránh khỏi những thương tổn của tình yêu, và như mong đợi, cô không có khả năng rơi vào tình yêu. Cuối cùng, tính hiếu kỳ không thể nén được của Justine – và ao ước của cô về một cuộc sống bình thường – đã tạo nên điều tốt hơn cho cô, và cô đã tìm ra cách tạm thời vô hiệu bùa chú. Tuy vậy, khi Justine gặp Jason Black thần bí, cô đột ngột phóng thích một cơn bão khao khát và nguy hiểm đến mức đe doạ mọi thứ cô yêu quý… ... và cùng nhau, Justine và Jason khám phá ra rằng tình yêu là một phép thuật có sức mạnh vượt trên tất cả mọi thứ… Friday Harbor là loạt truyện về những điều kỳ diệu, những câu chuyện tình dễ thương, khiến lòng ta ấm áp. Sau khi đọc truyện, ta bỗng thấy tin tưởng hơn vào số mệnh, vào con người, vào những bí ẩn của Tạo Hóa và vào một tình yêu tiền định đẹp đẽ sẽ chờ đợi ta nếu ta biết kiên nhẫn. Friday Harbor gồm có: Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê ... *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Bất cứ khi nào Justine cố hình dung một cảnh sum họp với mẹ cô, cô đã cho rằng điều đó sẽ xảy ra trong sự nhân bội của những lời quở trách… Một e-mail, một bức thư, một cuộc điện thoại, một cuộc ghé thăm vội. Cô nên hiểu rõ hơn thế. Marigold luôn là một sinh vật bốc đồng, đuổi theo mọi ý thích bất chợt và làm bất cứ thứ gì để né tránh hậu quả. Xuất hiện tại cửa trước là một lợi thế của Marigold; sự ngạc nhiên sẽ đẩy Justine khỏi thế cân bằng. Justine đã luôn hy vọng rằng, ngày nào đó, cô và mẹ sẽ đạt được sự thấu hiểu mới và chấp nhận lẫn nhau. Một giải pháp nào đó không dính líu đến chiến thắng và mất mát, mà thay vào đó là… hoà bình. Nhưng sau bốn năm trời ghẻ lạnh nhau, đôi mắt mẹ cô vẫn cay nghiệt với cùng cơn giận dữ đã làm nền móng cho mọi khoảnh khắc của tuổi thơ ấu của Justine. Không một dấu vết có thể nhìn thấy nào của sự dịu xuống. “Mom, mẹ đang làm gì ở đây vậy?” Mở rộng cửa, cô bước lui lại để cho phép Marigold vào bên trong. Marigold chỉ liều lĩnh vượt qua ngưỡng cửa và nhìn quanh. Đã có lúc Justine lo lắng về phản ứng của mẹ cô đối với căn nhà gỗ, quán trọ, cuộc sống mà cô đã xây dựng. Cô đã tuyệt vọng muốn có được đánh giá cao của Marigold, thứ rất hiếm khi trao tặng. Đã đến lúc bộc lộ ra rằng cô không còn cần đến sự phê chuẩn của mẹ cô nữa. Đã quá đủ để biết rằng cô đã có những lựa chọn đúng cho chính bản thân cô. “Có vấn đề gì sao?’ Justine hỏi. “Tại sao mẹ đến đây?” Giọng của Marigold rin rít với sự khinh miệt. “Có quá khó để tin rằng ta có thể muốn gặp con gái của chính mình không?” Justine nghĩ về điều đó. “Có.” Cô nói. “Mẹ không bao giở muốn sự bầu bạn của con, và con vẫn không làm những gì mẹ muốn. Vì thế chẳng có lý do gì để mẹ ghé thăm trừ phi có vấn đề.” “Vấn để, như vẫn luôn thế, chính là mi.” Marigold nói thẳng thừng. Như vẫn luôn thế. Những từ mang quá khứ vào trong phòng với chúng như thể nó là một sự hiện diện sống động. Một gã khổng lồ đứng giữa hai người họ, đang ném ra một bóng đen không thể trốn thoát của sự trách mắng. Không có chút mềm yếu nào trong trái tim của Marigold. Bà đã hoá xương, giống như một bức tượng bằng đá xinh đẹp, cho đến khi bất kỳ sự thay đổi về tư thế nào cũng sẽ gây ra cho bà sự nứt vỡ và sụp đổ. Bà sẽ không bao giờ có thể xoay đầu để nhìn về một hướng mới, hoặc lấy một bước lên phía trước, hoặc ôm con gái bà trong vòng tay. Điều đó hẳn là đáng sợ biết bao, Justine nghĩ với một chút thương cảm, giữ nguyên sự cứng nhắc như thế trong khi cuộc sống thay đổi quanh bạn. “Điều này có dính líu gì đến geas không?” Justine hỏi dịu dàng. “Rosemary và Sage hẳn đã kể với mẹ rồi. Chắc mẹ đang giận dữ ghê lắm.” “Ta đã hy sinh vì mi, và mi ném nó đi. Ta nên cảm thấy thế nào đây, Justine?” ... Mời các bạn đón đọc Vịnh Pha Lê của tác giả Lisa Kleypas.