Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Đường Đi Đến Thành Công Bằng Sự Tử Tế (Inamori Kazuo)

Xã hội những năm gần đây, những vụ án tồi tệ liên tục xảy ra: đánh tráo thực phẩm, che giấu sản phẩm lỗi, kết toán ảo... đến chuyện lập quỹ đen, các sự thật đáng buồn liên tiếp bị lộ tẩy về những người được gọi là công bộc của dân; rồi ở gia đình thì đầy các vụ án bi thảm... Và trước những chuyện như vậy hẳn sẽ nghe đâu đó tiếng thở dài “rồi đất nước này sẽ về đâu?”.

“Rồi đất nước này sẽ về đâu?”, bạn có biết đó là lời thở dài của một con người, mà theo nhiều thước đo hiện đại là mẫu người thành công - Inamori Kazuo, người sáng lập Công ty Kyocera, Công ty KDDI, nguyên chủ tịch Japan Airlines. Người đàn ông 75 tuổi này phải nói lên những lời đau buồn ấy trong lời nói đầu của tập sách Con đường đi đến thành công bằng sự tử tế, như lý giải lý do ông tha thiết muốn viết cuốn sách này. Tác giả chỉ ra nguyên nhân “chính tâm hồn đang ngày càng lụn bại đã làm người Nhật xấu xí đi. Và nó cũng là nguyên nhân chính tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội Nhật ngày nay”. (Lời giới thiệu của Tuổi Trẻ)

Thông qua cuốn sách Con đường đi đến thành công bằng sự tử tế, tác giả Inamori Kazuo - Nhà sáng lập Hãng điện tử khổng lồ Kyocera, Hãng điện thoại KDDI, nguyên Chủ tịch Hãng Japan Airlines - mong muốn độc giả có thể tìm thấy con đường phải đi sau khi được tiếp xúc với những lời vàng ngọc của võ sĩ “samurai chân chính cuối cùng” Saigo Takamori.

Về tác giả

Inamori Kazuo tốt nghiệp ngành Kỹ sư Hóa học Ứng dụng Trường Đại học Kagoshima. Năm 1959, ông thành lập Công ty Kyoto Ceramic (Công ty Kyocera ngày nay) và đảm nhiệm chức Chủ tịch HĐQT, từ năm 1997 thì giữ chức Chủ tịch danh dự. Năm 1984, ông thành lập Công ty Daini Denden (Công ty KDDI ngày nay) và giữ chức Chủ tịch HĐQT, từ năm 2001 thì trở thành Cố vấn danh dự. Cũng trong năm 1984, ông thành lập quỹ Inamori, sáng lập giải thưởng Kyoto (vốn được xem là phiên bản Nhật của Giải thưởng Nobel) để biểu dương những người có thành tích cống hiến cho sự phát triển, tiến bộ xã hội của nhân loại. Ông còn là Hiệu trưởng Trường Seiwajyuku - nơi hội tụ các doanh nhân trẻ. Tìm mua: Con Đường Đi Đến Thành Công Bằng Sự Tử Tế TiKi Lazada Shopee

Inamori Kazuo có nhiều đầu sách được dịch và xuất bản tại Việt Nam. Hầu hết sách của ông trình bày những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm kinh doanh và chia sẻ về những suy nghĩ làm người chân chính.

Nội dung chính

Con đường đi đến thành công bằng sự tử tế chứa đựng nội dung “2 trong 1”: triết lý kinh doanh của nhà lãnh đạo tài ba hàng đầu Nhật Bản Inamori Kazuo, và tư tưởng làm người mẫu mực của võ sĩ samurai chân chính bậc nhất nước Nhật thời Minh Trị Duy Tân Saigo Takamori.

Inamori Kazuo nhận định, di huấn của Saigo (được ghi chép lại trong cuốn Nanshu O I kun - quyển sách gối đầu giường của Inamori Kazuo) - chính là chân lý hướng dẫn con người đối đầu với những khổ đau, phiền muộn mà không né tránh, để rồi từ đó có cách ứng xử phù hợp, sống đúng đắn ở đời.

Chương 1: Vô tư

Tôi gặp được di huấn của Saigo sau khi sáng lập Kyocera 10 năm. Công ty lúc ấy phát triển rất nhanh và lên sàn chứng khoán, nhưng trong lòng tôi đầy bất an, vì chỉ cần sai lầm trong một quyết định kinh doanh thì Công ty sẽ đối mặt với nguy cơ phá sản, nhân viên và gia đình họ sẽ mất miếng cơm manh áo, ngoài ra còn có trách nhiệm với cổ đông. Đúng lúc đang mệt mỏi và đầy lo toan đó, tôi bị hút vào những lời răn dạy của Saigo.

Tôi đã xúc động trước một Saigo phủ định tuyệt đối lợi ích cá nhân, rằng “người lãnh đạo không được chen tư tâm vụn vặt”. Nếu nghĩ đến vai trò nắm giữ cuộc sống của nhiều nhân viên thì người lãnh đạo phải chấp nhận đánh mất cá nhân mình mà làm việc, lao động thật nhiều với ý thức mình là người phục vụ công ty. Khi tư tâm của người đứng đầu xuất hiện cũng là lúc công ty gặp khó khăn.

Nhờ lời răn của Saigo, tôi xác nhận được lòng tin với mình. Tôi thề sẽ không áp dụng chế độ “cha truyền con nối”, không để bà con ruột thịt kế tục, thậm chí không để họ hàng máu mủ đứng vào hàng ngũ lãnh đạo. Tư tưởng “vô tư” đó có thể bị cho là vô tình, lạnh lùng, nhưng để đứng đầu một tập thể thì đây là điều kiện bắt buộc.

Saigo còn để lại lời dạy rằng, “không được mua ruộng đất tốt cho con cháu”. Những người chỉ chăm chăm làm tăng tài sản (gia sản cá nhân hay cho dòng tộc) sẽ không thể điều hành chính đạo một cách công bằng. Đây là bài học “vô tư” cụ thể nhất, để con cháu có cách sống đúng đắn. Tức cái “tư”, cái “riêng” phải hoàn toàn được đặt qua một bên. Điều này thật trái ngược với tình cảm tự nhiên của con người. Thế nhưng Saigo đã trải qua bao nhiêu gian khó nên đã cứng rắn, quyết không phản lại lời thề ấy. Người làm lãnh đạo phải có ý chí như Saigo.

Sau khi khởi nghiệp, thu được thành công và lên sàn chứng khoán, các nhà lãnh đạo trẻ lập tức bán cổ phiếu của mình ra thị trường để thu lợi nhuận. Nếu may mắn, họ sở hữu hàng trăm triệu yen ở độ tuổi ba mươi. Nhưng chẳng biết lúc nào một người thành công như vậy sẽ tụt dốc, thất bại.

Chúng ta đã chứng kiến nhiều trường hợp như vậy. Đó là vì thành công đã khơi dậy “tư tâm” và kéo theo sự tụt dốc không phanh. Phần lớn các nhà kinh doanh hễ lên sàn thì bán cổ phần cá nhân để thu được nguồn vốn lớn và xem như là chuyện thường tình. Kết quả là người lãnh đạo giàu có hơn nhưng nguồn tài chính của công ty chẳng những không giàu lên mà còn thiếu vốn đầu tư vào việc kinh doanh mới, từ đó đánh mất cơ hội tăng trưởng lần hai khi lên sàn.

Năm 1971, khi Kyocera lên sàn, nhiều công ty chứng khoán mời chúng tôi tham gia giao dịch. Tôi có thể chọn 1 trong 2 cách: bán cổ phần người sáng lập sở hữu ra thị trường hoặc phát hành cổ phiếu mới bán ra thị trường. Cách thứ nhất mang lợi nhuận vào túi cá nhân người sáng lập, cách thứ hai mang lợi nhuận về công ty. Tôi đã chọn cách thứ hai để mọi tiền vốn thu được đều đổ vào công ty. Nhờ đó, Kyocera có điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh ổn định, tổ chức đầu tư…

Càng thành công, thăng tiến, chúng ta càng phải khiêm tốn, càng phải thu mình lại, hy sinh cái tôi. Nếu không có dũng khí chấp nhận vai trò thiệt thòi nhất thì không thể làm lãnh đạo. Người không có dũng khí hy sinh cái tôi mà đứng bên trên thì những người bên dưới không thể hạnh phúc. Đây là chân lý vượt thời đại, vượt tầm quy mô tổ chức. Dù trong thời nào, công ty dù nhỏ hay lớn, điều kiện tiên quyết của người làm lãnh đạo là “vô tư”.

Chương 2: Thử thách

Nghịch cảnh là cơ hội để chúng ta nhìn lại mình và giúp ta trưởng thành. Hãy xem nghịch cảnh là cơ hội tốt để lập chí mạnh mẽ, đối mặt với nó một cách dũng cảm. Chính nhờ thử thách mà quyết tâm được tựu thành.

Thử thách không chỉ đơn thuần là khổ nạn. Thành công cũng chính là thử thách. Cho dù đạt được thành công và hạnh vận nhất thời, chúng ta cũng không được kiêu căng ngạo mạn, không đánh mất lòng khiêm tốn, tiếp tục nỗ lực không ngừng. Người lãnh đạo trở nên mất kiểm soát không phải lúc việc kinh doanh sa sút, mà là lúc kinh doanh thuận lợi. Thử thách dành cho người lãnh đạo là phải luôn thận trọng, hành xử đúng đắn, tránh xa hoa, không lãng phí, âm thầm lao động, chuyên tâm làm việc để làm gương. Nếu nhân viên không thấy cảm động trước thái độ làm việc của giám đốc thì mệnh lệnh ban ra khó được thi hành.

Những lãnh đạo thông thường thường lui về phía sau, cân nhắc chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nhưng khi Kyocera còn là một công ty nhỏ, tôi đã nghĩ rằng nên tự mình xung phong ra phía trước, chỉ huy cấp dưới và dẫn dắt họ. Đương nhiên, đã là lãnh đạo thì cần phải nghĩ đến chiến lược, chiến thuật. Cho nên, khi thì ra “tiền tuyến” vui buồn cùng “chiến sĩ”, khi thì rút lui về “trận địa” phía sau để lên kế hoạch tác chiến, đi đi lại lại giữa “tiền tuyến” và “hậu phương”, toàn tâm chỉ huy “trận mạc” chẳng phải là người lãnh đạo tuyệt vời sao?

Người đứng đầu công ty phải có được 2 mặt mâu thuẫn thật uyển chuyển: “độc đoán và hòa hợp”, “mạnh và yếu”, “lạnh lùng và nồng ấm”. Nếu chỉ có tinh thần lãnh đạo mạnh mẽ sẽ dẫn đến tình trạng mất kiểm soát, trở nên độc tài. Nếu chỉ có sự khiêm tốn, sẽ thiếu lực kéo để công ty phát triển lớn mạnh. Nếu mạnh mẽ quá sẽ gây phản ứng trong nhân viên, khiêm tốn quá lại khiến nhân viên xem thường. Điều hòa những mâu thuẫn đó và sử dụng nó như thế nào sẽ quyết định thành công hay thất bại của một đời người hay việc kinh doanh của một doanh nghiệp.

Chương 3: Lợi tha

Chỉ cần mỗi người gọt bớt lòng tham của mình, chịu tổn thất một chút, hay chỉ cần chúng ta dũng cảm nhường chút lợi của mình cho người khác, mọi việc sẽ suôn sẻ, trôi chảy. Tránh xa ham muốn, mài giũa lòng thành, cống hiến cho người. Đó chính là phương thuốc cho thời đại, là triết học để mọi người sống đúng đắn, là đạo đức chân chính.

Chỉ cần thay đổi “lợi kỷ” (chỉ biết có mình) sang “lợi tha” (vì người khác, vì nhân viên, vì xã hội), ta sẽ có được sự tin tưởng và cộng tác từ những người xung quanh, lúc đó dù là công việc hay trong đời sống, mọi việc chắc chắn sẽ tốt đẹp.

Chúng ta luôn nghĩ cách sao cho có lợi nhất đối với việc kiếm tiền của mình, nhưng thật ra không nên vậy. Như nhà tư tưởng, triết gia Ishida Baigan đã nói: “Người kinh doanh thực thụ phải nghĩ về khách hàng và nghĩ về mình”, tức là phải kiếm tiền thế nào mà khách hàng/đối tác cũng cảm thấy vui. Đây là lời giáo huấn sắc bén, đỉnh cao trong kinh doanh.

Chương 4: Đại nghĩa

Đại nghĩa của Kyocera được xác lập dựa trên nền tảng không vì tư lợi hay ham muốn cá nhân của một người lãnh đạo mà vì nhân viên, vì mọi người. Chính vì có đại nghĩa mang tên “quan niệm công ty” này, mọi người trong Kyocera cùng dốc sức, đoàn kết, sáng tạo, tạo nguồn động lực để phát triển.

Tư tưởng của Saigo mà tôi luôn đề cập triệt để là “Kính Thiên Ái Nhân” (Kính trọng Trời Đất, yêu thương con người), và tôi lấy những lời này làm phương châm của Kyocera. “Kính trọng Trời Đất” là sống tốt, sống thật đúng với đạo lý tự nhiên, đạo lý làm người, có nghĩa là “thông suốt, quán triệt những điều đúng đắn với tư cách làm người”. Còn “yêu thương con người” là bỏ hết tâm tư, tư dục cá nhân, sống với trái tim biết nghĩ đến người khác, vì cái lợi cho người khác. Tôi theo phương châm này mà lèo lái công ty và chưa từng lầm đường lạc lối.

Phần đông người ta thường thất bại trong việc dấn thân, thử thách, mở ra sự nghiệp mới, chỉ có một số ít trong khoảng chừng một nắm tay là thành công. Tôi tin rằng yếu tố quyết định thành bại là trái tim trong sáng, không tư lợi.

Chương 5: Đại kế

Người lãnh đạo hay giám đốc công ty phải tạo ra tầm nhìn rõ ràng trong 10 năm, 20 năm và chỉ ra cho nhân viên thấy. Ấy vậy mà nhiều người may mắn được lên chức giám đốc sau thời gian “sống lâu lên lão làng” chỉ muốn củng cố nhiệm kỳ 2 năm, 4 năm bằng cách “kế thừa phương châm của người tiền nhiệm”.

Đương nhiên, việc kế thừa phương châm của người đi trước không có gì xấu, nếu đó là tầm nhìn tương lai rõ ràng. Nhưng nếu nó mang tính triển vọng hay mơ hồ thì việc đầu tiên phải làm trên cương vị giám đốc mới là trình bày phương châm của mình thật rõ ràng rằng “tôi muốn dẫn dắt công ty này theo hướng như vậy”. Bởi giám đốc thay đổi mà công ty không thay đổi thì thật kỳ cục. Nếu công ty không thay đổi gì so với thời người lãnh đạo ấy làm chuyên môn, trưởng phòng hay phó giám đốc thì việc người ấy trở thành giám đốc chẳng có ý nghĩa gì.

Chương 6: Giác ngộ

Trong điều di huấn thứ 30, Saigo có nói: “Đối xử với người không cần tính mạng, không cần danh vọng, không cần cả quan vị, tiền tài rất khó. Nếu không có những con người “lớn” như thế sẽ không đạt được thành công”. Bản thân ông là người vô tư, không cần tính mạng, danh vọng, quan vị, tiền tài, nghĩa là người đã xa rời lòng tham.

Với người có lòng tham chỉ cần cho tiền, cho chức tước thì điều khiển họ rất dễ dàng, nhưng với những người không tham, không thể lay chuyển bằng những toan tính thiệt hơn thì rất khó điều khiển. Vậy ta sẽ lay chuyển những người như vậy bằng gì? Đó là “thành, nhân, nghĩa”. Nếu không phải là những người như vậy thì không thể cùng nhau chinh phục khó khăn.

Từ thời trẻ, tôi đã rất thích quan điểm này của Saigo. Tự bản thân tôi không thành người như vậy được nhưng tôi thường tự nhắc mình và cố gắng đạt được như vậy. Và tôi cũng đã nghĩ cần phải có những người vĩ đại như vậy để cùng nhau làm nên sự nghiệp.

Chương 7: Vương đạo

Nội chính hay ngoại giao, căn bản là đi con đường đúng đắn. Nếu chúng ta dùng đối sách để đánh gục đối thủ, hẳn sẽ phải đón nhận đòn đau tương tự. Nếu dùng sức mạnh, sẽ bị người xa lánh. Nếu đối mặt mà dò hỏi thái độ, sắc mặt đối phương, sẽ không nhận được lòng tin. Nếu chúng ta cương quyết giữ vững lập trường đúng đắn, sẽ xây dựng được mối quan hệ tin cậy.

“Chính đạo” mà Saigo nói không phải là con đường đúng đắn với riêng nước Nhật, với riêng cá nhân nào mà là con đường đúng đắn không hổ thẹn với Trời Đất và lương tâm làm người. Toàn thế giới với bao nhiêu điều khác biệt vẫn có những điểm chung. Đó là chính nghĩa, công minh, công bằng, bác ái, thành thật… tức những giá trị tinh thần của một con người, là đạo đức.

Chương 8: Lòng thành

Saigo luôn nghĩ trái tim chân thành của con người là thứ quan trọng nhất và ông tự mình mài giũa lòng thành để làm gương. Cho đến nay, những điều răn dạy đó vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Tôi cực kỳ tin tưởng rằng trái tim trong sáng, không bị phụ thuộc vào những ham muốn, toan tính thiệt hơn là thứ mạnh mẽ nhất trong thời đại cạnh tranh gay gắt này.

Tận cùng nguyên lý của những hành động của Saigo là một trái tim chí thành mọi lúc mọi nơi. Không phải sách lược, mưu kế mà chính lòng thành trong sáng đó đã lay động lòng người.

Nếu chỉ tài năng, tri thức thì không thể khiến trái tim con người ta cùng chung nhịp đập. Con người ta không vì tiền, danh vọng hay quyền thế mà vì lòng thành thôi thúc nên có thể vượt qua gian khó, phát huy tối đa sức mạnh tinh thần.

Có thể lấy ví dụ về các công ty mới trong ngành IT. Nhiều ngôi sao trẻ xuất hiện, sau vài năm khởi nghiệp đã tham gia sàn chứng khoán, thu được khoản lãi lên đến hàng chục, hàng trăm tỷ yen, trở thành nhà lãnh đạo trẻ tuổi được yêu thích của thời đại. Nhưng số người biến mất khỏi vũ đài bởi sự cố cũng nối tiếp nhau không dứt.

Rõ ràng, chỉ tài năng không thôi thì không tồn tại lâu dài. Sự nghiệp thiếu thành tâm sẽ không nhận được sự đồng cảm, hợp tác từ chính nhân viên, đối tác và xã hội. Người lãnh đạo không có lòng thành sẽ chạy theo những kế sách nhỏ nhen, khôn vặt để rồi lầm đường mà không duy trì thành công lâu dài được.

Chương 9: Lòng tin

Một lãnh đạo từng tâm sự với tôi rằng ông ấy từng rất cảm động khi nghe tôi nói cuộc đời mình là “những ngày không ngừng nâng cao tín niệm”. Ông ấy cảm động với suy nghĩ không ngừng nâng cao quan niệm kinh doanh, cách nghĩ, quan niệm triết học chứ không phải chỉ kỹ thuật kinh doanh của tôi.

Thời trẻ, tôi luôn nhắc nhở mình phải đọc sách ít nhiều trước khi ngủ nên đầu giường chất hàng chục cuốn sách triết học và tôn giáo. Những hôm về trễ, tôi vẫn cố gắng đọc một, hai trang. Có lẽ nhờ những ngày trẻ như vậy mà tôi có thể đường đường tổng quát nửa đời mình như vậy.

Tôi dùng câu “nâng cao tâm hồn, phát triển kinh doanh” để chỉ mối quan hệ song phương của nhân cách người lãnh đạo và thành tích công ty. Cũng có thể nói đây là bản chất của kinh doanh. Muốn phát triển kinh doanh thì trước tiên phải nâng cao tâm hồn bản thân người lãnh đạo, sau đó tự nhiên thành tích cũng sẽ đi theo.

Tuy nhiên, Saigo cũng từng nói, cho dù đã tu thân, lập chí nhưng khi hữu sự mà không ứng phó được thì cũng chỉ như một hình nhân bằng gỗ. Nghĩa là phải luôn chuẩn bị để có thể ứng dụng, thực hành kiến thức có được. Dù có học bao nhiêu tri thức tinh thông của thánh hiền, có học lý luận kinh doanh, kỹ thuật bao nhiêu đi nữa mà không có dũng khí, không giữ cho mình một lòng tin mạnh mẽ, ý chí cao mà thực hành thì không thể nào khắc sâu, thu thập kiến thức vào người được, đến khi tiến hành thực tế thì không giúp ích gì.

Điểm này, như Saigo khuyên, “lập chí, quyết tâm nỗ lực vượt qua khổ nạn, chịu đựng gian khó”. Trong quá trình khắc phục khó khăn, suy nghĩ, tư tưởng đó sẽ trở thành lòng tin của ta.

Chương 10: Lập chí

Saigo cho rằng những người đứng trơ như phỗng trước con đường đi đến mục tiêu dài dằng dặc và tự mình bỏ cuộc vì nghĩ “mình không thể làm gì được” là kẻ nhu nhược, yếu đuối, chỉ biết trốn tránh.

Bất kỳ việc gì cũng bắt đầu từ tư duy một cách mạnh mẽ. Đặt ra mục tiêu thật cao và nghĩ “tôi muốn như thế”. Phải luôn giữ nguyện vọng mạnh mẽ như thể ý thức đắm chìm vào đó. Bắt đầu từ nghĩ mạnh mẽ, ngủ cũng như thức, không phút nào không nghĩ đến mục tiêu đó, từ đó thực hành lời dạy của bậc tiền nhân. Con đường đó có thể rất chông gai, có thể đầy rẫy những khó khăn, nhưng những người kiên định với ý chí mạnh mẽ sẽ không bao giờ biến mất khỏi con đường dẫn đến mục tiêu. Giả sử, dọc đường có gặp trắc trở, giậm chân tại chỗ hay vấp ngã, họ vẫn đứng dậy để tiến về phía trước. Ngược lại, những người không có chí sẽ chẳng có con đường nào mở ra.

Lập chí và bước đi. Chuyện đó không dễ dàng gì. Nhưng Saigo nói hãy lấy khó khăn làm niềm vui.

Chương 11: Tinh tiến

Năm 1997, tôi được phép quy y cửa Phật. Phật giáo gọi việc con người ta mài giũa tinh thần, nâng cao tâm hồn và cuối cùng đạt đến cảnh giới là “ngộ” và thuyết giảng “Lục độ Ba la mật đa” như con đường tu hành dẫn đến “ngộ”. Trong 6 cứu cánh Ba la mật đa đó có “tinh tiến”.

“Tinh tiến” là làm việc hết sức mình, chăm chỉ, cố gắng, ngôn ngữ hiện đại gọi là “làm việc”. Làm việc không đơn giản là cách để nhận công. “Làm việc” ở đây là hết lòng vào công việc, lao động hết sức mình với “nhất tâm bấn loạn” để xây dựng trái tim, linh hồn, nhân cách. Hễ còn sống thì không ngừng tinh tiến. Saigo đã nói phải liên tục nỗ lực hằng ngày với sự tập trung cao độ, không được lơ là. Nếu chỉ sống thờ ơ, gặp đâu hay đấy, không có cái nhìn xuyên suốt thì gặp sự cố không thể có phán đoán, hành xử đúng đắn. Đây là điểm rất quan trọng với những người đứng ở vị trí đưa ra quyết định như nhà lãnh đạo kinh doanh.

Như kinh nghiệm thời trẻ của tôi. Có những lúc quá bận rộn mà tôi giải quyết công việc cho qua, hay xem thường những kế hoạch nhỏ nên không tự mình quyết định, giao hết cho cấp dưới. Về sau, chính những quyết định và những lúc lơ là đó đã dẫn đến những rắc rối to lớn. Sau nhiều lần như vậy, tôi tuyên bố dù bận rộn đến mấy vẫn phải dành thời gian và tạo ra nơi làm việc tập trung tinh thần, trao đổi nghiêm túc. Có thể chỉ với khoảng thời gian 10 phút nhưng đó là 10 phút thật sự tập trung suy nghĩ, đưa ra kết luận.

Trên thực tế, cho đến lúc Kyocera phát triển thành một công ty có quy mô lớn, tôi luôn xem qua từng kế hoạch, hợp đồng của công ty và ra quyết định. Tôi không bao giờ giao phó cho cấp dưới giải quyết một việc nửa vời. Với những kế hoạch lớn, tôi luôn ra từng quyết định một và hầu như chưa mắc phải sai lầm nào.

Có thể đó là do tôi đã tập thói quen tập trung từ thời trẻ nên năng lực phán đoán của tôi được mài giũa. Nhưng điều tốt nhất tôi làm được là nghĩ rằng tập trung tận lực là nhiệm vụ của người đứng đầu.

Chương 12: Kỳ vọng

Gia đình, sở làm, công ty, xã hội, quốc gia, tùy vào trái tim của những người cấu tạo nên mà những tập thể này khác nhau. Nếu người sống ở đó chỉ biết nghĩ đến mình thì tình hình nhiễu nhương, nếu họ có trái tim biết nghĩ đến người khác thì sẽ có một xã hội thịnh vượng. Từ đó, vấn đề được đặt ra là trái tim, tâm hồn của từng người cấu tạo nên tập thể phải như thế nào.

Tình trạng xã hội là tấm gương phản chiếu trái tim con người. Sự phát triển bền vững của công ty, nền kinh tế hay tương lai tươi sáng, yên bình của một xã hội, quốc gia đều bắt đầu từ việc mài giũa tâm hồn của mỗi chúng ta.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Đường Đi Đến Thành Công Bằng Sự Tử Tế PDF của tác giả Inamori Kazuo nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Siêu Lý Tình Yêu (Phạm Vĩnh Cư)
Giới thiệu Soloviev chỉ ra 5 loại quan hệ nam nữ với loại quan hệ nam nữ có tình yêu gắn với lý tưởng hóa đối tượng yêu, làm chúng ta khi yêu mang bản nguyên thần thánh. Tình yêu nam - nữ tuyệt đích sẽ bất tử hóa tất cả bởi tình yêu chuyên trở sự sống vĩnh cửu cho cái mình yêu, tái sinh vĩnh viễn trong cái đẹp. Đó là luận điểm về tình yêu qua các tác phẩm trứ danh: Siêu lý tình yêu (1892-1893), Chiến tranh và hòa bình, Biện minh cái thiện của Vladimir Soloviev, người nhà văn, đại triết gia Nga - người đặt nền móng cho Triết học Tình yêu châu Âu. Quan điểm hoàn chỉnh về Tình yêu nam nữ Soloviev phê phán, hoàn chỉnh các ý tưởng, quan điểm về tình yêu của nhiều nhà tư tưởng lớn tại nhiều thời đại khác nhau của nhân loại từ Platon đến LevTolstoy, đến Schopenhauer… Mặc dù tình yêu là một hiện tượng to lớn, phức tạp trong cuộc sống con người, đề tài của nhiều người, nhiều giới (văn học, nghệ thuật, tâm lý, triết học…) nhưng ông đã xây dựng được và cung cấp cho chúng ta một nền tảng nhận thức đặc sắc về tình yêu nam - nữ. Các quan điểm chính về tình yêu nam nữ của Soloviev Ông đề cao tính cao đẹp của tình yêu nam nữ không coi đó là ảo giác che đậy nhục dục, một trò chơi của tự nhiên, là ác quỷ đen tối nô dịch loài người, là một dạng tồn tại trong khổ đau và cái chết hay duy đạo đức quá như coi tình yêu là phải lấy tình yêu nhân loại làm trọng, phải khổ hạnh/vị tha… như tư tưởng của triết gia Schopenhauer, Tolstoy hay một số tôn giáo. Tìm mua: Siêu Lý Tình Yêu TiKi Lazada Shopee Tình yêu là bước chuyển phôi mầm tiềm năng mới nhú của con người giống như đặc tính trí tuệ là phôi mầm của động vật. Tình yêu còn có sứ mệnh xa hơn, dài hơn mà cái chân chính là chiến thắng đến cùng chủ nghĩa cá nhân, gia tăng giá trị vô tận cho con người, nhân tính phân chia nam - nữ, hữu hạn, hữu tử thành cá thể duy nhất lưỡng tính, tuyệt đối, bất tử. Ông cũng không coi hôn nhân hợp pháp, sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái là sứ mệnh đích thực của tình yêu say đắm nam - nữ. Theo ông, vai trò của gia đình, tình thương yêu con cái, vai trò gia đình, chuẩn mực nề nếp quan hệ là đảm bảo sự tồn tại giống loài, xã hội loài người… nhằm duy trì thế giới vật chất và làm cho xã hội vận hành tốt. Tình yêu có sứ mệnh không phải là ở thực tế vật chất đó mà sứ mệnh là dẫn dắt con người từ thế giới đó (phi lý tưởng) bước sang thế giới lý tưởng hay cải hóa thế giới phi lý tưởng thành thế giới lý tưởng. Tình yêu đi đôi với lý tưởng hóa đối tượng yêu, sùng bái hâm mộ người yêu và làm xuất hiện “phép lạ, hào quang” quanh người yêu như nhìn thấy chân lý về con người - hình ảnh môi giới giữa Thượng đế thần thánh và thế giới. Tình yêu là phương tiện cho sự nhập thân đến cùng, đến đích trong đời sống cá thể của con người. Đó là cuộc sống có hơi ấm của hạnh phúc siêu phàm, thiên đường của tình thương, trái tim ngự trị, lạc thú của con người và thần linh. Qua tình yêu, người yêu tuyệt đối hóa người ta yêu làm cho hoàn hảo, trọn vẹn, vô bờ vô hạn và qua đó chính bản thân mình. Tình yêu đòi hỏi bất tử của con người cả tinh thần lẫn thể xác. Thân phận hữu tử hiện nay và cái chết là hệ quả tất yếu của cuộc sống bất toàn và trống rỗng của con người trong thực tại. Ông đề cao tình yêu nam nữ hơn mọi dạng tình yêu khác bởi nó khẳng định và làm giàu vô tận giá trị của từng cá thể con người - trong tiềm năng nó dẫn con người tới sự bất tử. Nó vừa là kết quả của tiến trình lịch sử của chủng loài hữu hạn vừa là bản chất nhân văn của người gắn với giá trị tuyệt đối, vĩnh hằng của Thượng Đế. Đó chính là niềm tin khao khát của ông về tất cả sinh linh con người đã, đang và sẽ sống có thể bất tử thông qua tình yêu chân chính, trong Thượng đế hay cõi niết bàn… với “bầu trời mới, trái đất mới” ở vương quốc của những tinh thần vĩnh hằng. Soloviev xác định có 5 kiểu biểu hiện của quan hệ nam nữ trong đời sống nhân loại, trong đó có 3 cấp độ 3, 4, 5 là biểu hiện của tình yêu. Triết học tình yêu của Soloviev là ở hướng tới tình yêu ở cấp độ 5 - tình yêu chân chính phục vụ cơ đồ tái sinh loài người khổ đau, hữu tử thành Thần - Nhân loại bất tử. Khi tình yêu được đồng hóa ở mức tinh thần thì sẽ khơi dậy tiềm năng vô biên tính người của con người.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Siêu Lý Tình Yêu PDF của tác giả Phạm Vĩnh Cư nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người (George Berkeley)
Lời người dịch George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất. Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này. Tìm mua: Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người TiKi Lazada Shopee Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông. Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous. Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng. Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố. Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734). Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận OxfordĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người PDF của tác giả George Berkeley nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Yêu (Alainde Botton)
Alain de Botton Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước. Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life. Sơ lược về tác phẩm Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín. Tìm mua: Luận Về Yêu TiKi Lazada Shopee Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tínhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Yêu PDF của tác giả Alainde Botton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.