Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vỡ Tổ

Lời giới thiệu của bản tiếng Anh Cuốn tiểu thuyết ngắn Vỡ tổ (tựa tiếng Anh là The Broken Nest hay Nashtanir theo tiếng Bengal) của Rabindranath Tagore ra mắt lần đầu năm 1901 và được đăng nhiều kì trên tờ tạp chí Bharāti [1] . Năm 1909, ông đưa truyện này vào một tập truyện ngắn chọn lọc, và năm 1926, lần đầu tiên Vỡ tổ có mặt trong tuyển tập chính thức các tiểu thuyết ngắn của ông. Bản này là bản dịch tiếng Anh đầu tiên của tác phẩm. Việc The Broken Nest chậm đến với bạn đọc phương Tây như vậy vừa lạ lùng vừa đáng tiếc, vì đây là một trong những tác phẩm hư cấu hay nhất của Tagore. Cuốn truyện lại càng nổi bật hơn nữa vì lần đầu tiên nó xuất hiện bằng tiếng Bengal tại một thời điểm mà truyện ngắn hiện đại như một hình thức văn học đặt ra những câu hỏi sâu xa mà không nhất thiết đưa ra câu trả lời, một thể loại tương đối mới cả ở Ấn Độ lẫn phương Tây. Trong lúc đó, tiếng Bengal đang có nguy cơ thất bại trong cuộc đấu tranh để được thừa nhận như một phương tiện ngữ ngôn văn học nghệ thuật nghiêm túc. Giải thích lí do cho cuộc đấu tranh này và vai trò của Tagore trong đó sẽ cho thấy rõ ý nghĩa văn học và lịch sử của The Broken Nest . Vào đầu thế kỉ 19, văn xuôi Bengal thực ra không tồn tại. Tiếng Bengal chắc chắn là ngôn ngữ nói hằng ngày ở Bengal, nhưng nó không được xem trọng cả trong đời sống lẫn văn học. Người Thổ Nhĩ Kì xâm lược Ấn Độ vào cuối thế kỉ 12 đã mang theo họ tiếng Ba Tư, mà người Ấn thấy dễ học hơn tiếng Ả Rập. Cho đến năm 1834, khi tiếng Anh chính thức thay thế, tiếng Ba Tư vẫn là ngôn ngữ chính của chính phủ và bộ máy hành chính. Thực ra sau năm 1800, Sankrit, tổ tiên của tất cả các ngôn ngữ Ấn Âu, không có đối thủ nào đáng kể ở Bengal, trở thành một phương tiện có uy tín để biểu đạt văn học, triết học và tôn giáo. Tuy nhiên năm 1801, một nhà truyền giáo người Anh tên là William Carey đã đề xuất một chương trình ngôn ngữ tại trường Cao đẳng Fort ở Calcutta, một trung tâm đào tạo nhân viên cho công ty Đông Ấn Độ, nhà cai trị trên thực tế ở Ấn Độ. Chương trình của Carey ban đầu không có ý định dạy tiếng Anh cho người Bengal, mà dạy tiếng Bengal cho những người Anh được bổ nhiệm điều hành công việc tại các công ty ở những vùng xa xôi hẻo lánh. Vì lợi ích của các học sinh này - những thường dân được huy động từ London và Edinburgh, các thành phố công nghiệp ở miền Trung và các làng mạc miền Nam nước Anh, Carey và những cộng sự người Bengal của ông đã sử dụng trong một quá trình thử và sai thô sơ nhưng hiệu quả những công cụ này cho một thứ văn xuôi-viết tiếng Bengal đã được chuẩn hóa: những cuốn sách ngữ pháp, tự điển, những qui tắc cú pháp và một hệ thống chấm câu thống nhất. Việc giáo dục văn học Anh không phải là một phần dự tính trước của chương trình này. Các tác phẩm mà Carey và các cộng sự của ông chọn ban đầu để dịch sang tiếng Bengal vì nội dung đạo đức và mô phạm hơn là những giá trị cổ điển của chúng về văn chương. Nhưng những thanh niên Bengal này, và nhiều người khác giống như họ, đang theo học ở những trường như Cao đẳng Hindu ở Calcutta, đã bắt đầu cảm thấy họ bị cách biệt quá lâu khỏi phần còn lại của thế giới. Vì vậy, họ thôi thúc các đồng sự người Anh nói về văn học Anh, dạy họ về lịch sử của nền văn học này, bày cho họ cách viết những bài xon-nê và những tiểu thuyết lịch sử. Đối thủ chính đầu tiên của Sankrit đã xuất hiện. Cuộc cạnh tranh này có những khía cạnh tâm lí và văn chương. Năm 1835, Thomas Babington Macaulay xoay được một quyết định của chính phủ, chấp thuận việc dùng tiếng Anh để giảng dạy trong các trường học ở Ấn Độ. Sau năm 1844, chính phủ qui định Anh ngữ là điều kiện cần thiết trong việc tuyển dụng người Bengal. Nhiều người trong số những người Bengal này kết luận rằng việc tinh thông ngôn ngữ và cung cách của người Anh là những nấc thang đến thành công, và họ bắt đầu vứt bỏ một cách hệ thống tất cả những gì của Bengal, kể cả tiếng mẹ đẻ của họ. Kết quả thường là đau xót hơn khích lệ, và những kẻ thực nghiệm chỉ khiến bản thân họ trở thành lố bịch trước mắt những người mà họ khao khát gây ấn tượng nhất. Những người Bengal khác, trong đó có Tagore của Calcutta, không chấp nhận kiểu thích nghi mù quáng với lối sống phương Tây. Trái lại, họ đi tìm những cách có tính xây dựng, thoả mãn để kết hợp cái mới và cái cũ. Họ hiểu biết tường tận văn học cổ điển Sankrit, nhưng họ cũng say sưa với sự huy hoàng và sôi động của văn học cổ điển Anh. Họ thống nhất hai truyền thống đó trong câu trả lời cho sự thôi thúc ngày càng mạnh khi tiến lên thế kỷ phía trước, sự thôi thúc củng cố một bản sắc văn học “không Sankrit” cũng “không Anh”, hiện đại nhưng không giả Anh, một bản sắc độc đáo, nhấn mạnh tinh thần Bengal. Còn có gì gắn bó mật thiết với ý thức về bản sắc cá nhân hơn là tiếng mẹ đẻ? Các nhà văn bị lay động bởi sự thôi thúc mới này bắt đầu dùng tiếng Bengal trong những thí nghiệm của họ với các hình thức văn học mới du nhập từ phương Tây: Tiểu thuyết, truyện ngắn hoạt kê, tiểu luận theo sự kiện, bình luận báo chí. Lúc này, cuộc đua tranh không phải giữa tiếng Sankrit và tiếng Anh, mà giữa tiếng Anh và tiếng Bengal, và nó hoàn toàn chưa ngã ngũ khi Tagore bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên của ông, có thể gọi là thật sự hiện đại, vào đầu những năm 1890. Đó là thành quả của những năm ông sống ở miền Đông Bengal, cai quản điền trang của gia đình. Tại đó, lần đầu tiên ông quan sát những chotoloc , những người ‘dân quê nhỏ bé’ của Bengal. Những câu chuyện của ông thời kỳ này tràn ngập cảm giác cay đắng về bi kịch của những con người bị lãng quên, thấp cổ bé miệng, vô danh, dưới sự thống trị của những thế lực kinh tế và chính trị cực kì xa cách, khó hiểu. Lấy những tiêu chuẩn ngày nay về phê bình tiểu thuyết để đánh giá thì nhiều truyện ngắn trong số này bị coi là yếu về kết cấu. Cái “tác động duy nhất” mà Edgar Poe nêu lên làm tiêu chuẩn cho một truyện ngắn hay thì thường bị hỏng vì những đoạn lạc đề, những kết thúc lỏng lẻo, và nhiều chỗ tác giả nhảy vào để thuyết giáo. Nhưng nói cho công bằng, những truyện hay nhất của Tagore trong những năm 1890 là một thành tựu tuyệt vời, chúng chứng tỏ rằng tiếng bản xứ Bengal và những sự kiện hằng ngày trong cuộc sống của những người dân vô nghĩa có thể kết hợp để tạo ra những tác phẩm văn chương mang tính nghệ thuật cao. Những người đàn ông, đàn bà và trẻ con tầm thường vô nghĩa, không phải những nhân vật anh hùng ca, là động lực chính trong các truyện hay nhất của Tagore. Trong tất cả những yếu tố của tiểu thuyết như nhân vật, bố cục, cốt truyện, chủ đề, Tagore nhấn mạnh vào nhân vật. Bằng những gì họ nói và làm, hay những gì họ không nói và không làm, bản thân các nhân vật không chỉ tạo nên những sự kiện bên ngoài, trong những thời gian và địa điểm đã định, mà còn ghi lại những diễn biến không nhìn thấy và thường không ngờ tới, trong trí óc và tâm hồn họ. Sự chú ý này đến các chi tiết tâm lí làm cho The Broken Nest thành một tiểu thuyết ngắn hiện đại. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp của ba nhân vật: Bhupati - một người Bengal tuổi trung niên, Charulata - vợ anh, và Amal - em họ anh. Họ là những cư dân giàu có, nhàn rỗi của Calcutta, thành viên của Bhadralok , “những người có văn hóa” của Bengal, bắt kịp theo dòng ảnh hưởng của phương Tây; bắt kịp, nhưng theo sự phân tích cuối cùng là kém hiểu biết. Sự kém hiểu biết của họ là nguyên nhân chính của thế lưỡng nan về lịch sử, và cảm xúc của ba nhân vật này cũng là của toàn Ấn Độ trong bước ngoặt thế kỉ 19. Tagore đã cho chúng ta một bức tranh có tính giai đoạn nhưng đồng thời là phi thời gian, vì câu chuyện của Bhupati, Charu và Amal là câu chuyện về phản ứng của con người trước những biến động xã hội và trước sự khám phá đột ngột những thế giới mới của tưởng tượng. Bối cảnh của The Broken Nest là một ngôi nhà chung của nhiều gia đình, tương tự với ngôi nhà mà ở đó Tagore đã lớn lên. Ông biết tất cả những cái hay cái dở của kiểu nhà như thế, bao gồm nhiều nhánh của một gia tộc sống dưới một mái nhà, dưới quyền hành và sự bảo trợ của người cha hoặc người anh cả. Hệ thống này có vẻ cổ lỗ và tỏ ra khó đứng vững trong một thời đại thành thị hóa nhanh chóng, nhưng trong thế kỉ 19, nó giúp củng cố cơ cấu xã hội và thường cách xa điểm tan vỡ khi thực dân phương Tây đổ vào Ấn Độ qua ngả Bengal. Các gia đình duy trì những kiểu nhà như thế nhằm tìm kiếm một sự an toàn thật sự, cả về tài chính và tâm lí. The Broken Nest là một bi kịch gia đình, nhưng hiện thực chính trị bao trùm lên toàn bộ câu chuyện. Ngay ở câu thứ hai, Tagore đã ám chỉ một cách hóm hỉnh thực tế này khi ông nhận xét rằng Bhupati không phải làm việc để kiếm sống vì anh có nhiều tiền và vì anh sống ở một xứ nóng. Có lẽ những người sống ở xứ nóng sống được vì dễ dàng nhặt quả chín từ những cái cây gần nhất, nhưng phía sau đó mỉa mai, nhắc nhở đến việc hành nghề báo chí của Bhupati có tham dự vào chính trị, cho thấy bầu không khí chính trị của Ấn Độ cũng nóng như khí hậu vậy. Đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ được tổ chức năm 1885, và các lãnh đạo của Đảng đại diện cho các tầng lớp trung lưu mới, hướng theo những tư tưởng phóng khoáng của Anh. Vào thời gian Đại hội lần thứ ba họp năm 1887, thấy rõ tinh thần phục hưng đạo Hindu đang lớn dần lên chống lại ảnh hưởng của Anh. Các nhà cai trị quen nghĩ về Ấn Độ như một đất nước bị đúc khuôn bởi nền văn hóa Mughal [2] và về đạo Hindu như một tôn giáo tiêu cực nếu không phải là lỗi thời, sẽ giật mình khi thấy họ đứng trước một con phượng hoàng vươn lên từ đống tro tàn chưa bao giờ nguội lạnh. Cả những người ôn hoà trong Đảng Quốc Đại lẫn những nhà cai trị người Anh đều hoảng hồn vì những tổ chức khủng bố bí mật nổi lên ở Bengal và nhiều nơi khác tại Ấn Độ. Các quan chức vội vàng áp dụng những biện pháp hạn chế, nhưng đó chỉ là những vận động thử cho mưu đồ của phó vương Lord Curzon, nhằm chia tách Bengal vào năm 1905. Thực ra, việc chia tách đã là một vấn đề nóng bỏng trong vài năm trước thời điểm 1901, vì tỉnh này quá rộng để cai trị một cách hiệu quả. Vấn đề của chia tách là chính sách biên giới đang “nổi lên dữ dội” mà Bhupati, nhân vật chính của Tagore phải lo lắng trong phần đầu của câu chuyện. Khi Nashtanir được xuất bản năm 1909, sự phản đối chống lại sắc lệnh năm 1905 của Curzon không hề giảm xuống, và tính thời sự của câu chuyện vẫn còn nóng hổi. Có lẽ Lord Curzon chắc chắn đã hi vọng đóng vai Hercules và phá hoại tinh thần dân tộc bằng cách chia tách. Ông ta đã không thành công như Hercules, vì dùng chia tách để kiềm chế sự bất bình của những người Bengal khác nào dùng những lời chửi bới thô tục để chinh phục Hydra [3] , và có một thời gian phe Ôn hòa và phe Quá khích đã đoàn kết về vấn đề này. Một dòng thác lũ ngôn từ, thật đúng vậy, đã giúp cho Bengal trở thành chướng ngại và phiền hà hơn với người Anh. Những người dân tộc chủ nghĩa Bengal và Ấn Độ đã nhanh chóng nhận ra rằng việc Macaulay năm 1835 ủng hộ giảng dạy tiếng Anh ở Ấn Độ đã tặng cho họ một phương tiện lý tưởng để vượt qua các hàng rào ngôn ngữ trong nước. Từ Cape Comorin đến Himalaya, người Ấn Độ nỗ lực sử dụng tiếng Anh trong các cuộc mít-tinh, trong phát biểu ý kiến và trong ấn phẩm báo chí. Trong The Broken Nest, sự nghiệp báo chí của Bhupati phần nào biểu lộ thứ tình cảm dân tộc mới này. Nhưng tính khí và học vấn của anh chàng Bhupati ngây thơ, tốt bụng ít thích hợp hơn ai hết để đối phó với thực tế của báo chí chính trị. Tờ báo của anh là một thứ đồ chơi của anh. Tagore nhân từ đã không để độc giả thưởng thức những mẫu văn xuôi làm báo của Bhupati, nhưng có thể suy đoán mà không sợ sai rằng Chính phủ Ấn Độ chẳng hề thấy trong đó có mối đe dọa nào cho Đế quốc. Việc Bhupati dính với tiếng Anh gắn liền với một khía cạnh khác của mối quan hệ văn hóa giữa Ấn Độ và Anh quốc: Đó chính là sự hồ hởi thật sự và cảm giác tự do đến từ cái nhìn lướt qua thế giới mới của một ngoại ngữ. T.S Eliot đã nói về nhân cách bổ sung mà chúng ta có được nhờ học một ngôn ngữ khác, thậm chí chỉ cần nắm được kết cấu và ngữ điệu của nó là đủ, và những xúc cảm mà thơ ca của nó chuyên chở [4] . Nhiều người Ấn Độ đã học để đọc được, tuy chưa hoàn thiện. Shakespeare và Shelley, Byron và Browning, đã say mê với tinh thần Tây phương mà trước đó họ chưa có trải nghiệm gì. “Nó đã đánh thức chúng tôi,” - Tagore nhớ lại, “và làm cho chúng tôi sống động hơn.” [5] Mặc dầu tiếng Bengal chưa đạt được đến tầm văn học, nhưng nghiên cứu văn học đã có uy tín ở Bengal trong nhiều thế kỉ. Những người thông thạo văn học cổ điển và các qui tắc tu từ được coi như những người canh giữ văn hóa quan trọng của Bengal. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi cho rằng người Bengal đã lĩnh hội các tài liệu văn học Anh một cách dễ dàng và nhiệt tình, nếu không muốn nói là luôn luôn tuyệt đối chính xác. Trong truyện, Tagore đã châm biếm một cách sâu cay sự yếu kém về kiến thức văn học của họ bằng cách nhắc đến một nhà phê bình văn học Bengal khi gọi Amal là “Ruskin của Bengal.” Bất kì ai đưa ra một sự so sánh như thế rõ ràng là biết quá ít về các tác phẩm của Ruskin, tuy có nắm được những khái niệm của Ruskin. Cảm giác của ông về quá khứ có sức kêu gọi mạnh mẽ những người Bengal đang hi vọng tạo nên một dấu ấn mới về bản sắc cá nhân và dân tộc như thời hoàng kim trong quá khứ của Bengal trước khi người Anh đến, trước cả Mughal. Hoàn toàn đúng với tính cách của Bhupati khi anh muốn chuyển từ báo chí sang văn học, đọc Tennyson và Byron đồng thời với đọc Bankimchandra Chatterji, những người đương thời lớn tuổi hơn Tagore, những người đến nay vẫn còn được gọi là Walter Scott của Bengal. Bhupati vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được những hệ lụy từ cuộc xâm lăng văn học này của người Anh, nhưng làn gió mới của phương Tây đã khiến anh bồn chồn không yên đồng thời mang đến phương hướng cho cuộc đời vô mục đích của anh. Nhận xét của Eliot về lợi ích của việc biết ngoại ngữ đi kèm với một lời cảnh báo: người ta không bao giờ được chìm đắm vào một ngôn ngữ khác đến mức mất đi khả năng nghĩ và cảm bằng tiếng mẹ đẻ. Việc Bhupati mê đắm tiếng Anh đã khiến anh lơ là việc nhà và những gốc rễ văn hóa. Anh đã bỏ rơi cả người vợ lẫn tiếng mẹ đẻ và sau đó phát hiện ra rằng anh lênh đênh trôi dạt đến mức không thể tìm đường trở về với một trong hai điều đó. Anh chưa học đủ để theo chân những người tìm nơi trú ẩn trong Sankrit cổ điển, và anh không có đủ trí tưởng tượng để nối gót những người, giống như Tagore, quay trở về với việc mô tả hiện thực Bengal hoặc bất cứ thứ gì họ quan sát thấy trong cuộc sống hằng ngày. Amal và Charulata thì may mắn hơn, ít nhất ở khía cạnh này. Khi họ bắt đầu theo đuổi văn chương, Amal bắt chước những nhà văn cổ điển tiếng Sankrit. Tu từ của cậu quá lố và những ẩn dụ của cậu ngớ ngẩn, nhưng ít nhất, cậu còn cố gắng vay mượn phong cách và những biểu tượng của các nhà văn lớn trong quá khứ. Charu trong sự đơn giản của nàng, vô tình gia nhập vào chủ nghĩa hiện đại và viết bằng ngôn ngữ thông dụng thường ngày những sự việc hằng ngày. Việc Charu đứng ngang hàng với những người hiện đại là một trong những điều trớ trêu của The Broken Nest . Sự phụ thuộc của nàng vào ngôn ngữ thông tục và những sự kiện bình thường là kết quả tự nhiên của vai trò phụ nữ trong một hệ thống gia đình khiến chúng ta ngạc nhiên về bất cứ điều gì ngoài tính hiện đại. Giống như phần lớn những vùng đất phải trải qua một thời kì nào đó trong lịch sử dưới sự thống trị của chính quyền Hồi giáo, Bengal đã áp dụng nhiều qui ước của đạo Hồi, đòi hỏi phụ nữ ở những giai cấp xã hội nhất định phải sống qua tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của họ bên trong những căn phòng riêng tách biệt của ngôi nhà. Từ Urdu thông dụng zenana vẫn còn để biểu thị khu vực phụ nữ ở [6] . Tagore dùng từ Bengal antahpur , được dịch là “bên trong của ngôi nhà.” Khu vực này được chia thành các phòng hay các nhóm phòng được giao cho các nhánh của gia đình. Đàn ông gặp gỡ vợ mình chỉ trong bữa ăn hoặc ban đêm, việc tiêu quá nhiều thời gian ở đây trong ngày làm sinh ra những sự chỉ trích và ngồi lê đôi mách. Một người phụ nữ không ra khỏi antahpur . Nếu cô ta muốn nói chuyện với các thành viên là đàn ông trong gia đình, cô ta sẽ sai một người đày tớ đưa lời nhắn hoặc thu hút sự chú ý của họ như Charu thu hút sự chú ý của Amal bằng cách vỗ tay hoặc lắc chùm chìa khóa mà họ buộc vào sari cho kêu leng keng. Một bộ qui tắc hành vi ứng xử được qui định rõ ràng, đặt ra khuôn mẫu cho những mối quan hệ trong những gia đình như thế. Một người vợ Hindu chính thống không bao giờ nói với chồng hoặc nhắc về chồng bằng tên riêng của anh ta, cô nói về anh là “chồng tôi” hoặc dùng dạng kính trọng của đại từ này hoặc dạng tương ứng của động từ. Bhupati gọi vợ là “Charu” nhưng nàng không bao giờ gọi anh là “Bhupati”. Amal là em họ ở quê của Bhupati và là thành viên của gia đình khi theo học trường cao đẳng ở Calcutta, được coi như người con nhỏ trong gia đình. Với cương vị như thế, cậu có thể đến và đi khỏi antahpur một cách tự do, tại đó cậu được những người phụ nữ bà con nuông chiều hết mức. Chị dâu và em họ trong lứa tuổi của cậu được phép là những bạn tâm tình. Tuy nhiên không bao giờ Amal gọi Charu bằng tên riêng. Nàng lớn hơn cậu một hoặc hai tuổi và hơn nữa nàng là bà chủ nhà. Cậu gọi nàng là “Chị dâu” hay “Chị”. Cậu cũng không gọi Bhupati bằng tên, cậu gọi “Anh” và dùng từ d ā d ā , một từ thương yêu và kính trọng đối với người anh. Việc dùng những tiếng như “anh”, “chị” trong những gia đình hỗn hợp thường làm những người không phải Ấn Độ nhầm lẫn. Một người Bengal khi bắt buộc phải giải thích tại sao con của bà cô có thể là anh em với anh ta, thường trả lời, “À, anh ấy không phải là anh ruột tôi đâu. Anh ấy là anh họ tôi.” Do đó, Bhupati trong quan hệ với Amal là vai anh họ, và Charu là chị dâu (họ). Qui ước xưng hô này trong tiếng Bengal được điều chỉnh một cách tế nhị. Nó cung cấp những từ ngữ mô tả rõ ràng về xưng hô và sự phân biệt giữa những người họ hàng già hơn hay trẻ hơn, họ nội hay họ ngoại. Nhưng mẫu đời sống thật sự có ý nghĩa đối với những người phụ nữ sống trong ngôi nhà của Bhupati ở Calcutta được thể hiện ở cách Tagore dùng một từ không liên quan gì đến tính trang trọng trong xưng hô. Từ quan trọng ấy là shangsh ā r . Nó được dùng lặp lại nhiều lần trong Nashtanir . Nó có thể có nghĩa là “thế giới”, “những công việc trần tục, vật chất”, “việc nhà, nội trợ” hay “gia đình” và được dịch bằng nhiều cách khác nhau tùy theo ngữ cảnh. Dù ở ngữ cảnh nào trong câu chuyện này, những nghĩa rộng của từ shangsh ā r đều mang sắc thái mỉa mai, vì từ này nhấn mạnh rằng phần của phụ nữ trong một ngôi nhà như thế này là một thế giới nhỏ bé chật hẹp, mà lí do tồn tại của họ là phục dịch và dâng hiến cho những thành viên đàn ông của gia đình. Đối với những phụ nữ như thế, shangsh ā r - “thế giới” hoàn toàn tương đương với shangsh ā r “nội trợ”. Người phụ nữ có thể đôi khi đột nhập vào thế giới bên ngoài, nhưng ước lệ này đã được qui định chặt chẽ. Khi Charu đến thăm một gia đình khác, nàng phải đi trên chiếc xe ngựa có che rèm kín, và chỉ được vào thăm trong antahpur, chơi với phụ nữ của nhà đó. Đám cưới là sự kiện xã hội lớn của những khách phụ nữ, và việc Charu không đi dự lễ cưới của Amal nhấn mạnh chiều sâu những rối loạn cảm xúc ở nàng trước việc cậu ra đi. Các gia đình tiến bộ có thể cung cấp cho các thành viên phụ nữ của họ giáo dục sơ yếu thông qua dịch vụ của một “thầy giáo zenana ”. Chị của Tagore, Svarna Kumari Ghosal, là một nhà văn, một biên tập viên và nhà hoạt động từ thiện tài trợ cho những chương trình đào tạo giáo viên như thế. Nhưng ngay cả với bà, một phụ nữ thông minh và tài năng trong gia đình tiến bộ độc đáo, việc học lên những lớp cao, chính qui cũng không được bàn đến. Việc Charu theo đuổi văn chương xem ra có vẻ ngây thơ khi nhìn trên một bối cảnh như thế. Thật ra, nàng đã can đảm và có óc sáng kiến khác thường so với những phụ nữ trẻ ở vào thời đại của nàng, địa vị của nàng và tuổi của nàng. Cả Bhupati nữa, cũng thật đặc biệt khi anh sẵn lòng khuyến khích vợ học văn chương, nhiều người chồng Bengal khác chắc không dung tha việc này. Tagore hết sức quan tâm đến những thất bại của những phụ nữ như thế. Năm 1883 ông viết Cuốn sổ tay - một câu chuyện khác về một cô vợ trẻ con, đam mê đọc và viết của cô đã bị bóp chết bởi anh chồng hiểu biết lơ mơ và các bà chị chồng vô học [7] ; mãi đến năm 1914 ông còn viết Bức thư của một người vợ , câu chuyện về một người vợ mà những tình cảm phong phú được đánh thức và nuôi dưỡng bởi thơ ca, nhưng đã phải chiến đấu vô vọng chống lại sự phản đối của gia đình và việc chồng nàng không nhìn nhận nàng như một nhân cách [8] . Bên cạnh những người chồng như thế thì Bhupati, với tất cả sự chậm hiểu những nhu cầu tri thức và tình cảm của Charu, là mẫu mực của một tâm hồn rộng lượng. Đáng tiếc là sự bao dung của anh lại bắt nguồn từ việc anh đắm chìm trong tờ báo của anh và việc anh dễ dàng chấp nhận “niềm tin phổ biến rằng một người đàn ông luôn có sẵn những gì cần đòi hỏi ở người vợ của mình.” Tagore không nói đến tuổi của Charu và Bhupati. Sẽ hợp lí nếu giả sử rằng Bhupati bắt đầu làm tờ báo của anh khi hai mươi tuổi và lấy vợ vào tuổi hai lăm. Charu có thể mười ba tuổi khi lấy chồng. Từ đó suy ra Bhupati ba mươi hai khi câu chuyện bắt đầu, và Charu hai mươi [9] . Trong những gia đình Bengal tương đối tiến bộ ngày nay, Charu dễ dàng có học vấn đại học và tiền đồ của nàng cũng rộng mở một cách tương ứng, nhưng với Charu của năm 1901, phạm vi bên ngoài antahpur, trong đó Bhupati sống thế nào nàng không hề hay biết, shangsh ā r là toàn bộ thế giới. Thật ra, Bhupati bị hạn chế bởi lòng tin ngây thơ vào người khác, bởi cái chất tỉnh lẻ và trí tưởng tượng vụng về của anh cũng như Charu bị hạn chế trong những chấn song cửa sổ và luật lệ xã hội thịnh hành. Tagore chọn những cái tên cho nhân vật của ông hoàn toàn có chủ ý. Tên đầy đủ của Charu là Charulata. Trong tiếng Bengal c ā ru có nghĩa là đẹp, và l ā ta có nghĩa là dây leo trong rừng, một thứ nho leo. Phong tục xã hội và cái nhìn của Bhupati về vợ anh như một đồ vật yêu quí trong tài sản đã làm tê liệt ở nàng sự hiểu biết vững vàng về những tài năng của nàng. Hoàn cảnh của nàng càng phức tạp, nàng càng ít khả năng đối phó với nó. Trong sự thiếu vắng hoàn toàn những mối tiếp xúc xã hội mới và thiếu sự hiểu biết của Bhupati sau khi Aman ra đi, Charu ngày càng lẩn sâu dưới cái bóng những kí ức của nàng. Tính không thực của chúng càng được tôn lên bởi sự tương phản ngầm với đời sống của Aman ở Anh, vì cậu đang thật sự trải nghiệm shangsh ā r như một thế giới rộng lớn – cái thế giới mà lịch sử đang kéo Ấn Độ vào. Quan hệ của Aman và Charu với truyền thống văn học Bengal bây giờ bị đảo ngược. Aman đã vứt bỏ văn học cổ điển và bây giờ đang đắm mình trong lối sống Tân Thời , trong đó cậu hi vọng tìm thấy chỗ đứng của mình như một luật sư. Trong khi đó thì Charu rút lui về Thời Hoàng kim của Ấn Độ và cố gắng sống với lí tưởng anh hùng ca của mọi người vợ, như một nàng Sita giữ cho ngọn đèn đêm cháy sáng đợi Rama [10] của nàng trở về. Nhưng Thời Hoàng kim ấy đã qua rồi, như Charu phát hiện cho nỗi buồn của nàng; chỉ lí tưởng không thôi thì không thể nâng đỡ một tâm hồn khao khát tình yêu. Bhupati, người không phân biệt được nhu cầu yêu đương với tình yêu văn chương – đúng như anh không phân biệt được văn chương hay với văn chương dở, là một chỗ dựa tồi cho Charulata. Lòng tốt không phân biệt của anh biến anh thành một thứ anh hùng, nhưng nhược điểm chủ yếu của anh là cứ luôn luôn đặt sự hào phóng của anh nhầm chỗ. Trên cơ sở truyền thống xã hội và các lí tưởng tôn giáo, anh cho rằng sự ổn định của gia đình là điều khoản của một học thuyết vững vàng. Giả định của anh vỡ tan khi đụng độ với những thực tế về nhu cầu tình cảm - của bản thân anh và của Charu. Chữ bhupati có nghĩa là “cột trụ xã hội” nhưng cho đến cuối cùng anh chàng Bhupati lơ lửng trên mây vẫn không hiểu được nguyên nhân thảm họa gia đình anh. Đã có lúc động lực muốn nâng đỡ Charu thắng thế, nhưng bản năng tự bảo toàn mạnh hơn. Thời khắc ấy qua đi, để lại Bhupati và Charu đối mặt với một tương lai trống rỗng. Chữ amal có nghĩa là “trong trắng”, “tinh khiết”. Liệu hạnh kiểm của Aman có thể được coi là hoàn toàn trong trắng được không? Cậu tầm thường và phù phiếm, vô tâm và non nớt, chưa trưởng thành. Nhưng sự non nớt của cậu không đáng trách trừ phi nó được làm thành công cụ phá hoại. Trong ba người của tam giác này, Aman là người đi gần nhất đến con đường hiểu được tình thế, và trong khoảnh khắc loé sáng nhìn rõ bản chất sự vật, dù chỉ một phần, cậu bắt đầu trưởng thành. Đối với một thanh niên dấn mình vào lối sống Tân Thời , việc chấp nhận một cô dâu chưa biết mặt mà không hề băn khoăn thắc mắc có thể cũng đáng trách như việc cậu không thấy trước những trò chơi văn chương nuôi dưỡng tính tự phụ nơi cậu làm nỗi cô đơn nơi Charu nặng thêm khi nuôi dưỡng trí tưởng tượng của nàng. Tuy nhiên, căn cứ vào địa vị xã hội, cuộc hôn nhân của cậu có thể được hiểu như một hành động danh dự. Nhiều cuộc hôn nhân ở Ấn Độ đã và vẫn đang là sắp đặt, và khi nước Anh còn là bí ẩn đối với nhiều người Ấn hơn ngày nay, luôn luôn có hi vọng một người vợ kiên nhẫn chờ chồng ở nhà sẽ là bảo đảm chắc chắn để người trai trẻ trở về, “vượt qua những đại dương xa thẳm”. Aman đã làm một cuộc vượt thoát khỏi tình thế khó xử được xã hội chấp nhận và minh chứng cho hành động của cậu bằng quyết định trở về giúp Bhupati, người có hình ảnh như một người cha trong đời cậu. Có thể nào ba người này không biết gì về những tình cảm của mình lâu đến thế? Một lần nữa, căn cứ vào hoàn cảnh xã hội và những nhánh tâm lí của nó, sự mù quáng rõ ràng của ba nhân vật chính có thể hiểu được thông qua việc họ dần dần gắn mình vào những biến động xã hội to lớn đang diễn ra. Báo chí hiện đại lọt vào Bengal một cách tình cờ, thậm chí nếu Bhupati thật sự có tài năng trong nghề, thì anh vẫn chưa tiếp cận đến những bí thuật của nó. Việc Charu tiếp xúc với những trào lưu mới trong văn học phải được thực hiện thông qua người khác, và được hưởng trong hoàn cảnh tương đối cách biệt. Amal là một cậu bé nhà quê tình cờ lọt vào xã hội thượng lưu trí thức của Calcutta. Trong ba người không ai có hình ảnh đầy đủ về hoàn cảnh sống của hai người kia. Mỗi người trong trạng thái bị kìm hãm trưởng thành; hoàn cảnh này góp phần vào thế lưỡng nan của họ và là một chủ đề chính của The Broken Nest . Bhupati, Charulata, và Aman lơ lửng trong trạng thái bối rối chung diễn ra trước khi những cơ hội mới có thể dạy họ những bổn phận mới. Tagore đã điều hòa giọng điệu của câu chuyện cho hợp với sự tiến triển mà tại đó họ bắt đầu ngờ ngợ, nếu không phải là hiểu rõ, rằng họ sắp đối mặt với những bổn phận mới. Giọng điệu bắt đầu thay đổi khi Aman nhận ra tình cảm của Charu đối với cậu. Những chuyện trò thơ mộng kiểu trẻ con nhường bước cho xung đột cảm xúc nghiêm trọng không tránh khỏi cũng như khu vườn không thực tế của họ nhường bước trước thực tế về kinh tế. Đã rõ rằng những ghen tuông của họ chẳng dính gì mấy đến văn chương, rằng những mưu mẹo vô lí nhưng lõi đời của Manda, chị dâu của Charu, sẽ có những hậu quả nguy hiểm, và rằng lòng tốt không phân biệt của Bhupati sẽ đem lại những kết quả chẳng có gì tốt đẹp. Những đụng độ đầu tiên của Bhupati và Aman với thực tế diễn ra ở nhịp độ nhanh chóng. Một tai nạn bên ngoài ngôi nhà của anh đã khiến Bhupati sững lại, và bộc lộ cho anh thấy anh kém phù hợp như thế nào với vai trò mà anh định mang là một con người của xã hội. Khi anh bạn Motilal của anh giả vờ không biết gì về những món nợ chưa trả, Bhupati theo bản năng chạy về nhà, “giống như một người sợ hãi trước trận lũ đột ngột, tìm một mô đất cao và lao đến đó.” Nhưng về tình hình ở nhà anh vẫn chưa biết chút gì, dù sao chăng nữa, anh cũng không thể đối mặt với nó một cách dứt khoát, thậm chí sau cú đụng độ thứ hai của anh với thực tế dưới dạng âm mưu thống thiết của Charu để liên lạc với Aman ở Anh. Lòng kính trọng và tình thương thật sự của Aman đối với Bhupati là tác nhân để cậu hiểu rằng nguy hiểm đã gần kề. Một chớp loé nhận thức cho cậu thấy Charu hoàn toàn không biết gì về những rắc rối tài chính của Bhupati cũng như về những tình cảm của nàng. Ngay khi Aman nhận ra vai trò của mình, cậu cố gắng rũ bỏ nó. Thậm chí sau khi Charu nhận ra rằng sự thiếu vắng Aman là nguyên nhân nỗi đau khổ của nàng, nàng đã hợp lí hóa cảm xúc của mình bằng cách buồn rầu về sự kiện dường như cậu đã ra đi trong giận dữ. Sự hiến mình thờ phụng chồng là hành động duy nhất mở ra cho nàng phương kế xua đuổi nỗi đau buồn. Nói rằng mặc cảm tội lỗi trong lương tâm nàng cũng cần xua đuổi là nói quá; nàng chẳng biết đường nẻo nào trong cuộc đời cũng như những hoạt động của trái tim nàng. Nàng đã sống trong một thế giới tưởng tượng. Nàng đã “quyết định”, nàng đã “nhất quyết”, nàng đã “hình dung” Aman hay Bhupati hành động theo những vai trò mà nàng phân cho họ. Cả họ nữa, cũng đã phân nàng vào một vai định trước. Khi không biết tại sao và như thế nào nàng không sắm được vai trò đó, họ bỏ mặc nàng. Việc Bhupati từ bỏ địa vị gia trưởng hầu như chắc chắn có nghĩa là Charu sẽ mất chút tự do mà nàng đã có. Những ông chú đến ở trong nhà sẽ mang theo vợ con của họ, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong số họ sẽ là bà chủ ngôi nhà. The Broken Nest không phải là câu chuyện của Aman, cậu chỉ là chất xúc tác cho một thảm họa mà những yếu tố của nó đã từ lâu là một phần kết cấu xã hội. Việc nó là câu chuyện của Charu hay của Bhupati phụ thuộc vào thiên hướng của độc giả. Tagore không nói ông có ý định cho nó là câu chuyện của ai. Ông không nói ông có ý định chỉ ra một đạo đức trong những ngẫu nhiên của cuộc đụng độ văn hóa, hoặc văn chương tầm thường là thứ nguy hiểm. Ông đặt các nhân vật ra trước độc giả, Bhupati, Charu và Aman sống qua một giai đoạn không thể đảo ngược và không có cách khắc phục có thể thấy trước. “Cái tổ bị vỡ” không phải là lỗi của ai mà là bi kịch của mọi người, một bi kịch của những tình thương lạc lối và những tài năng chưa phát triển. Như vậy, Tagore đã đặt ra một câu hỏi chi phối nhiều truyện ngắn của ông: liệu Ấn Độ có biết nó đang bỏ phí một kho tàng vô giá như thế nào không? Ông đặt câu hỏi liên hệ với những tài năng và những tình cảm phong phú của phụ nữ đặt Charu ngang hàng với những phụ nữ nổi bật trong văn học phương Tây: Emma Bovary trong Bà Bovary của Flaubert, Dorothea Brooke trong Middlemarch của George Eliot, và Nora Helmer trong vở kịch Nhà búp bê của Ibsen. Với The Broken Nest , Tagore mang tiểu thuyết Bengal hiện đại đầy đủ vào cuộc thảo luận về một đề tài đã và vẫn là một ưu phiền nhức nhối cho các xã hội hiện đại ở khắp nơi. Ông cũng không tụt lại đằng sau các nhà văn Anh trong việc nhận thức và xử lí chủ đề này. Năm 1906 nhân vật đáng nhớ Irene Forsyte trong Một người đàn ông giàu có của John Galsworthy có tính cách táo bạo, hành vi vượt ra khỏi lối sống xã giao kiểu cách của Irene thật sự gây choáng váng. Một người phụ nữ vẫn bị coi là bất nhã và không xứng đáng là một quí bà nếu cô ta dám nói lên những khao khát một điều gì đó vượt ra ngoài mái ấm gia đình. Charu không nói lên những khao khát của nàng, thậm chí không ý thức về chúng một cách rõ rệt, nhưng chúng có sức mạnh như một cái cây đang lớn lên cuối cùng làm nứt toác nền đá rắn. Tagore hết sức can đảm khi viết The Broken Nest và đã bị phê bình gay gắt về nó. Câu chuyện dường như là một âm mưu làm xói mòn hòn đá tảng trên đó thiết lập xã hội Bengal: gia đình. Vào năm 1901 những bất đồng về lối sống hiện đại đã chia lìa nhiều gia đình Bengal. Tagore để ngỏ cái kết câu chuyện làm nhiều độc giả hoang mang và phẫn nộ, vì ông cho thấy quá rõ rằng nếu có cách nào đó để sửa chữa cái tổ bị vỡ, thì Charu và Bhupati (và, nói rộng ra, cái xã hội mà trong đó họ sống) không biết cách nào tìm ra nó. Nhiều bạn đọc cảm thấy không thoải mái nhưng không thể nhầm lẫn những thành tố tạo nên tấn bi kịch tương tự trong cuộc sống của chính họ. Giống như Bhupati, họ ớn lạnh vì nhận ra sự ổn định của gia đình hoàn toàn không phải là một điều khoản của học thuyết đã được mọi người thừa nhận, mà phải giành lấy thông qua những cố gắng liên tục và có ý thức. Họ không hiểu rằng chủ đề thật sự của Tagore là sự bền vững của gia đình và nhu cầu của các thành viên trong gia đình là được hiểu như một con người, được tạo những cơ hội lớn hơn trong một thế giới đang rộng mở. The Broken Nest là tiếng kêu từ trái tim của một nhà văn, bằng cách thay cho những người thấp cổ bé miệng, nói với toàn xã hội. Mary M. Lago Tháng 6, 1969 Columbia, Missouri Hoa Kỳ Mời các bạn đón đọc Vỡ Tổ của tác giả Rabindranath Tagore.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thế Giới Kết Thúc Dịu Dàng Đến Thế
Câu chuyện bắt đầu từ khi đám mây xám trì xuất hiện phía trên một thị trấn hẻo lánh của Nhật, chiếu cột ánh sáng xanh lạnh xuống. Mọi vật bị ánh sáng xanh rọi vào sẽ đông cứng lại như đá hoa cương, lạnh ngắt và cũng tỏa ra sắc xanh lạnh. Dần dần, diện tích bị đóng băng lan rộng khắp trái đất. Mọi người cuống cuồng tìm về bên người thân yêu chờ đón giây phút cuối cùng. Yoshizawa cũng lên đường đạp xe đến nơi ở cách hàng trăm cây số của Shirakawa Yukino, người bạn học thân thương và cũng là mối tình đầu của cậu. Trên con đường ngày một lạnh lẽo và chết chóc, thứ duy nhất sưởi ấm cậu là những trang thư đã đọc đi đọc lại đến sờn giấy, là bức hình chụp chung mờ nhòe. Liệu cậu có kịp gặp được Yukino, hay nàng đã hóa thành pho tượng băng giá câm lặng vĩnh viễn? Chưa bao giờ sự kết thúc hay cuộc gặp mặt cuối cùng lại được nhà văn Ichikawa Takuji miêu tả dịu dàng và nâng niu đến thế. Bởi dù thế nào, “Yêu một ai đó là thế đấy. Trọn vẹn tất cả mọi thứ. Không kén chọn cái này hay cái kia. Dâng hiến cả cuộc đời mình. Tuyệt đối không nuối tiếc.” *** Có bao giờ bạn từng nghĩ về ngày tận thế của Trái Đất? Ngày mà con người chấm dứt sự sống, ngày giống như hàng vạn năm về trước của thế giới thuở hồng hoang. Chắc hẳn là có, nhưng đa số chúng ta hay nghĩ tới một cái kết đáng sợ như việc một thảm họa kinh hoàng xảy ra y hệt những bộ phim bom tấn. Nhà văn Ichikawa Takuji thì không như vậy, ông nghĩ tới tận thế bằng một đôi mắt lãng mạn và yêu thương nhất có thể. Đó chính là hạt giống đẹp đẽ nảy mầm lên cuốn sách  Thế giới kết thúc dịu dàng đến thế  _ tác phẩm gần đây nhất của ông. Cuốn sách lấy bối cảnh của thế giới những ngày đi vào hồi kết hay chính là tận thế. Chúng ta sẽ không thấy khói lửa, sóng thần hay bất cứ nạn dịch nào hủy hoại sự sống con người như trên màn ảnh nhỏ. Tận thế của Takuji đầy chất thơ _ thế giới kết thúc khi bị cột ánh sáng xanh bao phủ. …một khi đã bị ánh sáng ấy bao trùm, tất cả sẽ chấm dứt. Con người hay muông thú, chim chóc hay cỏ cây, đất đá và nước cũng vậy, mọi thứ đều ngừng chuyển động, rồi có lẽ sẽ chẳng có gì xảy ra nữa. Nhân vật chính là Yoshizawa Yuu, khi biết ánh sáng xanh đang lan tỏa trên diện tích rộng đồng nghĩa với việc thời gian sống ngày càng thu hẹp, anh quyết định lên đường đi tìm Shirakawa Yukino cô bạn gái anh yêu thương suốt 10 năm trời. Yuu đã từng hứa: Tôi đã hứa sẽ đi gặp nàng. Bất kể có chuyện gì xảy ra, tôi nhất định phải giữ lời đến cùng. Đó là kim chỉ nam cho hành trình của anh, cũng là hành trình xuyên suốt cuốn sách. Trên những bước chân đầu tiên của chặng đường dài, Yuu gặp Mizuki _ chàng trai cũng đang đi tìm gặp cô gái mà anh từng bỏ rơi chỉ để nói lời xin lỗi và được ở lại bên cô mãi mãi. Hai người là bạn đồng hành và trên chuyến đi của cả hai, tác giả lồng ghép những câu chuyện nhỏ. Mỗi câu chuyện là một mảnh ghép hoàn thiện cho bức tranh về lòng yêu thương trong một thế giới đang kết thúc. Cuối cùng thì Mizuki cũng trở về với Eriko, cô gái anh luôn mong muốn được ở bên. Yuu cũng tìm được Yukino và hạnh phúc bên nhau trong thời khắc cuối cùng. Tác giả để ra một kết thúc mở, tôi không nghĩ là vui khi mọi người đều biến mất, nhưng cũng không được coi là buồn khi mọi người đều cảm thấy hạnh phúc vì được ở bên nhau trong khoảnh khắc cuối cùng của sự sống. Sau tất cả, đọng lại trong tôi là giọt buồn man mác, là yêu thương đong đầy và những rung động trong veo như ánh xanh dịu dàng khắp câu chữ len lỏi vào từng ngõ ngách của trái tim. Tác phẩm xây dựng trên một khung cảnh siêu thực, một thế giới tưởng tượng như phong cách vốn dĩ của Takuji. Văn chương của ông lúc nào cũng ám ảnh tình yêu và chia ly, đan xen giữa nỗi buồn và cái đẹp gây một cảm giác rung động khó tả đối với người đọc. Truyện được kể đan lồng quá khứ - hiện tại với nhiều nhân vật, mang nhiều thông điệp khác nhau. Dưới đây là những gì tôi tổng kết được về ý nghĩa của cuốn sách.   Một thế giới tưởng tượng gần gũi với hiện thực mà ta đang sống. Standal từng viết “Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội”. Một tác phẩm văn học dù có viết về một thế giới tưởng tượng thì vẫn luôn đề cập tới các vấn đề xã hội. Thế giới kết thúc dịu dàng đến thế cũng không phải ngoại lệ. Nó là một tác phẩm lãng mạn, viết về một câu chuyện không có thực nhưng không đơn thuần chỉ để thỏa mãn trí tưởng tượng của con người. Đằng sau mỗi trang sách, chúng ta nhận thấy xã hội mà ta đang sống, thấy con người của hiện thực đi vào trong bóng dáng của các nhân vật. Một kênh chiếu hình ảnh chiến tranh ở nước nào đó, có cảnh một đứa trẻ khóc vì mất cha mẹ. Cuộc sống vốn đã chẳng dài lắm, thế mà nhiều người lớn cứ nóng lòng cướp đoạt cho bằng được. Đó chẳng phải là tin tức mà chúng ta đã từng xem hằng ngày hay sao? Những đứa trẻ tại vùng giao tranh hay nội chiến, chúng bị cướp đi quyền học tập, thậm chí là quyền được sống. Những em bé như vậy, không phải chỉ có trong sách vở mà đang từng giây từng phút chịu đau thương trong thế giới này. Một góc hiện thực khác gần chúng ta hơn, nói về đạo đức của con người hiện nay cũng được phản chiếu trong câu văn: Tài xế ô tô nhấn còi xua người đi bộ như lùa gia súc. Ông khách trung niên mắng mỏ người phục vụ làm thêm vì những sai sót nhỏ nhặt. Đám thanh niên thản nhiên xô đẩy người già yếu bước đi chậm chạp. Đường phố ngày nay, tôi thấy thực sự sợ khi đi trên vỉa hè không khác nào đi dưới lòng đường. Tại sao con người ta có thể vô liêm sỉ mà cướp đường đi của người khác, cướp đi sự an toàn của người đi bộ? Và những sự việc như vậy khiến chúng ta cũng phải thốt lên như các nhân vật trong câu chuyện: “Chẳng tử tế gì cả”. Takuji còn có thể nhìn thấy bản chất của xã hội mà đúc kết nên rằng: Trong thời đại ngày nay, vứt bỏ đồ đạc mới được coi là đức hạnh. Bởi có thế thì mới làm cho “kinh tế vận hành” được. Vì mục đích cao cả ấy mà cụm từ “mốt năm nay” được sinh ra, con người có thể an tâm mà bỏ đồ mua năm ngoái đi. Đó là việc con người sống quá nhanh, quá chóng vánh mà không biết trân trọng những điều nhỏ nhặt. Cứ thế, dòng người lướt qua ào ào trên những con xe từ sáng đến đêm, và trái tim họ cũng vụt qua như vậy. Yêu thương chẳng đủ ấm nồng mà hời hợt lướt nhanh. Tôi từng nghe câu thơ “Đủ nắng hoa sẽ nở/ Đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy”. Phải chăng con người cứ kêu không hạnh phúc, chỉ vì họ sống chưa đủ yêu thương? Hiện thực trong cuốn sách đã phần nào đánh thức trái tim vẫn đang ngủ say trong tôi với những giấc mơ màu hồng, khiến tôi nhận ra mình cần trưởng thành hơn, cần phải nhìn thẳng vào sự thật vốn dĩ bề bộn và phức tạp.   Có những tình cảm nhân văn và dịu dàng đến thế. Có lẽ đây là điều tôi thích nhất ở cuốn sách. Một tác phẩm lãng mạn nhưng không sến súa, tình cảm cực kì nhân văn và trong trẻo. Thế giới dù có những góc tối tàn nhẫn nhưng ta vẫn yêu nó bởi cuộc đời vẫn còn vô vàn điều tốt đẹp. Mà đẹp nhất, còn gì khác ngoài “Người với người sống để yêu nhau”. Đó cũng chính là thông điệp lớn nhất tôi nhận từ cuốn sách.  Nếu đời người là một cuốn sách, tôi những muốn lấp kín các trang bằng những câu chữ đong đầy tình yêu thương. Tôi không muốn giở từ trang nọ sang trang kia mà chỉ thấy không có gì ngoài những lời phỉ báng nhiếc móc. Đúng như thế, Takuji đã lấp đầy từng con chữ bằng tình yêu thương cao đẹp. Đó là tình yêu trong sáng của Yuu và Yukino, thứ tình cảm chân thành có thể sẵn sàng hy sinh bản thân chỉ để người kia không bị tổn thương. Họ trân trọng nhau từ những điều nhỏ nhặt nhất, từ những kỉ niệm như chiếc máy chế tạo hoàng hôn, tấm ảnh chụp chung hay câu chuyện về những đám mây. Và tôi nghĩ tình yêu chỉ đơn giản thế thôi, đâu cần như thiên tình sử đau thương của Romeo và Juliet. Yuu là một chàng trai nhát cáy nhưng vẫn luôn bảo vệ Yukino đến cùng, dù thế giới có tận diệt cũng phải trở về bên cô bởi vì “Dù là những siêu nhân không mấy đáng tin cậy, mỗi chúng ta đều muốn bảo vệ người mình yêu”. Tình cảm cao thượng trong gia đình cũng được phản ánh một cách sâu sắc. Đó là ông bố hiền lành của Yuu, cả đời chưa bao giờ mắng cậu nửa lời, chỉ dùng sự dịu dàng vỗ về, chở che cho cậu đến giây phút cuối cùng. Ông từng nói với cậu: …khoảnh khắc con nằm trên giường, nhìn lại bố với ánh mắt ngây thơ, bố chợt nghĩ đứa trẻ này tin tưởng mình. Nó giao sinh mạng bản thân cho bố, chẳng chút nghi ngờ. … Không thể phản bội lại lòng tin này được. Bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ sinh linh này. Phải cho nó được vui sướng. Một trái tim vĩ đại ẩn sau dáng hình nhỏ bé của người bố, một tình yêu thương cao cả có thể hy sinh mạng sống chỉ để bảo vệ đứa con trai. Takuji đã cho chúng ta hiểu tình cảm gia đình quan trọng nhường nào. Mẹ của Yuu đã mất, nhưng bà vẫn luôn là động lực cho hai bố con sống tiếp. Người ta không được coi là biến mất hoàn toàn khi mà họ vẫn sống trong trái tim và kí ức của ai đó. Tình yêu, từ giây phút con người đặt chân lên mặt đất cho tới tận ngày diệt vong, nó vẫn luôn là nguồn sức mạnh kì diệu nâng đỡ tâm hồn con người. Nó trao cho ta ý chí, giúp ta làm những điều tưởng chừng không thể. Bởi vì có yêu thương, nên thế giới dẫu có kết thúc, ta vẫn thấy nó dịu dàng đến thế…   Hạt mầm của hy vọng sống. Khi biết Trái Đất đang đi đến hồi kết, Yuu từng nghĩ: Dẫu vậy, biết đâu trên hành tinh này vẫn còn một nơi mà ánh sáng xanh sẽ không bao giờ chạm tới và ở đó chúng ta có thể tiếp tục sống trong yên bình?
Latte Không Ngọt
“NEWTON VÌ NHÌN THẤY MỘT QUẢ TÁO RƠI MÀ PHÁT HIỆN RA LỰC HẤP DẪN LOÀI NGƯỜI CŨNG CHÍNH VÌ ĂN PHẢI MỘT QUẢ TÁO CÓ ĐỘC MÀ RƠI VÀO LÒNG LUẨN QUẨN” Latte không ngọt – món quà dành cho thanh xuân. Có lẽ rằng ai cũng mong một lần được quay trở lại tuổi trẻ với tình yêu ngây dại và đầy ngọt ngào đó. Và thanh xuân chẳng thể không có mối tình đầu. Với bạn mối tình đầu là gì với Latte Không Ngọt mối tình đầu của ai cũng đều có chút ngây ngô nó còn pha thêm cảm giác tuyệt vọng. Có mối tình đầu thanh xuân thêm dư vị Có mối tình đầu thanh xuân của cậu ngập tràn ánh nắng ấm áp *** [REVIEW SÁCH LATTE KHÔNG NGỌT] Thanh xuân ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, ký ức thanh xuân của mỗi người lại có những dư vị khác nhau, dẫu vậy ký ức nào cũng đẹp vô cùng. Đọc cuốn sách Latte không ngọt của tác giả Evon, lại thêm một lần nữa được bước vào vùng ký ức thăm thẳm của những người trẻ tuổi, để hoài niệm thời thanh xuân, cũng là trải nghiệm thêm một vị khác của thanh xuân. Latte không ngọt xoay quanh câu chuyện của bốn bạn trẻ Vương Đinh, Phương Sâm Đề, Ngô Lặc, Thi Khả Đệ tại Đài Loan. Họ là những người trẻ tuổi hiện đại, năng động luôn sẵn sàng dấn thân vào đời sống. Mỗi người một tính cách nhưng đã gặp gỡ và trở thành những người bạn thân thiết. Vương Đinh là người kể chuyện, cũng có thể xem là người dung hòa giữa các mối quan hệ trong tiểu thuyết. Anh đóng vai người hòa giải, quan sát, lắng nghe những câu chuyện của những người bạn. Dư vị đậm đà nhất trong ký ức thanh xuân của Latte không ngọt tình yêu. Mỗi người trẻ trong cuốn sách đều yêu say đắm, si mê. Xoay quanh vòng xoáy của tình yêu khiến mạch chuyện càng về sau càng lôi cuốn mạnh mẽ. Phương Sâm Đề là người hài hước, có tính cách mạnh mẽ nhưng khi đã bước vào tình yêu lại vô cùng nhẫn nại, dịu dàng, chung tình. Đem lòng yêu Phó Lỗi Nhã, cô bạn cùng lớp cấp ba thuở nào, rồi giữ mãi mối tình ấy, âm thầm theo dõi cô ấy, cho đến tận khi cô ấy nhận được thâm tình mà cảm động. Tưởng rằng tình yêu từ ấy đã viên mãn, hai kẻ yêu nhau say đắm có thể ở bên cạnh nhau mãi về sau, nhưng hóa ra ở bên cạnh nhau lại không thể chịu đựng được nhau. Sâm Đề từng kiên nhẫn chờ đợi đến thế lại không thể chịu đựng được tính khí ghen tuông ích kỷ của người yêu. Lỗi Nhã từng cảm động bởi sự chung tình của người yêu lại không thể đem lòng tin tưởng người mình yêu. Bởi thế nên chia tay, mệt mỏi, và đau khổ. Tình yêu thanh xuân thường gắn liền với những cảm xúc ngây thơ, trong sáng, có chút nổi loạn, nhưng tình yêu trong Latte không ngọt lại là vị đắng chát chất chứa nhiều đau thương và mất mát. Như Khả Đệ đã phải day dứt suốt đời vì không ở bên cạnh người yêu trong những giờ phút cuối cùng, ngược lại còn hiểu nhầm anh, ngỡ rằng anh đã thay lòng mà dày vò anh. Trong bộ phim Tro bụi thời gian, nhân vật Âu Dương Phong có một câu thoại rất hay rằng “nếu không thể có được thứ gì đó, hãy giữ nó trong ký ức”. Ký ức cũng bởi thế luôn mênh mang và thăm thẳm.Đến khi biết tin cái chết của người yêu, mới như sét đánh ngang tai, đau đớn tột cùng, tự nhủ trong nước mắt: “Em sẽ không bao giờ để bất cứ nỗi đau nào khiến mình trở nên đáng thương nữa, có một số việc… sẽ luôn được lưu giữ. Cho đến… mãi mãi”. Cũng giống như chàng thiếu niên đã rời khỏi cuộc sống này, nhưng sẽ mãi được lưu giữ trong tim người ở lại với nỗi lưu luyến day dứt. Khả Đệ là cô gái nhỏ nhắn, nhưng lại là người con gái dữ dội, quyết liệt. Khi rơi vào tình yêu đã yêu đến cuồng dại say đắm, khi đau khổ cũng mù quáng mà làm tổn thương bản thân. Nhưng Khả Đệ lại chính là hình dung sắc nét của tuổi thanh xuân, là khi ấy chúng ta còn quá trẻ để lý trí tỉnh táo, ta chỉ biết lao vào đời sống, yêu và sống cuồng nhiệt như nhau. Mỗi người trẻ, họ sống trong đời sống đi về mỗi phía khác nhau, hạnh phúc đau khổ trải qua trên đường sống khác nhau, nhưng thanh xuân có sự hiện hữu của nhau đã trở thành dấu ấn đẹp đẽ trong cuộc đời. Thanh xuân của họ giống như ly Latte nhưng đậm vị cà phê đắng hơn vị sữa ngọt ngào, nhưng lại có sức hấp dẫn khó cưỡng. Trong Latte không ngọt, thanh xuân gắn liền với những mối tình, đồng thời cũng từ tình yêu ấy tác giả đã khéo léo tạo nên bầu không khí hiện đại, trẻ trung của đời sống đương đại Đài Loan bằng lối viết dung dị, uyển chuyển, thấm đẫm chất thơ. Ở đó những người trẻ ngày ngày vẫn làm việc, mơ ước, đau đớn, và trưởng thành. Nhân vật Vương Đinh, là người quan sát và viết lại câu chuyện thanh xuân của những người bạn, sau cùng đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Theo anh cũng là cách lưu giữ ký ức và tự chữa lành cho chính bản thân mình. *** Tác giả Evon tên thật là Dư Dật Phàm, là nam tác giả trẻ trong giới văn học Đài Loan, đam mê nhiều thể loại sách như tình yêu, cuộc sống, lý luận, kinh dị, viễn tưởng… nhưng thể loại yêu thích nhất là tiểu thuyết kinh dị, đã từng cho ra mắt tác phẩm Câu chuyện kinh dị của Evon, là một tuyển tập các câu chuyện kinh dị ngắn - ở dạng sách điện tử. Tiểu thuyết tình cảm Latte không ngọt là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh được xuất bản dưới dạng sách giấy truyền thống. Cuốn sách đã được đông đảo độc giả trẻ Đài Loan yêu mến. *** GIỚI THIỆU NHÂN VẬT Vương Đinh: nam chính (người duy nhất kể chuyện theo vai “tôi”), nam cung Xử Nữ, hai mươi tuổi. Chiều cao trung bình, hơi gầy, tóc đen cột thành một chỏm đuôi ngựa ngắn, là mẫu người lịch thiệp, nước da trắng, thị lực khá tốt. Tính cách hướng nội, tinh tế, nhanh nhạy. Gặp phải chuyện gì đều phải trăn trở suy xét nhiêu lần, vì vậy mà thường khiến bản thân cảm thấy phiền muộn vô cớ, tự làm khổ mình. Tiểu thuyết “Latte không ngọt” là câu chuyện do chính anh viết về những trải nghiệm của bản thân cùng ba người bạn thanh mai trúc mã, được đăng tải trên mạng để mọi người cùng đọc. Hiện đang nuôi một chú chó Shiba Inu đặt tên là Tiểu Nặc. Là một người đặc biệt thích uống Latte đá. Phương Sâm Đề: nhân vật chính, nam cung Sư Tử, hai mươi tuổi, ngoại hình bình thường, hơi cao, dáng người tiểu chuẩn, tóc đen cắt ngắn, cách nói chuyện hài hước, thường hay tấu hài, từ nhỏ đã có năng khiếu lãnh đạo, rất giỏi trong việc giao tiếp với người khác, tính cách mạnh mẽ luôn tự tin vào chính mình. Thuộc phái hành động, một khi nghĩ ra cách giải quyết thích hợp cho chuyện gì sẽ hạ quyết tâm ngay lập tức, không bao giờ do dự. Mong muốn trở thành một giáo viên. Ngô Lặc: nhân vật chính, nam cung Thiên Yết, hai mươi tuổi, dáng người cao gầy, tóc đen, luôn để ngắn, lúc nào cũng đeo một cặp kính dày cộm, khi nói chuyện hay có thói quen đưa tay đẩy gọng kính để điều chỉnh lại vị trí. Gia đình giàu có, vô cùng thông minh, thành tích học tập và thể thao đều tốt, thuộc loại văn võ song toàn, miệng rất “độc”*, luôn một lời nói thẳng vào trọng tâm. Trong mắt người khác là một người rất lạnh lùng, nhưng khi đã quen biết sẽ nhận ra cậu ta rất quan tâm đến bạn bè. Quyết tâm trở thành một cảnh sát. Thi Khả Đệ: nhân vật chính (nhân vật nữ chính duy nhất), nữ cung Cự Giải, hai mươi tuổi. Dáng người nhỏ nhắn, hơi gầy, tóc đen dài mềm mượt xen lẫn vài sợi màu cà phê, gương mặt xinh đẹp, nước da trắng ngần, thân hình cân đối. Từ trung học đã sang Mỹ, tới đại học mới quay về Đài Loan, cũng chính vì thế nên có xu hướng suy nghĩ theo phong cách Mỹ. Vừa đi làm vừa học, hiện đang làm người dẫn chương trình cho một đài truyền hình địa phương. Có tính cách khá mạnh mẽ, vì quan điểm cá nhân, cách nhìn cuộc sống hoàn toàn trái ngược với Ngô Lặc nên thường hay đấu khẩu. • Nguyên văn: “Nhất châm kiến huyết”, chỉ lời nói thẳng thắn, sắc bén, nói trực tiếp vào vấn đề chính một cách tàn nhẫn. Mời các bạn đón đọc Latte Không Ngọt của tác giả Evon & Grant Zhan (dịch).
Chăn Gối
Chăn Gối - Alberto Moravia Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc dịch Trẻ xuất bản năm 1973, Sài Gòn Alberto Moravia , bút danh của Alberto Pincherle , (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1907, Rome , Ý - mất ngày 26 tháng 9 năm 1990, tại Rome), nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn và tiểu thuyết gia người Ý nổi tiếng với những bức chân dung hư cấu về sự xa lánh xã hội và sự thất tình tình dục . Ông là một nhân vật quan trọng trong văn học Ý thế kỷ 20 . Moravia mắc bệnh lao xương (một dạng viêm tủy xương thường do Mycobacterium tuberculosis gây ra ) khi 8 tuổi, nhưng trong vài năm bị giam trên giường và hai năm trong viện điều dưỡng, anh đã học tiếng Pháp, Đức và Anh; đọc Giovanni Boccaccio , Ludovico Ariosto , William Shakespeare , và Molière; và bắt đầu viết. Moravia từng là nhà báo một thời gian ở Turin và phóng viên nước ngoài ở London. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh ấy ,Glierencei (1929; Thời gian thờ ơ ), là một nghiên cứu thực tế gay gắt về sự bănghoại đạo đức của một người mẹ trung lưu và hai đứa con của cô ấy. Nó đã trở thành một cảm giác. Một số tiểu thuyết quan trọng hơn của ông là Agostino (1944; Hai vị thành niên ); La Romana (1947; Người phụ nữ thành Rome ); La disubbidienza (1948; Bất tuân ); và Il contista (1951; The Conformist ), tất cả đều về chủ đề cô lập và xa lánh. La ciociara (1957;Two Women ) kể về một sự thích nghi với cuộc sống của người Ý sau Thế chiến thứ hai. La noia (1960;The Empty Canvas ) là câu chuyện về một họa sĩ không thể tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu hay công việc. Nhiều cuốn sách của Moravia đã được dựng thành phim chuyển động. Những cuốn truyện ngắn của ông bao gồm Racconti romani (1954; Roman Tales ) và Nuovi racconti romani (1959; More Roman Tales ). Racconti di Alberto Moravia (1968) là một tập hợp những câu chuyện trước đó. Các tuyển tập truyện ngắn sau này bao gồm Il paradiso (1970; "Paradise") và Boh (1976; Tiếng nói của biển và những câu chuyện khác ). Hầu hết các tác phẩm của Moravia đều đề cập đến sự khô cằn trong cảm xúc, sự cô lập, và sự thất vọng hiện sinh , đồng thời thể hiện sự vô ích của sự lăng nhăng tình dục hoặc tình yêu vợ chồng như một lối thoát. Các nhà phê bình đã ca ngợi văn phong rõ ràng, không trang điểm của tác giả, khả năng thâm nhập tâm lý, kỹ năng trần thuật và khả năng tạo nhân vật chân thực và đối thoại chân thực của tác giả . Nhận quyền truy cập độc quyền vào nội dung từ Phiên bản đầu tiên năm 1768 của chúng tôi với đăng ký của bạn. Đăng ký ngay hôm nay Quan điểm của Moravia về văn học và chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong một cuốn sách tiểu luận đầy kích thích, L'uomo come fine (1963;Người đàn ông như một kết thúc ), và cuốn tự truyện của anh ấy , Cuộc đời của Alberto Moravia, được xuất bản vào năm 1990. Anh ấy đã kết hôn một thời gian với tiểu thuyết gia Elsa Morante . *** Lê Thanh Hoàng Dân (sinh năm 1937) là một cựu giáo sư, nhà nghiên cứu và dịch giả người Việt Nam. Giáo sư sinh tại Sài Gòn (tên cũ của Thành phố Hồ Chí Minh). Trước năm 1975 ông là giảng viên tại các trường Đại học như Võ Trường Toản (Sài Gòn, từ khi thành lập đến năm 1965), Quốc gia Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Cần Thơ, Cao Đài, Hòa Hảo. Ông viết một số sách về tâm lý, giáo dục và liên quan đến các bậc học phổ thông. Tủ Sách Văn Học Thế Giới Chăn Gối NXB Trẻ 1973 Alberto Moravia Dịch: Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc 196 Trang File PDF-SCAN *** Trước hết tôi cần phải nói ngay về vợ tôi. Yêu có nghĩa là, giữa bao nhiêu việc khác, tìm kiếm nét khả ái để nhìn ngắm và xét đoán người mình yêu. Và tìm kiếm nét khả ái không chỉ trong sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng, mà còn chiêm ngưỡng những khuyết điểm, dù ít hay nhiều. Ngay từ những ngày đầu của cuộc hôn nhân, tôi đã cảm thấy thích thú được nhìn ngắm Léda (tên nàng), được săm soi khuôn mặt và trọn cả con người nàng trong từng cử động nhỏ nhặt và từng nét mặt thoáng qua. Vợ tôi, ngày tôi cưới nàng, chỉ vừa hơn ba mươi tuổi. (Kể từ ngày đó và sau khi cho ra đời ba đứa con, một vài đường nét của nàng, tôi sẽ không nói là đã thay đổi, nhưng có biến đổi phần nào.) Tác người khá cao dù không thực sự cao lắm, trông nàng xinh đẹp, với một thân hình và một khuôn mặt khá hoàn mỹ. Khuôn mặt nàng dài và mỏng, có cái vẻ lẩn tránh, ngơ ngác, gần như khó dò được tình ý, mà một đôi khi những nữ thần cổ điển khoác lấy trong một vài bức tranh xưa cũ tầm thường, mà nét sơn phơn phớt bị sự meo mốc của thời gian khiến càng thêm phần mơ hồ. Cái vẻ độc đáo, vẻ đẹp khó nhận ra được nầy, tựa như một tia nắng phản chiếu lên một bức tường, hay một bóng mây trên mặt biển, mỗi lúc có thể mờ xóa đi, chắc hẳn là do mái tóc vàng màu kim khí, lúc nào cũng hơi rối, và những lọn tóc dài gợi lên nét vời vợi của niềm sợ hãi, sự trốn chạy, kể cả nét vời vợi của đôi mắt xanh lơ, bát ngát, hơi xếch lên, với con ngươi nở lớn và cái nhìn khép nép và phân vân, đã gợi lên, giống như mái tóc, một tâm trạng sợ sệt và bất chợt. Nàng có một sống mũi dài, thẳng và thanh tú, và một cái miệng rộng đỏ tươi, môi dưới viền rộng một cái cằm quá nhỏ, và nét môi quanh queo vô cùng gợi lên một nhục cảm đắm đuối và ám muội. Đó là một khuôn mặt không đều đặn và thế nhưng lại rất đẹp, một vẻ đẹp, như tôi đã nói, khó dò xét được tình ý, một vẻ đẹp mà trong một vài lúc nào đó và một vài trường hợp nào đó – như người ta sẽ thấy về sau – trở thành tiêu tán dần dần. Thân mình của nàng cũng giống như vậy. Nàng có một thân trên gầy ốm và thanh nhã của một cô gái, trái lại cái khối lượng, vẻ kiên cố, sự nở lớn của hông, bụng và hai chân để lộ ra một sức vạm vỡ và khêu gợi. Nhưng sự không tương xứng đó, giống như sự không tương xứng của khuôn mặt, biến mất dưới nét duyên dáng của một vẻ đẹp đã vây bọc lấy nàng từ đầu tới chân bằng một sự hoàn mỹ, giống như một điệu nhạc quen thuộc và thanh tao hay một ánh sáng đổi màu một cách huyền bí. Nói ra có vẻ lạ lùng, nhưng một đôi khi, nhìn nàng, tôi đâm ra nghĩ về nàng như nghĩ về một người với những đường nét và hình thể cổ điển, không khuyết điểm, hòa hợp nhịp nhàng, thanh tỉnh, cân đối. Tới mức cái vẻ đẹp đó, hãy gọi là vẻ đẹp tinh thần, vì không có một cách gọi nào khác, làm cho phấn khởi. Nhưng có lúc vẻ rực rỡ nầy bị rách đi và lúc đó tôi mới nhận thấy có nhiều sự thiếu đều đặn, vừa chứng kiến sự thay hình đổi dạng khổ sở của người nàng. Tôi khám phá ra được điều đó trong những ngày đầu tiên của cuộc hôn nhân và trong một giây lát tôi có cảm tưởng đã bị lừa gạt giống như một người lấy vợ vì quyền lợi nhưng hôm sau khám phá ra rằng của hồi môn của vợ quá nghèo nàn. Quả thực, một vẻ cau mày nhăn nhó và không thành lời, như để nói lên nỗi sợ hãi, niềm lo âu, sự ghê tởm và đồng thời một vẻ quyến rũ hững hờ một đôi khi làm cho khuôn mặt vợ tôi nhăn lại. Vẻ nhăn nhó đó có thể nói là nó đã làm nổi bẩn lên một cách mạnh mẽ sự không đều đặn tự nhiên giữa các đường nét, và tạo cho diện mạo của nàng cái vẻ gớm guốc của một mặt nạ quái dị trong đó những đường nét có thể bị thêm thắn tới mức trở thành một bức hoạt họa, bởi một trò khôi hài đặc biệt, khiếm nhã vừa khó chịu: nhất là cái miệng, kế tới hai lằn nhăn viền quanh nó và hai lỗ mũi và con mắt. Vợ tôi thoa rất dày trên môi một màu son đỏ chói, ngoài ra, vì nước da tái, nàng đánh phấn hai bên má. Khi vẻ mặt bình thản, những màu sắc nhân tạo đó không dễ nhận ra và chúng hòa hợp vối màu mắt, tóc và da nàng. Nhưng khi nàng nhăn nhó, chúng đột nhiên có vẻ sống sượng và lộ liễu, thế rồi trọn cả khuôn mặt, một phút trước đây rất đỗi thanh tỉnh, sáng láng và đẹp một cách cổ điển, giờ đây gợi lên những đường nét quái dị và bốc lửa của những mặt nạ vào dịp giả trang ngày lễ Carême, cộng thêm vẻ tục tĩu khó tỉa mà người ta có thể gọi, trong những lúc co giựt như vậy, đó là sự yểu điệu, mức nồng nhiệt và kích thích của xác thịt. Và thân mình của nàng, cũng giống như khuôn mặt, có riêng cho nó một cách thức khinh thường sức quyến rũ của vẻ đẹp để vặn vẹo một cách khó coi. Nàng co rúm người lại trong một cử động sợ sệt và ghê tởm, nhưng đồng thời, giống như một vài vũ công và diễn viên câm đã làm để khích động khán giả, nàng duỗi chân và tay trong một tư thế tự vệ và kháng cự, kế đó thân mình của nàng uốn thành cánh cung như để mời gọi hay khêu gợi. Lúc đó nàng có vẻ như lấy tay gạt tránh một mối hiểm nguy tưởng tượng, nhưng đồng thời sự co rúm kịch liệt của hai bên hông hình như chứng tỏ rằng mối hiểm nguy đó và sự tấn công đó không làm cho nàng khó chịu. Tư thế trông chướng mắt và, một đôi khi càng chướng thêm vì vẻ mặt nhăn nhó, khiến có lúc, người ta nghi gờ rằng nó thuộc về cùng một người mới đây rất đỗi giữ gìn, rất đỗi thanh tĩnh và đẹp khôn tả. Tôi đã nói yêu có nghĩa là âu yếm những nét xấu nơi đối tượng tình yêu của mình, nếu có cũng bằng như những vẻ đẹp. Những vẻ nhăn nhó, những sự co rúm đó, mặc dầu khá vô duyên, đối với tôi, cũng thân thiết mau chóng không kém gì nét duyên dáng, sự cân đối và vẻ thanh tĩnh của những lúc thơ mộng nhất. Nhưng yêu còn có nghĩa là không hiểu thấu, vì, nếu quả thực có một mãnh lực yêu thương bao hàm sự thông cảm thì đồng thời cũng có một mãnh lực khác, mê đắm hơn, khiến bạn trở thành mù quáng trước người mình yêu. Mù quáng thì tôi không có, nhưng tôi thiếu sự sáng suốt tinh thần của một tình yêu chịu nhiều thử thách và lâu đời. Tôi biết rằng trong một vài trường hợp vợ tôi trở thành xấu xí, điều đó đối với tôi như có vẻ quái gở nhưng lại dễ thương, giống như tất cả những gì liên hệ tới nàng, và tôi không muốn, cũng như không biết phải làm thế nào vượt quá nhận xét đó. Ngoài ra tôi còn phải nói rằng những chứng giựt gân đó xảy ra rất ít, và không bao giờ vào những lúc chúng tôi gần gũi nhau. Tôi không nhớ có một lời nào, một cử chỉ nào của tôi đã gây ra nơi nàng sự biến đổi lạ lùng đó của khuôn mặt trở thành mặt nạ và thân mình trở nên con vật múa rối. Trái lại, chính trong những lúc chăn gối nàng mới có vẻ như đạt tới cực điểm của vẻ đẹp huyền hoặc và không tả xiết của nàng. Lúc đó nơi con ngươi nở lớn của cặp mắt to lớn của nàng có một lời kêu gọi từ tốn, dịu dàng, nhu mì, nhiều ý tứ hơn mọi lời nói. Miệng nàng có vẻ như bày tỏ, qua vẻ gợi dục và nét quanh quẹo của đôi môi, một lòng nhân từ hay thay đổi và thông minh và nguyên cả khuôn mặt của nàng tiếp nhận những cái nhìn của tôi giống như một tấm kiếng huyền bí và khiến yên tâm, nơi mà những sợi tóc rối màu vàng bắt hình dùng ra một cái khung tương xứng với tấm kiểng. Thân hình tự nó như cố định trong hình dáng đẹp nhất của nàng, nằm sóng sượng một cách vô tội và uể oải, rũ rượi và trơ trơ, giống như một miền đất hứa trả rộng vài ối ra tận chân trời xa thẳm, với những cánh đồng, những dòng sông, những ngọn đồi và thung lũng dưới những cái nhìn đầu tiên. Trái lại, vẻ nhăn nhó và dám co rúm hiện ra trong những trường hợp bất ngời và vô lối nhất; tôi chỉ cần nhắc lại một vài trường hợp. Vợ tôi luôn là một độc giả say mê loại tiểu thuyết trinh thám. Nơi những đoạn mà tình tiết chắc hẳn trở nên hấp dẫn và hồi hộp hơn đoạn trước, tôi đã để ý thấy vẻ mặt của nàng dần dần trở nên khó coi dưới vẻ nhăn nhó và vẻ mặt này không biến mất trước khi chấm dứt cái đoạn đã kích thích nàng. Mặt khác, vợ tôi là một con bạc. Tôi cùng đi với nàng tới Campione, Monte-Carlo, San Remo. Không một lần nào, khi đặt tiền xong và khi bánh xe quay tròn, làm quả cầu nhỏ nhảy trên các con số, vẻ nhăn nhó làm cho xấu xí lại không biến khuôn mặt của nàng. Cuối cùng đôi khi chỉ cần nàng xỏ kim, hay trông thấy một đứa trẻ chạy dọc theo một miệng hố, có thể rớt xuống đó, hay chỉ cần nàng nhận phải một giọt nước lạnh trên ót là cử động co rúm đó vồ lấy nàng. Tuy nhiên, để xét cho tận tường sự việc, tôi muốn đề cập tới hai trường hợp mà sự biến đổi độc đáo của vợ tôi hình như, theo tôi, có những nguyên nhân phức tạp hơn. Một hôm, ở tại miền quê, trong khu vườn của biệt thự chúng tôi đang ở, tôi cố gắng nhổ một cây cỏ mọc lan, rễ già và cao nghệu, giống như một cây con đã mọc ngay chính giữa sân trước nhà, không hiểu bằng cách nào. Công việc không phải dễ dàng, vì cây cỏ xanh và ướt trơn tuột giữa hai bàn tay tôi và ngoài ra rễ của nó như đã ăn rất sâu dưới đất. Mải lo nhổ cây cỏ, ,tôi không hiểu tại sao tôi lại ngước mắt nhìn vợ tôi, và tôi đã sửng sốt trông thấy khuôn mặt và thân hình của nàng bị biến đổi hoàn toàn bởi sự co rúm dị thường chỉ riêng có nơi nàng. Cùng lúc đó cây cỏ bị sức nặng của tôi nhổ lên, đã bứng rễ và còn dính với lớp đất bằng một cái rễ dày và dài, và tôi té ngửa ra phía sau, may thôi đầu tôi đập lên mặt xi-măng trải quanh biệt thự. Một lần khác chúng tôi mời vài người bạn tới dùng cơm tối tại nhà chúng tôi ở La mã. Trước khi khách tới, vợ tôi bận áo tiệc, đánh phấn thoa son và đeo nữ trang, muốn đi xem qua một vòng nơi nhà bếp để coi mọi sự được như ý không. Tôi đi theo nàng. Chúng tôi trông thấy chị bép đang kinh hoảng lên vì con tôm hùm, một con vật to lớn với hai càng dữ tợn và còn thoi thóp, chị ta không dám bắt nó và quăng vô chảo. Một cách rất giản tiện, vợ tôi bước gần bàn, nắm lấy cái lưng con tôm hùm và nhúng nó vô nước sôi. Để làm việc đó, nàng phải đứng cách xa cái lò cũng như con tôm, thì cũng được đi. Nhưng sự thận trọng đó chỉ cắt nghĩa một phần nào thôi vẻ nhăn nhó của khuôn mặt, xấu và thô, và cử động của thân mình, trong một lúc, làm uốn éo một cách khêu gợi hai bên hông dưới lớp tơ sáng chói của áo tiệc. Tôi tưởng tượng rằng nhiều lần, và trong những trường hợp khác nhau, vợ tôi đã phải nhiều phen trải qua sự giựt gân co rúm đó. Dù sao cũng có một vài sự kiện vẫn còn xác thực: không khi nào khuôn mặt và thân mình của nàng lại co giựt trong khi ân ái. Ngoài ra, những lần co giựt đó bao giờ cũng tiếp theo bằng một sự im lặng âm thầm, lơ lửng, giống với tiếng kêu được nén lại hơn là một sự câm nín hoàn toàn. Cuối cùng, những lần co giựt đó bao giờ cũng hình như phát sanh nỗi lo sợ một biến cố bất ngờ, đột ngột, sấm sét. Một nỗi lo sợ, như tôi đã nói, pha trộn đầy nét quyến rũ. Mời các bạn đón đọc Chăn Gối của tác giả Alberto Moravia.