Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Bãi Biển Chesil - Ian McEwan

Cuốn tiểu thuyết mỏng, và tuyệt đẹp, nơi Ian Mc Ewan tái hiện bối cảnh nước Anh vào thời khắc ngay trước khi cuộc cách mạng tình dục bùng nổ, với tất cả sự ngột ngạt, bi hài của nó qua câu chuyện tình giữa Edward và Florence. Cuối cùng thì điều họ lo sợ đã xảy ra! Trên bãi biển Chesil, có hai kẻ đang giận giữ, đau đớn, và ghê tởm lẫn nhau sau đêm đầu tiên đổ vỡ. Trên bãi biển Chesil, nơi họ từng mơ tới cảm giác tự do thực sự của những người trưởng thành, cũng là nơi kết thúc cuộc hôn nhân ngắn ngủi. Nước Anh những năm sáu mươi, một thế hệ lớn lên sau Thế chiến thứ hai, đã mệt mỏi vì sự khắc khổ và dè sẻn của những năm hậu chiến, ngột ngạt với những giá trị thời Victoria, và sẵn sàng chống lại những mẫu hình và tập tục của thế hệ đi trước. Lady Chatterley’s Lovers của D.H.Lawrence giành được quyền xuất bản sau vụ kiện tụng ầm ỹ, và ngay lập tức trở thành best-seller với hai triệu bản bán ra sau 40năm cấm đoán. Trong đoạn đầu bài “Annus Mirbalilis”, Philip Larkin viết về những năm tháng này: "Chuyện ái ân đã bắt đầu / Vào năm một chín sáu ba/ (có phần hơi muộn với ta) / Giữa sự chấm dứt của lệnh cấm “Chatterley” / Và vòng quay đĩa đầu tiên của nhóm Beatles”. Cuộc cách mạng tình dục sắp bùng nổ. Nhưng chuyện của Edward và Florence lại diễn ra ngay trước thời điểm tự do ấy, năm 1962, khi báo chí còn “kín đáo gợi ý cho các cô dâu việc cần làm bằng giọng văn vui vẻ, la liệt dấu chấm câu cảm thán và hình minh họa đánh số”, và các chàng trai thì háo hức một cách tuyệt vọng về chuyện tình dục, như Ian Mac Ewan diễn tả trong cuốn sách của mình: “Thần dược tránh thai là một tin đồn trên báo chí, một lời hứa hẹn ngớ ngẩn, một câu chuyện lá cải nữa về nước Mỹ… Nhạc pop thì ngoan hiền, vẫn còn rụt rè về đề tài đó, phim ảnh cởi mở hơn một chút, nhưng trong vòng tiếp xúc của Edward, đàn ông buộc phải hài lòng với những chuyện cười tục tĩu, những câu huênh hoang về tình dục một cách gượng gạo và tình bằng hữu sóng gió trong những bữa rượu điên cuồng, khiến cơ hội gặp gỡ con gái càng giảm đi thêm nữa. Những thay đổi trong xã hội không bao giờ diễn ra với nhịp điệu trơn tru. Có tin đồn rằng ở khoa Anh văn, và dọc đường chỗ trường Đông phương học - Phi châu học, dọc đường Kingsway chỗ trường Kinh tế London, đàn ông và đàn bà mặc quần bò bó đen và áo len cổ lọ quan hệ tình dục dễ dãi và thường xuyên, không cần phải gặp cha mẹ. Thậm chí còn nghe kể về những điếu cần sa vấn chặt nữa. Thỉnh thoảng Edward làm cuộc thử nghiệm, đi dạo từ khoa Lịch sử tới khoa Anh văn, hy vọng tìm thấy bằng chứng về một chốn thiên đường trên trái đất, nhưng những hành lang, những bảng thông báo, và thậm chí cả những cô gái nữa, trông cũng chẳng khác gì”. Trên cái nền bối cảnh xã hội ngột ngạt và bi hài, khi mà “trò chuyện về những trở ngại trong tình dục là điều không thể”, Trên bãi biển Chesil được mở ra như thế này “Họ còn trẻ, có học thức, và cả hai đều còn trinh trong cái đêm đầu tiên, đêm tân hôn của họ”. Câu chuyện, sau đó được dệt nên từ những diễn biến tâm lý đa chiều (và căng thẳng!) của hai kẻ còn trinh ấy. Trong thời khắc được xã hội nhìn nhận là quyết định của cuộc đời một con người, khi cả hai chính thức trưởng thành và được phép khám phá cơ thể nhau một cách hợp pháp và phải đạo, thì mỗi người lại bị giam cầm trong những bối rối của riêng mình, với Edward là nỗi lo “sẽ gặp điều mà anh đã nghe ai đó miêu tả là “tới quá sớm”, còn Florence nghiêm trọng hơn nhiều, khi cô “phải trải qua một cơn sợ hãi mang tính bản năng, một sự kinh tởm vô vọng có thể cảm thấy rõ rệt như say sóng”. Ian Mc Ewan, thấu hiểu và kỹ lưỡng đến đáng ngạc nhiên, với khả năng đi sâu vào từng ngõ ngách tâm lý của nhân vật, và diễn tả tỉ mỉ từng biến động nhỏ nhất trong cơn kinh hãi của hai kẻ chưa-biết-gì, đã lần đầu tiên đưa người đọc bước vào căn phòng đêm tân hôn với hình ảnh chiếc giường hẹp trải ga trắng có bốn chiếc cọc màn được lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh. Tâm trạng căng thẳng của cả hai nhân vật đều được cụ thể hóa thành những rung động thể chất gây ấn tượng mạnh với độc giả “Edward mỉm cười trong lúc ngả người ra sau, tay vẫn cầm ly rượu vang và gọi với ra sau lưng… nhưng cánh tay cầm ly rượu run run trong lúc anh đang gắng sức kiềm chế niềm hạnh phúc bất ngờ, sự phấn khích của anh” hay “Anh cảm thấy một áp lực kinh khủng thu hẹp những ý nghĩ của mình, ngăn cản lời của mình, và anh đang chịu đựng phiền toái lớn về thể chất - quần ngoài hay quần lót của anh có vẻ đã co lại”, riêng với Florence cảm giác về đêm đầu tiên được đồng nhất với những cơn buồn nôn thể nặng “bất cứ khi nào ý nghĩ hướng về một cái “ghì sát” - cô không thích bất cứ thuật ngữ nào khác - dạ dày cô thắt lại đau đớn và cô thấy tanh tanh nơi cuống họng”. Khốn khổ! Có điều gì đang xảy ra với hai con người này? Ian Mc Ewan đã tìm lời giải trong quá khứ, nơi người đọc gặp lại cậu bé Edward, con cả trong một gia đình nghèo có người mẹ điên sau một tai nạn và người cha một mình chèo chống mọi việc. Còn Florence lớn lên bên bà mẹ trí thức lạnh lùng xương xẩu và ông bố giàu có và dâm đãng. Trong khi Eward tôn thờ Rock & Roll thì Florence khinh rẻ bà mẹ không biết đến một nốt nhạc, cô theo học trường Cao đẳng âm nhạc Hoàng Gia để trở thành một nghệ sĩ vĩ cầm trong tương lai không xa. Cô tôn thờ những thính phòng lạnh lẽo, những thính giả am tường, nhưng già nua như những hóa thạch với đốt tay sưng vù vì viêm khớp. Edward biết về tình dục như những thìa chất lỏng tự tạo trong chốc lát để thanh thản trở lại với bài vở và công việc nghiên cứu của mình. Florence biết về tình dục qua những cuốn cẩm nang úp úp mở mở, những ký ức mù mờ về nhiều chuyến đi xa với bố năm mười hai tuổi, và cô ghê tởm nó. Hai con người khác biệt tình cờ gặp nhau trong cuộc họp của những người phản đối vũ khí hạt nhân (!), và ảo tưởng lập tức xuất hiện trong ý nghĩ của Edward “Cô mặc một chiếc váy vải bông trắng xòe ra như váy dạ hội, thắt lưng da nhỏ màu xanh da trời khít quanh eo. Trong dây lát, anh nghĩ cô là y tá; một cách trừu tượng và tiện lợi, anh thấy các cô y tá khá gợi tình, bởi họ - anh thích tưởng tượng như vậy - đã biết hết mọi điều về cơ thể anh và những nhu cầu của nó”, và sau này “Anh đã có một lịch sử khá dài đụng độ với tính thẹn thùng của Florence… nhầm lẫn mà coi đó là một kiểu e thẹn, một tấm mạng theo thói thường che đậy khả năng tình dục giàu có”. Florence, trái lại, thích ở bên người đàn ông này như một người bạn, người cha, một tình yêu không gợn chút nhục dục. Ian Mc Ewan dành hơn một nửa cuốn tiểu thuyết mỏng của mình để tái hiện lại trước mắt người đọc bối cảnh thời đại, câu chuyện gia đình riêng rẽ và nỗi ám ảnh quá khứ của mỗi người, trước khi trở lại câu chuyện đêm tân hôn. Và qua sự hồi tưởng ấy, người đọc phần nào hiểu được khác biệt về nguồn gốc xuất thân, những ràng buộc của xã hội và thời đại, bí mật thời thơ ấu, và đặc biệt là sự mải mê chạy theo mẫu hình mình ao ước của mỗi người hơn là cố công tìm hiểu bản chất thực của người kia đã dẫn họ đến đêm nghẹt thở này. Thêm một điểm nhấn cuối cùng, khi Edward không còn đủ sự kiên nhẫn của một chú rể năm 1962, họ vĩnh viễn xa nhau trên bãi biển Chesil, như những viên sỏi cuội tròn trịa nhưng đơn độc, và không bao giờ được kết nối, trên dải đời dằng dặc này. Một tiểu thuyết mỏng, được viết tốt, đặc biệt ở những đoạn diễn tả tâm lý nhân vật, dù cuốn sách không thật sự hoàn hảo khi sự phân bố độ dài ngắn giữa các chương khiến người đọc khó tập trung nắm bắt được cái mạch chính của tác phẩm, đồng thời tính logic giữa các chi tiết không đủ chặt chẽ để dẫn đến cái kết về một tình yêu tuy đổ vỡ, nhưng sâu nặng và chân thành. Có lẽ, sự hoàn hảo của Trên bãi biển Chesil nằm ở khía cạnh khác, đó là những đoạn tả cảnh như thế này “Một cơn gió đổi chiều hoặc mạnh lên đem lại tiếng sóng vỗ, giống như âm thanh thủy tinh vỡ xa xa. Màn sương đang dâng lên làm lộ ra một phần đường viền những ngọn đồi thấp, lượn phía trên bờ biển càng ngày càng xa về phía Đông. Họ nhìn thấy khoảng mượt mà màu xanh dạ quang - có thể là mặt nước ánh như lụa của chính biển, hoặc của khu phá, hoặc bầu trời - thật khó phân biệt. Ngọn gió nhẹ đổi chiều mang qua cánh cửa chớp khép hờ một sự cám dỗ, mùi hương mằn mặn của oxy và khoảng không rộng mở…”. Không rõ, từ khi Trên bãi biển Chesil ra đời, đã có thêm bao nhiêu người đặt chân lên bãi biển sỏi cuội ấy, vì cuốn sách? *** Trên bãi biển Chesil chỉ miêu tả vài giờ khắc ngắn ngủi trong đêm tân hôn của hai người mới ngoài 20 tuổi, nhưng lại dồn nén trong đó nhiều suy tư và những trải nghiệm trong cuộc đời lạ lùng này. Ở đó, vào năm 1962 có một “cơn bão” đã đổ bộ vào đêm tân hôn của Edward và Florence – những con người còn rất trẻ và có học thức. Ðó là cơn bão được tích tụ từ “tính cách và quá khứ của hai người, sự thiếu hiểu biết và nỗi sợ hãi, tính nhút nhát, mẫn cảm, thiếu các quyền hoặc trải nghiệm…”. Có một câu mà những người trẻ tuổi rất hay gặp trước, trong và thậm chí là sau khi quyết định sẽ gắn bó đời mình với một người nào đó, rằng liệu mình đã sẵn sàng chưa? Những người lớn thường tự nhủ sẽ bằng một cách nào đó giúp con cái không vấp lại những lỗi lầm mình đã từng vấp, khóc lại những giọt nước mắt mà mình đã từng khóc. Nhưng điều tự nhủ đó cũng giống như những quyển sách được xếp vào ngăn “Làm thế nào”, tỉ như Làm thế nào để trở thành một người chồng hoàn hảo? hoặc Bảy bước đi tới một gia đình hạnh phúc – tức là một kiểu chìa khóa không thể mở được hết tất cả các cánh cửa của ti tỉ ngôi nhà trên mặt đất này. Bởi rất đơn giản là có những điều không trường lớp nào, không thầy cô nào, không sách vở nào, không cha mẹ nào, không bạn bè nào, hoặc thậm chí là không kinh nghiệm đau thương trước đó nào có thể dạy dỗ ta được. Trong một số chủ đề nhất định, mỗi người trẻ – mỗi viên sỏi trong bãi biển rộng lớn của cuộc đời này – sẽ phải đơn độc trong hành trình tìm kiếm và tìm thấy những bài học nào đó bằng việc tự mình trải nghiệm nó. Và trong hành trình đơn độc đó có một thái độ mà người trẻ rất cần phải chuẩn bị cho mình, chính là sự cởi mở. Cởi mở trước hết là với chính bản thân mình, sau đó đến những người mình thương yêu, và sau nữa là với phần còn lại của thế giới này. Như Haruki Murakami từng đề cập trong Rừng Na Uy – cũng là một câu chuyện về những người trẻ tuổi khác: “Chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta cởi mở cõi lòng mình? Người ta sẽ tốt lành hơn”. Tất nhiên đó không chỉ là điều mà ta có thể cảm nhận được từ cuốn tiểu thuyết mới nhất của Ian McEwan – cuốn sách được vào danh sách đề cử Giải Booker 2007.   Mời các bạn đón đọc Trên Bãi Biển Chesil của tác giả Ian McEwan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bay Đêm
Ngay khi ra mắt độc giả vào năm 1931, Bay đêm - được Antoine de Saint-Exupéry viết trong những ngày lưu lại Argentina - đã được công chúng hào hứng đón nhận và giành được nhiều giải thưởng của giới phê bình ở cả Pháp và Mỹ, trong đó có Giải thưởng Fémina uy tín. Với Saint-Exupéry, Bay đêm trên hết là một khúc tráng ca về màn đêm và những con người dũng cảm đi tiên phong trong ngành hàng không. Ở tác phẩm này, lại một lần nữa, vốn kinh nghiệm của một phi công lão luyện đã giúp ông vẽ nên những khung cảnh hùng vĩ đầy sắc màu, đầy thơ mộng nhưng cũng ẩn giấu những nguy hiểm khôn lường dưới đôi cánh bay. Tác phẩm đã được xuất bản ở Anh và Mỹ ngay từ năm 1932 và một năm sau đó, được hãng Metro Goldwyn Mayer chuyển thể thành phim, đưa tên tuổi của Saint-Exupéry đến toàn thế giới. “Bên dưới đôi cánh bay, những quả đồi đã rạch sâu thành đường xé nước thẫm màu trong ánh vàng ban chiều. Đồng nội rạng rỡ ánh sáng, sáng kéo dài đến bất tận: ở đất nước này đồng nội không khi nào ngừng hắt lên ánh vàng, cũng như vào lúc tàn đông, chúng không khi nào ngừng hắt lên màu trắng tuyết. Đôi khi, sau trăm kilômét thảo nguyên còn hoang vắng hơn cả biển cả, anh bay ngang một nông trại hẻo lánh, anh chợt thấy như nó chở nặng những kiếp người lui lại phía sau, giữa những sóng cồn đồng cỏ, và thế là anh đã nghiêng cánh chào con tàu thủy ấy.” *** BAY ĐÊM – ANTOINE DE SAINT EXUPÉRY #Thái Trung Tín #14CVH1 Là câu chuyện về một thế giới riêng tư, chỉ có những con người sống trong thế giới ấy mới cảm thấy mình được thảnh thơi và thoải mái, Bay đêm của Saint – Exupéry đại diện cho tiếng nói của thời đại vào những năm thập niên 30 của thế kỷ XX, đặc biệt là những người hoạt động trong ngành hàng không. Cuốn sách được viết nên sau một vụ tai nạn máy bay vào năm 1923, Saint – Exupéry bị giải ngũ, ông không còn lái máy bay tại trung đoàn Không quân ở Strasbourg và Casablanca. Bay đêm chuyên chở những giá trị về số phận của con người trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của thời đại. Nó như một thông điệp đẹp đẽ nhất, mang trọn ý nghĩa sống mãnh liệt về sự dũng cảm kiểu mới trong thời đại công nghiệp. Toàn bộ Bay đêm là sự tương tác “hài hòa” giữa những phi công như Fabien, những giám đốc cấp trên như Revière hay những Kiểm soát viên không lưu, những thợ máy và cả vợ của Fabien là Simone Fabien. Và hơn hết, dưới cánh bay là một chuỗi câu chuyện dài cho những số phận bi tráng, nghiệt ngã: “Đôi khi, sau trăm kilômét thảo nguyên còn hoang vắng hơn cả biển cả, anh bay ngang một nông trại hẻo lánh, anh chợt thấy như nó chở nặng những kiếp người lui lại phía sau, giữa những sóng cồn đồng cỏ, và thế là anh đã nghiêng cánh chào con tàu thủy ấy”. Cứ ngỡ Fabien sẽ may mắn trở về bình an như những chuyến tàu chuyên chở thư tín khác, nhưng cuối cùng mọi thứ đều vùi trong sự chờ đợi mỏi mòn. Hôm ấy là lúc nửa đêm trong lúc chợp mắt với vợ mình, Fabien nhận được cuộc gọi theo lệnh của Revière sẽ đảm nhiệm chuyến bay đêm đi châu Âu, trên con tàu Patagonia. Trước những nỗi lo lắng của vợ Fabien, chàng phi công điềm tĩnh trả lời những câu hỏi từ phía vợ mình với một nụ cười mỉm: “Thành phố này... anh sẽ xa nó nhanh lắm. Ra đi vào lúc đêm thật tuyệt. Anh yêu ngôi nhà của anh. Anh có trời đẹp và đường anh đi lát đầy sao”. Fabien đại diện cho kiểu người dũng cảm nhất trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Đối với anh, công việc bay đêm chưa bao giờ làm anh chán nản. Anh âm thầm vượt qua bóng tối, vượt qua những cơn dông hãi hùng, vượt qua biển đêm sâu thẳm hay chinh phục dãy núi Andes bằng đôi bàn tay vững chắc, quyết đoán. Anh chinh phục chúng bằng những kinh nghiệm của riêng anh, bằng sự tin đoán và trí tuệ của một người phi công. Fabien dường như biết được mình khó có thể quay trở về, khó có thể sống sót vì mọi thứ với Fabien đã tắt lịm, chỉ còn mình Fabien trong buồng lái và xung quanh anh là bầu trời tĩnh mịch. Anh bị tách bạch vào một thế giới mới, anh không thể nhận bất cứ nguồn thông tin nào từ các trạm điều khiển Không lưu: Trelew, Commodoro, San Antonio, Bahia Blanca, Buenos – Aires: “Đối với người phi công, đó là một đêm không bờ bến, vì nó không dẫn tới một bến đậu (dường như mọi bến cảng đều không thể tới nổi) cũng chẳng dẫn tới bình minh: trong vòng một giờ bốn mươi phút nữa sẽ hết xăng. Vì sớm hay muộn cũng bắt buộc phải đắm chìm mù mịt trong cái dày đặt này”. “Anh thấy như thể vật chất cũng nổi lên phản kháng. Mỗi lần lao xuống, động cơ lại rung mạnh khiến cho chiếc máy bay cả toàn khối rung lên như nổi giận. Fabien kiệt sức để chế ngự con tàu, đầu anh chúi sâu trong buồng lái, trước mặt là đường chân trời xoay tròn chuyển vần, vì ở bên ngoài anh không phân biệt nổi giữa khối trời và khối đất, lạc lõng trong bóng đêm hỗn độn, một bóng đêm thời hoang sơ của muôn loài”. Dù bản thân có giỏi đến đâu, đứng trước cơn phẫn nộ của thiên nhiên, con người ta đều cảm thấy mình bé nhỏ: “Anh lẽ ra có thể đấu tranh thêm nữa, cố tìm một cơ may: không có cái định mệnh bên ngoài con người. Nhưng có một cái định mệnh bên trong con người: sẽ tới cái phút giây con người thấy mình vô cùng nhỏ yếu; khi ấy các sai lầm cuốn hút ta như con choáng váng”. Và dẫu Fabien đối diện với ranh giới giữa sự sống – cái chết, anh vẫn giữ thái độ lạc quan, anh cố gắng từng phút một để tìm kiếm bầu trời của chính mình, tìm kiếm ánh sáng. Nơi đó chỉ có mình anh cảm nhận được mọi khoảnh khắc của đời người, chỉ có mình anh hiểu được niềm tin yêu cái đẹp và những hoài niệm quan trọng cỡ nào, và hơn bao giờ hết “Fabien nghĩ mình đã bay tới những xứ sở huyền hoặc lạ kỳ, vì tất cả bỗng trở nên sáng lòa, cả tay anh, quần áo anh, đôi cánh anh. Vì ánh sáng không tỏa xuống từ các thiên thể mà tỏa ra từ bên dưới anh, chung quanh anh, từ những đám dự trữ màu trắng kia”, “Anh lang thang giữa vô vàn vì sao tích tụ dày đặc như một kho báu, trong một thế giới không có gì khác, tuyệt nhiên không có gì khác đang còn sống ngoài anh”. Fabien đã chiến thắng bản thân mình, anh đã cống hiến hết khả năng của mình trong quãng thời gian được bay và còn bay được. Anh hoàn thành trách nhiệm được giao một cách xuất sắc, cho đến khi “anh lang thang giữa những đá quý lạnh cóng, giàu có đến vô cùng, nhưng cái chết đã kề”. Revière cũng thế, dù cho ông là người phụ trách cả mạng lưới các tuyến bay, song ông vẫn có những lần bị tình cảm, cảm xúc chi phối. Ông yếu đuối ngay trong sự bản lĩnh của chính mình. Ông đã từng nghĩ rằng những người điều khiển máy bay không được phép sai sót, dù đó là những chi tiết nhỏ nhất. Ông kỉ luật những phi công bay về trễ, ông không để tâm mấy đến những chuyến bay đáp cánh trễ giờ, miễn làm sao phải đúng giờ là được. Nhưng mọi thứ với ông chỉ là bề ngoài, ông tỏ vẻ trang nghiêm bởi vì ông biết công việc của ông chẳng hề dễ dàng, chỉ lơ là một chút thì những chuyến tàu thư kia sẽ không có cơ hội trở về. Ông trân trọng thời gian và nhận ra rằng “Tưởng chừng như thật sự vào một lúc nào đó, con người sẽ có thể có thời gian, tưởng chừng như đến đầu mút cuộc đời con người có thể giành giật được cái thanh bình diễm phúc mình vẫn thường mơ tưởng. Nhưng thanh bình là điều không có. Chiến thắng cũng có thể là điều không có. Không có cái bến đậu dứt khoát của tất cả các con tàu thư”. Không khác gì Fabien, Revière cũng có những lúc bị thiên nhiên quật ngã. Tại trạm Không lưu không nhận được tín hiệu nào, mọi máy móc hiện đại cũng trở thành những cổ máy chết hoặc sự chủ quan trong công việc đã vô tình giết chết những tay điều khiển cừ khôi: “Đó là một trận gió xoáy Thái Bình Dương, chúng ta được nhận thông báo quá muộn. Vả lại, những trận gió xoáy đó không khi nào vượt qua dãy Andes. Lúc ấy không thể đoán biết là cơn gió xoáy đó tiếp tục đi về hướng Đông”. Reviève đầy kinh nghiệm sống, ông là mẫu đàn ông quyết đoán. Khi tiếp xúc trực tiếp với những phi công thì sẽ tỏ thái độ khác, khi trực tiếp tiếp xúc với thanh tra Robineau lại với thái độ khác “Những con người ấy hạnh phúc vì họ yêu mến điều họ làm, và họ yêu như vậy, bởi vì tôi cứng rắn”. Có thể ông đã làm cho mọi người đau khổ, nhưng cũng bằng cách đó ông đem lại cho họ những niềm vui mạnh mẽ “Phải đẩy họ tới một cuộc đời mạnh mẽ, một cuộc đời có cả đau khổ lẫn niềm vui nhưng là cuộc đời duy nhất đáng kể”. Reviève tự trách mình tuổi đã cao trong khi công việc thì đầy rẫy ra đó “Biết bao công việc đã làm để đi đến cái bước này! Năm chục tuổi đời; năm mươi năm mình đã sống đủ đầy, đã tự đào tạo, đã đấu tranh, đã làm đổi dòng các biến cố, để bây giờ đây, đó lại là điều mình bận tâm và chất chứa và được coi là quan trọng bậc nhất trên đời... Thật là kỳ cục”. Khuôn mặt của toàn chuyến bay thật đẹp nhưng khắc nghiệt. Nó phải bắt chúng ta phải trả giá bằng nhiều con người, và là những con người trẻ trung nhất – những con người đã từng không biết mình cao đẹp “Ta không biết điều ta làm có phải là tốt hay không. Ta không biết rõ cái giá trị đích xác của kiếp người, của công lý cũng như của nỗi phiền muộn. Ta không biết đích xác niềm vui của con người có nghĩa lý gì. Không biết cả về một bàn tay đang run rẩy. Cả tình thương, cả sự dịu dàng...”. Cuộc sống vẫn bấp bênh chất chưởng, con người tìm mọi cách vật lộn giành giật với cuộc sống... Thế nhưng, còn việc tồn tại lâu bền, còn việc sáng tạo, còn việc đổi trao cái thần xác mềm yếu mỏng manh của mình thì lại khác, biết đâu hôm nay ta chiến thắng nhưng hôm sau ta thất bại; biết đâu hôm nay ta còn nhiệt huyết nhưng hôm sau ta dường như muốn dừng lại và buông bỏ mọi việc hay biết đâu hôm nay ta còn sống, còn cười nhưng hôm sau ta đã trở về với bầu trời, với những vì sao, mãi mãi. Bay đêm thật ra là một câu chuyện mà Saint – Exupéry muốn chia sẻ với tất cả những đồng nghiệp làm nghề hàng không, muốn chia sẻ với những con người đang sống trong xã hội công nghiệp. Bề ngoài họ có thể hào nhoáng nhưng tận sâu trong bên trong họ là những người cần được yêu thương và đồng cảm, những con người mà chẳng hề biết mình sẽ đi về đâu. Bay đêm là tiếng nói đại diện cho đất nước Pháp, cho toàn thế giới rằng ở đâu đấy trong cuộc sống này, vẫn còn những con người hy sinh thầm lặng, họ chỉ biết yêu bầu trời và xem bầu trời chính là ngôi nhà đặc biệt của họ. Đã cất cánh rồi thì phải chiến đấu đến cùng. Bay đêm dạy cho ta biết chấp nhận những điều rủi ro mà cuộc đời luôn luôn cho phép xảy đến, đùng một cái người vợ phải co ro vì thiếu chồng, đùng một cái phải nghẹn lời chia tay với “chiến binh” – là người thân của mình. Trơ trọi. Tàn nhẫn. Lạnh tanh. Cho đến hôm nay khi có thời gian nhìn lại, bản thân chúng ta sẽ càng biết trân trọng những con người hoạt động trong nghề hàng không. Và trên mỗi chuyến bay của cuộc đời mình, chúng ta mới thấu hiểu được rằng “Một khi đã vạch xong con đường, con người không thể nào không đi tiếp”. Lúc đó nhìn lại cuộc đời và tìm kiếm cho mình cái đam mê, sự nhiệt huyết và trách nhiệm với bản thân, cộng đồng và đất nước. Thế giới đó không có quá nhiều về sự thịnh vượng của vật chất, tiền tài mà là hòa nhập vào nhịp điệu của sự chia sẻ, hoàn thiện mình từng ngày và trên hết là biết quan sát cuộc sống. Và sau tất cả những giông bão bao quanh, người ở lại phải sống thay phần của người đã khuất, sống một cuộc đời trọn vẹn hơn. Với lối kể đứt quãng, kết cấu phân mảnh cùng giọng điệu chân thực. Bay đêm dựng nên một bức tranh nhiều màu sắc với khoảng trống khác nhau trong thời gian, không gian và khai thác chiều sâu tâm lý của con người thông qua hành động một cách đa sắc thái. Đọc từng câu chữ, ta có thể dễ dàng phát hiện ra chất điện ảnh trong Bay đêm, từ đó dựng nên bộ phim cho riêng mình – bộ phim về một chuyến Bay đêm chinh phục những chặng đường chông gai đang đón đợi. *** [Review 2018] Bay Đêm – Antoine de Saint-Exupéry Chất văn của Antoine de Saint-Exupéry luôn song hành hai mặt đối lập: một là cái thơ mộng, trìu mến, cái đẹp lẩn khuất trong sự vật, mặt còn lại chính là sự thực của cuộc sống vừa bình thản mà chân thật. Khi mà ta đã trót sa vào cái lớp lụa nhung kết từ chữ của Saint-Exupéry rồi mê mải tận hưởng nó thì ông lại dẫn ta vào cái mặt phẳng phũ phàng của hiện thực. Tôi không thấy cái bi lụy hay khắc nghiệt trong văn của Antoine de Saint-Exupéry, dù cho với những đoạn văn mà nhân vật cận kề sinh tử, thì câu chữ, khung cảnh ông tạo nên vẫn rất đỗi êm dịu, đẹp đẽ như cái vuốt từ ngón tay người thương, hoặc là sự chân thành, hy vọng và nghiêm cẩn đằng sau nỗi suy tư của người ở lại. Tôi đã chẳng biết phải viết tiếp như thế nào sau mấy dòng chữ trên cho đến khi lại có một đêm mất ngủ, nằm thao thức rồi chợt nhớ tới Bay Đêm, liền ngồi dậy bật máy lên gõ thử vài dòng. Cũng xin nói, mấy câu có vẻ màu mè trên là cảm nghĩ của tôi sau khi đọc hai tác phẩm của Antoine de Saint-Exupéry mà thôi, không dám múa rìu qua mắt thợ. Còn lẽ sao bài này lại đổi đại từ nhân xưng thành “tôi”, vì tôi muốn vậy thôi.   Antoine de Saint-Exupéry ngoài việc làm nhà văn thì còn kiêm nghề phi công, nên qua Bay Đêm mà khắc họa lại cho người đọc cái niềm vui, tình yêu, khó khăn, dấu ấn của nghề phi công thuở ngành hàng không còn mới sơ khai. Nhiều người, trong đó có cả tôi đều kêu rằng Bay Đêm khó đọc quá, dù rằng nó chẳng nặng chuyên môn khó hiểu nhưng ta lại bỡ ngỡ với cách viết của Saint-Ex khi ông cứ liên tục đổi góc nhìn giữa các nhân vật với nhau mà viết. Đôi khi dịch giả Châu Diễn lại làm người đọc thêm bối rối bằng vài chỗ dịch như sau: “Như một hành trang, ông luôn luôn mang theo cái vẻ âu sầu ấy.”. Nhưng tôi xin cam đoan với bạn, nếu bạn kiên trì đọc tới trang 59 rồi lật sang số 60, trải nhiệm đọc của bạn bỗng trở nên mượt mà rất nhiều. Nếu chưa được, hãy dành cuốn sách này cho những đêm mất ngủ, bật đèn lật sách, mơ màng vượt biển ngắm sao trên cánh con tàu bay chất đầy thư gửi nơi xa.   Như tôi đã nói, cuốn truyện chừng hai trăm trang này kể về những chuyến bay vận chuyển thư tín diễn ra trong cảnh đêm và qua nhiều góc nhìn khác nhau từ những con người đã gắn mình với công việc ấy: người chỉ huy, người truyền điện tín, phi công, ông thanh tra hay người vợ trẻ của anh phi công. Tôi thích góc nhìn của Rivière – vị thủ trưởng chỉ huy các chuyến bay đêm, một con người vừa nghiêm khắc, gan lì, không nhân nhượng nhưng cũng có lúc mềm lòng để suy tư về những con người làm việc dưới quyền chỉ huy của ông. Đọc những đoạn văn trăn trở của ông mà tôi vừa không đồng ý lẫn nể phục tinh thần quyết đoán của Rivière. Ông rèn luyện cấp dưới của mình để họ nghiêm túc với công việc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh và dám chịu trách nhiệm với việc mình làm. Nhưng ngược lại, đôi lúc ta lại thấy Rivière quá xa cách, không biết cảm thông với những người đồng nghiệp. Dầu sao vẫn phải thừa nhận rằng Rivière đúng, trên cương vị của một người thủ lĩnh, ông phải duy trì tỉnh táo, nghiêm khắc, tránh bi lụy để đương đầu với khó khăn và duy trì nhiệm vụ. Tai nạn luôn có thể xảy ra và từ những đau khổ, ta phải rút ra bài học, cải thiện hơn nữa, như chính Rivière nhận định: “Những thất bại tăng thêm sức mạnh cho những kẻ sung sức.” — Rivière Nhưng dù hành động của Rivière có phục vụ cho mục đích cấp tiến nào đi chăng nữa thì sinh mạng, sự an toàn của con người luôn là ưu tiên và phải được pháp luật bảo hộ. Trong một cuốn truyện ngắn thì thôi cũng không nên yêu cầu nhiều. Với Rivière, màn đêm là vô tận, là trách nhiệm không ngừng nghỉ. Thì với Fabien, với những người phi công khác, mặt đất là chốn xa xôi, bầu trời bất tận mà đẹp đẽ, là nỗi chán chường, sự hào hứng, nỗi nhớ đất liền, là sự tự hào về con tàu bay. Tôi thích cả bầu trời sao trăng giữa giông bão của Fabien, thích cả bầu trời của Fabien qua ánh mắt mến mộ của người vợ trẻ: “Anh có trời đẹp, đường anh đi lát đầy sao.” Nay tôi xin dừng bút, vì thực là hết chữ rồi. Có nhiều đoạn văn đẹp trong Bay Đêm tôi sẽ không trích lại, gập cuốn sách này mà phải gật đầu đồng ý với lời bạt ở bìa sách: Bay đêm đẹp, mê hoặc mà đầy nguy hiểm. ***   Rating: 5 out of 5. Saint-Ex vẫn như thế, vẫn cái giọng văn trữ tình đẹp đẽ như thơ ấy mà ta đã mong được gặp lại kể từ Hoàng Tử Bé, dẫu rằng lần này đó là chất thơ trong đanh thép. Trước khi được nói đến điều ta ghi dấu nhất từ cuốn sách, ta xin được cảm thán cách Saint-Ex miêu tả bầu trời đêm với sao, trăng, mây gió và giông tố. Niềm say mê, tình yêu tha thiết với ánh sáng tuyết trắng của trăng và sao trải lên sáng lóa trên dải mây ngàn là điều dễ hiểu, nhưng dường như ta còn thấy trong ông là niềm bao dung, biện hộ cho cả những cơn giông bão dữ dội nuốt chửng đồng đội của ông. Ta đọc và nghe tình yêu ấy ngấm vào mình một cách dịu dàng, từ khi nào ta thôi còn oán trách những khắc nghiệt trên đường đi nữa? Ngày xưa khi học môn Xác suất thống kê, ngụp lặn trong vô vàn công thức tính toán, ta còn nhớ thầy giáo đã bảo rằng: “Các em có thể quên môn học này, có thể quên mớ kiến thức của nó, nhưng đừng quên nguyên tắc Số Lớn khi bước ra đời”. Khi ấy ta chỉ lờ mờ hiểu được cách vận dụng của nó trong các quyết định: Không có gì tuyệt đối cả, nếu phải chọn hãy chọn phần lớn. Nhưng đến khi ta biết đến Rivière, một hình tượng của người lãnh đạo, người mang trên mình sức nặng của Vĩ Đại và Chiến thắng, ta đã sáng rõ hơn về cái được gọi là Số Lớn. Những thất bại, những mất mát đã xảy ra, và sẽ tiếp tục diễn ra nhưng không vì thế mà Rivière chậm trễ, ngưng trệ một chuyến tàu. Ông sẽ không vì một sinh mạng đã tan biến, một hạnh phúc đã ngừng thở mà bỏ cuộc, mà không tiếp tục đưa những con tàu vào đêm tối. Tại sao một chuyến tàu thư cho một thành phố lại quan trọng hơn mạng sống quý giá của một con người, hơn cả hạnh phúc của một gia đình êm ấm? Tại sao cả một dân tộc điêu đứng cho một bức tường mang tên Vạn lí trường thành? Tại sao hàng vạn người chết đánh đổi cho những hòn đá xếp chồng lên nhau mang ý nghĩa Kim tự tháp? Có đáng giá không khi biết bao hạnh phúc để đánh đổi cho những sự vật như thế? Có, “Quyền lợi chung do các quyền lợi riêng hợp thành: nó không biện bạch thêm một tí gì khác.” Có một thứ gì đó còn cao quý hơn cả những mạng sống, những hạnh phúc cá nhân ấy. Đó là cái gì? Hàng vạn số phận đã mất đi là nhiều, nhưng vẫn là số ít so với nhân loại này. Còn số lớn còn lại, họ nhận được thứ được gọi là Văn Minh, là Thành tựu, là những bằng chứng cho những điều Vĩ Đại vượt trên sức mạnh nhỏ bé của con người. Nếu không có sự hi sinh của số ít thì số ít ấy sẽ được sống nốt số phận của mình, và rồi cũng sẽ biến mất đi, nhưng nhân loại sẽ trôi đi như những hạt bụi không vết tích. Rivière đã làm đúng những gì cần làm, sự cực đoan ấy tàn nhẫn ấy không phải để thỏa mãn cho cái Tôi vị kỉ ngạo mạn, ông hết lòng bảo vệ những chuyến tàu, và cũng dũng cảm dâng hiến chúng cho Chiến thắng và Số Lớn. Ta quý trọng và nể phục những con người như Rivière, họ bước những bước vững chải qua sự yếu hèn của con người, nắm chặt trong tay niềm tin sắt đá để bước đến điều Vĩ Đại và dám chấp nhận những thất bại để đến gần với Chiến Thắng hơn. Chỉ cần có họ, nhân loại sẽ còn hi vọng về sự tiến hóa. Và cuối cùng, ta xin được trích dẫn một câu ta nghĩ rằng Saint-Ex đã nói hộ lòng mình bấy lâu nay: “Chúng ta không đòi hỏi sự vĩnh cửu, mà chỉ đòi hỏi không phải chứng kiến các hành động mà sự vật bỗng chốc mất hết ý nghĩa. Khi đó, cái trống rỗng bao quanh ta sẽ hiện ra…”. Khi đã chứng kiến những hành động ấy đôi lần, ta trở nên vô cùng sợ hãi cái sự thật rằng sự vật sẽ trở nên vô nghĩa trong đời sống này… Ta không biết mình sẽ thở thế nào trong sự chân-không ấy. Nhưng vẫn theo nguyên tắc Số Lớn, ta chấp nhận đánh đổi những giờ khắc trống rỗng khủng khiếp ấy để đi đến cái Chiến thắng mà niềm tin của ta xây dựng nên, như cách Saint-Ex xây dựng trong suốt đời mình. Mời các bạn đón đọc Bay Đêm của tác giả Antoine De Saint-Exupéry.
Bà Chúa Chè
Cuộc đời của tuyên phi Đặng Thị Huệ và bối cảnh đất nước thế kỉ 18. Những biến cố, những cuộc ganh đua quyền bính. Dưới góc nhìn của nhà văn Nguyễn Triệu Luật, hình ảnh của Đặng Thị Huệ hiện lên khác hẳn với rất nhiều tác phẩm đương thời. Bên cạnh Bà Chúa Chè là tác phẩm Rắn báo oán, viết về cuộc đời và số phận của Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ, vụ án Lệ Chi viên và số phận oan khiên của Nguyễn Trãi. Nguyễn Triệu Luật đã tự mình mở ra một dòng sáng tác tiểu thuyết lịch sử rất đáng trân trọng. Đương thời ông là nhà văn được độc giả yêu thích. Chẳng thế mà các nhà văn tài danh như Nguyễn Tuân, Hiền Chy, Đái Đức Tuấn... cũng như các nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng như Vũ Ngọc Phan, Trúc Khê, đều có những bài viết ca ngợi ông. Ngày nay, truyện của Nguyễn Triệu Luật vẫn rất đáng được đọc để hiểu về lịch sử Thăng Long một thời xa xưa, cũng như kĩ thuật viết văn của tiểu thuyết gia Việt Nam một thời cách nay cũng đã ít nhất là hai ba thế hệ. *** Nguyễn Triệu Luật (1903-1946), bút hiệu: Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ; là nhà giáo, nhà văn, nhà báo và là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng vào năm 1927 tại Việt Nam. Ông là người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội). Ông là cháu nội của Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890) và Cử nhân Nguyễn Án (1770 – 1815), thuộc một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và nhiều người làm quan lớn. Thuở trai trẻ, Nguyễn Triệu Luật học tại Trường nam Sư phạm Hà Nội, đến khi tốt nghiệp, lần lượt đến dạy tại một số trường công ở Tuyên Quang, Hà Nội, Hải Phòng. Năm 1927, ông cùng Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài tham gia thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng...Sau khi cuộc tổng khởi nghĩa thất bại, mười ba đồng chí của ông, trong đó có lãnh tụ Nguyễn Thái Học, bị thực dân Pháp xử chém ở Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm 1930; thì ông cũng bị thực dân cầm tù cùng với hai nhà văn khác là Nhượng Tống và Trúc Khê. Một thời gian sau ông được tha, nhưng bị buộc thôi nghề dạy học. Kể từ đó, ông quay sang làm báo, viết cho nhiều tờ như: Nam Phong, Trung Bắc tân văn, Ích hữu, Tao đàn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Nhật Tân...Trong những năm 1937-1939, ông được mời vào giảng dạy tại trường tư thục Lê Văn ở Vinh. Chính thời gian này, ông viết nhiều tác phẩm nhất. Năm 1940, ông bị thực dân Pháp đưa đi an trí, và qua đời năm 1946, lúc 43 tuổi [3]. Hiện nay, ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, có con đường mang tên Nguyễn Triệu Luật. Tác phẩm chính Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, vào năm 1935, nhân đọc cuốn Vua Hàm Nghi của Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật viết cuốn Ông Phan Trần Chúc bôi nhọ quốc sử, rồi sau đó ông soạn một loạt sách truyện ký lịch sử bao gồm: Hòm đựng người (in từng kỳ trên báo Nhật Tân vào năm 1936, 1938 in thành sách)[4] Bà chúa Chè (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1938) Loạn kiêu binh (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1939) Ngược đường Trường thi (Phổ thông bán nguyệt san số 46, 1939) Chúa Trịnh Khải (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1940) Rắn báo oán (1941) Thiếp chàng đôi ngã (in chung với Rắn báo oán, 1941) Bốn con yêu và hai ông đồ (1943) Chúa cuối mẻ (đăng dở dang trên tờ Tiểu thuyết thứ Bảy từ số 1, tháng 6 năm 1944 đến số 9, tháng 3 năm 1945). Ngoài ra, ông còn có nhiều tiểu luận, tạp luận đây đó trên nhiều báo và tạp chí đương thời, kể từ tờ Nam Phong tạp chí (1923), tờ Phụ nữ thời đàm mà ông là Chủ bút kế nghiệp nhà văn Phan Khôi trong 4 số cuối cùng, các tạp chí Tri tân, Tao đàn... Cho đến nay vẫn chưa sưu tập được đầy đủ. Năm 2011, Các tiểu thuyết lịch sử của ông đã được tập hợp in lại trong cuốn Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành. *** Năm ấy là năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 đời vua Lê Hiển Tông Vĩnh hoàng đế, nhà chúa vào năm thứ năm đời chúa Tĩnh đô vương Trịnh Sâm, lịch tây vào năm 1771. Một buổi trưa tháng năm, giữa mùa hạ. Hai bên cầu, hai cánh đồng ruộng chiêm nước ngập liền bờ, chạy thẳng tít đến lận chân núi Nguyệt Hằng và núi Chè. Giá không có những ngọn cây gáo nước lơ phơ trên mặt nước để phân bờ ruộng, giá không có mấy con trâu đương bừa bì bõm, nước chấm đến bụng, thì chiếc cầu và con đường người ta tưởng như vắt ngang một cái hồ rộng hoặc một cánh đồng lụt ngút ngàn. Trong cầu, một bọn vài chục người đương ngồi nghỉ mát, quang gánh không vứt bừa bãi giữa sàn cầu. Giữa cầu một bà già đương ngồi múc nước và chan canh riêu vào bún bán cho khách đi chợ về giải khát và đã đói. Ngoài ruộng, mặt nước mỡ cua hắt ánh nắng hạ đầu mùa, đưa lên toàn hơi lửa. Bọn ngồi trong cầu đều là bọn người tổng Ném đi bán chè ở chợ Lũng Giang chân núi Nguyệt Hằng về. Mời các bạn đón đọc Bà Chúa Chè của tác giả Nguyễn Triệu Luật.
Cư Kỉnh
Văn học nghệ thuật của một đất nước thì mang những đặc trưng riêng của đất nước đó. Tuy nhiên trong quá trình phát triển văn học nghệ thuật cũng chịu những tác động của các yếu tố bên ngoài, vì thế khi thì nó phát triển theo con đường đúng đắn, có khi lại đi lệch hướng. Và sự lệch lạc đó trong văn học nghệ thuật nó cũng gây những tác động tiêu cực tới nếp sống và cách suy nghĩ của con người. Trong tiểu thuyết “Cư kỉnh” tác giả Hồ Biểu Chánh đã nói lên được thực tế đó ở Việt Nam thời gian đầu thế kỷ XX. Nhân vật Chí Cao trong “Cư kỉnh” là một điển hình cho sự băng hoại đạo đức của một bộ phận trí thức thế kỷ XX. Chí Cao – một tiểu thuyết gia tên tuổi được nhiều độc giả biết tới, nhưng anh đã lợi dụng văn chương để làm u muội và lừa gạt tình cảm độc giả của mình. Cuối cùng anh đã phải trả giá cho những việc không tốt mà anh đã gây ra. Với cách hành văn giàu chất Nam Bộ, lối nói nhẹ nhàng thủng thỉnh, ngôn từ giản dị, trong khoảng hơn năm mươi trang nội dung Hồ Biểu Chánh đã cho ta thấy được phần nào sự phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đầu của thế kỷ XX và sự suy đồi nhân cách của một bộ phận trí thức thời kỳ đó. Tiểu thuyết giàu giá trị phê phán đồng thời cũng giúp ta sáng tỏ một chân lý sống: Gieo nhân nào thì hái quả đó, gieo gió thì phải gặp bão. Vì thế mà Chí Cao lừa gạt tình cảm của cô Túy đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Tiểu thuyết của ông, gồm hơn 60 quyển, chủ yếu xoay quanh các vấn đề đạo đức, nhân nghĩa, tình đời bị cuốn trôi, bị xen lẫn, phải vùng vẫy trong làn hương mê muội của tiền bạc. Đọc về Nam Bộ xưa là tiếp xúc với những ngôn từ có phần chân quê, lạ lẫm thêm cách nói chuyện hưỡn đãi, nhưng cũng không kém phần tinh tế vì những khía cạnh của một câu chuyện tưởng như chân chất bình thường lại được xoáy vào ở mọi góc cạnh, và bất giác khiến ta giật mình khi những gai góc của nó lộ ra. Đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, cũng là một bước nhìn lại quá khứ, không phải của tôi, mà là của con người, của thiên hạ, đế thấy con tạo xoay vần, nhân gian biến đổi, nói thiệt, không khỏi có chút chạnh lòng. *** Chủ bếp hầu đang ngồi lim dim ngoài cửa, trông cho mau được về trại ăn cơm, thình lình tên Tú bước vô đưa phong thơ của ông Huyện và mượn trình liền cho quan lớn. Chủ bếp thấy quan lớn đang viết nên lấp ló không dám vô. Cách một hồi, quan Chủ quận ngước lên thấy chú bếp thì hỏi: - Muốn chi đó, chú bếp? - Bẩm quan lớn, có thơ của ông Huyện hàm dặn đưa gấp cho quan lớn. - Đem vô đây. Quan Chủ quận lấy thơ mở ra xem, thì thấy thơ như vầy: "Kính bẩm quan lớn, Tôi kính bẩm cho quan lớn rõ: tôi mới nghe dường như trong nhà tôi có manh mối xa gần về vụ án mạng mà quan lớn đương tra xét đó. Tiếc vì tôi không có thể hỏi mà phân manh mối ấy được, vậy tôi cúi xin quan lớn vui lòng dời gót đến nhà tôi đặng tra xét tường tất cho ra chơn lý. Cúi xin quan lớn nhậm lời Huyện Hàm TÂN Kính bái thơ" Quan Chủ quận đọc thơ rồi ngài lắc đầu thở ra, thủng thẳng xếp thơ bỏ vào hộc tủ rồi đứng dậy bước ra cửa mà đi, không nói cho bà lớn hay, mà cũng không dạy bếp hầu đi theo. Bước vào cửa ngõ của ông Huyện Hàm Tân, quan Chủ quận thấy ông đương thơ thẩn trong vườn hoa, thì đi riết vô. Ông Huyện thấy quan Chủ quận đi một mình thì cũng bươn bả đón rước. Chủ khách chào nhau và dắt nhau đi vô nhà. Ông Huyện thấy một tên bạn làm vườn đang lui cui nhổ cỏ gần đó thì kêu mà biểu nó đi mời Hương quản. Quan chủ quận thì nghiêm nghị, còn ông Huyện thì tư lự, cử chỉ ấy làm cho cuộc hội diện chiều nay đã không vui vẻ, mà còn có không khí nặng nề khó chịu. Quan chủ quận vừa ngồi, thì bà Huyện ở trong bước ra chào, nét mặt quyết đoán chớ không có vẻ buồn lo. Quan Chủ quận không nói tới việc ngài mới đọc trong thơ, có ý nhường cho ông Huyện khởi đầu, đặng dọ coi việc nhà của ông Huyện chuyển biến ra thể nào. Công việc đến đây, dường như ông Huyện hối ngộ sự ông viết thơ mời quan Chủ quận. Ông ngó bà với cặp mắt buồn hiu và ngồi im lìm không nói chi hết. Biết chủ nhà khó mở miệng, và quyết đem sự tín nhiệm để thay sự ngần ngại ấy, quan Chủ quận mới chẫm rãi hỏi ông Huyện: - Ông Huyện nghe việc chi mà ông nói vụ án mạng dường như có manh mối? Câu hỏi ấy dường như xô đẩy ông Huyện bước tới, lại cũng chặn đường không cho ông thối lui, bởi vậy ông ngó bà rồi thủng thẳng nói: - Bẩm quan lớn, việc đó như vầy: hồi sớm mơi nầy tôi nghe người ta nói kín cho tôi biết lúc vợ chồng tôi đi Sài Gòn ở trển 10 bữa, thì ở nhà một đêm nọ, lối 10 giờ, có bóng người mặc đồ trắng, không rõ đàn ông hay đàn bà, ở phía sau vườn tôi vạch rào chỗ đám trầu mà qua bên vườn Chí Cao rồi hơn một giờ sau cái bóng ấy trở lại. Đêm sau cũng thấy như vậy nữa, mà lần nầy bên vườn Chí Cao lại có thêm một cái bóng nữa, hai bóng lần lần đi vô nhà Chí Cao, đến gần sáng mới trở ra tới rào, rồi một cái đi qua bên vườn của tôi.    Mời các bạn đón đọc Cư Kỉnh của tác giả Hồ Biểu Chánh.