Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 1

Vốn là học sinh của một trường chuyên cấp hai tại thành phố lớn, Anri đột ngột phải chuyển về học ở một ngôi trường vùng quê vào mùa hè. Những tưởng sẽ mất nhiều thời gian để làm quen với cuộc sống nơi đây, nhưng cô bé lập tức yêu bầu không khí khoáng đạt và dễ chịu của ngôi trường mới, khác hẳn với ngôi trường trước kia, đặc biệt là những ô cửa luôn để mở... Và cũng chính nơi đây, Anri đã có được những tình bạn thật đẹp cùng những rung động trong trẻo đầu đời… TỪ KHUNG CỬA SỔ LỚP 7D của nữ tác giả Atsuko Asano sẽ đánh thức những kí ức quý giá về thời thanh xuân hoa mộng trong mỗi chúng ta… *** Asano Atsuko sinh năm 1954 ở Okayama. Bà đạt giải Văn học Thiếu nhi Noma với “Battery” giải của Hiệp hội tác giả sáng tác văn học Nhật Bản với “Battery II” ngoài ra loạt truyện “Battery” cũng đạt giải Văn hóa Xuất bản Thiếu nhi của shogakukan. Năm 2011, bà đạt giải Văn học lãng mạn Shimase lần thứ 18 với “Tamayura” (Thoáng chốc). Bà là một tác giả đa dạng về thể loại, từ văn học thiếu nhi cho đến văn học đại chúng, tiếu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thế thao. Trong các tác phầm tiêu biếu, ngoài các truyện dài tập như “Trăng của Di Lặc”, “Anh đào Dạ Xoa”, “Hồng chín cây”, “Con đường bình minh”, “Bày vì sao trài đông”, “Làm tổ trên đất” của loạt truyện “Di Lặc”, loạt truyện “No. 6”, loạt truyện “The MANZAI”, “Sáng chói”, còn có “Tựa như quầng lửa”, “Bầu trời của sân”, “Tỉnh mộng”… *** Ijima Anri phải chuyển nhà vào mùa hè năm lớp 7. Cô đã đặt chân vào phòng học lớp 7D, một phòng học không còn được sử dụng nằm trong khuôn viên ngôi trường cấp hai lạ lẫm mà cô mới chuyển đến. Ở đây, cô gặp Ichii Kazuma. Kazuma sau khi gặp gỡ Anri đã nhờ Anri làm người mẫu cho tranh của mình. Rồi câu chuyện khởi đầu từ đó… Anri, Kazuma, và cả những người bạn không thể thay thế cùng gia đình. Cuốn tiểu thuyết khắc họa thời thanh xuân của Asano Atsuko, vẽ nên lứa tuổi mười bốn, vừa trăn trở vừa trưởng thành. *** Phòng học đó nằm ở cuối hành lang tầng ba, bên cạnh lớp 7C. Từ lớp 7A, 7B, 7C, luồng sinh khí, tiếng cười đùa, tiếng hò hét và giọng hát của các học sinh vang tới ồn ào đẩy sức sống. Thế nhưng, phía trước căn phòng đó lúc nào cũng lặng ngắt như tờ. Cái vẻ yên tĩnh ấy cứ như đang thủ thỉ “Chỉ có nơi này là khác biệt, chỉ có ở đây…” Vừa mở cửa, cô đã hắt xì hơi. Trong mũi cũng có cảm giác ngưa ngứa. Lấy tay phải bịt mũi, cô thử thở ra từng hơi ngắn. Phù, phù, phù, đúng ba lần. Ai đã chỉ cho mình cái mẹo chữa chứng hắt hơi này nhỉ? Vẫn bịt mũi, cô ngó quanh một lượt. Có thứ gì đó đang phát sáng lung linh. Là bụi. Trong luồng sáng xuyên vào từ khung cửa sổ, mỗi hạt bụi hóa thành từng hạt sáng nhỏ li ti, ánh lên lấp lánh. Phải chăng đây chính là nguyên nhân làm minh hắt hơi? Nhưng mà đẹp thật đó. Khung cửa sổ treo rèm màu kem, nhưng tấm rèm ấy mới chỉ được kéo hai phần ba. Cái kiểu dở dang như thể ai đó vội vàng không kịp kéo hết hoặc chỉ kéo qua loa cho xong. Cô lại đưa mắt quan sát khắp phòng một lượt. Ánh sáng xuyên qua lớp kính cửa sổ tràn vào trong phòng. Nó làm những hạt bụi sáng lấp lánh. Nắng chiếu sáng trắng cả sàn nhà. Bàn ghế được xếp chổng lên nhau ở trong góc, cạnh đó là chiếc xô, cây chổi (có vẻ) chưa sử dụng và một chiếc bàn giáo viên cũ kĩ. Thứ nào thứ nấy đều phủ lên mình một lớp bụi mỏng. Nhìn kĩ sẽ thấy, bụi cũng phủ lên cả sàn nhà. Chẳng biết nơi này trở thành phòng học bỏ không bao lâu rồi. Nghển cổ lên, tầm mắt Anri chạm tới tấm bảng đen. Tim cô bỗng đập dồn. Ở góc bảng ghi tên những người tới phiên trực nhật có hai cái họ “Otani” và “Ijima” nằm cạnh nhau. ”Ijima” là họ của Anri. Thị trấn này là quê hương của bố cô, có rất nhiều người mang họ Ijima. Ijima nằm rải rác khắp mọi nơi, nào là bệnh viện Ijima, hiệu sách Ijima, cả nhà hàng IJIMA nữa chứ. Khi căn phòng này vẫn còn là một lớp học, khi hai mươi tới ba mươi học sinh tập trung lại cùng học, cùng sinh hoạt, cùng cười đùa hay làm tổn thương lẫn nhau, chắc hẳn đã có một nam sinh hay một nữ sinh mang họ Ijima. Có điều, chuyện cỏn con đó sao lại làm tim cô đập nhanh đến vậy nhỉ? Phải chăng là vì cái tên “Otani” được ghi bên cạnh thật giống với “Kitani”? Dường như gương mặt rám nắng nhìn nghiêng của Kitani Shuya vừa lướt qua trước mắt Anri. Đó là gương mặt nhìn nghiêng cô luôn ngắm nghía từ cửa sổ lớp học. vẫn chưa đầy hai tháng mà cô cảm thấy chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi. Từ cửa sổ phòng học, ánh mắt của cô từng đuổi theo bóng hình một thiếu niên ở trên sân. Cô đã chầm chú ngắm cậu mãi mà không biết chán. Chỉ nhìn thôi cũng làm cô thấy hạnh phúc. Quãng thời gian ấy, những ngày hạnh phúc tột bậc ấy, đã thuộc về quá khứ, một quá khứ vô cùng xa xôi. Những giọt mồ hôi chảy xuống đôi gò má. Đặt tay lên trán, Anri nhận ra mình đang mướt mát mồ hôi. Cô luôn bị vã mồ hôi ở mặt trước tiên, rồi mới tới lưng và phần dưới cánh tay. Từ nhỏ đã vậy. Chạng vạng rồi mà ánh mặt trời tháng Chín vẫn gay gắt như mùa hè, khiến cho căn phòng đóng kín cửa sổ nóng như một cái nồi hấp. Anri đặt tay lên cửa, lưỡng lự hồi lâu. Làm sao đây… Anri tự hỏi. Mình có nên bước vào không gian bụi bặm và nóng nực này không nhỉ? Đến giờ này rồi mà mày còn nói gì thế? Chính mày đã hạ quyết tâm rồi còn gì! Một giọng nói có phần cộc lốc và lạnh lùng đáp lại. Đó là giọng nói của chính Anri. Khi phân vân hay trán trở chuyện gì, dù nỏ nhỏ nhặt đến mức nào, Anri vẫn thường tự hỏi bản thân. Nè, phải làm sao đây? Có lúc cô nhận được câu trả lời ngay lập tức, cũng có khi không nghe thấy bất cứ điều gì. Còn lúc này, cô có cảm giác mình bị vỗ mạnh một cái vào lưng và bảo: “Cố gắng lên.” Đây là việc tự mình đã quyết cơ mà. Hãy làm cho đến nơi đến chốn. Lạch cạch. Lạch cạch. Nghe trên đầu có tiếng động, cô ngẩng mặt lên. Tấm biển nhựa ghi “7D” đang đung đưa. Nhiều khi không rõ là do truyền thống của trường hay tính cách của thầy hiệu trưởng, nhưng nhắc tới bầu không khí bao trùm khắp nơi ở ngôi trường cấp hai tư thục mà Anri đã theo học cho đến trước kì nghỉ hè, nếu nói tốt thì là nghiêm trang chuẩn mực, mà nói không tốt thì là xét nét, chú trọng tiểu tiết. So với nơi đó thì ngôi trường cấp hai này, ngôi trường cô mới chuyển tới sau khi kết thúc kì nghỉ hè vào tuần trước, có bầu không khí dễ thở hơn nhiều. Nhìn chung vẫn có quy định về đồng phục và nội quy, nhưng các thấy cô không cứng nhắc bắt học sinh tuân theo. Hôm nay, Anri đã quyết tâm thử buông xõa mái tóc mà cô vẫn luôn buộc túm hai bên. Cô cũng thử sơn lên móng tay chút sơn bóng không màu. Cô còn nâng gấu váy lên cao trên đầu gối. Đó toàn là những việc cô đã muốn làm từ rất lâu rồi. Xõa tóc, sơn bóng móng tay, cuộn váy ngắn lại. Những việc cô rất muốn làm, nhưng lại không biết làm vậy có nên không. Suốt buổi sáng hôm nay, cô cứ để ý ánh mắt của giáo viên, trống ngực đánh thùm thụp rồi lại bất giác cúi gằm mặt. Nhưng không ai nói gì cô cả. Không có lấy một lời nhắc nhở hay giáo huấn nào làm cô thấy hơi hẫng hụt. Trường công lập ở địa phương dễ dãi đến vậy sao? Hay là ngôi trường trung học cơ sở Ashiwara số I này là nơi đặc biệt có tư tưởng phóng khoáng? Khi cô đang mải suy nghĩ chuyện này chuyện kia thì, - Tớ cho cậu mượn dấy chun nhé? Một giọng nói vang lên từ chỗ ngồi kế bên. Đó là một nữ sinh với gương mặt tròn và bầu má láng bóng (dễ làm người ta liên tưởng đến trái táo). Trong lòng bàn tay cô ấy là một chiếc chun màu đen dùng để cột tóc. Ngực áo không đính bảng tên. - A? ơ? Ừm… cậu là… Cô bạn rút chiếc bảng tên bị giấu trong túi áo ngực ra rồi giơ lên trước mặt Anri. Ở đó có viết hai chữ Hán. - Satodate? Cặp mắt đen láy của cô bạn chợt dao động, bờ môi căng mọng hé mở. Nét mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên. - Bất ngờ nha! Sau khi nói vậy, cô ấy lặp lại thêm một lần nữa với giọng rất nhỏ “Bất ngờ thật đấy”. - Chỉ mình Ijima là đọc được họ của tớ ngay lần đấu tiên. Bất ngờ thật, bất ngờ thật nghen. Ijima thông minh ghê. - Không phải đâu… Tớ chuyển trường tới đã được một tuần, cũng nhớ được họ của các bạn thôi ấy mà… - Ôi dào, cậu lại khiêm tốn rồi. Mà vừa rồi là nói dối đúng không? Cô bạn quay mặt về phía Anri nở nụ cười láu lỉnh. - Từ sau hôm Ijima chuyển tới tớ đã nghỉ học suốt mà. Cậu đâu rảnh để nhớ họ của tớ chứ. - Ừm, nhưng mà… cái này… Quả thực là cô đã thốt ra một lời nói dối nho nhỏ. Đến tận ban nãy cô vẫn chẳng hề biết chỗ ngồi bên cạnh mình là của nữ sinh họ Satodate. Tuy biết cô bạn ấy nghỉ học nhưng Anri chẳng hề bận tâm. Cô bạn nhổm hẳn người lên. Từ cô ấy tỏa ra một mùi hương ngọt ngào. Có lẽ là mùi của son môi. - Tớ là Satodate Miho. Chữ Hán của “Miho” gồm có chữ “mi” (mĩ, xinh đẹp) và “ho” trong “inaho” (bông lúa). Bình thường, sau khi giới thiệu bản thân, người ta vẫn hay nói kèm thêm mấy câu chào hỏi xã giao kiều như “Mong sau này được bạn giúp đỡ” hay là “Từ từ làm quen với nhau nhé”, nhưng Miho không hề nói lời nào như vậy. Cô chỉ chìa lòng bàn tay đặt dây chun về phía Anri mà thôi. - Cậu có dùng cái này không? - Hả? - Cậu có thể dùng nó buộc tóc. Chắc thấy nóng lắm hả? - À… Ý cậu là vậy à? - Là vậy đó. Cậu dùng không? - Tớ không cần. Anri lắc đầu. Cô buộc tóc hai bên mãi rồi. Hôm nay là lần đầu tiên cô thả tóc ở nơi được gọi là trường học mà. Kể ra thì cô cũng thấy phần gáy và vai bị tóc phủ lên quả thực rất nóng, nhưng không hề có ý định buộc chúng lại. Sau khi từ chối thẳng thừng, Anri mới nhận ra Miho đã mở lời với cô bởi lòng tốt chứ không phải kiểu lăng xăng nhiều chuyện. Cô bắt đầu bối rối. - Xin lỗi cậu. Tớ để nguyên thế này là được rồi. Miho gật đầu. Cô nắm lấy sợi dây chun và nhét vào túi. Sau đó, cô mở vở và bắt đầu ghi chép gì đó, không có ý định nhìn về phía Anri thêm lần nào nữa. Anri băn khoăn tự hỏi chẳng biết có phải mình đã làm Miho cụt hứng không.   Mình đã chiếu cố bắt chuyện tử tế rồi, thế mà cậu ta lại cự tuyệt. Đồ khó ưa! Cứ thấy chảnh chảnh thế nào ấy nhỉ. Có phải cậu ta nghĩ mình là dân thành phố nên xem thường chúng mình không? Khó ưa quá, khó ưa quá! Đúng là kiểu người không thể mê nổi. Anri cảm giác như nghe thấy tiếng các nữ sinh xì xầm sau lưng. Cô chợt rầu rĩ. Nhưng cũng chẳng sao. Cô thì thầm trong lòng, bàn tay thu thành nắm đấm và đặt trên đầu gối. Vậy cũng được. Dù bị xì xầm sau lưng thế nào, bị ghét bỏ ra sao, bị đối xử tệ cỡ nào, mình vẫn sẽ sống đúng theo cảm xúc của mình. Cô đã quyết định như vậy rồi. Khi việc chuyển trường trở thành hiện thực, cô đã hạ quyết tâm. Mình sẽ sống đúng theo cảm xúc của mình. Không phải vì ai khác, mà sẽ thành thật với chính bản thân. Từ nay về sau mình sẽ làm như thế. Nếu không sẽ bị cuốn trôi, tình cảm của chính mình củng sẽ bị nhấn chìm. Thế cho nên… Miho bỗng ngẩng mặt lên. - Tớ có cả trắng và hồng đấy. - Hả? - Chun buộc tóc ấy. Chắc chả phải do Ijima ghét màu đen đâu nhỉ? Cậu không muốn buộc tóc thôi đúng không? - Ừ, đúng thế. Không liên quan đến màu chun đâu. - Thế thôi vậy. Cậu hợp với tóc dài lắm. Mỉm cười thêm một lần nữa, Miho lại cắm cúi nhìn vào vở. Hoàn toàn không thầy thái độ khó chịu gì hết. Dường như cô chẳng hề bận tâm tới sự cự tuyệt của Anri. Có thể cô cũng chẳng nghĩ là mình vừa bị cự tuyệt. Đối với Miho, chuyện có thể chỉ đơn thuần là “Tóc xõa trông có vẻ nóng → Tính cho mượn chun → Người ta đáp lại là không cần”. Chỉ vậy thôi. Tất cả mọi thứ thật khác với trước kia. Trước đây, bất kể là việc gì cũng đều cần chuẩn bị tinh thần để từ chối, cự tuyệt đề nghị của đối phương. Bởi hành động ấy đi kèm theo nguy cơ phá hủy tận gốc mối quan hệ bạn bè, quan hệ giữa người và người mà ta đã dày công xây dựng cho đến thời điểm đó. Cả Anri lẫn những người xung quanh cô đã phải mài giũa thần kinh thật nhạy bén, sao cho không bước chân vào phạm vi nguy hiểm. Họ phải luôn đề cao cảnh giác. Cảm giác thật nhẹ nhõm. Mọi thứ ở ngôi trường này đều được nới lỏng. Lạch cạch, lạch cạch. Tầm biển “7D” đang đung đưa. Ừm, đúng là lỏng thật. Nếu là trường cũ của mình thì nhất định không có chuyện để nguyên tấm biển của một lớp đã trở thành phòng học trống như vậy. Chắc hẳn người ta sẽ nhanh chóng tháo biển xuống, khóa cửa phòng lại và cấm học sinh ra vào. Rèm chắc chắn cũng sẽ được kéo nghiêm chỉnh, không để lộ một khe hở nào. Quan trọng nhất là, gần đây, vì mức độ ưa chuộng của dân tình dành cho khối cấp hai trực thuộc trường đại học dân lập nổi tiếng mà Anri theo học trước khi chuyển trường đột ngột tăng cao nên chẳng dám nghĩ đến cảnh số lượng học sinh thuyên giảm. Kể cả có mở rộng thì chắc cũng chẳng còn lấy 1 một phòng học trống nào. Anri từng là học sinh lớp 7D của ngôi trường cấp hai đó. Mời các bạn đón đọc Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 1 của tác giả Atsuko Asano & Phương Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Thơ Dữ Dội - Phùng Quán
Tuổi thơ dữ dội là tác phẩm dài bảy phần của Nhà văn Phùng Quán. Cuốn truyện xoay quanh cuộc sống và chiến đấu của các em thiếu niên tuổi 13, 14 trong trung đoàn Trần Cao Vân tại Huế. Từ khi đọc cuốn truyện này, nhắc đến Huế, nói đến Huế là tôi nhớ đến chợ Đông Ba, nhớ đến cây cầu nơi Tư dát mải bắn chim để Lượm bị bắt vô ngục, nơi Quỳnh sơn ca được cõng trên lưng với lời nựng "nặng như con gà con" rồi vẻ mặt đanh lại của em khi quyết không nhận quà từ gia đình gửi lên, nhà ngục nơi có Lượm lanh lẹ, nhân hậu cảm hóa Lép-sẹo rồi cánh đồng lúa rập rờn lẩn khuất bóng hình trốn chạy nhà ngục tụi Tây của Lượm, của Thúi, của Lép-sẹo... Câu chuyện xoay quanh cuộc đấu tranh tư tưởng, cách ứng xử của Mừng, Quỳnh sơn ca, Lượm, Bồng da rắn, Kim điệu, Vịnh sưa... Bao nhiêu năm rồi tôi vẫn khắc ghi câu nói trước khi chết của Mừng "Anh ơi, đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!" Một lời khẩn cầu của em được gửi đến Trung đội trưởng, không biết người mẹ vừa nằm xuống của em có nghe thấy câu nói đó không! Em gia nhập Vê-cu-đê, Vệ quốc đoàn là vì trong sân của khu này có cây tầm gửi có thể chữa được bệnh hen suyễn cho mẹ em. Em không dám hỏi xin, chưa dám trèo lên cây để hái lá cho mẹ! Em thật thà, ngô nghê, thương mẹ hết mực, nghe lời cấp trên hết mực nhưng tội cho em, em không biết em bị một đồng ngũ của em đã phản bội lý tưởng các em đi theo - Kim điệu - đã cài bẫy để đồng đội nghĩ em là Việt gian và đối xử với em theo cách đối xử với Việt gian. Không bị khuất phục bởi người cha tệ bạc là Việt gian dùng mơ tưởng về giàu sang, em chạy trốn. Nhưng hoàn cảnh không chiều người. Nơi kia, Kim điệu đã trở về, Kim điệu và kẻ địch đã lập mưu và trung đoàn mắc bẫy địch. Mẹ Mừng đi tìm Mừng, nghe tin con đi theo Việt gian, người mẹ đau xót quyết tâm theo kháng chiến để chuộc tội cho con mình. Em trở về. Tất cả bằng chứng chống lại em. Mẹ em giận em, không tin em. Em vẫn không khuất phục, vẫn cố hết sức để hoàn thành nhiệm vụ của một Vệ quốc đoàn. Mất mát lớn nhất trong cuộc chiến có lẽ là mẹ con em Mừng! Hai mẹ con em Mừng ra đi để lại trăn trối thiết tha "Anh ơi, đừng nghi em là Việt gian nữa anh hí!" và đỉnh đồi 96 ngày ấy được mang tên mới là núi mẹ con em Mừng. Quỳnh "sơn ca" là con trai cưng duy nhất của Phó tổng trấn Trung Kỳ, giỏi đàn piano, nhẹ nhàng như con gái. Yêu những bài hát của Vệ quốc đoàn và con người trong đó, em bỏ nhà đi theo Vệ quốc đoàn. Giẫm phải mảnh chai, bị nhiễm trùng, phải nằm Viện quân y em vẫn mang tiếng đàn của mình đi phục vụ bệnh nhân khác, vẫn sáng tác bài ca "Sông Ô Lâu kháng chiến", vẫn viết bản nhạc kịch Đi tìm thuốc cho mẹ,... em đã sống như con chim kia trong rừng - trước khi chết nó bay vụt lên hát một bài ca tuyệt hay rồi rơi xuống. "Mà em thì thích sông Ô Lâu, thích xê-ca, thích bạn em hơn. Còn ba thứ đồ ni - em ngẩng lên, khoát tay chỉ đống đồ lề bày ngổn ngang trên sạp nứa - vú với chị dẹp hết vô bị mang về, một viên thuốc em cũng không uống, một cái bánh em cũng không ăn mô!". Tinh thần em kiên quyết, thư em gửi về cho ba mạ em cho Phó tổng chấn Trung kỳ là tinh thần của em, là quyết tâm của em ngày đó, là "sông Ô Lâu kháng chiến". Có người nói rằng em đã uất ức vì những hành động của cha, đã vỡ tim mà chết ở tuổi 13. Còn đó Lượm, Châu - sém, Bồng da rắn... xin để các bạn đọc cùng tôi viết tiếp cảm xúc về thế hệ thiếu niên bất tử của ngày ấy! Mời các bạn đón đọc Tuổi Thơ Dữ Dội của tác giả Phùng Quán.
Tình Trong Chiến Hào - Lev Tolstoy
Trận chiến tranh Crimea diễn ra trong hai năm, từ 1854 đến 1856, nơi được nhà văn Tolstoï đến tận nơi, sống, nhìn cảm... và viết thành tác phẩm Sebastopol, là một trận chiến gây ra bởi chính sách hiếu chiến của Nga hoàng Nicholas I. Vị quân chủ Nga La Tư này là vị vua độc tài nhất trong tất cả những vị vua độc tài của lịch sử quân chủ Nga. Nga hoàng Nicholas I luôn luôn tìm cách bành trướng thế lực và biên giới nước Nga về phía biển Balkans và Bosporus. Để chống lại sự bành trướng này của Đế quốc Nga, hai nước Anh Pháp phải đồng minh với nhau và dùng quân lực ngăn cản.  Về phía Anh và Pháp, mặc dầu họ mở chiến tranh với Nga để bảo vệ những quyền lợi riêng của đất nước họ, nhưng họ vẫn gọi cuộc chiến tranh này với danh hiện cao đẹp là "cuộc chiến tranh của văn minh chống lại man dã". Như vậy một bên là quân Nga, một bên là Liên quân Anh-Pháp, bắn giết nhau ở biển Crimea. Rồi quân Nga bị vây trong thành phố hải cảng Sebastopol. Cả hai phe đều vi phạm những lỗi lầm quan trọng về chiến thuật, chiến lược. Con số tổn thất của hai phe đều lên cao. Ngưới ta ước lượng rằng sau hai năm chiến đấu trong Sebastopol bị bao vây và tấn công, quân đội Nga thiệt hại khoảng hơn 100.000 binh sĩ thương vong trong khi Liên quân Anh-Pháp mất tới 500.000 binh sĩ. Hậu quả quan trọng nhất của trận chiến tranh Crimea, là quân đội Nga bị tiêu tan huyền thoại bách chiến bách thắng, đánh đâu được đấy, đồng thời trận chiến này cũng trình bày với thế giới tình trạng lạc hậu của nền kinh tế và hành chảnh của Đế quốc Nga. Trận chiến này gây thiệt hại lớn cho chế độ quân chủ Nga La Tư. Nó làm cho những người Nga bảo thủ nhất, bảo hoàng nhất, cũng phải nghĩ rằng xã hội Nga nằm dưới chế độ quân chủ độc tài tuyệt đối của Nga Hoàng Nicholas I là một xã hội bị bóp nghẹt, chết cứng, không có tương lai và việc cần thiết phải làm ngay là việc cải tạo xã hội ấy. Phong trào đòi cải tạo xã hội nổi lên mạnh ở trong lãnh thổ Nga sau trận Sebastopol. Nga hoàng Nicholas I tuy độc tài và tàn bạo nhưng cũng phải chiều theo phong trào này. Cải cách lớn nhất của xã hội Nga sau trận Sebastopol là quyết định giải phóng nông nô Nga vào năm 1861. Tolstoï vừa đúng hai mươi lăm tuổi khi ông tới thành phố pháo đài Sebastopol bị bao vây vào tháng Mười năm 1854. Khi ấy, tuy còn trẻ nhưng Tolstoï đã là một sĩ quan nhiều kinh nghiệm chiến trường, bởi vì trước đó ông từng phục vụ trong một đơn vị pháo binh ở miền Cossack và từng lập được nhiều quân công, được thưởng nhiều huy chương. (Về sau Tolstoï lấy những kỷ niệm trong thời gian ông chiến đấu ở miền Cossack để viết thành truyện dài The Cossacks). Đầu năm 1851 Tolstoï tình nguyện gia nhập quân đội Nga đang chiến đấu với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở mặt trận Wallachia. Rồi khi quân đội Nga phải rút lui từ những thành phố dọc theo sông Danube về nước và pháo đài Sebastopol bị địch quân bao vây, cần tiếp viện, Tolstoï lại tình nguyện đến Sebastopol. Khi đã nhận rõ sự phi lý của chiến tranh, Tolstoï bắt đầu ca ngợi sự hiền hòa của tinh thần Thiên Chúa giáo, tinh thần này ngự trị tâm hồn ông suốt từ đó cho tới phút ông nhắm mắt lìa đời. Điều đáng nói nhất về Truyện Ký Sebastopol là cách nhận xét, diễn tả chiến tranh trong truyện này của Tolstoï đã ảnh hưởng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đến những nhà văn viết về chiến tranh hay nhất thế giới sau này như Stephen Crane và Ernest Hemingway. Và chính Tolstoï cũng bị ảnh hưởng của Stendhal, ông tự nhận rằng Stendhal đã dạy cho ông biết chiến tranh là gì và làm ông hiểu được chiến tranh. Có lần, Tolstoï nói với một người bạn văn: "Hãy đọc kỹ đoạn Stendhal tả trận Waterloo trong La Chartreuse de Parme. Trước Stendhal, làm gì có ai tả chiến tranh như thế? Tôi muốn nói là tả chiến tranh theo đúng sự thực. Bạn hãy nhớ lại cảnh anh chàng Fabrice cưỡi ngựa chạy trên chiến trường mà hoàn toàn ‘không hiểu gì cả’..." Trong những năm cuối cùng của đời ông, ông viết bản Tôi Thú Tội và quyết định từ bỏ tất cả những lạc thú ở đời, viết chúc thư chia gia sản cho người nghèo và bỏ nhà đi nằm chết lạnh lẽo trong một nhà ga vắng vẻ, tiêu điều. Nhưng giữa thời gian nhà văn sống trong thành phố Sebastopol bị bao vây và viết tập Tôi Thú Tội, còn có khoảng thời gian văn tài của ông lên tột độ khi ông viết Anna Karenina và Chiến Tranh và Hòa Bình. Tuy sống và viết, không lúc nào ông quên hoài bão thành lập một tôn giáo mới, thực tế, đem hạnh phúc đến cho con người ở ngay kiếp này đến với ông ở Sebastopol, vì tinh thần hiền hòa, yêu thương nhân loại, phản đối chiến tranh vẫn chan hòa trong hai tác phẩm lớn trên đây của ông. Mời các bạn đón đọc Tình Trong Chiến Hào của tác giả Lev Tolstoy.
Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống - Jean Teulé
Jean Teulé, một con người có nhiều tính cách và tài năng. Ông là người giới thiệu nhiều chương trình khác nhau trên truyền hình. Nhưng trên hết, ông vẫn thích viết. Thoạt đầu, ông cho xuất bản những cuốn tiểu thuyết như “Rainbow pour Rimbaud” (1991), tác phẩm này sau đó được dựng thành phim ngay. “L’oell de Pâques” (1992), “Ballade pour un père oublié” (1995), và “Bord cadre” (1999). Tiếp đến là cuốn “Darling” (1998), tác phẩm này cũng được dựng thành phim và được trình chiếu tại rạp vào tháng 11 năm 1997. Sau đó đến “Les Lois de la gravité” (2003), “Ô Verlain!” (1994), “Je, François Villon” (2006). Cuốn “Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống” xuất hiện năm 2007. Năm sau, 2008 ông lại trầm mình vào văn học và dâng hiến cho bạn đọc một cuốn tiểu thuyết dài và được bạn đọc chào đón rất nồng nhiệt “Chuyện tình của Bá tước Montespan”, một thiên tình sử thấm đẫm nước mắt nhưng không kém phần châm biếm mai mỉa một xã hội thượng lưu, quý tộc thối nát, đê tiện. Quan sát sâu rộng, ngòi bút sắc bén, Jean Teulé luôn luôn lao vào tận hang cùng ngõ hẻm những ngóc ngách của tâm hồn con người, để chắt chiu, nâng niu từng dòng cảm xúc, để truyền tới bạn đọc những tâm tư, nỗi niềm sâu kín luôn ẩn chứa đằng sau những tòa biệt thư xa hoa, những khuôn mặt đẹp, những bộ quần áo óng ả… *** Chúng ta hãy cùng nhau hình dung ra một cửa hàng, một doanh nghiệp gia đình đã thịnh vượng từ mười đời nay chuyên bán các loại dụng cụ tự sát. Họ ăn nên làm ra từ nỗi buồn và thất vọng của những người khác. Cho đến tận ngày họ gặp phải một kẻ thù cạnh tranh sinh tồn: đó là niềm vui được sống. Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống, tựa hồ như một lời quảng cáo “Bạn đã sống dở trong cuộc sống ư? Vậy với chúng tôi, bạn sẽ chết thành công!” Nhưng trong tác phẩm của mình Jean Teulé đã rất thành công. Chết và đặc biệt là tự sát, những câu nói và hành động này dường như là cấm kỵ trong xã hội chúng ta và không ai dám nhắc đến. Trong tác phẩm, điểm phán xét thường đặt ra rất sơ sài một cách cố ý… và nó ngay lập tức đã khiến chúng ta phá lên cười, đúng là chẳng có gì mang màu xanh hòa bình êm ả trong cửa hàng này cả, ngược lại là khác, nhưng chúng ta chỉ có thể bật cười trước những con số đánh dấu thứ tự các dụng cụ để có thể tự hủy hoại cuộc sống của mình, từ chiếc dây thừng bện bằng tay cho thật chắc đến món cốc-tai pha độc dược, rồi đến quả táo chứa chất cyanure hay trọn bộ kimono với thanh bảo kiếm dành cho một buổi hara-kiri truyền thống của Nhật Bản! Tất cả những phương tiện này được doanh nghiệp Tuvache gợi ý và cố vấn kiểu chết thật phù hợp cho mỗi khách hàng của mình. Họ thường thủ thỉ hỏi khách hàng có chuyện gì muộn phiền để đưa ra dụng cụ thích hợp… Một quy định vàng của cửa hàng: không bao giờ được chào “tạm biệt” với khách hàng mà phải nói “vĩnh biệt”. Trong gia đình doanh nghiệp điển hình này có năm dạng nhân vật: cha mẹ, những nhà chuyên môn, kỹ thuật viên, thương gia. Đứa con đầu lòng, trầm cảm kinh niên nhưng cực kỳ “sáng tạo” trong vị trí được đảm nhiệm, đứa con gái, hình mẫu lý tưởng của tuổi vị thành niên có tâm hồn xáo trộn dễ xúc động, và cậu con út cuối cùng, một viên cát thực sự trong ngành thương mại ủ dột này: Cậu bé nhìn đâu cũng toàn thấy màu hồng, đó là một đứa trẻ lạc quan muôn thuở, chính nó sẽ không ngừng đưa hạt cát lạc quan của mình vào trong công việc bán buôn của cha mẹ để dần dần giúp họ khuynh gia bạn sản trong ngành này. Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống là một tiếng cười sảng khoái thực sự, giúp chúng ta quên đi những lo toan, những bấn loạn mỗi khi gặp trắc trở trong cuộc sống hàng ngày. Mời các bạn đón đọc Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống của tác giả Jean Teulé.
Những ngôi sao Eghe Tập 2 - Gardonyi Geza
Trong hơn ba trăm năm (từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 17) chống lại những đạo quân viễn chinh và ách đô hộ của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân Hung đã bền bỉ chiến đấu và lập nên nhiều chiến công oanh liệt, trong đó có cuộc kháng chiến của quân dân thành Eghe năm 1552.   Eghe là cửa ngõ của vùng Thượng địa Đông bắc, đứng trấn giữ cho cả một vùng đất nước khá rộng lớn. Khi vòng vây của hai đạo quân Thổ khổng lồ, đầy nhuệ khí đã khép lại, trong thành chỉ có độ hai ngàn người già, trẻ, trai, gái. Quân Thổ không tính đến một sức kháng cự đáng kể. Viên pasa Ali, thống soái một đạo quân Thổ, cho thành này chỉ là một “cái chuồng cừu xộc xệch” và quân trong thành chỉ là một “bầy gia súc”. Nhưng cuộc chiến đấu chẳng bao lâu đã chỉ cho hắn thấy rõ ràng những người bảo vệ thành Eghe đại diện cho một sức mạnh mà đạo quân Thổ không tài nào đè bẹp nổi. Những chiến sĩ phần lớn là con em vùng Thượng địa Đông bắc đang bị chiếm đóng đe dọa và những nông dân các làng lân cận chạy vào thành tị nạn, đã nghiến chặt răng đánh lui tất cả mọi đợt công kích của quân Thổ. Sau năm tuần rưỡi sống mái với quân thù, thành Eghe đã tự giải phóng mình khỏi cuộc vây hãm khốc liệt và cứu miền đất nước phía sau khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Quân Thổ bị thiệt hại nặng nề dưới chân thành Eghe và phải bỏ dở kế hoạch hành quân xâm lược của chúng.   Cuộc chiến đấu của Eghe từ đó đã trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngay sau khi quân Thổ tháo chạy, Tinôđi Sebétchên, thi sĩ kiêm ca công nổi tiếng nhất của Hung trong thế kỷ 16, đã đến tận nơi sưu tầm tài liệu và sáng tác Truyện thơ về cuộc chiến đấu của thành Eghe. Nhưng tác phẩm thành công nhất về đề tài này là Những ngôi sao Eghe của Gardonyu Geza.   Gardonyu Geza (1863-1922) xuất thân từ một gia đình thợ rèn, là một nhà văn có tên tuổi ở Hung. Trước khi bước vào nghề viết văn, ông đã dạy học nhiều năm ở nông thôn. Thời kỳ này, ông có tinh thần chống lại nền thống trị của triều đình Hápxbua (Áo) và đã viết tác phẩm Ngọn đèn (1894) là một tác phẩm tốt. Trong cuốn tiểu thuyết này, ông đã vẽ nên một bức tranh đáng kinh ngạc về cuộc sống nghèo nàn và bị ngược đãi của lớp giáo học ở nông thôn, đã tấn công trào lưu tôn giáo hóa xã hội và tấn công vào ách thống trị của nền đế chế Áo – Hung phản dân tộc, phản tiến bộ; gợi lại những kỷ niệm vẻ vang về cuộc chiến đấu giành tự do của nhân dân Hung thời kỳ 1848. Nhưng dần dần về sau, con đường văn học của ông khuất khúc và đầy mâu thuẫn. Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, Những ngôi sao Eghe là tác phẩm tươi sáng và giàu sức sống nhất. Ở Hung không có một tiểu thuyết lịch sử nào khác lại được cả bạn đọc, người lớn lẫn trẻ em, yêu thích đến thế. Cuốn truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1901, và từ đó đến năm 1963 đã được tái bản hơn 21 lần, chỉ riêng từ 1945 đến 1963 đã được các nhà xuất bản khác nhau tái bản hơn 16 lần với số lượng hơn nửa triệu cuốn (trong một nước 11 triệu dân). Đó là chưa kể đến những bản dịch ở nước ngoài.   Trong quá trình sáng tác, Gardonyu Geza đã sưu tầm nghiên cứu rất nhiều nguồn tài liệu, kể cả gia phả của các nhân vật chính trong truyện. Mùa xuân năm 1899, trước khi bắt tay vào viết, ông đã lên đường đi Côngxtăngtinốp để nghiên cứu tận nơi những phong tục, tập quán ở nước Th đã vào tận ngục Bảy Tháp, tham dự những ngày hội tôn giáo, bơi thuyền trên vịnh Bốtxpôrat, tham quan các viện bảo tàng v.v… Nhờ tác phong làm việc cẩn thận đó, tác giả đã để lại cho chúng ta nhiều trang sách chính xác và sinh động về những cuộc hành quân đầy nghi vệ của đội quân Thổ, về cuộc vây hãm thành Eghe, về nhiều cảnh sinh hoạt của xã hội thời xưa.   Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là chú bé Bônemixo Gergey, đại biểu của tầng lớp nông dân nghèo, giàu lòng yêu nước và đa mưu túc trí, đã từ một chú bé chân đất làm lên đến chức đại úy, chủ tướng một thành trì. Qua bước trưởng thành của nhân vật chính, tác giả còn vẽ nên trước mắt người đọc cả một bức tranh xã hội rộng lớn từ thôn xóm đến cung đình. Ngay từ những trang đầu tiên, tác giả đã cho ta thấy tình hình chính trị rối như mớ bòng bong của nước Hung thời đó: “… và chúa công của bạn đang là Xopôlo Gianốt, hoặc quân Thổ, hoặc Pheđinan đệ nhất.”   Hồi đó giai cấp phong kiến ở Hung phân hóa nặng nề. Bọn quý tộc lãnh chúa và quý tộc giáo hội có những lãnh địa rộng lớn, có quân đội riêng, có thành quách trong tay, thực tế là đã trở thành những ông chúa cát cứ. Nhà vua ở Buđa không đủ sức để thâu tóm quyền bính, tổ chức đất nước thành một quốc gia vững mạnh. Nhân dân bị đè nén nặng nề dưới hai tầng tròng phong kiến và giáo hội, đời sống rất khổ cực. Họ oán ghét bọn quý tộc chẳng kém gì bọn ngoại xâm. Tất cả những nhân tố đó đã dẫn tới cuộc chiến tranh nông dân do Đôjo Giơrgiơ lãnh đạo năm 1514 và chiến bại thảm hại ở Môhát năm 1526. Sau Môhát không còn ai tổ chức được cuộc kháng chiến chống quân Thổ trong phạm vi toàn quốc. Giai cấp thống trị vốn đã không thống nhất, giờ đây lại phân hóa thành hai phe đối địch. Một phe, gồm chủ yếu tầng lớp quý tộc trung và tiểu, bầu Xopôio Gianốt, công vương vùng Êrơđêi, lên làm vua; một phe khác, gồm phần lớn bọn đại quý tộc, lại tôn Pheđinan đệ nhất của triều đình Hápxbua (Áo) làm vua. Hai tên vua đó đem quân đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi báu, mặc kệ quân Thổ ngấp nghé ở biên giới. Thậm chí Xopôio Gianốt, sau khi bị thua Pheđinan I và phải chạy sang Ba-lan, còn cầu cứu hoàng đế Thổ giúp hắn chiếm lại ngai vàng, và để đền ơn, hắn bỏ mặc vùng đất nước phía nam cho quân thổ tha hồ cướp bóc. Trước tình hình hai vua khuynh loát lẫn nhau như thế, bọn lãnh chúa hết theo phe vua này lại theo phe vua khác, tùy theo chỗ ở với vua nào có thể kiếm chác được nhiều hơn. Chúng ta sẽ thấy tình hình này được phản ánh một phần qua hai nhân vật Xexey và giáo sĩ Balin hoặc qua nhân vật Tơrơc Balin. Nhưng mặc dù tất cả những điều kiện bi thảm đó, nước Hung vẫn không dễ dàng lọt vào tay bọn ngoại xâm. Trước sự bất lực và phản bội của triều đình và giáo hội, nhân dân nhiều nơi đã vùng lên kháng chiến mạnh mẽ khi quân Thổ kéo đến. Những “kẻ nổi loạn” đó – như các sử gia của triều đình Thổ cũng phải thừa nhận – “trong tình thế tuyệt vọng cũngchiến đấu với súng hỏa mai và cung tên, với gậy gộc và đá”. Bên cạnh họ, tuy ít ỏi nhưng trong hàng ngũ tướng lĩnh vẫn có những người yêu nước chân thành, đặc biệt là những võ quan xuất thân từ những tầng lớp dưới. Những viên tướng này cùng những đội quân vốn là nông dân nghèo chạy nạn khỏi các vùng bị giặc Thổ tàn phá, chiếm đóng hoặc trốn khỏi cuộc sống khổ nhục ở các điền trang, đã lập nên cả một hệ thống biên thành dọc theo vùng giáp ranh với quân Thổ để báo tin và ứng cứu lẫn nhau. Họ đã đánh tan hết bao nhiêu đội quân Thổ kéo đi ăn cướp. Hơn nữa, những viên tướng này nhiều khi cùng với một đội quân nhỏ nhưng đồng lòng, trong một tòa thành đơn độc không có sự cứu viện của triều đình, đã có thể chặn đứng cả một đạo đại quân Thổ trong nhiều ngày, đôi khi còn giữ vững được đến cùng, bẻ gãy cả cuộc viễn chinh của địch. Những kỳ công đó nổi bật trên nền trời đen tối của xã hội Hung thời bấy giờ như những ngôi sao, trong đó Eghe là ngôi sao sáng nhất. Chúng ta thấy dường như tác giả đã dành doàn bộ tâm hồn mình cho việc mô tả lại toàn bộ cuộc chuẩn bị chiến đấu và hơn năm tuần quyết chiến ở Eghe. Có thể nói ít có cuốn tiểu thuyết lịch sử mô tả được tỉ mỉ, chính xác và sinh động như vậy. Gấp cuốn sách lại chúng ta vẫn như nghe vang trong tai lời thề quyết tử và tiếng đại bác vang rền, tiếng gương giáo chạm nhau, tiếng hô “Giết! Giết!”, và tự nhiên chúng ta liên tưởng đến khí phách anh hùng và lời thề “sát Thát” của quân dân đời Trần.   Chiến công của quân dân Eghe hồi đó đã vang lừng trong nước và cả ở nước ngoài. Sau ngày chiến thắng, biết bao chính khách ở châu Âu đã kéo đến Viên để chúc mừng Pheđinan I – kẻ không hề có chút công lao nào, thậm chí còn có tội với miền đất đai Hung mà hắn cai trị - và để ngắm nghía những lá quân kỳ cướp được của giặc Thổ mà quân dân Eghe đã gửi về triều. Nhưng chỉ với cuốn tiểu thuyết của Garđônhi, chiến tích Eghe mới thực sự trở thành một điển hình bất hủ, trước công luận, trước lịch sử, về tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Hung hồi thế kỷ 16. Mời các bạn đón đọc Những ngôi sao Eghe Tập 2 của tác giả Gardonyi Geza.