Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Về Nơi Hoang Dã

"Có lẽ cũng như những đứa trẻ khao khát được khám phá thế giới hoang dã, tôi đã từng tưởng tượng mình đang ăn mặc như những nhà thám hiểm thường thấy trên TV, đầu đội mũ cứng, mặc quần áo kaki trắng ngà và đôi giày chuyên dụng. Tôi tưởng tượng ra mình đang đứng trước cây baobab, sờ vào vỏ cây thô cứng, áp tay vào thân cây mát rượi và ngước mắt lên nhìn ánh mặt trời chói chang của vùng đất châu Phi. Đối với tôi lúc bấy giờ, đó chỉ là ước mơ, và tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể thực hiện được ước mơ ấy. Vậy mà chỉ còn khoảng 20 tiếng nữa là tôi sẽ thực sự đến vùng đất đó, thực sự thực hiện ước mơ thưở nhỏ." Cuốn sách này ghi lại hành trình năm năm theo đuổi đam mê của nhà bảo tồn động vật hoang dã Trang Nguyễn. Từ lời hứa năm nào với chú gấu tội nghiệp bị nhốt lấy mật, cô gái 9x nhỏ bé quả cảm đã thực hiện những những chuyến đi xuyên địa cầu, đương đầu với những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, thậm chí cả căn bệnh ung thư khi đơn độc ở đất khách quê người. Đầy ắp thông tin về môi trường và tình cảm dành cho mẹ thiên nhiên, Trở về nơi hoang dã còn là một cẩm nang thiết thực về việc bảo vệ Trái đất thân yêu cho mỗi người. Cuốn sách được minh họa bởi họa sĩ Đào Văn Hoàng, một người tâm huyết và gắn bó sự nghiệp nghệ thuật với công tác bảo tồn động vật hoang dã. "Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm, và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp hết trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được." - Hồng Hoàng, Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) ***   Trang Nguyễn sinh năm 1990, là một nhà bảo tồn động vật hoang dã. Bắt đầu tham gia các hoạt động về bảo tồn động vật hoang dã vào năm 16 tuổi, Trang Nguyễn là người sáng lập và điều hành tổ chức WildAct tại Việt Nam. Hiện nay cô đang thực hiện các dự án bảo tồn động vật hoang dã ở Nam Phi, Campuchia và Việt Nam. Trang Nguyễn là đại sứ cho quỹ United for Wildlife của hoàng gia Anh. Năm 2018, cô nhận được giải thưởng Future for Nature cho các nhà bảo tồn động vật hoang dã quốc tế, lọt vào top 30 Under 30 Forbes Vietnam và Women of the Future – South East Asia. *** Điều phi thường làm nên một cuộc đời ý nghĩa Việc bảo tồn động vật hoang dã, việc nghiên cứu thực địa ở trong rừng đòi hỏi rất nhiều yếu tố về sức khỏe, sự kiên trì và lòng nhiệt huyết,… vượt qua mọi mặc cảm “Bọn con gái ở thành phố thì biết gì về rừng?”, “Con gái vào rừng thì làm được gì?”, “Có lội được sông không?” , “Nhìn gầy gò thế này thì làm được gì?” cơ hội được sống an nhàn như bao cô gái khác, Trang Nguyễn đã thực hiện lời hứa năm nào với chú gấu bị hành hạ, cô gái nhỏ quyết tâm bảo vệ động vật hoang dã. Những chuyến đi vô cùng khắc nghiệt, sự yêu thương động vật hoang dã được thể hiện qua từng câu chữ khiến người đọc vô cùng xúc động và khâm phục khả năng phi thường của tác giả. Đồng cảm hơn với thế giới tự nhiên Có thể với chúng ta, những màn xiếc thú, biểu diễn điêu luyện của những con vật ở sở thứ hay rạp xiếc đem lại sự thích thú thế nhưng bạn không biết đằng sau những màn biểu diễn ấy là những nỗi đau không ai thấu. Những con vật bị xiềng xích, đánh đập và thậm chí là bị bỏ đói trong quá trình luyện tập. Con người có cảm xúc và động vật cũng vậy. Thế tại sao chúng ta lại thờ ơ với những cảm xúc của động vật chỉ để có được giây phút vui vẻ cho chính mình? “Liệu chúng ta có sẵn sàng đánh đổi điều tuyệt vời mà thiên nhiên đang mang lại chỉ để mua vui bằng vài tiếng cười độc ác không?” Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý” (Albert Einstein) Thay vì chọn cuộc sống an nhàn như bao cô gái khác ở thành phố, những chuyến đi thực địa ở rừng, Trang Nguyễn hết sức đau lòng trước vấn nạn săn bắn động vật hoang dã trái phép, nạn chặt phá rừng, làm tổn hại nghiêm trọng đến mẹ thiên nhiên. Không chỉ những động vật hoang dã đứng trước nguy cơ diệt vong mà con người cũng sẽ phải trả giá cho những hành động làm tổn hại đến thiên nhiên. Những câu chữ mà Trang Nguyễn viết như truyền đến nguồn động lực cho chúng ta sống đúng đắn với thế giới tự nhiên. Cảm nhận của độc giả “Trang cũng quý hiếm như thiên nhiên hoang dã mà cô yêu, không chỉ bởi cô là một người Việt Nam với bộ hồ sơ đáng ngưỡng mộ với nền tảng giáo dục quốc tế và kinh nghiệm thực tế, mà còn bởi cô là phụ nữ. Không chịu khuất phục trước những định kiến xã hội, những gì Trang làm được có tính tiên phong và lan tỏa. Để nghành bảo tồn tiến xa hơn ở Việt Nam trong việc bảo vệ những loài quý hiếm đang bị đe dọa, không thể thiếu được những người như Trang.” - Josh Kempinski(Giám đốc Chương trình Việt Nam. Fauna & Folra International) “Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được” - Hồng Hoàng (Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp Trích dẫn hay từ sách Hãy nhìn sâu vào thiên nhiên, bạn sẽ thấu hiểu mọi thứ rõ ràng hơn. (Albert Einstein) Tôi không muốn bảo vệ thiên nhiên, tôi muốn tạo ra một thế giới mà thiên nhiên không cần phải bảo vệ. (Khuyết Danh) Thiên nhiên lặng thầm mà tràn đầy tình yêu thương và khát vọng Tất cả đều biết nói, nếu lắng nghe bằng cả trái tim. Sự thật là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm. Lời kết Không chỉ là tinh thần dũng cảm theo đuổi đam mê mà chính sự phấn đấu để bảo vệ động vật hoang dã đã làm cho cuộc đời của Trang Nguyễn đáng sống hơn bao giờ hết. Hy vọng bạn sẽ không bỏ qua một cuốn sách ý nghĩa như thế này, hãy dừng một chút, lắng nghe thiên nhiên nhiều hơn để góp phần làm những điều tốt đẹp cho thế giới tự nhiên nhé. *** Mình thật sự có cảm tình với những người “tay ngang” viết sách, như là chị Trang – nhà bảo tồn, Dương Minh Tuấn – bác sĩ, hay nhiều người viết tự truyện về cuộc đời mình. Mình thấy ngôn ngữ nó giản dị, chân thành, không cầu kỳ hoa mỹ. Từ trái tim đến với trái tim. Văn phong của chị Trang đúng là không có gì quá đặc biệt, nhưng chính những câu chuyện, những trải nghiệm, chính sự chân thành của chị đã đủ để thu hút người đọc rồi. Cuốn sách này kể về hành trình của chị Trang trong vòng 5 năm, từ lúc bắt đầu là một cô bé sinh viên thạc sĩ mới chỉ 21 tuổi, đến khi cuốn sách kết thúc là một “người lớn” trưởng thành hơn, và chững chạc hơn ở tuổi 26. Bên cạnh đó cũng có những câu chuyện về đời tư của chị như lúc điều trị ung thư và mối tình đáng yêu của chị và Brian. Đọc những câu chuyện của chị, mình cảm nhận được tâm huyết với ngành bảo tồn, tình yêu tha thiết của chị với thiên nhiên, với động vật hoang dã. Không cần những từ đao to búa lớn, không cần phải nói suốt mình yêu thiên nhiên như thế nào. Đọc những điều chị viết, thấy những việc chị làm, là tình yêu đó truyền được cả sang mình, tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên ngập tràn trong những trang sách của chị. Đọc mà rạo rực, mà muốn làm ngay cái gì đó tốt cho môi trường, thiên nhiên. “Trở về nơi hoang dã” được viết bằng nỗi khát khao được trải lòng, được truyền lửa, được sẻ chia. Không chỉ truyền tình yêu, đam mê mà chị còn chia sẻ nhiều kiến thức bổ ích mà thú thật là nhiều điều trước giờ mình cũng không biết. Chính chị cũng viết rằng mình sợ nếu cuốn sách trở nên phổ biến lại có nhiều bạn trẻ vào rừng để ‘thử’ cảm giác đi rừng, mà không hề trang bị đủ kiến thức để sinh tồn cũng như hiểu biết để không làm hại môi trường hoang dã. “Bạn chỉ muốn bảo vệ những gì bạn yêu, và bạn sẽ chỉ yêu những thứ mà bạn có thể hiểu.” Đọc sách mình hiểu hơn về thực tế nạn săn bắn động vật hoang dã. Những con số đáng sợ về nạn săn trộm và buôn bán động vật hoang dã, cả những câu chuyện buồn về những con thú non mất mẹ hay những con thú bị nuôi nhốt, hành hạ… Đọc thấy rất ‘thật’, mà thật rồi lại xót xa, lại thấy con người tham lam đến nhường nào, lại thấy mình thờ ơ ra sao. Mình buồn thay những con người tự cho mình cái quyền chà đạp giống loài khác, cho mình cái quyền tàn phá thiên nhiên. Một cuốn sách non-fiction hiếm hoi làm mình khóc. Khóc vì nghị lực của chị Trang, khóc vì những nỗi đau mà con người gây ra cho thiên nhiên, cho động vật hoang dã. Khóc vì đến cuối cùng chị vẫn theo đuổi, và còn tìm được một người đồng hành trên chặng đường dài phía trước. Thế giới cần thêm những người phụ nữ như chị. Cảm ơn chị vì đã không từ bỏ, và cảm ơn chị vì đã kể câu chuyện của mình. Cuốn sách còn là định hướng cho những người muốn dấn thân vào ngành bảo tồn. Trong suốt những câu chuyện của chị, chị đã chia sẻ rất thật về những khó khăn khi làm bảo tồn, đặc biệt là với phụ nữ làm ngành này. Một con đường không dễ để đi, nhưng nếu bạn có tâm huyết và tình yêu đủ lớn, thì cứ vững vàng bước tới. Nếu như bạn là một người có quan tâm đến động vật hay thiên nhiên nói chung, đây là cuốn sách hoàn hảo dành cho bạn. Nhưng dù cho bạn không hứng thú lắm thì mình nghĩ cũng nên thử đọc xem sao, bởi vì chắc chắn nó sẽ làm cho bạn quan tâm thôi. Tin mình đi! “ Có lẽ chúng ta không thể cứu được tất cả các muôn loài, nhưng nếu không cố gắng, chúng ta sẽ mất đi tất cả.” (Sir Peter Scott) Trích dẫn nổi bật của sách Trở về nơi hoang dã 1, “Sự thực là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm nắng hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm.” 2, “Chiều tà ở Châu Phi quả thực rất đẹp. Con nắng gay gắt đã tắt, chỉ còn lại màu đỏ cam, vàng rực cả góc trời. Không khí dịu xuống, cũng là lúc những loài động vật bắt đầu hoạt động nhiều hơn: những loài hoạt động về đêm ‘khởi động’ để chuẩn bị cho những chuyến đi săn, những loài hoạt động vào ban ngày cố vớt vát những tia sáng cuối cùng để uống nước, tắm bùn, rồi í ới gọi nhau trốn vào những bụi cây lớn để tránh thú săn mồi.” 3, “Liệu chúng đã nghĩ gì khi giương cung tẩm chất độc chết người để bắn chú voi già tội nghiệp? Cảnh Satao phải vật lộn với sự đau đớn, tiếng kêu cứu thống thiết của Satao liệu chúng có nghe thấy? Có lẽ khi ấy, những kẻ săn trộm chỉ nhìn thấy cặp ngà to khỏe của Satao…Lòng tham cuối cùng cũng chiến thắng tình người.” 4, “Những chú voi con nghịch ngợm đang chạy quanh voi mẹ với đôi tai dang rộng vì phấn khích. Thế rồi, tôi nhận ra Jumbo, chú voi khoảng 3 năm tuổi từng bị những người khách du lịch vô trách nhiệm phóng xe quá tốc độ trong khu bảo tàng đâm phải. Chú voi tội nghiệp tự lết đi đằng sau cả đàn, thỉnh thoảng lại dừng lại để nghỉ chân rồi lại vội vã lết đi. Tôi có thể thấy cả đàn đều rất nhẫn nại chờ chú: thỉnh thoảng chúng dừng lại, ngoái về phía sau để chắc chắn rằng Jumbo vẫn đang theo kịp đàn. Những chú voi khác lúc lắc đầu, rướn vòi về phía sau như kêu gọi, động viên Jumbo cố lên. Cả đàn cứ di chuyển chậm như thế, cho đến khi Jumbo dường như đã mệt lắm rồi, chú đi chậm hẳn lại, vung vẩy chiếc vòi với vẻ cáu kỉnh. Những thành viên khác trong đoàn đều dừng cả lại, ngoái nhìn, có cô tỏ vẻ sốt ruột, dùng chân đá đất khô ở dưới tạo thành những đám bụi nhỏ. Tôi thắc mắc liệu chúng có bỏ mặc Jumbo không nhỉ? Thế rồi, điều kỳ diệu xảy đến: một bạn voi khác trong đàn, có lẽ chỉ hơn Jumbo vài tuổi, đi từ từ về phía Jumbo. Cô bé ấy nhẹ nhàng đặt trán mình đối diện với trán Jumbo, như để tỏ vẻ thông cảm, rồi dùng vòi của mình quấn lấy vòi của Jumbo, và dắt Jumbo tập tễnh từng bước một, từ từ, chậm rãi đi về phía cả đàn. Đó, là tình cảm gia đình. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, mạnh mẽ nhất mà nhiều khi thế giới loài người, vì bận rộn mà bỏ quên.” *** Và thế là tôi ngồi đó, cùng với nào ba lô, túi xách, võng, lều, nồi niêu, xong chảo và ti tỉ những vật dụng khác nữa, trong khi dân làng, từ đám trẻ nhỏ, đến phụ nữ, thanh niên, nam giới và người già lần lượt kéo đến, cùng với một đám gà qué thả rông của ai đó, tạo thành vòng tròn lớn, không ngại ngần nhìn tôi chằm chằm. Khỉ thật, tại sao tôi lại tự làm khổ mình như thế này cơ chứ? Tôi có thể như đám bạn cùng lứa ở nhà, đi làm ở một nơi nào đó ổn định, có mức lương kha khá, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó, chụp vài bức ảnh selfie, có một cậu bạn trai cao ráo, yêu thương mình hết mực, có lẽ là chuẩn bị tính đến chuyện lập gia đình, lấy chồng và sinh con. Tại sao tôi lại không nghe theo lời khuyên của bố mẹ, đi một con đường bằng phẳng và sống đơn giản hơn… Thay vào đó tôi bị tắc ở đây, một cái làng bé nhỏ ở nơi khỉ ho cò gáy mà tôi còn chả biết là ở đâu nữa, với một đám người hiếu kỳ lạ mặt đang kéo đến ngày một đông, với đám quần áo và ba lô bẩn thỉu dính đầy bùn đất, với những vết gai cào đầy trên tay và chân, với vết bầm tím do bị ngã trên đùi. Vừa tức, vừa bực, vừa tuyệt vọng và căng thẳng, nước mắt tôi bắt đầu ứa ra, chảy thành dòng trên khuôn mặt. Và ngay lập tức tôi hối hận vì đã khóc - đám người bắt đầu chỉ trỏ, cười ngạo nghễ nhìn tôi như thể họ đang xem xiếc thú! * * * Bốn tháng trước đó… Tháng Tư năm 2012 là khoảng thời gian ban nhạc người Ireland - Westlife có những liveshow cuối cùng để chia tay khán giả ngay sau khi công bố về chuyện tan rã của nhóm. Vốn là một fan ruột của ban nhạc này từ năm 1998, dĩ nhiên tôi cũng đã tự mua cho mình một vé xem liveshow ở London vào đầu tháng năm. Thế nhưng, nếu muốn xem buổi diễn này thì tôi sẽ phải trì hoãn chuyến đi thực địa gần hai tuần. Một điều mà những nhà bảo tồn nghiêm túc sẽ không bao giờ làm! Thầy Giuseppe đã nhìn tôi một cách rất nghiêm khắc, khi tôi cầm cái vé xem ca nhạc một cách đau khổ, cố gắng trình bày với thầy rằng thì là mà, tôi đã phải canh chừng giờ bán vé như thế nào để mua được vé chỗ đẹp, đã phải tiết kiệm tiền ra sao, và trên tất cả - đây là buổi hòa nhạc cuối cùng của Westlife! Nhưng dĩ nhiên ông thầy người Ý vốn dĩ chỉ yêu chuộng cà phê thượng hạng, nhạc thính phòng và dành cả đời để nghiên cứu về vượn cáo của tôi không thể nào hiểu được vì sao tôi lại nhiệt tình với một ban nhạc “vớ vẩn” sắp tan rã đến như thế! Cuối cùng thì sau ngày hôm ấy, tôi đã suýt khóc khi phải nhượng lại cái vé này cho một fan khác ở tận Manchester. Mấy đứa bạn tôi đã cười phớ lớ và an ủi tôi rằng đó là “sự hy sinh cao cả cho khoa học”. Còn thầy Giuseppe thì nói đó là “sự lựa chọn đúng đắn” để “sử dụng thời gian cho việc có ích hơn”. Điều cần làm ngay sau đó là phải đi tiêm chủng để phòng bệnh. Đây là một trong những điều bắt buộc dành cho những sinh viên nghiên cứu tại Anh để đảm bảo về sức khỏe khi đi thực địa. Đến Madagascar thì không cần phải tiêm phòng bệnh vàng da, nhưng vẫn phải tiêm chủng chống uốn ván, viêm gan A, viêm gan B và phòng dại. Bên cạnh đó tôi cũng phải đến phòng y tế của trường để xin thuốc uống chống sốt rét. Loại thuốc này thật rắc rối, vì mỗi ngày tôi đều phải uống vào một giờ nhất định. Và vì tôi đi ba tháng nên phải uống đủ lượng thuốc của bốn tháng (uống 2 tuần trước khi đi và 2 tuần sau khi về). Vì là con gái, nên chúng tôi cũng được khuyên rằng nên uống thuốc tránh thai. Một là nếu uống liên tục không nghỉ, thì chúng tôi có thể làm tạm mất kỳ nguyệt san trong vòng hai hoặc ba tháng khi đang ở trong rừng, mặc dù vậy tôi cũng phải nhấn mạnh rằng đây là do bất khả kháng vì nó không có lợi cho sức khỏe. Khỏi phải nói có tháng bất tiện như thế nào trong điều kiện không có nhà vệ sinh và nước sạch. Hai nữa là nếu có chuyện không hay xảy ra trong rừng, thì ít ra chúng tôi cũng vẫn được “bảo vệ” bằng cách này. Mời các bạn đón đọc Trở Về Nơi Hoang Dã của tác giả Trang Nguyễn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đảo Tường Vy - An Ni Bảo Bối
Một cô gái Trung Quốc làm một cuộc hành trình đơn độc qua Việt Nam, Campuchia, Hong Kong rồi Tây Tạng... Đi chỉ để nhìn thấy mình đang đi. Trong sắc màu của âm thanh, ánh sáng, mùi vị. Trong rực rỡ, xôn xao mà hoang vắng. Nhưng thật ra, khung cảnh ở mỗi chốn dừng chân ngắn ngủi của cuộc đời này đều không quan trọng. Khi mỗi chuyến đi là một sự trở về với nội tâm, một sự nhận biết mình và con đường nối với thế giới. Tình cảm thế gian ở đâu cũng như nhau và nỗi cô đơn của con người thì ở đâu cũng vậy. Nên đi, cũng là để nhìn thấy mình trong tất cả và tất cả trong mình. Du hành vì vậy cũng là bắt đầu cuộc phiêu lưu của tâm tưởng. Chuyến du hành của riêng tác giả còn là một hành trình soi lại ký ức. Ký ức trĩu nặng một tình cảm sâu sắc và dở dang, với BỐ. Có những khoảnh khắc như một nhát dao chém, vết thương còn lại mãi. Khoảnh khắc chuyển đổi từ thân phận này sang thân phận khác khi chấm dứt một kiếp luân hồi. Khoảnh khắc rơi vào tình yêu và giây phút giã từ. Những khoảnh khắc ấy, từ trang sách, ta bắt gặp âm thanh của nội tâm vang vọng chân thành. Đảo Tường Vy còn là một sự tìm kiếm chính mình trong tình yêu. "Tình cảm là bài học suốt đời của chúng ta", nên đây mới là chuyến du hành không có điểm dừng. Tình yêu dường như chỉ là ảo giác. Trong tình yêu, hoặc là an toàn, hoặc là tự do, không thể cùng một lúc nắm được cả hai, và "thứ mà chúng ta yêu vẫn chỉ là bản thân tình yêu". Có những tổn thương phải trả giá. Nhưng tình yêu mãi là một khát khao êm ả của con người, như nỗi khát khao của linh hồn cần một nơi cập bến. Tuy nhiên, linh hồn cứ mãi lang thang. Lang thang nên bất an thường trực. Tìm sự tĩnh tại thật dễ dàng mà cũng rất không. Triết lý về tình yêu và cuộc sống đan xen nhuần nhị trong những ghi chép nhỏ. Cuốn sách vì vậy đẫm một hương vị quyến rũ. Quyến rũ như bản thân những cuộc du hành và tình yêu. Trong nỗi trầm cảm ngọt ngào, sâu lắng, con đường đẹp nhất là con đường giúp ta tìm thấy mình. Từ một trái tim bình tĩnh, hơi thở mang chút u sầu cũng lấp lánh như một ánh nắng soi nghiêng và tươi mát như giọt mưa đầu mùa trong trẻo... Đọc An Ni Bảo Bối, tìm thấy một tâm hồn Á Đông gần gũi, khác lạ với những nhà văn nữ đương đại cùng thế hệ cô. Không có những nổi loạn, không có cái tôi căng phồng. Nhẹ nhàng và đằm thắm. Tĩnh lặng và kiềm chế. Và vẫn sáng trong trong những nhiệt thành. Có thể rồi bạn sẽ quên tất cả những gì tác giả viết, về một VN dịu dàng và trầm lắng qua cái nhìn của một cô gái nước ngoài, về những chốn dừng chân khác, về cuộc tình của cô. Nhưng hương vị đẫm sâu của một linh hồn đã đi vào trong bạn. Và ở lại cùng bạn, ủi an... Ngôn từ, rốt cuộc cũng không cần mô tả cho một cốt truyện nào. Dòng chảy tâm thức không thể dồn nén trong một cốt truyện. Từ ngữ, cũng chỉ là một cuộc kiếm tìm. Bạn có thể mượn nó để vỗ về một nỗi đau hay phơi khô một cuộc tình. Rồi thời gian cũng xóa nhòa, bạn chỉ còn lại mình. *** Thuỷ Tiên. Rất lâu, rất lâu sau, cô từng mơ về một người đàn ông. Mơ thấy anh nhờ người tới, kêu cô đi gặp anh. Cô đi theo người dẫn đường, hình như tới một thôn nọ, rất giống cái thôn nhỏ nằm sâu trong núi Giang Nam mà thời bé cô đã từng sống. Những lúc xuân về lại có gánh hát tới đình làng diễn. Nhưng mọi thứ nhìn thấy trong mơ chỉ là một cái sân khấu. Bên trên diễn những gì, không thể nhớ nổi. Chỉ nhìn thấy anh đứng xem lẫn trong đám người đang đứng dưới sân khấu xem hát. Anh quay lưng về phía cô, mặc đồ đen. Cánh tay trái bị thương vẫn chưa khỏi. Tuy không nói ra nhưng khiến người ta có cảm giác như thể vết thương cũ rất đau đớn. Anh vẫn có dáng như cô hằng yêu thích. Trầm lắng, kín đáo. Tuyệt đối không bao giờ thổ lộ với cô gái anh yêu về những thứ anh nghĩ. Quay người lại nhìn thấy cô, anh cũng không nói gì, mặt như thể hơi cười, nhưng cũng rất lặng lẽ. Rồi lách qua đám đông, định bỏ đi. Cô đi theo anh. Cô biết anh muốn cô đi theo, nhưng không nói ra. Cứ đi theo anh. Đi mãi tới một căn hộ xa lạ. Kết cấu của căn hộ này chỉ có một cửa, mọi lối đi trong đó đều thông nhau. Nhưng lại không nhìn thấy gì. Anh đi vào gian phòng bên trong, có rất nhiều người đang chờ đợi. Anh bắt đầu nói chuyện với họ, sắp xếp mọi việc. Như thể anh vẫn đang làm công tác cần lãnh đạo rất nhiều người làm việc. Cô chờ anh ở gian phòng bên ngoài. Cứ đợi mãi. Có vài chàng trai trẻ làm việc cho anh bước vào, cứ trò chuyện với cô, như muốn an ủi và cố gắng tạo nên bầu không khí vui vẻ. Nhưng anh mãi vẫn không chịu ra, cũng không nói với cô câu nào. Cô cố tình chờ ở đó. Lòng thầm nhủ, em sẽ đợi anh. Như một trò chơi. Cô nhắm sẵn anh. Em nhận ra ngay sự bạc nhược trong trái tim anh. Chỉ là xem anh chơi theo cách nào. Có nỗ lực, có tháo chạy, có cố chấp đều vô dụng. Cô không chủ động, không tiến lên, không thể hiện. Cô muốn so với anh, xem ai trầm mặc hơn. Ai thô bạo hơn ai. Sợ gì kết quả cuối cùng của cuộc thi, chỉ là quên lãng lẫn nhau mà thôi. Nhưng rốt cuộc vẫn là một việc quá sức. Thời gian để quên một con người có lẽ cũng lâu như khi nhớ tới. Và cuối cùng, những thứ mà bạn nhìn thấy được, vãn chỉ là sự tĩnh lặng của mình. Như thể chưa từng yêu. Mọi giới hạn đều quá mơ hồ. Ở bên trái. Cũng có thể bên phải. Thứ mà chúng ta yêu, vẫn chỉ là bản thân tình yêu. Có hay không con người đó đã không còn quan trọng. Trưa mùa Đông, cô một mình đi chợ hoa tìm mua thuỷ tiên. Mặc chiếc áo khoác đen, quần bò bẩn. Đội chiếc mũ len xanh, đi đôi giầy thể thao, đi một con đường rất dài trong ánh nắng yếu ớt và gió lớn hun hút. Trong chợ hoa có hương thơm và hơi ẩm ướt. Cô xọc tay vào túi áo khoác, lặng lẽ ngắm cậu thanh niên muốn về nhà ăn Tết, ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ cắt thuỷ tiên trong một chiếc làn lớn. Im lặng mãi, ngồi xuống bên cạnh ngắm. Cậu ta hỏi, Cô có thích chúng không? Cô gật đầu. Hỏi, Sao những chiếc lá này vàng thế? Cậu ta đáp, cho tắm nắng là ổn thôi. Cứ gặp ánh nắng, chúng tất xanh lại. Chà. Cô gật đầu. Chọn lấy bốn củ thuỷ tiên đã cắt sẵn. Xách thuỷ tiên ra khỏi chợ. Gió lớn lại ào ạt. Cô lấy khăn quàng che mặt, đợi xe bên đường. Trời tối rất nhanh. Mãi mới gọi được một chiếc tắc xi. Ngồi ở ghế sau, cô xoa lòng bàn tay lên gò má cứ đờ ra vì lạnh buốt. Củ thuỷ tiên nhô lên một chiếc lá bé xíu đã ngả vàng. Cô cúi xuống, khẽ hôn lên nó. Ngoài cửa kính xe đã bắt đầu có tiếng lộp độp nhè nhẹ. Là những hạt tuyết nhỏ. Sắp có một trận tuyết to dầy. Nhẹ hoặc nặng. Sau khi chia tay, không hề gọi điện cho nhau. Thỉnh thoảng có vài tin nhắn những mất hút rất nhanh chóng. Đó là kết cục mà cô có thể dự cảm và định sẵn. Chắc chắn sẽ là như vậy. Cô không bao giờ liên lạc với anh. Anh cũng không liên lạc với cô. Không phải dàn dựng. Chỉ thuận theo tự nhiên, đem hết những dấu ấn của nhau bị thời gian xoá mờ sạch sẽ. Những gì nhớ được đều chỉ vì muốn quên lãng. Họ là những người giống nhau. Y hệt nhau. Vì thế khi gặp ngay phút ban đầu, họ đã nhận được nhau và hiểu sự tồn tại giả tạo của sự nhận biết đó. Sau khi chúng ta chia tay. .... Mời các bạn đón đọc Đảo Tường Vy của tác giả An Ni Bảo Bối.
Những Phi Đội Bay Về Phía Tây - Anatôli Kôgiepnhicốp
A.L.Kozhevnikov sinh ngày 12 tháng 3 năm 1917 tại làng Bazaikha (nay thuộc thành phố Krasnoyarsk), trong một gia đình nông dân. Ông tốt nghiệp trường cao đẳng nông nghiệp Krasnoyarsk, làm việc như một nhân viên trắc địa trong quá trình  xây dựng nhà máy chế biến gỗ Krasnoyarsk. Kể từ năm 1938, tham gia Hồng quân Liên Xô. Năm 1940 ông tốt nghiệp khóa huấn luyện tại phi trường hàng không quân sự Bataisk và trở thành giảng viên. Từ tháng 6 năm 1941 Trung sĩ A.L. Kozhevnikov chiến đấu trong quân đội. Sau đó trở về trường hàng không quân sự Bataisk . Năm 1942, ông tiếp tục ra mặt trận chiến đấu. Vào tháng năm 1945, là  Trung đoàn phó trung đoàn cận vệ 212 (sư đoàn không quân cận vệ 22, tập đoàn không quân 2, phương diện quân Ukraina 1). A.L. Kozhevnikov đã thực hiện 211 phi vụ tấn công, trinh sát, yểm hộ máy bay ném bom, hỗ trợ  cho lực lượng bộ binh. Sau khi trải qua 62 trận chiến trên không, tự mình bắn hạ  25 máy bay kẻ thù và 2 cùng với các đồng đội. Phá hủy rất nhiều trang thiết bị khác nhau của  kẻ thù trên mặt đất. Ngày 27 tháng 6 năm 1945 ông đã được trao danh hiệu Anh hùng Liên Xô cho lòng can đảm và dũng cảm thể hiện trong các trận chiến với kẻ thù. Năm 1950 ông tốt nghiệp Học viện Không quân, năm 1958 - Học viện Quân sự Bộ Tổng tham mưu. Trung tướng Không quân. Tác giả của nhiều cuốn sách. Ông đã được trao Huân chương Lenin, huân chương Cờ đỏ (năm lần), huân chương Alexander Nevsky, huân chương Chiến tranh thế giới hạng nhất, huân chương Sao đỏ (ba lần); nhiều huy chương và giải thưởng của nước ngoài. *** Chúng tôi yểm hộ các hoạt động chiến đấu của bộ binh ở vùng Naumberg - Bunslau. Trong cuộc chiến tranh Vệ quốc năm 1812, nguyên soái Mikhain Illarionôvich Cutuzôp đã đến thành phố này. Ông cũng mất tại đây. Gần con đường nhựa có một ngọn đồi nhỏ, dưới chân đồi ấy đã chôn cất trái tim của người thống soái Nga vĩ đại. Những binh đoàn tăng và cơ giới đã qua đây hai ngày sau khi để lại cho những chiến binh ngọn lửa yêu nước của đất Nga. Bây giờ, họ nhanh chóng di chuyển về phía Tây, đập tan những phòng tuyến cuối cùng của phát xít. Chúng tôi lại xuất kích bay dọc phòng tuyến mặt trận khoảng 150km. Gần đấy không có sân bay bê tông xi măng nào, còn những sân bay đất thì lại ẩm ướt. Tuyến hành trình dài đến mục tiêu và bay ngược lại tiêu tốn quá nhiều thời gian. Dọc đường đi, gặp gỡ những biên đội hai chiếc "Metxersmit" và "Phôcke-Vulph", nhưng chúng tôi cũng không ham tiến hành những trận không chiến lâu, vì vậy những cuộc gặp gỡ với bọn chúng đều kết thúc bằng những trận đánh nhỏ. - Có lẽ, chiến tranh kết thúc đến nơi rồi, mà ngành Hậu cần của chúng ta không học được cách xây dựng sân bay cho nhanh, - Êgôrôp cau có. Hậu cần làm sao được? Một ngày đêm bộ binh tiến được 30 - 40km. Qua 3-4 ngày là mình đã ở sâu trong hậu phương rồi. Chúng ta chỉ tiếc rằng Hítle không xây dựng ở hướng này lấy vài sân bay tốt thôi. - Đến khi chiếm được sân bay mới, - tôi nói, - thì chúng ta phải sử dụng những thùng dầu phụ cho thận trọng. Đừng vội vã vứt chúng khi mới thấy địch xuất hiện, kẻo không lại không có đủ dầu liệu khi quay về. Chúng tôi nhận nhiệm vụ đi yểm hộ những phân đội tiền tiêu ở khu vực Lauban. Hành trình phải bay dọc tuyến trước. Dọc đường, chúng tôi gặp 2-3 biên đội hai chiếc "Metxersmit". Thấy chúng tôi chiếm ưu thế, chúng không muốn giao chiến. Chúng tôi cũng không thèm đuổi theo. Mục đích chính của chúng tôi là phải yểm hộ đơn vị tăng. Lauban đây rồi. Tôi nối liên lạc với đại diện không quân ở binh đoàn tăng, ngày hôm nay Rưbkin giữ nhiệm vụ ấy - đấy là thanh tra kỹ thuật bay. - Có thấy tôi không? - Rưbkin hỏi, cùng lúc thấy hai phát pháo hiệu bay vọt lên. - Tôi thấy rồi. - Người anh em ơi, hãy đến cứu bọn tôi đi, bọn Đức đã chia cắt đội hình chúng tôi rồi. Nhưng chúng tôi đang ở trên máy bay tiêm kích thì cứu giúp thế nào được đây? Cứu bằng cách nào tôi chưa nghĩ được. Còn Rưbkin, có lẽ đứng nhìn máy bay chúng tôi với sự ghen tỵ và hy vọng. - Hãy báo cáo qua đối không để "ông chủ" cử không quân cường kích đến đi, - đồng chí ấy đề nghị. - Dù chỉ là một phi đội thôi cũng được. Tôi ở đây sẽ dẫn dắt họ. Không thì gay go lắm. Tôi báo cáo qua đối không về sở chỉ huy những đề nghị của bộ đội tăng và nhận được câu trả lời: "Chúng tôi sẽ cử đến ngay. Cố gắng giữ vững". Trong khi ấy, chúng tôi phát hiện thấy một tốp lớn những máy bay "Phôcke-Vulph" đeo bom lặc lè. Rõ ràng là bọn chúng đến oanh kích đơn vị tăng của chúng ta rồi. Chúng mày không đến được đâu, bọn đểu giả ạ. Nhanh chóng chiếm vị trí có lợi, toàn đội hình của tôi lao vào tấn công bọn Đức. Bọn chúng vội vã vứt bom bừa bãi, nhưng rồi thấy có ưu thế về số lượng, chúng lại không rút lui khỏi chiến trường. Chúng tự do đánh thế nào tuỳ ý, điều ấy dẫn đến mất sự chỉ huy, điều hành. Chúng tôi thì ngược lại, hành động thống nhất hiệp đồng giúp đỡ lẫn nhau và giành được thế chủ động. ... Mời các bạn đón đọc Những Phi Đội Bay Về Phía Tây của tác giả Anatôli Kôgiepnhicốp.
Ký Ức Đông Dương - Tô Hoài
Bạn đọc đang cầm trên tay bản in mới nhất, đầy đủ và hoàn thiện nhất do chính bố tôi, Nhà văn Tô Hoài đọc và sửa chữa trước lúc đi xa một thời gian. Đã từ lâu từ khi cầm bút bố tôi là người cẩn thận và luôn có trách nhiệm với câu chữ nên mỗi bản in dù là in lại nhưng ông luôn đọc, cắt gọt, chỉnh sửa, “uốn nắn”, tỉ mẩn như người dệt vải. Khi ông trao lại cho tôi để xử lý nhập liệu với một bản thảo chi chít màu mực, chữ, từ, câu mà ông thêm bớt đan xen ngang dọc. Cha tôi là vậy, sự cẩn trọng, kỹ lưỡng trong nghề viết như mối nợ tình với ông. Các tập sách này xuất bản tôi xin ghi nhận và cảm ơn sự nhiệt tình, tâm huyết của các bạn ở Nhà xuất bản Văn học cùng công ty sách Phương Nam như một sự tri ân với cha tôi. Hy vọng bạn đọc sẽ đón nhận và hài lòng khi các tập sách này ra đời. Chân thành cảm ơn độc giả. Nguyễn Phương Vũ *** Cuối bãi biển Kép tỉnh Kam-pốt có một cái phố nhỏ nằm im trong hàng dừa - dừa Kép đã nổi tiếng đẹp, trông xa như một bức mành buông viền sát ngay bên bờ cát trắng mát. Đấy là những quán hàng bình thường cho khách chơi biển. Ở đấy, nhìn sang được Hà Tiên, trông thấy cả bóng dừa và cát trắng bên Hà Tiên, cũng như đây. Bỗng dưng tôi trông thấy Hà Tiên trong vòm cây mờ khói sóng vịnh Thái Lan một ngày chợt nắng rất hiếm hoi giữa mùa mưa Kam-pốt nặng nề. Đây đến đấy, ca-nô đi ngót một tiếng. Bóng dừa và mép cát mà tôi thấy kia là đảo Kim Dự, đó cửa vào Hà Tiên. Kim Dự này là núi chốt then Xanh xanh dựng đứng cửa Hà Tiên[1] Hà Tiên ở đầu kênh Vĩnh Tế có cảnh đẹp Tô Châu và hồ Đông. Tôi chưa bao giờ được đến những Đại Tô Châu, Tiểu Tô Châu, những hang Thạch Động và chơi trăng trên hồ Đông. Tôi chưa hề đi dạo dưới hàng dừa Hà Tiên nổi tiếng như dừa Kép, chưa lần nào được nghe, tiếng hát trong vườn hồ tiêu của người gái Hà Tiên đẹp đã nức lờí đồn đại. Tôi chưa có may mắn tới Hà Tiên. Nhưng văn chương quả là có thần đã làm cho cảnh với người bất tử và tuyệt vời, cứ khiến tôi những tưởng từ ngày nào đã biết: Bãi khói dưới không hương lạ bủa Hồ gương trong có gấm thêu rơi[2] Và ô hay, làm sao cứ vương vấn mãi với tâm hồn Nguyễn Cư Trinh man mác một đêm trăng rải hồ Đông: Đêm đến, ai mài giũa ra hai hòn sáng rõ Một cho nhà trời, một cho cõi nước Nước nói trời học đúc mâm bạc Trời ngỡ nước điểm trang trước gương ngọc[3] Mà đây về tới đấy, về tới Hà Tiên đất nước Tổ quốc tôi chỉ cách có vài mươi phút đường biển! Tôi đến ngồi một nhà hàng ngay bên một gốc dừa ngả xuống mặt biển, cho được trông thật rõ Hà Tiên. Hà Tiên với mình chỉ cách có một khoảng nước xanh này mà thôi nhỉ? Trước cửa nhà hàng, một người đàn bà Việt từ bờ bể xách một giỏ cua ghẹ lên đi về phía chúng tôi. Những con cua ghẹ lớn, mai xanh, thịt đặc biệt ngọt thơm. Trong vịnh Thái Lan, thì ở Kép, ở Hà Tiên hay ở Rạch Giá, đâu cũng có. Tưởng như ở đây, hay ở Rạch Giá, ở Hà Tiên lúc này đương mùa chơi mát trên bãi bể, cũng đều có người đàn bà và những em nhỏ xách giỏ cua ghẹ vẫn ngâm sẵn dưới bể, thấy khách lạ thì rón rén tới, ngọt ngào hỏi khách có mua không. Người đàn bà ấy quần áo đen, khuôn mặt hốc hác, lặng lẽ đến trước mặt tôi. Đôi mắt ngơ ngác lo âu. Biết đâu đây chẳng phải là một người đàn bà vốn dĩ hiền lành, một người mẹ của cô gái Hà Tiên trong vườn hồ tiêu nào đó, xưa nay chỉ biết có nghề bán cua bờ biển, thế mà cũng phải bỏ quê Hà Tiên, quê Rạch Giá, vừa trốn khỏi một cái ấp chiến lược nào đó, chạy đi, đành sống tha hương. Cái tiếng nói nhỏ nhẹ, thanh thả của các chị, các em Nam bộ, cái tiếng nghe thương nghe nhớ, như trưa nghe tiếngầu... ơ, ví dầu... êm ái ru con một ngày rất xa rồi, đã bao nhiêu năm nay, một làng vắng vẻ đầu rừng miền Đông. Tôi bỗng rưng rưng dại cả người và nghẹn ngào. Những ngày này tôi đương trên đường xuống miền Nam Cam-pu-chia, mỗi bước đi cũng mỗi nhích gần về miền Nam đất nước tôi. Trong không khí, có một cái gì náo nức và bí mật và thiêng liêng nữa. Như ở những ngày cuối năm sắp qua năm mới, như sắp gặp ai quen. Sự mong ngóng bồn chồn, thần bí, không cắt nghĩa được. Quả là tôi đương có cảm tưởng tôi sắp gặp ai, nhưng thật là ai thì không làm sao nghĩ ra. Trước kia, tôi cũng có những người quen đến làm ăn ở đất Cần Vọt này. Nhưng bây giờ sắp gặp ai đây, thì lại không phải từ xa xôi những khuôn mặt cuộc đời nghèo khó ngày cũ của tôi hiện trở lại. Thế thì gặp ai, tôi chịu không nghĩ ra. Mà chỉ cứ phảng phất người nào mình quen biết, không hẹn mà sắp gặp cũng nên. Mỗi bước đi, mỗi bước đưa dần cái mong ước gặp gỡ lại. Tôi bắt đầu nhìn kỹ người đi trên đường. Tôi ngắm những nếp nhà tranh sơ sài của những đồng bào Nam bộ của tôi bỏ quê lên đây nương náu. Ở chợ, tôi ngơ ngác chờ, tìm nghe một tiếng nói của người mình. Tôi trông mặt, tôi đoán dáng, đoán vóc người. Nhưng rồi chẳng gặp. Nhưng rồi lại hy vọng, lại tưởng sắp gặp. Không, không gặp ai đâu, nào tôi có gặp ai đâu. Ấy chỉ là một nỗi tơ tưởng, khát khao đất nước quê hương mình mà mỗi bước anh đi đương mỗi lúc một gần lại, thì đất nước quê hương anh lại hiển hiện như đứng lên cho anh sắp thấy mặt, anh chỉ sắp được thấy mặt mà thôi. Thế là thế nào? Lý trí và lương tâm con người bình thường và ngày tháng không thể yên lòng hiểu như thế được, có phải vừa một năm trước đây, tôi có dịp ra Hải Ninh. Từ bờ biển Trà Lộ ra, tôi đi trên mỏm đầu chữ S ven biển Tổ quốc trông sang đất Trung Quốc, không một bỡ ngỡ, rồi đặt chân sang đây cũng không một chút bỡ ngỡ. Thế mà hôm nay tôi phải đành ngồi bên ngoài cái mỏm cuối chữ S ven biển Tổ quốc chấm đậm bằng cái chấm Hà Tiên kia, nhìn sang mà không đến được, mà chưa đến được. Tôi ngồi đây, nghĩ các bạn Cam-pu-chia thiệt quý khách, đã giúp tôi đi trong nhân dân và trên đất nước bạn, chí tình và tôi cũng không có cảm tưởng một chút ngỡ ngàng, nhưng cứ nghĩ thế thì, cái đau Bắc Nam một dải bị chia cắt cứ càng ngấm lại càng đau và càng rõ không để yên cho cái vô lý ấy tồn tại được. Tôi vẫn ngồi đây, ở quán nước cuối bãi Kép mà thấy Hà Tiên xanh xanh lùm cây thưa trải dài trên mặt biển, mỗi lúc nhìn một bồi hồi: Hà Tiên đấy. Ta phác một đường tay trái đi lên, theo kênh Vĩnh Tế từ Hà Tiên sang Châu Đốc rồi suốt Tịnh Biên, Hồng Ngự, Tân Châu đến tận các chợ Trời bây giờ nhan nhản ở Gò Dầu Hạ. Tôi không thể tả được những sôi nổi, đau đớn, chấn động trong lòng khi tôi lại nhìn theo tay phác lên kia. Quê hương tôi kia, mà không đến được! ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Đông Dương của tác giả Tô Hoài.
Một Cơn Gió Bụi - Trần Trọng Kim
Năm 1949, khi tác giả còn sống, nhà xuất bản Vĩnh Sơn (Sài Gòn) đã xuất bản cuốn hồi ký này. Việc xuất bản cuốn hồi ký Một cơn gió bụi vào trung tuần tháng 4/2017 vừa qua đã cung cấp thêm cho bạn đọc những trang sử liệu giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, mà Trần Trọng Kim là một nhân chứng lịch sử quan trọng. Cuốn hồi ký gồm 12 chương, mỗi chương kể về một giai đoạn cuộc đời tác giả với những sự kiện gắn kết với nhau và không tách rời bối cảnh lịch sử Việt Nam khi đó. Sử gia Trần Trọng Kim (1882 - 1953), bút hiệu Lệ Thần, quê xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân là nhà giáo, tốt nghiệp Sư phạm ở Pháp (1911), về nước dạy học tại trường Trung học Bảo hộ (Trường Bưởi, nay là trường THPT Chu Văn An - Hà Nội). Trần Trọng Kim là Thủ tướng đầu tiên Nội các độc lập của Đế quốc Việt Nam. *** Khi tôi về Sài gòn, trong lưng chỉ còn có 20 đồng bạc Ðông Dương. Ông Cousseau thấy vậy có đưa tiền, nhưng tôi không lấy. Sau tôi gặp những người quen biết có giúp đỡ ít nhiều để mua thuốc thang và may vá lặt vặt. Tôi đến nhờ ông cử Bùi Khải, ông vì tình anh em, tiếp đãi một cách thành thực và tử tế, các cháu đều hết lòng kính mến. Nhưng vì cả gia quyến bốn năm người đến ở đấy lâu ngày, ăn không ngồi rồi, nghĩ cũng khó coi. Con gái tôi biết tiếng Anh, có nhiều người muốn học, định đi thuê nhà để dạy học, nhưng không thuê được nhà. Sài gòn cũng như ở bên Tàu, cái nạn khan nhà thật là điêu đứng. Muốn thuê một cái nhà nhỏ, ít ra cũng phải trả tiền trà mất một vài vạn bạc, thì lấy tiền đâủ Sau hai vợ chồng con tôi gặp những người quen nói ở trên Nam Vang, bên Cao Miên, cơm gạo rẻ và dễ thuê nhà, chúng nó mới xin giấy lên Nam Vang. Lên ở nhà khách sạn được mấy ngày chẳng may con tôi bị bỏng suýt chết. Nhờ có những người quen biết trông nom giúp đỡ nên không việc gì. Nhà ở Nam Vang lại có phần khó thuê hơn ở Sài gòn, thành ra nhà vẫn chưa thuê được, con tôi phải về ở nhà ông Phạm Chí Tùng trong khi chờ đợi có nhà ở. Ông Phạm Chí Tùng là người rất hiền hậu, thấy con tôi lên ở nơi xa lạ, hết lòng giúp đỡ, coi như anh em trong nhà vậy. Con tôi đi Nam Vang chờ đến ba tháng, nhờ ông Pignon can thiệp mấy lần, hội đồng coi việc nhà cửa mới thuê cho được một căn nhà, mở lớp dạy học tiếng Anh, lần hồi cũng đủ ăn tiêu. Tôi ở Sài gòn, có cóp nhặt những sách của tôi, định tìm nhà xuất bản cho in lại. Lúc ấy tôi gặp ông Trần Văn Văn đến thăm tôi. Khi tôi ở Huế, ông có ra làm việc ở bộ kinh tế với ông Hồ Tá Khanh, cho nên đã quen từ trước. Ông thấy tôi ở trong cái hoàn cảnh rất eo hẹp, ông liền cho tôi vay một món tiền khá lớn và ông nhận việc tìm nhà xuất bản để in những sách của tôi. Trong lúc nguy nan, gặp được người bạn như ông Trần Văn Văn đến thăm tôi thật là ít có. Ấy cũng là một sự may mắn, nhờ trời dun dủi làm cho đỡ được bao nỗi đau buồn khổ não. Vào khoảng tháng chín năm 1947, thì cậu Bùi Nam, anh em nhà tôi ở Hà Nội vào Sài gòn thăm chúng tôi, biết rõ tin tức người nhà. Lúc ấy nhạc mẫu tôi đau nặng chưa biết thế nào, cậu Nam được tin vội vàng ra ngay, ra đến nơi buổi trưa, thì buổi chiều mẹ tôi mất. Tình mẹ con, nỗi đau đớn, nhà tôi rất sầu khổ. Cái sầu khổ lúc ấy lại có phần tăng thêm là vì phải khi loạn lạc, mình phiêu lưu ở đất khách quê người, không thấy được mặt mẹ trong phút cuối cùng. ... Mời các bạn đón đọc Một Cơn Gió Bụi của tác giả Trần Trọng Kim.