Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kỳ Môn Độn Giáp - Đàm Liên

“Kỳ Môn Độn Giáp”  có giá trị lớn và có ý nghĩa tích cực về mặt tư duy đa chiều đối với sự phát triển của triết học và khoa học phương Đông. Đây chính là những kiến thức để hiểu biết về thế giới tự nhiên khác xa với những kiến thức khoa học của các nền văn hoá phương Tây.

“Kỳ Môn Độn Giáp”

“Kỳ Môn Độn Giáp”  gồm ba khía cạnh: Thứ nhất: thần thoại hoá về sự xuất hiện kỳ môn độn giáp. Tthứ hai: sự mô phỏng của chủ nghĩa duy tâm về “động ứng” Thứ ba: những pháp thuật mê tín như niệm chú. Trên cơ sở giải thích những nguyên lý cơ bản của kỳ môn độn giáp, cuốn sách này chủ yếu giới thiệu cách sắp xếp bố cục của kỳ môn phi bàn và cách quy định thời gian trong một năm. Ngoài ra còn nói rõ về những vấn đề mà những cuốn sách về Kỳ môn độn giáp khác chưa nói rõ.

“Kỳ Môn Độn Giáp”

Mục Lục Chương I. Khái niệm cơ bản về Kỳ môn độn giáp Chương II. Bố cục của Kỳ môn độn giáp Chương III. Cách xếp bố cục của Phi bàn kỳ môn Chương IV. Phương pháp định cục giờ Ất Sửu, Giáp Tý – 18 cục âm dương Kì môn phi bàn Chương V. Phi bàn 1080 định cục cát hung của Kì môn độn giáp Chương VI. Thập can – Bát môn tam cơ khác ứng

Mục Lục

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Lão Tử - Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê chú dịch!
Về cuốn  Lão Tử- Đạo đức kinh PDF , trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết: Về cuốn Lão Tử- Đạo đức kinh PDF, trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học – 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:“Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử. “Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử. Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí. Theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí. Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần. Lão tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần. Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằng ông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ. Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằngông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ.MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
64 QUẺ DỊCH (Tham khảo)
  |||||| Thuần Càn (乾 qián)  :::::: Thuần Khôn (坤 kūn)  |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)  :|:::| Sơn Thủy Mông (蒙 méng)  |||:|: Thủy Thiên Nhu (需 xū)  :|:||| Thiên Thủy Tụng (訟 sòng)  :|:::: Địa Thủy Sư (師 shī)  ::::|: Thủy Địa Tỷ (比 bǐ)  |||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)  ||:||| Thiên Trạch Lý (履 lǚ)  |||::: Địa Thiên Thái (泰 tài)  :::||| Thiên Địa Bĩ (否 pǐ)  |:|||| Thiên Hỏa Đồng Nhân (同人 tóng rén)  ||||:| Hỏa Thiên Đại Hữu (大有 dà yǒu)  ::|::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān)  :::|:: Lôi Địa Dự (豫 yù)  |::||: Trạch Lôi Tùy (隨 suí)  :||::| Sơn Phong Cổ (蠱 gǔ)  ||:::: Địa Trạch Lâm (臨 lín)  ::::|| Phong Địa Quan (觀 guān)  |::|:| Hỏa Lôi Phệ Hạp (噬嗑 shì kè)  |:|::| Sơn Hỏa Bí (賁 bì)  :::::| Sơn Địa Bác (剝 bō)  |::::: Địa Lôi Phục (復 fù)  |::||| Thiên Lôi Vô Vọng (無妄 wú wàng)  |||::| Sơn Thiên Đại Súc (大畜 dà chù)  |::::| Sơn Lôi Di (頤 yí)  :||||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò)  :|::|: Thuần Khảm (坎 kǎn)  |:||:| Thuần Ly (離 lý)  ::|||: Trạch Sơn Hàm (咸 xián)  :|||:: Lôi Phong Hằng (恆 héng)  ::|||| Thiên Sơn Độn (遯 dùn)  ||||:: Lôi Thiên Đại Tráng (大壯 dà zhuàng)  :::|:| Hỏa Địa Tấn (晉 jìn)  |:|::: Địa Hỏa Minh Di (明夷 míng yí)  |:|:|| Phong Hỏa Gia Nhân (家人 jiā rén)  ||:|:| Hỏa Trạch Khuê (睽 kuí)  ::|:|: Thủy Sơn Kiển (蹇 jiǎn)  :|:|:: Lôi Thủy Giải (解 xiè)  ||:::| Sơn Trạch Tổn (損 sǔn)  |:::|| Phong Lôi Ích (益 yì)  |||||: Trạch Thiên Quải (夬 guài)  :||||| Thiên Phong Cấu (姤 gòu)  :::||: Trạch Địa Tụy (萃 cuì)  :||::: Địa Phong Thăng (升 shēng)  :|:||: Trạch Thủy Khốn (困 kùn)  :||:|: Thủy Phong Tỉnh (井 jǐng)  |:|||: Trạch Hỏa Cách (革 gé)  :|||:| Hỏa Phong Đỉnh (鼎 dǐng)  |::|:: Thuần Chấn (震 zhèn)  ::|::| Thuần Cấn (艮 gèn)  ::|:|| Phong Sơn Tiệm (漸 jiàn)  ||:|:: Lôi Trạch Quy Muội (歸妹 guī mèi)  |:||:: Lôi Hỏa Phong (豐 fēng)  ::||:| Hỏa Sơn Lữ (旅 lǚ)  :||:|| Thuần Tốn (巽 xùn)  ||:||: Thuần Đoài (兌 duì)  :|::|| Phong Thủy Hoán (渙 huàn)  ||::|: Thủy Trạch Tiết (節 jié)  ||::|| Phong Trạch Trung Phu (中孚 zhōng fú)  ::||:: Lôi Sơn Tiểu Quá (小過 xiǎo guò)  |:|:|: Thủy Hỏa Ký Tế (既濟 jì jì)  :|:|:| Hỏa Thủy Vị Tế (未濟 wèi jì)
Tử Vi Đẩu Số Tân Biên - Văn Đằng Thái Thứ Lang (NXB Sài Gòn 1956)
Tử vi đẩu số có thể tìm hiểu được một phần nào cuộc sống trước sau mà định mệnh đã an bài cho mỗi người. Nghiên cứu Tử Vi đẩu số là để biết mình và cũng là để biết người. Môn cổ học này do một nhà Lý học uyên thâm đời Tống là Trần Đoàn tức là Hi Di Tử lập ra. Sau lại được nhiều nhà Lý học khác bổ sung, diễn dịch, triển khai và xếp đặt thành một môn học có hệ thống rành mạch. Tử vi đẩu số có thể tìm hiểu được một phần nào cuộc sống trước sau mà định mệnh đã an bài cho mỗi người. Nghiên cứu Tử Vi đẩu số là để biết mình và cũng là để biết người. Môn cổ học này do một nhà Lý học uyên thâm đời Tống là Trần Đoàn tức là Hi Di Tử lập ra. Sau lại được nhiều nhà Lý học khác bổ sung, diễn dịch, triển khai và xếp đặt thành một môn học có hệ thống rành mạch. Ở nước ta, từ xưa đến nay, đã có nhiều người nghiên cứu Tử Vi đẩu số. Nhưng mỗi người hiểu một cách khác. Thậm chí có người lại coi mỗi vị sao như một ông thần có quyền ban phúc, giáng họa xuống trần gian. Rồi khi gặp cơn đen vận túng, hay khi mắc hoạn nạn, người ta lập đàn cúng bái, viết tên vị sao vào sớ biểu để kêu van. Nực cười thay, người ta còn đốt vàng, đốt mã bày ra chuyện đút lót cho vị sao để cầu yên thân hưởng phúc, tiêu tai giải nạn và dĩ nhiên là để cầu sống lâu giàu bền. Bởi vậy Tử Vi đẩu số đã bị hạ xuống ngang hàng với người tà thuật của bọn thầy bùa qủy quái chuyên nghề mê hoặc người đời. Ở nước ta, từ xưa đến nay, đã có nhiều người nghiên cứu Tử Vi đẩu số. Nhưng mỗi người hiểu một cách khác. Thậm chí có người lại coi mỗi vị sao như một ông thần có quyền ban phúc, giáng họa xuống trần gian. Rồi khi gặp cơn đen vận túng, hay khi mắc hoạn nạn, người ta lập đàn cúng bái, viết tên vị sao vào sớ biểu để kêu van. Nực cười thay, người ta còn đốt vàng, đốt mã bày ra chuyện đút lót cho vị sao để cầu yên thân hưởng phúc, tiêu tai giải nạn và dĩ nhiên là để cầu sống lâu giàu bền. Bởi vậy Tử Vi đẩu số đã bị hạ xuống ngang hàng với người tà thuật của bọn thầy bùa qủy quái chuyên nghề mê hoặc người đời.
Vạn Sự Bất Cầu Nhân - Lý Thuần Phong
Vạn Sự Bất Cầu Nhân được xây dựng dựa vào thuyết Âm dương Ngũ hành sinh khắc chế hoá lẫn nhau, kết hợp với Thập can, Thập nhị chi, Cửu cung, Bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như Thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát tú, 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo... để tính ngày, giờ, tốt, xấu và được đối chiếu với lịch của Ban lịch Nhà nước. Vạn Sự Bất Cầu Nhân được xây dựng dựa vào thuyết Âm dương Ngũ hành sinh khắc chế hoá lẫn nhau, kết hợp với Thập can, Thập nhị chi, Cửu cung, Bát quái và nhiều cơ sở lý luận khác thuộc khoa học cổ đại phương Đông như Thập nhị trực (Kiến Trừ thập nhị khách), Nhị thập bát tú, 12 cung Hoàng đạo, Hắc đạo... để tính ngày, giờ, tốt, xấu và được đối chiếu với lịch của Ban lịch Nhà nước. Cuốn sách giúp độc giả xem và tra cứu lịch Âm - Dương; nó cũng có chức năng để xem chọn ngày lành, tháng tốt, giờ Hoàng đạo / Hắc đạo (Giờ ở đây, là tính theo giờ tại nơi cư ngụ của bạn), sao tốt / sao xấu lo cho công việc chọn người xông đất đầu năm, chọn tuổi làm nhà, cưới, chọn ngày, giờ đẹp cho xuất hành, khai trương, mở hàng, thành lập công ty... của mình được tối đẹp nhât.Tags:FacebookTwitterMới hơnCũ hơnĐăng bởi:☯ Dân tộc KING hoạt động với tiêu chí phi tôn giáo, phi lợi nhuận, phi chính trị. Mục đích của dantocking.com là cung cấp thông tin quý giá từ các bậc tiền nhân, để hậu thế có thể dễ dàng tìm đọc. Không có mục đích nào khác!