Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thằng Pele Bà Chiểu

Lê và Hoàng tần ngần trước một quán ăn… Chúng nó nhìn bảng giá ghi ở ngoài: “Bún bò Huế: 4.000 đồng - 5.000 đồng/tô - Hủ tiếu 5.000 đồng”… Lê quay sang Hoàng: – Tao còn đúng năm ngàn, mày còn bao nhiêu? Thằng Hoàng lục túi, đếm đi đếm lại, rồi giao cho thằng Lê: – Còn đúng bốn ngàn. Đôi mắt Lê sáng lên: – Thế là tao và mày đủ tiền mua hai đứa hai tô bún bò, còn một ngàn uống trà đá, vừa đẹp. – Lỡ họ ghi như vậy , mà bán cao hơn thì tiền đâu mà trả… tao đã bị một lần rồi… Ớn lắm. – Thì mình hỏi kỹ rồi mới ăn. Lê và Hoàng rụt rè bước vào quán, hai đứa khép nép ngồi vào chiếc bàn cạnh cửa… Bà chủ quán nhìn hai đứa, đôi mắt dò xét: – Hai đứa bay có tiền không mà vào đây? – Bác bán cho tụi cháu hai tô bún, mỗi tô bốn ngàn đồng… – Có chắc tụi bay có tiền không, hay ăn xong rồi bỏ chạy. Thằng Lê lôi tiền trong bọc ra, đếm đủ tám ngàn, rồi giao cho bà chủ quán: – Tụi cháu còn một ngàn, bác bán cho hai ly trà đá. – Trà đá thì ly nhỏ thôi đấy nhé. – Dạ. Bấy giờ là một trưa mùa hè… Suốt buổi sáng hai đứa cùng nhóm bạn khu phố tập dượt bóng đá ở một sân nhỏ gần trụ sở khu phố. Chỉ còn một tuần nữa, đội bóng thiếu nhi khu phố A sẽ gặp đội bóng thiếu nhi khu phố B để chọn cầu thủ cho đội bóng thiếu nhi Phường tranh giải đội bóng vô địch thiếu nhi Quận. Trong đội bóng chỉ có Lê và Hoàng là nghèo nhất. Lê sống với bà ngoại sau khi mẹ đi lấy chồng khác. Lê chưa bao giờ gặp cha… Theo lời bà ngoại kể, cha Lê là một ông Mỹ đen, làm hãng thầu của Mỹ tại Sài Gòn, cha Lê về Mỹ khi Lê còn nằm trong bụng mẹ… Ngày Lê chào đời, Sài Gòn giải phóng đúng một tháng… Ngày Lê lên năm, mẹ Lê gởi Lê cho bà ngoại rồi về Đà Nẵng… Một năm sau mẹ Lê có gia đình khác… Mười năm rồi Lê sống trong tình thương của bà ngoại. Mẹ Lê là con đầu. Lê còn một người cậu làm công nhân cao su ở Sông Bé, đã lập gia đình. Hai bà cháu sống trong căn nhà nhỏ trong hẻm. Một khoảng đất rộng không quá mười mét vuông trở thành địa điểm bán cà phê vợt buổi sáng. Từ bốn giờ sáng. Lê thức dậy để đun nước sôi, dọn hàng… Năm giờ thức ngoại dậy, hai bà cháu mở quán bán cho bà con lao động trong xóm khoảng tám giờ thì nghỉ. Đến trưa, sau khi ăn cơm xong, Lê ghé nhà chú Mẫn - thầu vé số - nhận một xấp vé số đi bán dạo. Mỗi ngày nếu bán hết tiền lời chỉ đủ mua gạo trong ngày cho hai bà cháu. Buổi tối Lê học bổ túc văn hóa ở trường cấp hai gần khu phố. Còn Hoàng, mẹ nó mất sớm, ở với cha… Hai cha con sống với gia đình nội, cha Hoàng làm nghề thợ điện cho một xí nghiệp ở Biên Hòa. Sáng đi thật sớm, tối mới về. Hoàng cũng đi bán vé số như Lê và học cùng lớp bảy bổ túc văn hóa như Lê. Trưa nay, bà ngoại Lê đi ăn giỗ, bà nội Hoàng bệnh, hai đứa có dịp ăn quán với số tiền eo hẹp. Thằng Lê ăn rất khỏe, ăn xong tô bún vẫn muốn ăn thêm nữa, nhưng không còn tiền, thằng Hoàng nhìn bạn, nó hiểu những mong ước của Lê. – Để hôm nào kiếm được nhiều tiền hai đứa đi xuống tiệm bà Ba Huế ăn bún bò Huế cho đã… – Thôi, có tiền mua đôi giày Bata để đá banh. – Mày khỏi mua, tao nghe nói bác Hai trưởng khu phố sẽ sắm cho mỗi đứa một đôi. – Tiền đâu mà mua ? – Nghe nói khu phố có quỹ do bà con đóng góp. – Lê, giá mà mười một đứa đều có giày Bata đá thì hay quá. – Tao không thích giày, chỉ thích có áo đồng phục thôi. Chớ không lý khi ra đá, mặc áo mai-dô không giống ai… nhiều khi phải cởi trần để khỏi lầm với đội bóng của tụi khu phố khác. – Bữa nào đá với tụi kia, thằng Minh sắp tao đi hàng giữa, còn mày đi hàng trên nhưng hai đứa đều góc mặt. – Mày có cái tật hay lừa, có banh là tìm cách giao ngay tao sút mới ăn được, mày lừa lên đến gần gôn mà sút khó ăn lắm. Câu chuyện bóng đá trên bàn ăn kéo dài hơn nửa tiếng, nếu bà chủ không nhắc khéo, có lẽ chúng ngồi còn lâu hơn nữa. Hai đứa chia tay nhau tại hẻm phố. Lê về đến nhà, bà ngoại vẫn chưa về. Căn nhà tôn vào trưa quá nóng, hình như bao nhiêu sức nóng của mặt trời trút hết xuống mái tôn nhà nó. Nóng quá không chịu nổi, Lê cởi trần nằm trên sàn nhà. Nó nhớ lại một lần ghé nhà thằng Minh cũng vào một buổi trưa, ngôi nhà mát rượi, nền gạch, phòng nào cũng có quạt, quạt trần, quạt đứng, nghĩ đến mà thèm. Nó mơ ước có tiền để mua một cái quạt cũ. Tội nghiệp cho ngoại, buổi trưa nào ngoại cũng chịu cực với cái nóng nung người như thế này… Nó ít khi có mặt buổi trưa, giờ đó nó đi lòng vòng vào các quán cà phê mời khách mua vé số. Đến ba giờ, bán không hết vé, phải đem trả lại cho đại lý, nếu ham lời bán rán thêm, bán không hết chỉ còn khóc vì lỗ. Lê không dám chơi liều, thà lời ít chắc ăn hơn. Có hôm, bán hết, trên đường về Lê ghé ngang tiệm bánh mua gói kẹo nhỏ cho bà ngoại - loại kẹo chanh - để bà ngậm lúc ho. Tuổi già sức yếu, nhiều đêm ngoại ho sặc sụa. Những lần như thế, Lê đến bên ngoại, đỡ ngoại dậy,vuốt ngực cho ngoại, mếu máo: “Ngày mai ngoại nghỉ bán, ngoại đi khám bác sĩ, ngoại mà chết bỏ con ai nuôi”. Những lần đó Lê nghĩ đến mẹ, người mẹ mà mỗi năm nó chỉ gặp một lần, vào ngày giỗ ông ngoại nó . Sáng nay, cả đội bóng tập dợt đến trưa, Lê nghỉ không bán vé số, thế là tiền thu nhập hôm nay giảm đi. May mà hai hôm trước cậu Ba nó ở Sông Bé về mang theo một bao gạo và đưa cho ngoại nó số tiền vài chục ngàn, hai bà cháu cũng đỡ lo cảnh bữa đói bữa no… Chưa bao giờ thằng Lê cảm thấy thích thú như sáng nay. Trong số những người uống cà phê có chú Nhân vừa ở xa về, sau hai năm ra miền Trung làm ăn. Điều Lê thích nhất là được nghe chú Nhân kể chuyện bóng đá và đánh quyền Anh. Qua lời kể, chú đã từng đá cho đội tuyển hạng A ở Đà Nẵng và cũng từng lên đài tranh giải vô địch. Nghe chú Nhân trò chuyện với bác Năm, vừa phụ bán cà phê Lê vừa mơ ước một ngày kia sẽ được như chú Nhân. Chú kể lại lần đội bóng đá của chú thi đấu với một đội bóng đá tỉnh khác. Hai bên huề nhau sau chín mươi phút thi đấu, phải đá thêm giờ. Chính chú là người ghi bàn ở phút thứ một trăm mười chín. Nếu không nhờ chú, có lẽ hai đội bóng phải đá luân lưu, phạt đền và chưa chắc đội chú thắng. Trận đó, đội chú được vào bán kết bóng đá khu vực miền Trung. Câu chuyện nghe hấp dẫn quá… Khi quán chỉ còn lại chú Nhân, Lê ngồi bên chú nghe chú kể tiếp về trận đấu quyền Anh, mà chú đã thắng sau năm hiệp đấu. – Cháu biết không, sau bốn hiệp đối thủ của chú vẫn chưa thấm đòn mặc dù chú đấm nhiều quả trúng đích, nhưng anh ta khỏe lắm. – Ở hiệp năm làm sao chú thắng được? Chắc chú có bùa? Nghe Lê nói, chú Nhân cười lớn: – Cái thằng này không biết gì về võ cả, làm gì có bùa. Đấu võ hơn nhau ở sức và cả trí nữa. – Thế sao con nghe nói đấu võ tự do, có nhiều người có bùa ngải nên đánh mấy cũng không bị hạ mà bất thình lình đánh lại một cú bên kia thua. – Cháu nghe họ đồn tầm bậy… Đấu võ là sự thi thố giữa tài năng, giữa cái nhanh nhẹn, sức vóc. – Cháu hiểu rồi, thế chú kể cháu nghe trận chú thắng đi. – A, cái trận đó chú phải dùng trí, qua hiệp năm chú chuyển về thủ, ông kia cứ tấn công, chú đỡ… Thình lình, chú phản công bằng một cú đia-réc, đánh ngay vào mặt thật mạnh, ông kia nằm lăn cù, bị nốc ao, thế là chú thắng. – Đia-réc, nốc ao là sao hả chú? – Đia-réc là trực tiếp, nốc-ao là đo ván. – Đo ván là sao chú? – Cái thằng này, thắc mắc quá, thôi được, để chú giảng cho cháu nghe. Đo ván là đối thủ nằm ngay đơ không dậy nổi để đấu tiếp. Nghe chú Nhân giải thích, Lê phục chú Nhân quá. Nó nhìn kỹ chú Nhân, thấy chú to quá, bàn tay rắn chắc, nó tưởng tượng nếu chú Nhân đấm nó một quả, chắc nó đi chầu trời. Như chợt nhớ ra điều gì, Lê hỏi chú Nhân: – Chú vào ở đây luôn hay lại ra Đà Nẵng? – Chú vào chơi vài tháng rồi lại ra. – Thế chú có còn đá cho đội bóng hạng A ngoài đó không? – Chú nghỉ đá vì hơn ba mươi tuổi, chạy không được nhanh . – Còn đấu quyền Anh thì sao chú? – Thỉnh thoảng chú cũng lên đài, nhưng không còn chuyên như trước nữa. – Những chuyện chú kể là xảy ra năm nào? – Mới năm ngoái thôi. – Ước gì năm ngoái cháu ở Đà Nẵng xem chú đá bóng và đấu quyền Anh… À, có chuyện này hay lắm… Ở khu phố tụi cháu có lập đội bóng để chuẩn bị đấu với khu phố khác, nếu chú rảnh chú tập cho tụi cháu. Chú Nhân cười: – Hôm qua, bác Hai trưởng khu phố có nói chuyện đó với chú, nhưng chú vào đây bận chuyện làm ăn. Chú chỉ dám hứa sẽ dành một buổi chiều tập cho các cháu trước khi thi đấu với khu phố B. – Thích quá, thế hôm nào chú? – Nghe bác Hai nói, chủ nhật các cháu thi đấu, chú sẽ luyện cho các cháu vào chiều thứ bảy. Hôm nay thứ năm, vậy là ngày mốt, chú sẽ tập cho các cháu. – Thích quá, cháu thương chú quá… Thôi, chú khỏi trả tiền cà phê. – Tầm bậy, để chú trả, quán cháu nghèo ai lại nỡ uống không trả tiền. – Nhưng nghe chú kể nãy giờ cháu thích quá, cháu xin đãi chú một ly cà phê. – Cháu có lòng tốt, chú cám ơn, nhưng để dịp khác. Cháu tính tiền đi chú còn phải về. Khi chú Nhân ra khỏi quán, Lê vẫn nhìn theo với cái nhìn kính phục, nó ước ao chú Nhân sẽ vào Sài Gòn hoài để được nghe chú Nhân kể chuyện, để nhờ chú huấn luyện cho đội bóng thiếu nhi khu phố. Cái tin chú Nhân sẽ huấn luyện cho đội bóng khu phố trước khi ra quân được Lê loan đi rất nhanh. Ngay hôm đó cả đội bóng mười một cầu thủ nhóc đều hay tin. Trên đường đi bán vé số, Lê đã ghé ngang nhà các bạn để thông báo tin tức quan trọng này. Đứa nào cũng mừng rơn, riêng thằng Minh vẻ mặt quan trọng: – Để tao đề nghị chú Nhân chỉ tụi mình vài ngón đặc biệt… Tao nhờ chú chỉ cách huấn luyện để tao huấn luyện tụi bay. Còn thằng Phan thủ môn thì hỏi Lê: – Liệu chú Nhân có biết giữ gôn không? Lê làm ra vẻ thành thạo: – Đá banh cỡ Quốc tế như chú Nhân cái gì cũng phải biết, không giỏi thì cũng phải khá. – Mày có chắc không? – Tao đọc trong báo, tao thấy mấy cầu thủ giỏi quốc tế đá vai nào cũng được. – Chưa chắc đâu con, nhưng để hôm nào hỏi thì biết. Ngày mong đợi đã đến, trên một sân cỏ ở sau ngôi trường cấp hai của phường, chú Nhân hướng dẫn đội bóng thiếu nhi khu phố. Cả đội rất phấn khởi. Mới đầu chú hướng dẫn cách chạy, từ chạy nước rút đến chạy hàng ngang, rồi đến bài học giao bóng, sút bóng… Chú vừa giảng vừa biểu diễn, cả đội nhìn chú với đôi mắt thán phục. Riêng về vai trò thủ môn, chú hướng dẫn thằng Phan cách đón bóng, cách ra vào đúng lúc để khỏi bị hố. Chú lại chỉ cách té. Một giờ tập dợt trôi qua, mười một cầu thủ nhóc cảm thấy khoái chú Nhân. Thằng Minh chạy ra quán mua một chai nước ngọt có đá mời chú. Nó có vẻ hãnh diện với đám bạn khi chú Nhân vừa cầm ly nước vừa xoa đầu nó: – Ừ, thằng này ngoan quá, tướng cháu làm thủ quân được đấy. Thằng Phan chen vào: – Chú thấy cháu giữ gôn có được không? – Cháu còn yếu điểm là bắt bóng bay chưa chắc, nhưng nếu cố gắng cháu sẽ khá. Lê hỏi chú Nhân: – Sao hồi trước chú không giữ gôn mà đi hàng trên? Chú Nhân cười, nhìn đám học trò mới của mình, chú nói: – Ừ thì khi mới đá bóng ai cũng khoái giữ gôn vì giữ gôn dễ nổi bật giữa sân cỏ… Nhưng mỗi người có một khiếu riêng… Với chú, mới đầu chú cũng giữ gôn như cháu Phan, nhưng sau đó chú được chuyển lên đá hàng trên, khi thì đá hàng giữa, khi thì đá góc, khi thì trung phong… Thằng Hùng lùn suốt buổi tập dợt không nói một tiếng, im lặng nhìn chú Nhân với cái nhìn thán phục, bây giờ mới lên tiếng: – Thưa chú, theo chú trong đội bóng vai trò nào quan trọng nhất? – Vai trò nào cũng quan trọng ngang nhau cả, hàng trên hay nhưng hàng giữa yếu thì sẽ không nhận được bóng để sút, hàng giữa hay mà hàng dưới yếu thì đối phương sẽ tha hồ làm mưa làm gió. Thằng Minh muốn tỏ cho đám bạn biết mình cũng thạo về bóng đá, nó cãi lại chú Nhân: – Theo cháu, hai người quan trọng nhất đó là trung phong và thủ môn. Thủ môn hay có thể cứu thua các bàn trông thấy. Trung phong giỏi có thể lật ngược thế cờ… Nghe Minh nói, chú Nhân gật gù: – Cháu Minh giỏi lắm, cháu nhận xét đúng nhưng không hẳn hoàn toàn như thế, trong một đội bóng có mười một người đều như nhau vẫn mạnh hơn một đội bóng có trung phong giỏi, thủ môn khá còn các vai khác yếu. Cuộc tranh luận bóng đá kéo dài hơn nửa tiếng, nếu chú Nhân không ngăn lại có thể sẽ tranh luận đến tối. – Thôi nhé, chiều mai chúc các cháu đá tốt và thắng lợi. Nghe chú Nhân nói thế, cả độ nhao nhao: – Ngày mai chú nhớ đến, nhất định ngày mai chú phải có mặt… – Cám ơn các cháu, nhưng ngày mai chú phải về Vũng Tàu có việc nhà, chú tin các cháu sẽ giành thắng lợi trước đội bạn. Chúc các cháu thắng. Sáng chủ nhật, cả đội bóng tập dượt dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên “Minh lùn”. Khi sắp xếp lại đội hình, Minh lùn điều Lê từ hàng giữa về vị trí hậu vệ, đổi thằng Hòa mắt lồi thay Lê ở tuyến giữa. Hoà rất thích vị trí mới, nhưng Lê nhăn nhó: – Tao đi giữa quen rồi, đổi vậy khó đá lắm. Hòa mắt lồi nhìn Lê từ đầu đến chân, rồi nói: – Huấn luyện viên Minh lùn sắp mày đúng quá, mày cao lều khều, đá hàng dưới thì được, còn hàng giữa chưa được banh chắc sẽ té. Lê nổi quạu: – Sao mày dám chê tao, mày cũng như tao, mày hơn gì tao? – Nhưng tao đá vai nào cũng được… đáng lý mày cũng không được đá nữa, mày vào sân chỉ làm trò cười cho tụi nó. Lê sấn đến ngay trước mặt Hòa: – Mày nói sao, tại sao mày dám nói tao vào sân thì làm trò cười cho thiên hạ. Hòa cười ngạo mạn: – Mày là thằng Mỹ đen lọt vô đội bóng không giống ai. Cả đội cười ồ lên khi nghe Hòa nói, chỉ có Hoàng là lặng thinh, chúng nó tàn nhẫn với Lê quá. Chưa buông tha. Hòa còn nói tiếp: – Cái thứ Mỹ đen cho đi chỗ khác chơi là vừa. Một cú đấm ngay vào mặt Hòa, nó ngã xuống chưa kịp đứng dậy đã bị Lê bồi tiếp một cú nữa… Hoàng ôm chặt lấy Lê, kéo nó đi sang nơi khác. Lê vùng ra khỏi tay Hoàng: – Tao không chịu nổi nữa rồi, nó còn nói tao là Mỹ đen tao đánh cho nó một trận nên thân. Hòa lủi thủi đứng dậy, nhìn Lê với đôi mắt thù hận, nó nói trong nước mắt: – Để rồi mày coi, mày nhớ đó, mày đánh tao, rồi có ngày mày lãnh đủ… – Mày đừng dọa tao, tao cóc sợ thằng nào. Minh lùn làm thủ quân, nãy giờ chứng kiến màn giao đấu giữa hai võ sĩ nhóc, bây giờ lên tiếng: – Thôi, tao can tụi bây, hai đứa tụi bây đều ẩu cả, thằng Hòa chọc thằng Lê quá, không được. Còn thằng Lê cũng quá nóng, tụi bây đi quá mức, tao cúp, không cho hai đứa đá nữa, tao cho hai đứa trong hẻm nhà tao đá thay, hai đứa nó mới dọn về đây, trước đá cho đội banh trường Cửu Long. Lời dọa của Minh có kết quả ngay, cả Hòa lẫn Lê đều im thin thít, có lẽ chúng sợ thằng Minh loại hai đứa ra khỏi đội bóng thì uổng công tập dượt, và ước mơ trở thành các siêu sao khu phố Bà Chiểu cũng tan theo mây khói… Thôi nhịn là ăn tiền, đợi đá xong rồi hãy tính. Đội bóng tan hàng trong nỗi ấm ức của Lê, của Hòa, trong nỗi buồn và lòng thương bạn của Hoàng… Hoàng và Lê về sau cùng. Trên đường về, Lê phân trần: – Không phải tao ỷ to con hơn thằng Hòa mà đánh nó, nhưng nó nói tao là Mỹ đen, tao tức lắm. – Mày giận nó không đúng, thằng Hòa hay nói ẩu, đứa nào cũng biết, mày đánh nó lỡ tay, nó bị gì là mày phải bồi thường, phải đi ở tù, lấy ai giúp bà ngoại mầy? – Tao cũng biết tao nóng, nhưng nó làm nhục tao, tao phải đánh nó. Chia tay với Hoàng. Lê về đến nhà thì đã gần mười một giờ. Vừa đến sân, Lê đã thấy bà ngoại đợi sẵn: – Nãy giờ ngoại trông con về để ngoại lên thăm cậu Minh, cậu bị bệnh nằm nhà thương. Lê giật mình: – Ngoại nói sao? Cậu Minh bị bệnh, có nặng không ngoại? – Nghe nói cậu bị ung thư, bệnh không chữa được. Ngoại để sẵn cơm ở nồi, ăn xong trông nhà, đừng đi đâu, khoảng hai ba giờ ngoại về. Mời các bạn đón đọc Thằng Pele Bà Chiểu của tác giả Thương Ánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gia Đình Má Bảy - Phan Tứ
Trong Gia Đình Má Bảy, cốt chuyện rộng rãi, tác giả đặt những vấn đề lớn, ví dụ như vấn đề công bằng xã hội trong lịch sử dân tộc: “Bởi sống nửa đời trong bung lầy như bị vùi đến nửa thân, má hiểu lắm  cái phận tá điền sinh ra để cày ruộng người, kiếp trước truyền cho kiếp sau chỉ một túp lều rách. Người xưa đã dẹp hết các thứ giặc từ ngoài đến mà không trị nổi bọn giặc trong làng. Con trâu đủ sức giết cọp mà không tự tháo gỡ được con đỉa hút máu ở cổ, đành chịu vậy đến khi ngã quỵ” Những trang cảm động nhất của Gia Đình Má Bảy có thể là những trang đẹp nhất trong văn nghệ Miền Nam, là những trang mô tả những hy sinh thầm lặng của người phụ nữ Miền Nam trong hai cuộc kháng chiến. *** Phan Tứ tên thật là Lê Khâm, ông sinh ngày 20-12-1930 tại thị xã Quy Nhơn; nguyên quán xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình trí thức yêu nước. Phan Tứ tham gia cách mạng từ năm mười lăm tuổi, làm liên lạc chuyển tài liệu, báo chí bí mật. Năm 1950, ông nhập ngũ tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp Trường Lục quân ở Thanh Hóa rồi sang Lào chiến đấu trong quân tình nguyện Việt Nam. Năm 1954, Phan Tứ tập kết ra Bắc rồi theo học khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1958, ông cho xuất bản tiểu thuyết Bên kia biên giới. Năm 1960, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Trở về Hà Nội và tiểu thuyết Trước giờ nổ súng. Năm 1961, ông trở về công tác tại chiến trường miền Nam, làm phái viên ban Tuyên huấn Khu ủy Liên khu V, lấy bút danh là Phan Tứ. Năm 1966, Phan Tứ trở ra Bắc, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, làm quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Năm 1968, ông xuất bản tiểu thuyết Gia đình má Bảy, tập truyện ngắn Trong đám nứa. Năm 1970 ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ ủy viên Ban chấp hành, ủy viên Ban thư ký của Hội và lần lượt cho xuất bản: bút ký Măng mọc trong lửa; tiểu thuyết Mẫn và tôi năm 1972, tiểu thuyết Trại S.T.18 vào năm 1974. Năm 1975, Phan Tứ được nhận Giải thưởng ba mươi năm (1945-1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau kháng chiến chống Mỹ, Phan Tứ giữ chức vụ Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, rồi Đại biểu Quốc hội khóa VIII, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Thời gian này ông cho xuất bản hồi ký Trong mưa núi và ba tập tiểu thuyết Người cùng quê (1985). Ông mất ngày 17 tháng 4 năm 1995 do hậu quả chất độc màu da cam. Năm 1995, Phan Tứ được nhận Giải thưởng Văn học loại A mười năm (1985-1995) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông còn được nhận Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu. Năm 2000, Phan Tứ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Trước giờ nổ súng, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi, Về làng. Năm 2002, Toàn tập Phan Tứ (4 tập) được Nhà xuất bản Văn học xuất bản. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Má Bảy của tác giả Phan Tứ.
Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt
Tại sao tên sách lại là NHỮNG ĐỨA TRẺ BỊ MẮC KẸT? Bạn có biết, trong mỗi chúng ta đều có một đứa trẻ không bao giờ được giải phóng? Đó là một người trưởng thành luôn thấy mình thiệt thòi, cô đơn bởi tuổi thơ không trọn vẹn tình yêu thương của cả cha và mẹ, không có bạn bè chơi cùng. Đó là một người lớn không tự tin, luôn cô đơn vì từ bé đến lớn luôn bị mẹ so sánh và đối xử phân biệt với chị/em của mình. Đó là những nhân cách khác trong con người chúng ta, một góc tối trong tâm hồn được hình thành bởi những ẩn ức tuổi thơ, ám ảnh cuộc đời mà chính ta không vượt qua được. Đó cũng chính là một trong những tâm lý tội phạm dẫn đến các hành vi phạm tội. Nổi tiếng là nữ hoàng của dòng văn học khai thác góc khuất của tâm lý con người, nữ nhà văn Kanae Minato đã rất thành công khi miêu tả, khắc hoạ diễn biến tâm lý nhân vật trong cuốn sách này. Độc giả dễ dàng bị cuốn đi theo cảm xúc của nhân vật, cùng rơi vào những góc tối của tâm hồn, cùng khám phá và nhận ra những góc tối đó, cùng trải qua hoặc sẽ cố vượt thoát hoặc sẽ bị chìm vào. Đậm chất tâm lý tội phạm, từ việc khai thác ẩn ức tuổi thơ, chứng ám thị đến các triệu chứng hoang tưởng của con người, NHỮNG ĐỨA TRẺ BỊ MẮC KẸT phản ánh góc khuất tâm hồn những con người cô đơn ngay trong gia đình mình, giữa xã hội này. Ngoài ra, còn là một lời khẳng định: Tuổi thơ của con người vô cùng quan trọng, đó là giai đoạn có khả năng ghi nhớ tốt nhất, tiếp nhận nhanh và ngấm lâu nhất để đi đến những ký ức bền vững mà sẽ trở thành tiềm thức, hình thành nhân cách con người. Rằng môi trường giáo dục con người quan trọng nhất là gia đình. Từ đó dẫn đến các hành vi trong đời sống, nhân cách và cả hình thành con người trưởng thành về sau sẽ như thế nào. *** Một án mạng xảy ra, nạn nhân là những người hiền lành, tốt bụng, chẳng gây thù chuốc oán với ai bao giờ. Và nghi can đang bị cảnh sát thẩm vấn cũng là một người trầm lặng, ít nói, chưa bao giờ gây gổ với ai, thậm chí còn cúi đầu xin lỗi dù đối phương là người sai. Tại sao? Tại sao một người hiền lành, nhẫn nhịn đến nhu nhược lại có thể trở thành kẻ giết người chỉ trong chớp mắt? Rốt cuộc họ nghĩ gì? Vì sao họ làm vậy? Đã bao giờ bạn tự hỏi vì sao mình lại trở thành “mình” của ngày hôm nay? (Ảnh: Facebook)Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt gồm 6 phần, không có sự liên kết với nhau, rời rạc, rạch ròi, mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một câu chuyện để kể lại về quá khứ, về tuổi thơ và về gia đình mình. Họ đều xưng “tôi” và đều là một kẻ giết người. Có người thì kể lại câu chuyện bố mẹ đã đối xử bất công giữa mình với em gái. Tại sao cùng là con, cùng dứt ruột đẻ ra, nhưng “tôi” là chị thì bị hằn học, khắt khe còn đứa em gái lại dễ dàng được bỏ qua và tha thứ? Chẳng lẽ tôi không phải con của họ? Hay tôi chỉ là người thừa trong cái gia đình đó? Câu chuyện khác lại kể về đứa con gái nhận được quá nhiều kỳ vọng của mẹ. Mẹ muốn “tôi” phải trở nên tuyệt vời, phải thành đạt, “phải trở thành giáo viên giỏi như bố nhé”… Hoặc như bố mẹ “tôi” thì lại muốn tôi trở thành một con rối, một chiếc cúp để bố mẹ tự hào, một chiếc huân chương cho việc bố mẹ đã nuôi dạy “tôi” tốt như thế nào, dù cho có phải hủy hoại, vùi dập mọi ước mơ của tôi, cũng được… Hay câu chuyện của “tôi”: nếu mẹ không cấm tôi dùng máy tính, dùng điện thoại, có lẽ tôi sẽ lên mạng và search từ khóa “tự sát” nhiều đến mức không thể đếm nổi nữa. Một cuộc sống bị cấm đoán, giống như cầm tù, giống như nô lệ, có lẽ chết đi sẽ tốt hơn… Nguồn : https://bloganchoi.com/review-sach-trinh-tham-nhung-dua-tre-bi-mac-ket/ Một án mạng xảy ra, nạn nhân là những người hiền lành, tốt bụng, chẳng gây thù chuốc oán với ai bao giờ. Và nghi can đang bị cảnh sát thẩm vấn cũng là một người trầm lặng, ít nói, chưa bao giờ gây gổ với ai, thậm chí còn cúi đầu xin lỗi dù đối phương là người sai. Tại sao? Tại sao một người hiền lành, nhẫn nhịn đến nhu nhược lại có thể trở thành kẻ giết người chỉ trong chớp mắt? Rốt cuộc họ nghĩ gì? Vì sao họ làm vậy? Đã bao giờ bạn tự hỏi vì sao mình lại trở thành “mình” của ngày hôm nay? (Ảnh: Facebook)Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt gồm 6 phần, không có sự liên kết với nhau, rời rạc, rạch ròi, mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một câu chuyện để kể lại về quá khứ, về tuổi thơ và về gia đình mình. Họ đều xưng “tôi” và đều là một kẻ giết người. Có người thì kể lại câu chuyện bố mẹ đã đối xử bất công giữa mình với em gái. Tại sao cùng là con, cùng dứt ruột đẻ ra, nhưng “tôi” là chị thì bị hằn học, khắt khe còn đứa em gái lại dễ dàng được bỏ qua và tha thứ? Chẳng lẽ tôi không phải con của họ? Hay tôi chỉ là người thừa trong cái gia đình đó? Câu chuyện khác lại kể về đứa con gái nhận được quá nhiều kỳ vọng của mẹ. Mẹ muốn “tôi” phải trở nên tuyệt vời, phải thành đạt, “phải trở thành giáo viên giỏi như bố nhé”… Hoặc như bố mẹ “tôi” thì lại muốn tôi trở thành một con rối, một chiếc cúp để bố mẹ tự hào, một chiếc huân chương cho việc bố mẹ đã nuôi dạy “tôi” tốt như thế nào, dù cho có phải hủy hoại, vùi dập mọi ước mơ của tôi, cũng được… Hay câu chuyện của “tôi”: nếu mẹ không cấm tôi dùng máy tính, dùng điện thoại, có lẽ tôi sẽ lên mạng và search từ khóa “tự sát” nhiều đến mức không thể đếm nổi nữa. Một cuộc sống bị cấm đoán, giống như cầm tù, giống như nô lệ, có lẽ chết đi sẽ tốt hơn… *** Kanae Minato là một nhà văn Nhật Bản về viễn tưởng và phim kinh dị. Cô là thành viên của các nhà văn bí ẩn của Nhật Bản và Câu lạc bộ nhà văn bí ẩn Honkaku của Nhật Bản. Tác phẩm: Thú Tội Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Tất Cả Vì N Vòng Đu Quay Đêm ,,, *** Cuốn sách này gồm 6 phần, là tập hợp 5 câu chuyện về những kẻ gây án khó hiểu. Đây là một cuốn sách về tâm lý tội phạm, về nguồn gốc nhân cách hoặc cư xử của con người mà sâu xa là do phương pháp giáo dục trong gia đình từ lúc còn nhỏ đến khi trưởng thành – Nó khẳng định một điều rằng, tuổi thơ của con người rất quan trọng. Trong thời thơ ấu của mỗi người, chỉ cần có một vệt ký ức ám ảnh mà bản thân người đó không tự vượt qua và thoát khỏi thì chính ký ức đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách, hành vi và thậm chí cả hành vi phạm tội (nếu có) của con người đó. Trong câu chuyện về từng án mạng là lời tự sự của từng nhân vật, khi thì nạn nhân, khi thì thủ phạm và có lúc lại là người có mối liên hệ mật thiết với nạn nhân. Với lối tự sự này, tâm lý, tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét. Cú đánh lừa ngoạn mục của tác giả chính là cách đan xen lời tự sự khiến cho bất cứ ai chỉ đọc lướt sẽ không thể nhận ra ai mới là hung thủ thực sự. Bởi tâm tư của từng nhân vật cuốn người đọc hoá thân thành nhân vật đó và tưởng như chính họ có thể gây án bất cứ khi nào. Đó là câu chuyện về gia đình có hai cô con gái mà cách giáo dục hai đứa con trái ngược nhau hoàn toàn là nguyên nhân chính để lại ẩn ức của hung thủ. Dường như người em gái được bố mẹ dạy dỗ thoải mái hơn lúc nào cũng chờ cơ hội mỉa mai người chị bốn mươi tuổi chưa chồng, luôn mộng mơ chìm trong thế giới tiểu thuyết. Người chị dù không thân thiết nhưng cũng không ghét bỏ gì em gái mình. Người chị nhận con mèo trắng làm thú cưng chỉ bởi vì cảm thấy nó đáng thương và nó cần mình, đặc biệt là cô có khoái cảm với việc giết rận cho mèo. Một cô gái mộng mơ, trắc ẩn như vậy, có ai biết đến thẳm sâu thế giới tưởng tượng của cô ấy có một con rận khổng lồ… Ba tác giả biên kịch gặp nhau tại một lễ trao giải tác phẩm xuất sắc của một cuộc thi. Từ đó, họ giữ liên lạc và trao đổi tác phẩm với nhau. Đối thủ là kẻ thù nhưng cũng chính là tri âm. Họ phải luôn cố gắng, phấn đấu để tác phẩm của mình được các nhà sản xuất phim để ý. Trong quá trình đó, họ có một áp lực là phải vượt trội so với những người cùng nhận giải năm xưa. Đố kị, ghen ghét, tự ái, ảo tưởng… là nguồn cơn tâm lý tội phạm của hung thủ trong âm mưu sát hại đối phương. Trong ba người đoạt giải năm xưa, có một người nhất định phải biến mất khỏi thế giới này. Trong ba người đó, ai xem ai là kẻ thù, ai xem ai là tri âm? Ai mới thực sự là hung thủ, phải mãi đến cuối chương, người đọc mới thở phào nhẹ nhõm sau những căng thẳng, đố kị, ảo tưởng cùng với các nhân vật. Lại thêm những án mạng, đó là cuộc sống tuổi thơ đầy cố gắng gồng mình trong cô đơn, hoang mang, nhiều sợ hãi của những đứa trẻ có mẹ đơn thân. Khi đọc qua chương này, các bà mẹ, ông bố định đơn thân nuôi con liệu có suy nghĩ gì? Tất cả mọi đứa trẻ đều xứng đáng được sống trọn vẹn với tình yêu thương đầy đủ của cả bố và mẹ. Người lớn có bao giờ nghĩ rằng, mình đã quá ích kỷ khi chấp nhận đơn thân nuôi con từ lúc con chào đời đến khi con đã hình thành nhân cách trưởng thành? Một án mạng khác lại xảy ra, nạn nhân được biết đến như là một con người hiền lành tốt bụng trong mắt tất cả mọi người. Người thuộc diện tình nghi đang bị cảnh sát hỏi chuyện, lại cũng là một người chưa bao giờ nỡ gây gổ với ai và chỉ biết mỉm cười hoặc im lặng nín nhịn kể cả khi bị đối phương gây khó chịu. Điều ngạc nhiên hơn, đây chính là người vốn từ nhỏ luôn nghe lời mẹ, luôn nói câu xin lỗi trước người khác dù đối phương là kẻ gây lỗi. Chính vì được dạy dỗ theo kiểu ép mình trở thành hình tượng hiền hòa, người tốt bụng trong mắt người khác nên cả nạn nhân và kẻ phạm tội đều có những ẩn ức chỉ đợi ngày bùng nổ. Các bậc phụ huynh cần nhìn nhận lại, dạy con cái trở thành người tốt bụng rất đáng hoan nghênh, nhưng phương pháp như thế nào là đúng, là phù hợp với tính cách từng đứa trẻ? Theo hướng nghiên cứu phân tâm học của Sigmund Freud, mối quan hệ giữa cha và con gái thường thân thiết hơn mẹ và con gái; cũng như mối quan hệ giữa mẹ và con trai thì thân thiết hơn so với cha và con trai. Có thể còn nhiều tranh cãi trong chuyên ngành tâm lý học nhưng thực tế cho chúng ta thấy rõ điều này chưa sai, ít nhất thì trùng hợp xảy ra với đa số. Đó cũng là một nguyên nhân trong những khó khăn khi các bà mẹ đơn thân cố tương tác trong quá trình nuôi dạy con gái mình. Từ trước tới nay, người ta đều nói rằng tất cả mọi ông bố, bà mẹ đều luôn mong điều tốt đẹp nhất cho con cái của mình nhưng ít khi có người con nào nhận ra điều đó cho đến khi chính họ trở thành những ông bố/bà mẹ và nuôi con nhỏ. Nếu ai còn nghĩ như vậy thì càng cần phải đọc cuốn sách này! Gia đình là tổ ấm, là nơi vỗ về nhưng gia đình nhiều khi cũng là nỗi kinh sợ. Tình mẫu tử, phụ tử vốn thiêng liêng bỗng dưng trở nên thật đáng nguyền rủa bởi quá nhiều nghiệt ngã. Những đứa trẻ dễ dàng bị bỏ rơi trong chính ngôi nhà của mình chỉ vì mẹ/cha của chúng có mối hận nào đó với người cha/mẹ của chúng. Không ít các bậc làm cha làm mẹ vì những ham muốn thoả mãn cá nhân mà bỏ mặc con cái và thậm chí lạm dụng con đến mức khủng khiếp. Cũng có kiểu phụ huynh dạy con trở thành/thực hiện giấc mơ dang dở của chính họ mà không quan tâm con-người-mà-chính-chúng-vốn-là. Những đứa trẻ như vậy, lớn lên sẽ thế nào? Nếu may mắn, đứa trẻ đó sẽ trở thành một con người bình thường như bao người khác với một cuộc sống bình thường. Sẽ thật đáng thương khi đứa trẻ đó dù lớn lên và vui vẻ bên ngoài xã hội nhưng vẫn không thể thoát được đứa-trẻ-bị-mắc-kẹt bên trong trong ký ức đầy tủi hổ, cô độc về gia đình. Càng bất hạnh hơn nếu đứa trẻ đó lớn lên trở thành tội phạm chỉ vì những ấm ức bị kìm nén quá lâu mà vốn để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí và đã tác động trực tiếp đến tâm lý cũng như cách xử lý vấn đề cuộc sống, nhân cách của con người trưởng thành! Để có một công dân tốt cho xã hội, sự giáo dục từ gia đình trong những năm đầu đời của trẻ vô cùng quan trọng. Ký ức tuổi thơ luôn là thứ tồn tại lâu nhất và có ảnh hưởng trực tiếp đến con người trưởng thành về sau. Hầu như người trưởng thành nào cũng luôn có một đứa trẻ bị mắc kẹt từ thẳm sâu tiềm thức. Đó có thể là sự tự ti khó thoát của một cô gái ba mươi tuổi bởi hồi bé luôn bị bố mẹ so sánh với người chị họ từ điểm số học tập đến nhan sắc. Đó có thể là lòng căm thù phụ nữ của một người đàn ông trưởng thành nhất quyết không chịu kết hôn chỉ vì đó là một cậu bé có người mẹ phản bội hai bố con hết lần này đến lần khác. Và còn nhiều hơn thế nữa những sang chấn tâm lý, những bế tắc của người trưởng thành, là lúc đứa-trẻ-bị-mắc-kẹt bên trong đang trỗi dậy và chiếm ngự, điều khiển họ, khiến họ dễ dàng sa ngã vào những hành vi phạm tội. Mọi trẻ em đều xứng đáng được chăm sóc và nuôi dạy trong tình yêu thương đầy đủ của cả cha và mẹ. Đặc biệt, trong quá trình giáo dục trẻ, các bậc phụ huynh thường có xu hướng “lái” cho con trẻ lớn lên như cách mình mong muốn mà không kịp nhận ra đó chỉ là “con người lý tưởng” mà chính họ đang hình dung và mơ ước trở thành chứ chưa hẳn đã phù hợp với con trẻ và không-là-chính-đứa-trẻ-đó. Mọi đứa trẻ đều xứng đáng được lớn lên là chính bản thân các con! Với lối khắc hoạ tâm lý nhân vật tài tình của Kanae Minato, độc giả sẽ được cuốn đi theo từng phân cảnh tâm lý, cùng hồi hộp, cùng căng thẳng, cùng tưởng tượng với nhân vật cho đến khi mọi chuyện vỡ oà… Thân mến! Biên tập viên I love books Mời bạn đón đọc Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt của tác giả Kanae Minato.
Viễn Vọng - Patrick Deville
Tại một thành phố biển, nhà điểu học Körberg đi tìm dấu vết mối tình đầu xưa cũ với nữ ca sĩ bạc mệnh Stella. Jyl, đứa con gái nhỏ nàng để lại, giờ đã thành một Lolita xinh đẹp. Nhưng cha thật của Jyl là ai ? Körberg mở cuộc điều tra về cô bé, bên cạnh chàng gia sư Skoltz mê cờ vây, toán học và các trò cá ngựa. Có thể viết một cuốn tiểu thuyết trong đó các nhân vật luôn ở sát gần nhau, rình rập nhòm ngó nhau, nhưng không bao giờ gặp nhau và không hề biết là họ tham dự vào cùng một câu chuyện ? Viễn vọng là câu trả lời tài hoa của Patrick Deville. In năm 1988 tại nhà xuất bản danh tiếng Minuit và được dịch ra hơn mười ngoại ngữ, Viễn vọng là thành công đầu của Patrick Deville. *** Nhận định “Ngông cuồng và thung dung, Patrick Deville đưa vật lý lượng tử vào truyện tiểu thuyết Pháp, như Faulkner đã từng đưa bi kịch vào trinh thám Mỹ.” - Vincent Landel (Magazine littéraire, tháng mười 1988) *** Patrick Deville (sinh ngày 14 tháng 12 năm 1957) là nhà văn người Pháp. Sau khi nghiên cứu môn văn học đối chiếu và triết học ở Đại học Nantes, năm 23 tuổi, Patrick Deville làm tùy viên văn hóa ở Vùng Vịnh, hai năm sau ông giảng dạy triết ở hải ngoại. Trong thập niên 1980, Patrick Deville đến sống ở Trung Đông, Nigeria, và Algérie. Trong thập niên 1990, ông sống ở Cuba trong một thời gian và học tiếng Tây Ban Nha, sau đó đến Uruguay và khu vực Trung Mỹ. Trong thời gian này ông thường xuyên về Pháp để xuất bản sách. Năm 1996, Deville thành lập Giải Văn học Trẻ Mỹ Latin, và tạp chí Meet ngôi nhà của những nhà văn ngoại quốc và các dịch giả.[1] Năm 2011, quyển Kampuchea của Deville được tạp chí Lire chọn là tiểu thuyết Pháp hay nhất trong năm. Một tác phẩm khác của Deville, Peste et Choléra (tiểu sử Alexandre Yersin), được vào chung khảo Giải Goncourt, Giải của các giải văn học (Le Prix des Prix littérairs), Giải tiểu thuyết của tập đoàn Fnac (Prix du roman Fnac) và đoạt giải Femina năm 2012. Các tác phẩm của Patrick Deville đã được dịch ra hơn mười ngôn ngữ khác nhau.[2] Tác phẩm Cordon-bleu, Editions de Minuit 1987 ISBN 9782707311207 Das Perspektiv. Rowohlt Verlag GmbH, 1989, ISBN 9783498012816 El Catalejo, Translator Javier Albiñana, Anagrama, 1990, ISBN 9788433931863 Le Feu d'artifice, Editions de Minuit 1992 (The Fireworks) ISBN 9782707314208 Los Fuegos artificiales, Edicions 62, 1994, ISBN 9788429737332 花火, 白水社, 1994, ISBN 9784560043264 La Femme parfaite,, Editions de Minuit 1995 (The perfect woman) ISBN 9782707315076 Ces deux-là, Editions de Minuit, 2000 (These two) Pura vida: vie & mort de William Walker, Seuil, 2004 (Pure Life: Life and death of William Walker) ISBN 9782020628778 Pura vida: Vida y muerte de William Walker, Seix Barral, 2005, ISBN 9788432227875 La Tentation des armes à feu, Seuil, 2006 (The Temptation of firearms) ISBN 9782020798303 Equatoria, Seuil, 2009, ISBN 9782020906807 Kampuchéa, Seuil, 2011, ISBN 9782021056723 Vie et mort sainte Tina l'exilée, editions publie.net, 2011 (Life and holy death in exile Tina) Peste et Choléra, (Yersin: Dịch hạch & thổ tả), 2012. [Plague and Cholera] ISBN 978-2-02-107720-9 Mời các bạn đón đọc Viễn Vọng của tác giả Patrick Deville.
Dấu Chân Người Lính - Nguyễn Minh Châu
Nơi đây khi đang mùa thu hãy còn là một cánh rừng già im lìm như ngủ. Lúc bấy giờ những người chiến sĩ bộ binh và cả những người chiến sĩ trinh sát dày dạn và ưa hoạt động nhất của cấp trung đoàn hoặc sư đoàn hãy còn ở tuyến hậu phương. Suốt cả một dải rừng núi âm u rậm rạp, thỉnh thoảng mới thấy sáng bừng lên vài bông hoa chuối rừng đỏ nở trên những thân cây gầy khẳng. Tiếp giáp với bìa rừng là bãi lau hoang vu, rồi lại một cánh rừng khác, một bãi lau khác ăn thẳng ra con đường số 9 rải sỏi dẫn tới một thị trấn và ngoại vi khu đồn địch. Suốt cả mùa thu, ở đây còn hết sức yên tĩnh. Trên mặt đất khô ráo đang đón đợi mùa mưa ngàn tới, chỉ có bước chân những đàn voi đi thủng thỉnh xéo nát từng bãi tranh, và báo trước cho chiến dịch sắp mở là bước chân không để lại chút dấu tích của những người lính trinh sát Bộ Tư lệnh chiến dịch và bọn thám báo Mỹ giậm đè lên nhau. Khuê, chiến sĩ cần vụ của chính ủy trung đoàn 5 đã từng sống trên mảnh đất này suốt từ trận đánh mở màn chiến dịch. Nhưng anh không khỏi bỡ ngỡ mỗi khi có dịp rời khỏi hầm sở chỉ huy, đi trở lại khu rừng trú quân hồi trung đoàn mới từ giã trạm giao liên cuối cùng tận ngoài bờ sông Xê Pôn. Thế là sau một loạt trận đánh, địch đã dự đoán được đôi chút hướng xuất kích của những đơn vị chiến đấu lớn của chúng ta. Chúng rải thuốc độc hóa học và dùng máy bay B.52 rải bom theo lối "rải thảm". Chỉ có trong vòng nửa tháng, từ khi tiếng súng đầu tiên của ta nổ vào giữa thị trấn, các cánh rừng chung quanh đã quang đi từng vạt, từng vạt cỏ tranh bị thiêu cháy, ở các chân lèn đá và dọc khe suối đã bị phát quang, máy bay trinh sát các loại lượn đi lượn lại thăm dò suốt ngày đêm. Ban đêm từng chùm pháo sáng liên tiếp treo lơ lửng trong bầu sương thăm thẳm trắng rừng trắng núi. Mặc cho máy bay địch trinh sát và bắn phá, dưới mặt đất bộ đội vẫn chen chân nhau đi đông nghìn nghịt. Họ tranh thủ đi nhanh hơn, nhận mặt nhau, chào hỏi nhau. Con đường cứ hình thành dần những khu vực tọa độ (1) của địch. Trên chặng đường đầy cây cối đổ ngả nghiêng, khói bom khét lẹt và đất đỏ lật lên lấp hết cây cối, từng đơn vị cứ đi qua, hết đơn vị này đến đơn vị khác, hết binh chủng này đến binh chủng khác. Ban ngày có những khi máy bay trinh sát không làm nhiệm vụ chỉ điểm cho máy bay phóng pháo, với đôi cánh bằng gỗ dán, nó liệng từng vòng tròn rất hẹp trên từng chỏm cây một. Từ bên thành cửa sổ trống hoác như con mắt mù thò ra một chiếc loa phóng thanh và một giọng nói õng ẹo: Các anh bộ đội Việt cộng dũng cảm! Đây là tiếng nói của người em gái mến thương của các anh. Các anh hãy suy nghĩ mau mau trở về với người em gái mến thương và chính phủ Quốc gia. Các anh sẽ được trọng dụng và chiều chuộng. Em đang trông thấy các anh... *** Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Theo lời kể của vợ ông, bà Nguyễn Thị Doanh, tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ". Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi. Các tác phẩm: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970) Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn, 1983) Bến quê (tập truyện ngắn, 1985) Mảnh dất tình yêu (tiểu thuyết, 1987) Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn, 1987) Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (tiểu luận phê bình, 1987) Phiên chợ Giát (truyện vừa, 1988) Cỏ lau (truyện vừa, 1989) Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nhà xuất bản Văn Học, 2001) Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nhà xuất bản Hà Nội, 2009) ... Mời các bạn đón đọc Dấu Chân Người Lính của tác giả Nguyễn Minh Châu.