Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Định Mệnh - Alexandre Dumas

Thế kỷ XVI, châu Âu chìm trong sự hỗn độn của ánh sáng vǎn minh và tối tǎm bảo thủ. Con người cũng vậy, họ vừa kiểu cách, vừa nổi loạn. Những câu chuyện về hoàng cung, tôn giáo, phân biệt đẳng cấp luôn được bàn cãi sôi nổi. Vốn nổi tiếng với những tiểu thuyết hiệp sĩ như: Đactanhǎng và ba chàng lính ngự lâm, Bá tước Môngtơcrixtô,... lần này, Alexandre Duymas lại đem đến cho độc giả những say mê mới trong tiểu thuyết Tình yêu định mệnh. Những nhân vật như Catơrin, Rôbớc Stuya không chỉ là hiện thân của tình yêu cao cả vượt lên số phận mà còn là hình ảnh tiêu biểu cho con người đầy khát khao vươn tới những lý tưởng cao đẹp trong cuộc đời. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Một buổi sáng rực rỡ giữa tháng sáu năm một nghìn năm trăm năm mươi chín, một đám đông ước từ ba đến bốn mươi nghìn người chen chúc đầy quảng trường Xanhtơ Giơnơvievơ. Một người đàn ông vừa chân ướt chân ráo từ tỉnh lẻ tới, đột nhiên lọt vào giữa thành phố Xanh Giắc, vô cùng bối rối nghĩ rằng cái đám người thật đông đảo tụ tập trên địa điểm này của thủ đô nhằm mục đích gì. Trời thật quang đãng: vậy không phải là buổi lễ rước thánh tích Giơnơvievơ như năm 1951 để cầu chấm dứt mưa. Đêm trước, trời đã đổ mưa: vậy cũng không phải là lễ rước thánh tích Giơnơvievơ để cầu đảo như năm1556. Người ta cũng không hoảng loạn về chiến trận khốc liệt như thảm hoạ Xanh Căngtanh (Xanh Căngtanh: là thị trấn của Pháp bị quân Đức chiếm ngày 28-8-1914, bị tàn phá một phần và được giải phóng ngày 2-10-1918.N.D), vậy cũng không phải người ta diễu hành lễ rước thánh tích Giơnơvievơ để cầu Chúa phù hộ. Rõ ràng là đông đảo dân chúng kéo nhau tập trung trên quảng trường tu viện cổ này để dự một lễ trọng. Nhưng lễ trọng gì đây? Không phải ngày lễ hội tôn giáo vì, dẫu ta có nhận thấy đây đó trong đám đông vài tấm áo tu sĩ nhưng những bộ áo đáng tôn kính này không đủ số lượng để đem cho lễ hội tính chất tôn giáo. Cũng không phải ngày lễ hội của quân đội vì số quân nhân rất ít ỏi, vả lại họ không mang theo cả thương kiếm lấn súng hoả mai. Đây cũng không phải ngày lễ hội của giới quý tộc vì ta không thấy nhô khỏi đầu người những lá cờ nhỏ có đính huy hiệu của các quý tộc bay phơ phất hoặc những chiếc mũ có gắn những chòm lông của các lánh chúa. Trong đám người đông nghẹt hàng ngàn màu sắc ấy, trà trộn quý tộc, thầy tu, kẻ cắp, thị dân, gái làng chơi, người già cả, những người làm trò ảo thuật, phù thuỷ, dân Bôhêmiêng, thợ thủ công, những ngừơi mang những vật vô giá trị, kẻ bán rượu bia; những người này cưỡi ngựa, những kẻ khác cưỡi lừa, cưỡi la, người ngồi xe ngựa (trong năm này người ta vừa sáng chế ra xe ngựa) thì số người đông đảo nhất đi đi lại lại, xô đẩy chen lấn nhau để đến được trung tâm quảng trường, theo chúng tôi là đám học sinh thuộc bốn quốc tịch: Êcôtxơ, Anh, Pháp, Ý. Thật ra là thế này: đây là ngày thứ hai đầu tiên sau ngày lễ thánh Bacnabê(11-6) và chính là để đi tới lễ hội Lăngđi mà cả đám dân chúng đông đúc này đã tụ họp lại. Có lẽ từ này thuộc ngôn ngữ thế kỉ thứ mười sáu không nói lên được điều gì với độc giả cả. Vậy chúng tôi xin giải thích về lễ hội Lăngđi là thế nào. Xin độc giả thân mến hãy lưu ý! Chúng tôi xin nói về ngôn ngữ học, không hơn không kém một viện sỹ hàn lâm về tu từ và mĩ học. Từ La tinh “indictum” có nghĩa là một ngày và một địa điểm được ấn định cho một cuộc hội họp nào đó của dân chúng. Chữ i trước hết được đổi thành ơ rồi thành a. Sau đó đáng lẽ người ta nói “anhddictum” thì lần lần người ta nói là “anhđich” rồi gọi lại là Lăngđi. Tóm lại từ này có nghĩa là ngày giờ và địa điểm được ấn định cho một cuộc họp. Vào thời Xaclơmanhơ, cứ mỗi năm một lần, ông vua người Đức này định đô ở Achxơ-La-Sapen lại cho những kẻ hành hương được nhìn thánh tích trong giáo đường. Xaclơ nói những thánh tích này từ Achxơ về Pari và cứ mỗi năm một lần cho dân chúng được ngắm nhìn những thánh tích ấy trong một lễ hội được tổ chức tại đại lộ Xanh Đơnit. Giới tăng lữ ở Pari rước những thánh tích tới đây và giám mục đến làm lễ ban phước cho dân chúng, nhưng đó là những phước như của cải tương lai hoặc hoa trái gần gặn: ông không có quyền ban phát chúng như ông muốn; còn giới tăng lữ ở Xanh Đơnit lại đòi hỏi chỉ họ mới có quyền ban phước trên đất đai của họ và lưu ý nghị viện Pari coi giám mục là kẻ tiếm quyền. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Định Mệnh của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Từ Hôn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Từ Hôn của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trong „Từ hôn“ tác giả đã dùng kỹ thuật đối thoại, lối viết được xem là tân tiến của thời đó, để diễn tả 3 mẫu người lập dị - mà họ gọi là “chủ nghĩa” –: Châu Tất Ðắc với thuyết “bất cần lao”, Lê Võ Lộ theo gương Lão Tử đặt ra thuyết “vô khả vô bất khả”, Nguyễn Tự Cao lấy tên mình lập ra phái “tự cao” Cốt chuyện quanh quẩn việc cô giám đốc trường nữ công là Cẩm Hương bắt cá với Tất Ðắc sẽ làm mối để anh ta cưới được con gái của một bà Phủ là Bạch Yến với một số tiền đánh cuộc là 2000 đồng. Cô Yến và bà Phủ thuận ý. Lý do đưa đến từ hôn thật bất ngờ. Kết quả ra sao mời bạn đọc tiếp. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Tiểu thuyết của ông, gồm hơn 60 quyển, chủ yếu xoay quanh các vấn đề đạo đức, nhân nghĩa, tình đời bị cuốn trôi, bị xen lẫn, phải vùng vẫy trong làn hương mê muội của tiền bạc. Đọc về Nam Bộ xưa là tiếp xúc với những ngôn từ có phần chân quê, lạ lẫm thêm cách nói chuyện hưỡn đãi, nhưng cũng không kém phần tinh tế vì những khía cạnh của một câu chuyện tưởng như chân chất bình thường lại được xoáy vào ở mọi góc cạnh, và bất giác khiến ta giật mình khi những gai góc của nó lộ ra. Tôi chưa đọc nhiều tiểu thuyết của ông, chỉ mới 5 quyển thôi gồm các tựa: Từ hôn, Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời, Nhơn tình ấm lạnh, Con nhà nghèo và Con nhà giàu, nên cũng chỉ bàn đến nội dung trong những truyện trên. “Từ hôn” là một câu chuyện nội dung đơn giản, kể về một chàng trai có gốc quan lại, tên là Châu Tất Đắc, nhưng hiện tại học hành chưa đến nơi đến chốn, công việc cũng không có để nuôi thân, nhờ một bà mai nhanh trí khôn ngoan giới thiệu để kết hôn với một cô gái con nhà giàu có, được cưng như trứng mỏng, với một điều kiện duy nhất là anh chàng phải ở rể. Để được nhà gái chấp thuận, anh chàng và bà mai đã câu kết với nhau đơm đặt nhiều chuyện như anh đã học đậu bằng “bác vật”, lại còn sắp có một công việc ăn lương lớn. Làm tất cả những điều đó, anh nọ chỉ nhằm vào một mục tiêu duy nhất là được làm “nghề chồng”, cái nghề chỉ nằm nhà vợ ăn không ngồi rồi, sung sướng tấm thân, như “chuột sa hũ nếp”. Khi cá lớn cá nhỏ đều đã cắn câu, anh được vợ sắp cưới yêu đương mê mẩn, mẹ vợ quý trọng thương mến, cứ ngỡ mọi chuyện sẽ êm xuôi mà cứ thế làm đám cưới, thì đột ngột anh từ hôn… … bởi con người ta, thời nào cũng vậy, vẫn cần một lòng tự trọng để sống trên đời, để không hổ thẹn với tòa án chuẩn mực công bình và thấu hiểu nhất đó là lương tâm.   Đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, cũng là một bước nhìn lại quá khứ, không phải của tôi, mà là của con người, của thiên hạ, đế thấy con tạo xoay vần, nhân gian biến đổi, nói thiệt, không khỏi có chút chạnh lòng. *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Từ hôn" của Hồ Biểu Chánh kể về cuộc hôn nhân giữa Châu Tất Ðắc và Bạch Yến. Châu Tất Ðắc là một người lập dị, theo thuyết "bất cần lao". Ông cho rằng con người không cần phải lao động mà chỉ cần hưởng thụ cuộc sống. Bạch Yến là một cô gái xinh đẹp, nhưng lại có tính cách mạnh mẽ, độc lập. Cuộc hôn nhân của hai người bắt nguồn từ một cuộc cá cược giữa Châu Tất Ðắc và Cẩm Hương, giám đốc trường nữ công. Cẩm Hương muốn chứng minh rằng cô có thể tìm được một người chồng cho Bạch Yến, dù cho anh ta có lập dị đến đâu. Ban đầu, Châu Tất Ðắc và Bạch Yến sống rất hạnh phúc. Họ có chung những quan điểm sống và yêu thương nhau rất nhiều. Tuy nhiên, theo thời gian, những mâu thuẫn giữa hai người bắt đầu nảy sinh. Châu Tất Ðắc không muốn làm việc, chỉ muốn hưởng thụ cuộc sống. Bạch Yến thì muốn có một người chồng có thể mang lại cho cô một cuộc sống ổn định. Cuối cùng, hai người quyết định từ hôn. Châu Tất Ðắc trở về với cuộc sống của mình, còn Bạch Yến thì tìm được một người chồng khác. Đánh giá Tiểu thuyết "Từ hôn" là một tác phẩm văn học xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã đề cập đến một vấn đề xã hội bức thiết trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, đó là vấn đề hôn nhân. Tác phẩm đã thể hiện được sự mâu thuẫn giữa hai quan điểm sống: quan điểm sống hưởng thụ và quan điểm sống cần lao. Quan điểm sống hưởng thụ sẽ dẫn đến những hậu quả xấu, như: lười biếng, ích kỷ, không có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đã thể hiện được sự mạnh mẽ, độc lập của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bạch Yến là một cô gái có cá tính, không chịu khuất phục trước những định kiến của xã hội. Cô đã tự mình quyết định cuộc đời của mình, không phụ thuộc vào bất cứ ai. Cảm nhận Tôi rất thích tiểu thuyết "Từ hôn" của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã mang đến cho tôi nhiều suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và con người. Tôi đồng ý với quan điểm của tác giả rằng quan điểm sống hưởng thụ sẽ dẫn đến những hậu quả xấu. Con người cần phải có một quan điểm sống đúng đắn, cần lao để có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho bản thân và xã hội. Tôi cũng rất ngưỡng mộ nhân vật Bạch Yến. Cô là một người phụ nữ mạnh mẽ, độc lập, có ý chí và nghị lực. Cô là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ trong xã hội. Tôi nghĩ rằng tiểu thuyết "Từ hôn" là một tác phẩm văn học đáng đọc. Tác phẩm đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc. Mời các bạn mượn đọc sách Từ Hôn của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Người Gia Sư
Lịch sử đích thực chứa đựng những bài học tựa như những kho báu, mặc dù, trong một số trường hợp, kho báu không dễ phát hiện, và khi được tìm ra lại chẳng đáng kể về số lượng, đã cạn kiệt, phần cốt lõi đã teo tóp và hầu như chẳng bõ công cạy cục tìm tòi. Điều đó có đúng với lịch sử của tôi hay không, tôi không giỏi đánh giá cho lắm. Đôi khi tôi nghĩ có thể câu chuyện của mình có ích cho ai đó, có thể đem lại sự thú vị cho người khác, nhưng người đời có sự đánh giá của riêng mình. Được ít người biết đến, sau nhiều năm trôi qua, và với việc sử dụng một vài cái tên giả, tôi không sợ mạo hiểm, và tôi sẽ tiết lộ với các bạn những gì tôi thậm chí không tâm sự với ngay cả người bạn thân nhất của mình. Cha tôi là một mục sư ở miền Bắc nước Anh, người đáng được tất cả những ai biết đến kính nể. Thời trai trẻ, ông sống khá thoải mái bằng thu nhập từ công việc của mình và chút sản nghiệp riêng. Mẹ tôi, người phụ nữ kết hôn với ông bất chấp sự phản đối của gia đình, là con gái của một địa chủ, và là một người ngoan đạo. Chẳng ích gì khi nói với bà rằng nếu trở thành vợ của một mục sư thì bà sẽ phải từ bỏ cỗ xe ngựa, cô hầu phòng, và tất cả những thứ xa xỉ, thanh nhã của sự giàu sang, điều mà đối với bà ít quan trọng hơn nhiều so với những thứ thiết yếu trong cuộc sống. Một cỗ xe ngựa và một cô người hầu tiện lợi thật đấy, nhưng, ơn Trời, bà có đôi chân để tự bước đi, có đôi tay để tự làm được những việc cần thiết của cá nhân. Một ngôi nhà đẹp và những mẫu đất không phải là những thứ chẳng đáng giá một xu, nhưng bà thích sống dưới mái nhà tranh cùng với Richard Grey hơn là sống trong một cung điện với bất cứ người đàn ông nào khác trên đời này. Biết rằng tranh cãi, phản đối chẳng ích gì, cha của bà sau một thời gian dài, đã nói với đôi uyên ương rằng nếu thích thì họ cứ việc lấy nhau, nhưng, nếu như vậy, thì con gái của ông sẽ không được hưởng một mẩu của nả nào từ gia đình. Ông cụ hy vọng tuyên bố đó có thể dập tắt ngọn lửa tình yêu nồng nàn trong trái tim đôi trẻ, nhưng ông đã nhầm. Cha tôi biết quá rõ rằng giá trị vượt trội không dễ nhận thấy của mẹ tôi chính là kho báu ở trong con người bà và nếu bà ưng thuận về xây đắp tổ ấm của ông thì ông sẽ hân hoan đón nhận bà với bất cứ điều kiện nào. Trong khi đó, mẹ tôi thích lao động bằng đôi bàn tay của mình hơn là phải chia tay người đàn ông mà bà đã đem lòng yêu, người mà bà tình nguyện đem lại hạnh phúc, khi mà cả trái tim và tâm hồn của hai người đã hòa làm một. Vậy là tài sản thừa kế của bà đã làm căng cái ví của người chị gái khôn ngoan hơn, người đã kết hôn với một vị quan thái thú, còn bà đi chôn vùi bản thân trong ngôi nhà đơn sơ của vị mục sư giữa những ngọn đồi trong sự ngạc nhiên và thương hại của tất cả những người quen biết. Bất chấp tất cả những chuyện đã xảy ra, dù tính cách mạnh mẽ của mẹ tôi và những ý thích nhất thời của cha tôi, tôi tin rằng bạn tìm khắp cả nước Anh này cũng chẳng thể tìm nổi một đôi vợ chồng nào hạnh phúc hơn cha mẹ tôi. ... Mời các bạn đón đọc Người Gia Sư của tác giả Anne Brontë.
Tỉnh Mộng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tỉnh Mộng của tác giả Hồ Biểu Chánh. Bà phủ Tiên góa chồng chỉ có một gái là Yến Tuyết xinh đep và đoan trang. Yến Tuyết có người anh con dì là Trường Xuân, trước làm thông ngôn, tham giàu lấy người vợ xấu xí, rồi xin thôi việc ra làm hội đồng địa hạt. Yến Tuyết ngây thơ bị Trường Xuân dùng những lời ong bướm gợi tình, nên thất tiết và mang thai. Sợ chuyện đổ bể thì mang tai tiếng và có hại trong việc tranh chức cai tổng, Trường Xuân muớn Kỳ Tâm làm nôm (là người nhận một số tiền đền bù để làm chồng một cô gái chửa hoang ). Kỳ Tâm vốn là con một ông cả giàu có lớn, vì gia đình suy sụp phải bỏ học, lại bị vị hôn thê phụ bạc nên chán ngán nhâm tình. Chàng nhận làm nôm để giúp mẹ con bà phủ khỏi mang tiếng xấu và để có dịp hiểu đời thêm, chớ không nhận tiền. Kỳ Tâm bằng lòng nhận điều kiện của Yến Tuyết là chỉ đóng vai chồng hờ và điều kiện của Trường Xuân là phải ra khỏi gia đình bà Phủ bất cứ lúc nào khi có yêu cầu. Chàng chỉ đòi hỏi một điều là được biết chuyện tình giữa Trường Xuân và Yến Tuyết. Trường Xuân tưởng nhờ người nôm tạm để về sau còn đi lại với Yến Tuyết, không ngờ từ khi thất thân với Trường Xuân, nàng khinh bỉ chàng và luôn luôn lánh mặt. Kết quả ra sao mời bạn đọc tiếp... Tỉnh mộng *** Tóm tắt Tỉnh Mộng là một tiểu thuyết hiện thực của nhà văn Hồ Biểu Chánh, được xuất bản năm 1937. Tác phẩm kể về cuộc đời và tình yêu của ba nhân vật chính là Yến Tuyết, Kỳ Tâm và Trường Xuân. Yến Tuyết là một cô gái xinh đẹp và đoan trang, nhưng lại ngây thơ và thiếu hiểu biết. Cô bị Trường Xuân, người anh con dì của mình, dụ dỗ và thất tiết. Trường Xuân là một người đàn ông tham lam và ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân. Anh ta đã lợi dụng sự ngây thơ của Yến Tuyết để thỏa mãn dục vọng của mình. Kỳ Tâm là một chàng trai có học thức và phẩm hạnh. Anh ta nhận làm nôm cho Yến Tuyết để giúp cô thoát khỏi tai tiếng. Kỳ Tâm yêu Yến Tuyết ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ, nhưng anh ta biết rằng tình yêu của mình là vô vọng. Cuối cùng, Trường Xuân đã bị bà Phủ đuổi ra khỏi nhà. Yến Tuyết đã sinh con cho Kỳ Tâm, nhưng cô vẫn không thể quên được Trường Xuân. Kỳ Tâm đã trở thành người chồng hiền lành và yêu thương Yến Tuyết hết mực. Anh ta đã giúp Yến Tuyết vượt qua nỗi đau tinh thần và tìm lại hạnh phúc. Cảm nhận Tỉnh Mộng là một tiểu thuyết có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã phản ánh chân thực cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tác phẩm cũng ca ngợi tình yêu chân thành, thủy chung, và tinh thần đấu tranh cho hạnh phúc của con người. Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn mang đậm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Hồ Biểu Chánh cũng rất thành công. Đánh giá Tỉnh Mộng là một tiểu thuyết đáng đọc của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã để lại trong lòng độc giả nhiều ấn tượng sâu sắc về cuộc đời và số phận của những con người trong xã hội phong kiến Việt Nam. Một số điểm hạn chế của tác phẩm Cốt truyện khá đơn giản, chưa có nhiều điểm nhấn. Kết thúc truyện có phần hơi dễ đoán. Tuy nhiên, những hạn chế này không làm giảm đi giá trị của tác phẩm. Tỉnh Mộng vẫn là một tiểu thuyết xuất sắc của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Mời các bạn mượn đọc sách Tỉnh Mộng của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Khối Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Khối Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh. “Ái tình là ý nghĩa của sự sống. Ngày nay khối tình của em đã tan rã, thế thì em còn sống làm chi nữa, mà chị khuyên em phải sống.” “Sự sống còn nhiều mục đích khác cao thượng lắm, chớ nào phải sống đặng say sưa với ái tình mà thôi đâu.” “Em không có mục đích nào khác nữa.” “Em còn trẻ, em chưa lịch duyệt thế cuộc, nên em mới nói như vậy. Trong một ít nữa rồi em sẽ thấy sự sống có nhiều mục đích tốt đẹp nồng nàn hơn ái tình thập bội.” *** Cảm nhận Hai Khối Tình là một tiểu thuyết hiện thực của nhà văn Hồ Biểu Chánh, được xuất bản năm 1936. Tác phẩm kể về cuộc đời và tình yêu của hai nhân vật chính là cô Cúc và ông trạng sư Xương. Cô Cúc là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi, có chí tiến thủ. Cô đã thi đậu bằng Thành chung, trở thành người phụ nữ đầu tiên trong gia đình đỗ đạt. Cô có ước mơ trở thành nhà văn, viết tiểu thuyết để đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ. Ông trạng sư Xương là một người đàn ông hào hoa, phong nhã, có học thức uyên bác. Ông rất quý mến cô Cúc, luôn giúp đỡ cô trong cuộc sống và học tập. Ông cũng là người có tư tưởng tiến bộ, ủng hộ quyền bình đẳng của phụ nữ. Tình yêu của cô Cúc và ông trạng sư Xương là một tình yêu đẹp, nhưng cũng gặp phải nhiều trắc trở. Vì những khác biệt về quan niệm sống và hoàn cảnh gia đình, họ đã phải chia tay nhau. Tiểu thuyết Hai Khối Tình đã phản ánh chân thực cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tác phẩm cũng thể hiện tinh thần đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Đánh giá Hai Khối Tình là một tiểu thuyết có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã phê phán xã hội phong kiến với những hủ tục lạc hậu, những bất công, áp bức đối với phụ nữ. Đồng thời, tác phẩm cũng ca ngợi tình yêu chân thành, thủy chung, và tinh thần đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ. Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn mang đậm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Hồ Biểu Chánh cũng rất thành công. Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số hạn chế như: Cốt truyện khá đơn giản, chưa có nhiều điểm nhấn. Kết thúc truyện có phần hơi dễ đoán. Nhìn chung, Hai Khối Tình là một tiểu thuyết đáng đọc của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Mời các bạn mượn đọc sách Hai Khối Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.