Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đột Phá - Hành Trình Thay Đổi Thế Giới Của Một Thần Đồng Khoa Học
Sau khi một người thân ra đi vì bệnh ung thư tuyến tụy, cậu bé Jack dồn quyết tâm tìm ra phương pháp tầm soát căn bệnh này. Từ vốn hiểu biết là con số 0 tròn trĩnh, Jack đã miệt mài học hỏi từ những “người thầy” đầu tiên là Google và Wikipedia. 200 lá thư đã được cậu gửi đi để xin mượn phòng thí nghiệm và chỉ có duy nhất một lá thư đồng ý. Cuối cùng, ở tuổi 15, cậu bé Jack đã gây chấn động ngành y học toàn cầu với phương pháp xét nghiệm ung thư sớm chỉ tốn chưa đến 1.000 VND, nhanh hơn 168 lần, nhạy hơn 400 lần phương pháp cũ. Câu chuyện của Jack không chỉ là thành tựu chói ngời mang tầm quốc tế, đó còn là câu chuyện truyền cảm hứng về nghị lực vượt qua trầm cảm, sự kỳ thị với người đồng tính. Câu chuyện của cậu truyền cảm hứng đến những người trẻ dám quyết tâm và cách tân, dám theo đuổi đến cùng giấc mơ đổi thay thế giới. Và trên hết, mọi thay đổi đều bắt nguồn từ nỗ lực đến cùng của mỗi người. *** BỐ MẸ NGỒI TRÊN CHIẾC GHẾ BÀNH trước mặt tôi, mặt buồn rười rượi. “Jack, con nghĩ ý tưởng này hơi bất bình thường không?” Một lần nữa, ánh nhìn âu lo lại hiện lên trên gương mặt bố tôi. Hai hàng lông mày của ông chau lại, tay chống dưới cằm. Mẹ ngồi cạnh bố. Bà khoanh tay trước ngực, chăm chú nhìn thẳng vào tôi. Bố mẹ vừa buộc phải ngồi xem lại tình hình sau cuộc gọi từ tư vấn viên học đường của tôi. Tôi mới biết tư vấn viên học đường thường sẽ gọi về nhà khi học sinh cố gắng tự sát trong nhà tắm. “Jack, bố mẹ thực sự không muốn con đau đớn hay tổn thương.” Mẹ nói. Bà nghĩ rằng tôi không thể chịu được áp lực. “Con đã rất cố gắng. Có lẽ đã đến lúc thay đổi, hoặc hướng đến một mục tiêu khác.” Mẹ tiếp lời. Một mục tiêu khác? Nghĩa là bỏ cuộc ư? Tôi đã bỏ bộn thời gian và chiến đấu ngoan cường. Và tôi… sắp… làm được rồi. Rõ ràng, tất cả những điều này là quá sức chịu đựng với bố mẹ tôi. Tôi đọc được điều đó trong ánh mắt và cử chỉ của họ. Họ cảm thấy bắt buộc phải nhắc nhở tôi nhìn vào thực tế. Nhưng tôi lại cảm thấy bắt buộc phải lờ đi. Tôi thực ra đã không còn lắng nghe được gì nữa. Tôi thờ thẫn cả người. Tôi gần như đoán trước được bố mẹ sắp nói gì, bởi đã nghe đi nghe lại những cuộc tranh luận ấy hàng nghìn lần trong chính đầu mình. Các cuộc tranh luận ấy thường đặt ra những vấn đề kiểu như thế này: Mình nghĩ mình là ai cơ chứ? Mình tưởng mình biết nhiều hơn tất cả những chuyên gia, tiến sĩ khoa học đó ư? Mình nghĩ ý tưởng của mình sẽ thành công ư? “Jack, dù con có tin vào ý tưởng của mình nhiều thế nào đi chăng nữa, thì tất cả chúng ta đều biết nó không thể thành hiện thực vì chẳng ai đồng ý cho con thử nghiệm trong một phòng thí nghiệm thực sự.” Tôi thấy kiệt sức. Tôi không thể nhớ nổi lần cuối mình được ngủ ngon là khi nào. Ròng rã nhiều tháng, tôi chẳng duy trì được bất cứ thứ gì, ngoại trừ hoóc-môn adrenalin hưng phấn. Tôi băn khoăn, khi mình sụp đổ, mọi thứ có phải cũng giống thế này chăng? “Con nghĩ rằng, nếu con tìm ra cách mới để phát hiện ung thư tuyến tụy, thì một trong những bác sĩ kia sẽ cho con cơ hội áp dụng ư?” Gần hai trăm nhà khoa học. Không một ai nghĩ rằng ý tưởng của tôi đủ độ tin cậy. Điều mà bố mẹ tôi không thể thấy, không ai có thể thấy, đó là, trong mường tượng của tôi, mọi thứ đã rất rõ ràng. Một giọt máu trên một que giấy thử. Đó là tất cả những gì cần thiết để xét nghiệm ung thư tuyến tụy. Quá đơn giản! Nếu đúng như dự đoán thì tôi đã ở rất gần một bước đột phá xét nghiệm tầm soát ung thư sớm, có thể cứu sống hàng triệu người. Dẫu vậy, sẽ chẳng nghĩa lý gì nếu tôi không đưa được nó vào phòng thí nghiệm. Bố mẹ quay sang nhìn nhau. Họ cuối cùng cũng đưa ra quyết định. Họ biết tôi cần sự hỗ trợ của họ đến mức nào. Không có họ, tôi sẽ chẳng thể chi trả cho nghiên cứu hay dụng cụ cần thiết. Sau rốt, vì mới mười bốn tuổi, tôi chẳng thể tự lái chiếc wagon của gia đình. Cuối cùng, mẹ tôi chốt lại: “Thôi được, cứ thế xem sao!” Đó không hẳn là một lời tán thành, nhưng vậy là đủ. Chú tôi vừa mới qua đời. Tôi phải đương đầu với bệnh trầm cảm và tệ bắt nạt suốt nhiều năm. Tôi chỉ còn biết bấu víu vào ý tưởng này. Và giờ đây, tôi không muốn bỏ cuộc. Nhất là khi tôi đã ở rất gần vạch đích. Thử nghiệm của tôi đã thành công. Tôi biết. Tôi chỉ cần chứng minh nó với phần còn lại của thế giới. Tôi chỉ cần một cơ hội. *** Lời tri ân Có rất nhiều người tuyệt vời mà tôi muốn cảm tạ, nếu không có sự giúp đỡ của họ thì có lẽ cuốn sách này sẽ không thể ra đời! Những người quản lý văn học của tôi, Sharlene Martin và Clelia Gore ở Viện Văn học và Quản lý truyền thông Martin, đã không chỉ thực hiện xuất sắc công việc đại diện cho tôi mà còn trở thành bạn của tôi. Cả hai đều quá “đỉnh”! Xin chân thành cảm ơn! Tôi đặc biệt biết ơn vì những món ăn tuyệt ngon mà hai người đã chiêu đãi khi chúng ta gặp gỡ ở thành phố New York. Xin gửi lời cảm ơn tới Matthew Lysiak, vì những đóng góp không ngừng nghỉ trong việc giúp đỡ tôi hoàn thành bản thảo này. Tôi kinh ngạc bởi tất cả mọi người ở Nhà xuất bản Harper Collins, những người đặt niềm tin rằng cuốn sách viết bởi một thằng nhóc khoa học điên khùng có thể truyền cảm hứng tới những người khác! Xin gửi lời cảm ơn tới các biên tập của tôi, Nansy Inteli và Olivia Swomley, những người đã xuất sắc định hướng cho cuốn sách và tạo đà cho tôi dấn thân sâu hơn. Hẳn cuốn sách này sẽ không tồn tại nếu không có sự ủng hộ của đội ngũ chuyên nghiệp truyền cảm hứng kỳ diệu ở Nhà xuất bản Harper Collins: Lisa Sharkey, Emily Brenner, Andera Pappaenheimer, Diane Naughton, Sandee Roson, Matthew Schweitzer, Julie Eckstein, Cindy Hamilton, Victor Hendrickson, Laura Raps và toàn bộ đội ngũ cố vấn pháp luật. Tôi muốn cảm ơn mẹ tôi, Jane Andraka và bố tôi, Steve Andraka vì đã không ám sát hay gửi tôi tới trại cải tạo sau mỗi lần tôi (suýt) đánh sập ngôi nhà hay để vi khuẩn lạ tứ tán trong bếp. Hai người là những ông bố bà mẹ tuyệt nhất trên đời. NHẤT TRÊN ĐỜI. Cảm ơn bố mẹ! Và trước khi anh ấy lên tầng, đấm vào mặt tôi, tốt hơn là tôi nên cảm ơn anh trai Luke của mình. Anh ấy thực chất là một chàng trai thú vị và là một trong số ít người đã hỗ trợ tôi khi tôi cần nhất. Luke, anh chính là một trong những người bạn tốt nhất của em đấy. Cảm ơn anh! Mời các bạn đón đọc Đột Phá- Hành Trình Thay Đổi Thế Giới Của Một Thần Đồng Khoa Học của tác giả Jack Andraka & Matthew Lysiak.
Chìa Khóa Để Trở Thành Người Đa Ngôn Ngữ
Sống tại “trái tim châu Âu” từ thuở bé nên tôi coi việc học ngoại ngữ là một điều tự nhiên và là một phần tất yếu của cuộc sống. Năm lên chín tuổi tôi đến Cộng hòa Séc sinh sống cùng mẹ và em trai, và đã có một khoảng thời gian chật vật để có thể sử dụng thứ ngôn ngữ phức tạp thuộc hệ ngữ tộc Slav và hòa nhập vào nền văn hóa bản địa mới lạ. Tôi vừa phải đấu tranh với từ vựng và ngữ pháp khó nhớ của tiếng Séc vừa phải học ngoại ngữ bắt buộc ở trường là tiếng Anh. Khi lên lớp bảy, tôi lại bắt đầu học ngoại ngữ bắt buộc thứ hai là tiếng Pháp. Lên đại học, tôi chọn học tiếng Tây Ban Nha chỉ vì tôi cảm thấy nó thật lãng mạn và đầy cảm xúc mà không hề biết rằng nó sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Giờ đây, bốn ngoại ngữ hoàn toàn khác nhau đó không làm cho tôi bối rối. Phải chăng là vì tôi có “năng khiếu ngoại ngữ bẩm sinh”? Rất có thể, nhưng tôi cam đoan với bạn rằng không có năng khiếu bẩm sinh nào có thể giúp bạn nâng cao khả năng ngoại ngữ nếu bạn không chăm chỉ học hành một cách bền bỉ, kiên trì. Như cựu Tổng thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã nói: “Không có gì trên thế giới này có thể thay thế được lòng kiên trì. Tài năng không thể, rất nhiều người có tài năng nhưng lại không thành công. Thiên tài không thể, vì thiên tài mà không được công nhận thì cũng chỉ là truyền thuyết. Giáo dục cũng không, khi mà cả thế giới này có quá nhiều người có học bị bỏ quên. Chỉ có lòng kiên trì và sự quyết tâm là có quyền lực tuyệt đối.” Đúng vậy, mỗi ngôn ngữ tôi học được đều nhờ vào những năm tháng miệt mài đèn sách và luyện tập. Bí quyết và cũng là lời khuyên đáng giá nhất mà tôi muốn gửi tới bạn qua cuốn sách này là: Luôn kết nối việc học tập với thực hành. Ở châu Âu, việc học các ngôn ngữ khác nhau đã trở thành một phần không thể tách rời trong cuộc sống của mỗi người. Vì những quốc gia châu Âu khá bé nhỏ và dễ dàng di chuyển từ nước này qua nước khác nên mọi người nhận thức được rằng họ cần học và sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau để có thể tận dụng được hết các cơ hội đi xuyên biên giới. Ở các nước như Hà Lan, Bỉ hoặc Đức, bạn khó có thể tìm ra người không biết sử dụng một ngoại ngữ nào. Nhưng ngay cả khi bạn không sống ở châu Âu, việc sử dụng ngoại ngữ thành thạo là điều tất yếu trong thời đại toàn cầu hóa. Dưới đây, tôi sẽ liệt kê cho bạn một vài lợi ích từ việc học ngoại ngữ: SỬ DỤNG THÀNH THẠO NGOẠI NGỮ... Giúp bạn mở rộng và nâng cao cơ hội trong học tập, nghề nghiệp, cuộc sống cá nhân... Là một trong những kỹ năng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động ngày nay. Ngoại ngữ sẽ giúp bạn nâng cao lợi thế cạnh tranh khi xin việc làm. Không chỉ là một cách giao tiếp đơn giản giữa các nhóm người khác nhau mà còn là phương tiện để nâng cao tầm hiểu biết về lịch sử, văn hóa, tư duy và phong tục tập quán của các quốc gia khác. Giúp bạn thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, văn học từ ngôn ngữ gốc. Giảm bớt sự phân biệt chủng tộc và các định kiến. Làm cho người bản xứ ngạc nhiên và thích thú khi thấy bạn sử dụng ngôn ngữ của họ đồng thời giúp cho những mối quan hệ quốc tế được mở rộng, gắn bó hơn. Tránh được các vấn đề bất đồng ngôn ngữ như các nhân vật trong phim Lạc lối ở Tokyo1 hay Đám cưới tại Hy Lạp2. Cười nhiều hơn vì hiểu được nhiều câu chuyện phiếm. Có thêm sở thích và đam mê vì bạn được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Giúp bạn hiểu hơn về tiếng mẹ đẻ, về quê hương và đất nước mình. Mở rộng các mối quan hệ xã hội và có thêm nhiều bạn bè mới đầy thú vị. Là tiền đề để bạn học những ngôn ngữ khác dễ dàng hơn. Giúp bạn có trí nhớ sắc bén và ít bị đãng trí hơn những người chỉ sử dụng được một ngôn ngữ. Có tư duy tốt hơn, não bộ trở nên linh hoạt và nhạy bén hơn. Tạo điều kiện thuận lợi khi bạn muốn bước ra thế giới. Là một trong những yếu tố quan trọng giúp bạn trở thành “công dân toàn cầu”... 1 Tên tiếng Anh: Lost in Translation, là một bộ phim hài – chính kịch của Mỹ do Sofia Coppola viết kịch bản và đạo diễn, được sản xuất vào năm 2003. Bộ phim xoay quanh câu chuyện giữa một diễn viên hết thời và một cô gái vừa tốt nghiệp đại học vô tình nảy sinh tình cảm sau khi gặp nhau tại một khách sạn ở Tokyo. Tên tiếng Anh: My Big Fat Greek Wedding, là một bộ phim hài – chính kịch của Mỹ do Joel Zwick làm đạo diễn, được sản xuất vào năm 2002. Bộ phim kể về mối quan hệ giữa một phụ nữ Mỹ gốc Hy Lạp với người đàn ông không phải người Hy Lạp và những bất đồng văn hóa, phong tục giữa họ khi làm đám cưới. Với những ích lợi kể trên, bạn còn chần chừ gì nữa mà chưa đầu tư thời gian cho việc học ngoại ngữ? Có thể vì bạn chưa biết cách lập kế hoạch học hiệu quả? Vì bạn chưa tìm được tài liệu thích hợp (trong vô vàn các tài liệu trên mạng và tại các cửa hàng sách)? Hay bạn cảm thấy tự ti? Bạn không thể nhớ các từ vựng khó học và những quy tắc ngữ pháp đáng ghét? Bốn kỹ năng nghe – nói – đọc – viết làm cho bạn đau đầu? Bạn cảm thấy không thể vượt qua kỳ thi ngoại ngữ? Bạn không biết cách đưa ngoại ngữ vào cuộc sống hằng ngày? Bạn lo sợ khi giao tiếp với người bản xứ? Hoặc bạn cảm thấy rằng trở thành người đa ngôn ngữ là một điều không thể vươn tới? Nếu bạn dám trả lời “Có” cho ít nhất một trong những câu hỏi trên, cuốn sách này sẽ mang tới những lời khuyên bổ ích cho bạn. Tôi đã sử dụng được năm ngôn ngữ khác nhau, hiện đang học ngôn ngữ thứ sáu là tiếng Trung và tôi tin rằng bạn cũng có thể làm được điều này. Trong phạm vi cuốn sách này, tôi sẽ giới thiệu những bí quyết tự học ngoại ngữ mà bạn cũng có thể áp dụng cho mình. Cuốn sách còn dành cho những người đam mê ngoại ngữ, muốn học ngoại ngữ nhưng chưa biết bắt đầu bằng cách nào, đặc biệt dành cho những người không thể hoặc không muốn tốn nhiều tiền bạc để theo học các lớp học ngoại ngữ. Thay vì tham gia một khóa học ngoại ngữ đắt tiền, bạn có thể đọc cuốn sách này để tham khảo những bí quyết tự học ngoại ngữ một cách hiệu quả. Xin lưu ý rằng cuốn sách không hướng dẫn cụ thể cách học một ngôn ngữ nhất định mà đưa ra các bí quyết học ngoại ngữ tổng quát. Những ví dụ và tài liệu được đề cập đến trong cuốn sách tập trung vào những ngôn ngữ phổ biến nhất hoặc những ngôn ngữ mà tôi sử dụng. Tôi tin rằng bạn có thể áp dụng những lời khuyên và bí quyết mà tôi đưa ra cho bất cứ ngôn ngữ nào. Trong những bí quyết của tôi, bạn sẽ thấy tôi nhắc tới rất nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Mỗi người trong chúng ta có nhu cầu và cách học khác biệt, vậy nên thay vì nghiên cứu tất cả các tài liệu đề xuất, hãy thử nghiệm và chọn ra một hoặc một vài tài liệu bạn thấy phù hợp, hiệu quả để theo học. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy những mã QR được đặt ở phần Bài tập sau mỗi Bí quyết. Những mã QR đó sẽ dẫn bạn đến các trang web hoặc nhóm Facebook để hoàn thành bài tập hoặc để tham khảo thêm thông tin. Để có thể quét mã QR, bạn hãy tải các ứng dụng điện thoại như QR Code Reader vào điện thoại. Tôi đã tạo ra nhóm HCX: Cộng đồng đa ngôn ngữ để các độc giả giao lưu, học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau. Tôi cũng sẽ cố gắng trả lời tất cả bình luận của các bạn. Mời bạn tham gia vào nhóm và tích cực trao đổi trong quá trình đọc cuốn sách! Cuốn sách này không chỉ để đọc và nâng cao tầm hiểu biết về ngoại ngữ mà tôi muốn bạn thực hiện ba điều sau với mỗi bí quyết mà tôi đưa ra: Đọc và ghi chép lại những điều quan trọng, những điều bạn chưa biết vào một cuốn vở; Thực hiện các bài tập ở cuối mỗi bí quyết; Quét mã QR, tham gia bình luận với các độc giả khác và với tôi. Như tôi đã nói ở trên, hãy luôn gắn liền việc học tập với việc thực hành. Bạn đã sẵn sàng cầm chìa khóa để mở cánh cửa bước vào thế giới học ngoại ngữ chưa? Hãy bắt đầu cùng tôi nhé! *** Tôi mong rằng cuốn sách này cung cấp cho bạn những thông tin bổ ích và thú vị về ngoại ngữ đồng thời truyền cho bạn động lực, cảm hứng trong học tập. Tôi xin nhắc lại là những lời khuyên trong cuốn sách và những giờ học tiếng sẽ không giúp ích được cho bạn nếu bạn không thực hành. Thực hành chính là thao tác quan trọng nhất trong quá trình học bất cứ ngôn ngữ nào. Practice makes perfect32, phải không bạn? 32 Tiếng Anh, dịch ra tiếng Việt: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Ngoại ngữ có sức mạnh thay đổi cuộc sống và giúp bạn mở ra những cánh cửa cơ hội rộng lớn. Hãy bắt đầu, nâng cao, duy trì việc học ngoại ngữ của mình để trở thành người song ngữ hoặc đa ngôn ngữ. Bạn sẽ không chỉ giúp cho bản thân có thêm một lợi thế mà còn giúp cho đất nước chúng ta phát triển hơn, nguồn nhân lực Việt có khả năng cạnh tranh cao trong phạm vi Đông Nam Á nói riêng và toàn cầu nói chung. Chúc bạn có nhiều thành công và niềm vui trong việc học ngoại ngữ! Mọi thắc mắc, cảm nhận và chia sẻ về cuốn sách này cũng như việc học ngoại ngữ xin gửi về địa chỉ e-mail: [email protected].   Mời các bạn đón đọc Chìa Khóa Để Trở Thành Người Đa Ngôn Ngữ của tác giả Hồ Thu Hương.
Bạn Thật 'Bá Đạo'!
Bạn có thể bắt đầu từ khi chẳng có gì, và từ chỗ chẳng có gì, từ nơi không có đường lối nào, một đường lối sẽ được vạch ra. — Mục sư Michael Bernard Beckwith người từng nghiện ma túy, rồi chuyển sang nghiện thế giới tâm linh, rồi trở thành người truyền cảm hứng. Tôi đã từng cho rằng những câu nói như vậy chỉ là một mớ nhảm nhí. Tôi chẳng hiểu họ đang nói về cái quái gì cả. Mà tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Vì khi đó, tôi đã quá “ngầu”. Tôi chỉ biết một chút xíu về thế giới của những chuyện tâm linh và tự cải thiện bản thân, tôi thấy nó sến súa vô cùng: nó sặc mùi giáo điều sáo rỗng, như thể những kẻ xa lạ, xấu xí cứ muốn ôm ấp, vỗ về chúng ta vậy. Và đừng bảo tôi kể chuyện khi ấy tôi thường hay càu nhàu về Thượng đế như thế nào. Cùng lúc đó vẫn còn tồn tại những vấn đề trong cuộc sống mà tôi rất muốn thay đổi, và nếu tôi gạt đi được cái thói kiêu căng tự phụ của mình thì có khi tôi đã nhận được sự giúp đỡ nào đó để cải thiện tình hình. Về tổng thể thì cuộc sống của tôi vẫn tương đối khá khẩm – tôi đã xuất bản được vài cuốn sách, có nhiều người bạn tuyệt vời, có gia đình khăng khít, có căn hộ riêng, xe hơi riêng, có đồ ăn và đủ răng lợi để ăn uống, có quần áo mặc, có nước sạch để uống – nên nếu so với đại đa số dân cư trên hành tinh này thì cuộc đời của tôi có thể coi là “ngon lành cành đào”. Nhưng nếu so với năng lực bản thân vốn có, tôi thấy chẳng có gì đáng ấn tượng cả. Khi ấy, tôi luôn cảm thấy rằng, Thôi nào, chẳng nhẽ cố gắng hết cỡ cũng chỉ được nhường này sao? Thật vậy ư? Tôi sẽ chỉ kiếm được đủ để trả tiền thuê nhà hằng tháng thôi sao? Tiếp tục như vậy mãi sao? Tôi sẽ lại dành cả năm trời để hẹn hò yêu đương với những gã trai lập dị, để chìm đắm trong những mối quan hệ hời hợt, để tạo ra thêm phiền não ư? Thật vậy sao? Và tôi sẽ lại tự vấn bản thân về mục đích tồn tại của mình, để rồi lại tự nuốt lấy khổ đau của vũng lầy ấy vào lòng và chấp nhận chúng như đã từng làm hàng triệu lần trước đây? Sống. Cứ. Như. Đang. Ngái. Ngủ. Tôi có cảm giác cuộc đời của mình cứ nhờ nhợ trôi qua, chỉ thi thoảng có một hai sự kiện hay ho đâu đó mà thôi. Và cái phần đau đớn nhất chính là trong sâu thẳm thì tôi luôn BIẾT rằng mình là một ngôi sao, rằng tôi có khả năng yêu thương, cho đi và nhận lại tuyệt vời, rằng tôi có thể nhảy một bước vọt qua cả tòa nhà cao tầng, rằng tôi có thể kiến tạo ra bất cứ thứ gì nếu đã quyết tâm… Cái gì kia? Tôi lại lãnh thêm một vé phạt đỗ xe ư? Đùa nhau chắc, đưa đây xem nào. Tôi không còn đủ tiền đóng phạt nữa, tháng này đã bị phạt tới ba lần rồi! Tôi phải xuống kiến nghị với họ ngay bây giờ… và thế là, tèn tén ten, tôi lại cắm đầu cắm cổ vào những chuyện vụn vặt không đâu, để rồi vài tuần sau đó lại chẳng thể hiểu nổi mấy tuần vừa rồi đã trôi đi đâu, và tại sao tôi vẫn còn sống ở cái căn hộ tồi tàn này, hằng ngày ăn những bữa ăn rẻ tiền trong đơn độc. Tôi đoán rằng nếu bạn đang đọc cuốn sách này thì cuộc đời của bạn cũng có những chuyện chẳng thuận lợi cho lắm. Và bạn cũng biết rằng chúng có thể được cải thiện hơn rất nhiều. Có thể bạn đang chung sống vui vẻ cùng với người bạn đời, nhưng bạn nghèo tới nỗi con chó của bạn cũng phải tự kiếm ăn. Có thể bạn dư dả về tài chính và đang thuận lợi trên con đường theo đuổi nhiều mục tiêu, nhưng lại chẳng nhớ nổi lần cuối cùng bạn cảm thấy thực sự vui sướng và hạnh phúc là khi nào. Hoặc có thể bạn kém cỏi trong tất cả các lĩnh vực trên, và lúc rảnh rỗi thì bạn dành thời gian để khóc lóc. Hoặc uống rượu. Hoặc hậm hực thù hằn người ghi vé phạt đỗ xe, mà theo bạn là luôn tới đúng lúc nhưng chẳng hề có khiếu hài hước và chính là một phần nguyên nhân khiến bạn gặp phải khủng hoảng tài chính. Hoặc có thể bạn đã có được tất cả mọi thứ bạn từng mong muốn trên đời, nhưng vì một lý do nào đó, bạn vẫn cảm thấy thiếu thốn và chưa hoàn thiện. Bạn không nhất thiết phải hướng tới mục tiêu kiếm hàng triệu đô-la, giải quyết các vấn đề lớn trên thế giới hay tìm kiếm một chương trình truyền hình cho riêng bạn, trừ khi chúng thực sự là những điều mà bạn muốn. Bạn có thể đặt ra những mục đích đơn giản hơn, như chăm sóc gia đình hoặc trồng được một bông hoa tu-lip hoàn hảo. Bạn cần xác định rõ ràng xem điều gì khiến bạn hạnh phúc, khiến bạn cảm thấy thực sự đang tồn tại và tạo ra chính điều đó, chứ không phải giả vờ rằng bạn không thể đạt được hay không xứng đáng có nó. Hoặc lo sợ bị coi là một kẻ tham lam nếu cứ ham muốn thêm dù bản thân đã có những thứ khác rồi. Hoặc nghe lời bố, mẹ hay dì nói về những điều họ nghĩ bạn nên làm. Tôi sẽ biến bạn trở thành một phiên bản hạnh phúc nhất, tươi sáng nhất, bá đạo nhất của bản thân bạn, dù bạn quan niệm phiên bản đó như thế nào đi nữa. Tin vui là để đạt được điều đó, tất cả những gì bạn cần làm chỉ là thay đổi một thứ cực kỳ đơn giản: Bạn phải chuyển từ mong muốn thay đổi cuộc đời sang quyết định thay đổi cuộc đời. Việc mong muốn có thể được thực hiện khi chúng ta ngồi vắt chân trên ghế với điếu thuốc trong tay và quyển tạp chí du lịch trên đùi. Còn việc quyết định thì có nghĩa là nhảy vào cuộc chơi hết mình, sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần thiết, theo đuổi giấc mơ với quyết tâm của một kiều nữ chân dài đã xác định rằng “không tiền cạp đất mà ăn”. Có thể bạn sẽ làm những chuyện chưa bao giờ bạn tưởng tượng rằng mình sẽ làm, bởi nếu có người quen trông thấy bạn làm hay tiêu tiền vào chuyện đó, họ sẽ trêu chọc bạn mãi không thôi. Họ sẽ lo lắng cho bạn. Hoặc họ sẽ không còn giao du với bạn vì giờ đây bạn có vẻ kỳ cục và khác thường. Có thể bạn sẽ phải đặt niềm tin vào những điều mà bạn chưa thể thấy được ngay, và thậm chí cả những điều mà bạn vẫn luôn cho là hoàn toàn bất khả thi. Bạn sẽ phải vượt qua những nỗi sợ hãi, phải biết cách chấp nhận thất bại nhiều lần, và phải tập thói quen làm những việc mà bạn vẫn ngại làm. Bạn sẽ phải bỏ đi những niềm tin cố hữu, lạc hậu và bị giới hạn, để vững vàng bám lấy quyết định tạo ra cuộc đời mà bạn mong muốn, như thể mạng sống của bạn phụ thuộc vào nó vậy. Bạn biết vì sao không? Vì đúng là mạng sống của bạn phụ thuộc vào nó. Nghe thì có vẻ vô cùng khó khăn, nhưng thực ra nó không thể khốn khó bằng việc tỉnh dậy nửa đêm và cảm thấy bị đè nén như thể có ai đó đang đỗ xe trên ngực bạn, và bạn bẹp dí dưới sức ép của việc nhận ra rằng cuộc đời đang trôi vụt qua và bạn chưa hề bắt đầu sống một cách thực sự có ý nghĩa. Có thể bạn đã nghe câu chuyện về những người bất chợt đạt được bước tiến lớn vào thời điểm tồi tệ nhất trong cuộc đời của họ – như là khi họ phát hiện khối u ác tính, hay khi nghèo tới nỗi bị cắt điện vì không thể trả tiền điện, hay khi sắp phải bán thân cho người lạ để kiếm tiền mua thuốc, thì bất chợt họ tỉnh ra và hoàn toàn thay đổi. Nhưng thực ra, bạn chẳng cần phải chờ tới khi bị rơi xuống đáy thì mới bắt đầu trèo lên. Tất cả những gì bạn cần làm là đưa ra quyết định. Và bạn có thể làm điều đó ngay bây giờ. Có một câu thơ rất hay của nhà thơ Anaïs Nin, tôi xin tạm dịch như sau: “Rồi sẽ tới một ngày mà những mối nguy hại của việc bó mình trong nụ hoa sẽ lớn hơn và đau đớn hơn các mối nguy hại của việc nở bung thành bông hoa.” Trường hợp của tôi hoàn toàn đúng như vậy, và tôi nghĩ rằng nó cũng đúng với đa số các trường hợp khác. Sự thay đổi của tôi là cả một quá trình (và đến giờ vẫn đang là một quá trình) vốn được bắt đầu bằng quyết định của tôi rằng phải thực sự cải thiện tình hình, dù có phải làm gì đi chăng nữa. Tôi đưa ra quyết định ấy vào thời điểm mà những điều tôi thường làm đều không giúp cải thiện được gì cả: than vãn với bác sĩ tâm lý và những người bạn cũng kém cỏi và tệ hại như mình, làm việc hùng hục, la cà nhậu nhẹt và hy vọng các vấn đề sẽ tự được giải quyết… Khi ấy, tôi tuyệt vọng tới nỗi sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để chấn chỉnh cuộc đời mình, và ôi trời, tình cảnh lúc đó cứ như thể cả thế gian đang thử thách xem sự quyết tâm của tôi lớn tới mức nào. Tôi ghi danh học các khóa tạo động lực, nơi mà họ bắt tôi gắn bảng tên trước ngực và đập tay với người bên cạnh rồi hét lên rằng: “Bạn tuyệt vời và tôi cũng vậy!” Tôi còn phải cầm gậy bóng chày để vừa vụt túi bụi vào một cái gối vừa gào thét như đang lên cơn, phải kết thân với người chỉ dẫn tinh thần cho mình, phải tham gia một nghi lễ nhóm mà trong đó tôi kết hôn với bản thân, viết thư tình cho cái âm đạo của mình, vừa sưởi nắng vừa đọc các loại sách động lực, và vay mượn cả một đống tiền để thuê huấn luyện viên riêng. Có thể coi là tôi đã hy sinh vì các bạn. Nếu bạn còn bỡ ngỡ với thế giới của việc tự cải thiện bản thân thì tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ nhẹ nhàng giới thiệu cho bạn một vài khái niệm – tuy là khái niệm cơ bản nhưng đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời của tôi, để bạn có thể nắm bắt và đạt được những bước đột phá trước khi vừa bỏ chạy vừa la hét. Còn nếu bạn đã quen với việc tự cải thiện và phát triển bản thân rồi thì hy vọng cuốn sách sẽ trình bày được điều gì đó theo một cách mới mẻ, mở ra những tia sáng giúp bạn nhận thấy rằng có thể chuyển hướng và đạt được các thành quả cụ thể, để rồi một ngày nào đó, bạn sẽ tỉnh dậy và bật khóc trong vui sướng vì không thể tin nổi mình lại thành công như vậy. Và nếu tôi có thể giúp cho dù chỉ một người bỏ được cái thói trẻ con ở bên trong họ thì coi như cuốn sách này đã hoàn thành nhiệm vụ. Khi bắt đầu cải thiện bản thân, tôi chỉ quan tâm đến mục đích kiếm tiền. Khi ấy tôi không hề biết làm thế nào để kiếm ra tiền một cách bền vững và lâu dài, và thậm chí ban đầu còn thấy khá kỳ cục khi phải thừa nhận mình muốn kiếm tiền. Lúc đó, tôi là nhà văn và nhạc sĩ; tôi cảm thấy rằng cứ mặc kệ chuyện tiền bạc và chỉ cần tập trung vào nghệ thuật là đủ (như vậy còn cao quý nữa chứ). Tư tưởng đó đã làm tôi khốn đốn! Nhưng tôi lại thấy rất nhiều người làm những công việc trơ trẽn và kinh khủng để kiếm tiền, còn chưa kể tới những nghề nghiệp nhàm chán, tới nỗi tôi hoàn toàn không muốn dây dưa gì tới chúng. Đã vậy, tôi còn cho rằng đồng tiền là dơ bẩn, rằng các thứ vật chất chỉ là phù du, hèn hạ và thấp kém, nên thật không thể hiểu nổi tại sao khi đó tôi chưa phải “cạp đất mà ăn”. Thế rồi tôi cũng nhận ra mình không chỉ cần tập trung vào việc kiếm tiền, mà còn phải vượt qua được nỗi sợ hãi và ghê tởm đồng tiền thì mới có thể thực sự kiếm được tiền. Đây chính là lúc mà những cuốn sách hướng dẫn cải thiện bản thân bắt đầu thâm nhập vào nơi tôi sống và bảng tên hiện diện trên ngực tôi. Cuối cùng, tôi đẩy khoản nợ ngân hàng của mình lên cao tới mức kỷ lục vì đã bỏ ra khoản tiền còn lớn hơn số tiền đã mua chiếc xe cà tàng, để thuê huấn luyện viên đầu tiên. Trong vòng sáu tháng sau đó, tôi đã tăng được thu nhập lên gấp ba lần bằng cách mở một dịch vụ hướng dẫn trực tuyến cho các nhà văn. Giờ đây, tôi đã biến nó thành một nơi kiếm ra lợi nhuận đủ để cho bản thân có điều kiện đi khắp thế giới, viết lách, diễn thuyết, chơi nhạc và hướng dẫn người khác cách cải thiện cuộc đời của họ, thông qua những phương thức – những khái niệm mà xưa kia tôi từng khinh bỉ và coi thường, còn giờ thì lại hoàn toàn mê mẩn. Để giúp bạn cũng tới được những nơi mà bạn muốn tới, trong cuốn sách này, tôi sẽ yêu cầu bạn tập cách chấp nhận những thứ có vẻ như xa lạ ở ngoài kia, khuyến khích bạn trở nên cởi mở và suy nghĩ thoáng. Không, thực ra tôi thấy cần phải quát vào mặt bạn rằng: HÃY CỞI MỞ VÀ BIẾT CHẤP NHẬN CÁI MỚI, NẾU KHÔNG THÌ SẼ TIÊU ĐỜI! Tôi nói thật đấy. Chuyện này thực sự rất quan trọng. Bạn đang ở vị trí hiện tại do bạn chỉ làm những thứ mà bạn đang làm, vậy nên nếu không hài lòng với hoàn cảnh hiện tại thì rõ ràng bạn phải biết cách thay đổi. Nếu bạn muốn được sống một cuộc đời mà bạn chưa từng sống thì bạn phải làm những việc mà bạn chưa từng làm. Tôi chẳng quan tâm tới chuyện hiện tại bạn có coi bản thân mình thất bại và bết bát hay không, chỉ cần thấy rằng bạn biết đọc, biết viết, có tiền để mua cuốn sách này và còn có cả thời gian để đọc nó, vậy thì coi như bạn đã có được những lợi thế rất lớn trên thế giới này rồi. Bạn đừng nghĩ cải thiện bản thân là một chuyện đáng xấu hổ, đáng để than vãn hay là đáng để tinh tướng. Đó là một chuyện nên được trân trọng, và nếu bạn đã quyết định theo đuổi chuyện này thì hãy tin rằng bạn hoàn toàn có khả năng đạt được những thành công mỹ mãn, có khả năng thể hiện sự bá đạo của bạn với toàn thế giới. Bởi đó mới chính là mục đích sau cùng. Chỉ những con người thông minh với trái tim rộng mở và tâm hồn sáng tạo mới có thể tận dụng được hết tiền bạc của cải, các nguồn lực, những sự ủng hộ mà họ có, để tạo nên dấu ấn của bản thân trên cuộc đời. Chúng ta đều muốn cảm thấy hạnh phúc, thỏa mãn và được yêu thương, để không ai phải trút nỗi bực dọc lên bản thân, lên người khác, lên môi trường xung quanh, lên động vật hay lên hành tinh này. Chúng ta cần phải sống giữa những con người dư dả và biết quý trọng bản thân, để tránh việc tiêm nhiễm vào các thế hệ tương lai những tư tưởng như tiền bạc là bẩn thỉu, mình không giỏi, hay mình không thể có được cuộc đời mà mình ao ước. Chúng ta cần những con người bá đạo, khả năng thoát khỏi cuộc sống chật vật, chuyển sang sống cởi mở và có mục đích, để họ có thể trở thành nguồn cảm hứng giúp những người khác cùng vươn lên. Điều đầu tiên mà tôi sẽ yêu cầu bạn làm là hãy tin rằng chúng ta đang sống trong một thế giới không hề có giới hạn cho các khả năng và cơ hội. Tôi không quan tâm cho dù bạn có bao nhiêu chứng cứ rằng bạn không thể ngừng ăn nên bị béo, hoặc bản chất của người khác toàn là xấu xa, hoặc bạn không thể giữ nổi người yêu cho dù đã gông cùm anh ta đủ đường. Hãy tin rằng mọi chuyện đều hoàn toàn có thể xảy ra. Hãy thử xem nếu bạn tin tưởng – thì bạn có gì để mất? Nếu bạn đọc cuốn sách này rồi cho rằng nó chỉ là một mớ nhảm nhí thì bạn vẫn quay lại được với cuộc đời đáng thất vọng của mình. Nhưng nếu gạt những ngờ vực sang một bên, xắn tay áo lên sẵn sàng mạo hiểm, và hết mình theo đuổi mục đích, thì một ngày nào đó khi ngủ dậy, bạn sẽ chợt nhận ra mình đang sống một cuộc đời mà trước đây mình từng ghen tị. *** Bạn chính là nạn nhân của những luật lệ mà bạn tuân thủ. –Jenny Holzer nghệ sĩ, nhà tư duy, người hay thông minh đột xuất Nhiều năm trước, tôi gặp phải một tai nạn khủng khiếp khi chơi bowling. Tôi và mấy người bạn đang bất phân thắng bại, khi ấy tôi đã quá tập trung vào việc thể hiện và tinh tướng ở lượt ném bóng cuối cùng – tôi dõng dạc tuyên bố rằng mình thắng chắc, và vừa lấy đà ném bóng vừa nhảy múa quay cuồng – do đó tôi đã không để ý vị trí của chân mình ở đâu khi ném bóng. Đó chính là thời điểm mà tôi nhận ra môn bowling này nghiêm khắc như thế nào trong việc trừng phạt những người ném bóng mà dẫm quá vạch. Người ta đã bôi một loại dầu, nhớt hay sáp gì đó trơn kinh khủng lên khắp đường ném bóng, và khi có ai đó nhỡ chân bước vào đường bóng khi chơi, thì người đó sẽ thấy chân mình trượt tung lên trời và mông dập mạnh xuống sàn, cái thứ sàn cũng cứng một cách khủng khiếp. Vài tuần sau đó, khi đang nằm ườn trên giường ở cửa hàng Macy’s với một anh chàng, tôi phải giải thích với anh ta là từ khi bị tai nạn, tôi thường tỉnh dậy giữa đêm vì chân đau nhức nhối. Theo lời chẩn đoán của bác sĩ châm cứu thì đó là do một số dây thần kinh ở lưng đã bị dập khi tôi ngã, và để ngủ được qua đêm thì tôi phải tìm mua một cái đệm mới, cứng hơn đệm tôi đang dùng. “Tôi cũng bị đau ở chân khi đi ngủ này!” Anh chàng kia nói và nhổm dậy, chìa tay ra như muốn đập tay với tôi, nhưng tôi đã không hưởng ứng theo. Tôi làm vậy không chỉ vì tôi chẳng ưa trò đập tay, mà còn vì tôi khó chịu với anh ta. Riêng chuyện phải đi sắm đệm đã khiến tôi thấy kỳ quặc và bối rối – nằm thử đệm giữa nơi công cộng, kẹp gối ở giữa đùi để mọi người xung quanh cùng nhìn thấy, cứ như thể đấy là việc của họ – đã thế tôi lại phải làm vậy khi có người bán hàng nằm ngay bên cạnh, còn đòi tôi cùng đập tay high-five, và từng ấy chuyện thì tôi không thể chịu nổi. Những người bán hàng khác thường chỉ đứng ở cuối giường, lải nhải các thông tin về sản phẩm trong khi khách hàng đang thử nằm đủ các tư thế trên đệm, nhưng người bán hàng của tôi thì lại không như vậy. Anh ta ngả lưng xuống nằm cạnh tôi, khoanh tay trước ngực và tận tình tâm sự, vừa nói vừa nhìn lên trần nhà như thể chúng tôi đang cùng nằm chơi ở trại hè nào đó. Rõ ràng anh ta rất chu đáo và cực kỳ hiểu biết về các loại đệm lò xo, đệm cao su và đệm mút, nhưng tôi thì vẫn không dám nằm thử tư thế khác vì sợ rằng anh ta sẽ ôm lấy tôi. Có phải tôi quá thân thiện? Có phải tôi không nên hỏi thăm quê anh ta ở đâu? Có phải anh ta đã hiểu nhầm khi thấy tôi vỗ vỗ tay vào cái gối bên cạnh (để thử độ đàn hồi của gối)? Rõ ràng là tôi nên mời anh chàng Bob kỳ cục này rời khỏi cái giường, hoặc tìm cho mình một nhân viên bán hàng khác, thay vì lẻn ra khỏi cửa và bỏ lỡ cơ hội duy nhất để sắm đệm trong tuần đó, bởi tôi không muốn làm anh ta phải bối rối. Tôi đã không muốn làm anh ta phải bối rối! Xem ra đây chính là cách mà cả gia đình tôi quen dùng để ứng xử trước mọi tình huống khó xử trong giao tiếp. Ngoài biện pháp an toàn là bỏ chạy thẳng cẳng, chúng tôi còn có những cách phản ứng khác như: khựng người lại, chuyển sang nói chuyện về thời tiết, đứng đờ ra, rồi thì òa lên khóc sau khi đối phương đã đi khuất. Việc chúng tôi yếu kém trong kỹ năng ứng xử chẳng có gì lạ, bởi mẹ tôi vốn thuộc dòng dõi Anglo-Saxon da trắng Tin lành. Ông bà ngoại tôi thì luôn cho rằng trẻ con chỉ được hiện diện chứ không có quyền cất tiếng nói, và dù người khác có thể hiện cảm xúc gì thì ông bà đều phản ứng bằng thái độ khinh bỉ thường được dùng khi phải uống rượu scotch rẻ tiền hoặc những học sinh không được học trường điểm. Và dù mẹ tôi đã cố gắng gây dựng một mái nhà ấm cúng tràn đầy yêu thương và tràn ngập tiếng cười, thì cũng phải mất nhiều năm tôi mới tập được cách thốt ra một câu trả lời khi gặp phải yêu cầu lạnh gáy “Chúng ta cần nói chuyện.” Tất cả chuyện này là để nói lên rằng: việc bạn kém cỏi không phải là do lỗi của bạn. Bạn sẽ có lỗi nếu tiếp tục để cho bản thân kém cỏi mãi, dù cho nguồn gốc của sự kém cỏi ấy có được truyền qua nhiều thế hệ trong nhà bạn, giống như một chiếc gia huy hay một công thức nấu ăn gia truyền, và trong trường hợp của tôi là coi việc giao tiếp căng thẳng chẳng khác gì lên cơn đau tim. Khi cất tiếng khóc chào đời trên thế gian này thì bạn là niềm vui của mọi người xung quanh, bạn là một sinh vật mở to mắt tò mò và không quan tâm tới điều gì ngoài những chuyện xảy ra ngay trước mặt. Bạn không hề biết mình có một cơ thể và cũng không thấy xấu hổ khi đang trần truồng. Khi nhìn ngắm xung quanh thì bạn thấy mọi thứ, mọi điều đều rất đơn giản. Bạn không hề thấy có thứ gì trên đời là quá đáng sợ, quá đắt đỏ, quá lạc hậu hay lỗi mốt cả. Nếu có thứ gì đó tới gần miệng thì bạn sẽ mút nó, nếu có thứ gì tới gần tay thì bạn sẽ nắm lấy nó. Bạn khi đó là một con người đơn giản nhất. Khi đã nhận thức được nhiều hơn và bắt đầu khám phá thế giới này, bạn cũng nhận được nhiều bài học từ mọi người xung quanh về cách thế giới vận hành. Kể từ lúc bạn có khả năng học hỏi, người ta sẽ nhồi vào đầu bạn đủ loại tư tưởng và niềm tin khác nhau, trong đó có nhiều thứ không thực sự liên quan tới con người bạn và không thực sự đúng đắn (ví dụ như thế giới này rất nguy hiểm, bạn quá béo, đồng tính là một căn bệnh, kích cỡ rất quan trọng, không mọc được lông ở chỗ đó, vào được đại học là rất quan trọng, nghệ sĩ không phải là một nghề nghiệp thực sự, v.v...). Cái nguồn chủ yếu nhất của những thông tin như vậy đương nhiên là phụ huynh của bạn, cùng với sự giúp đỡ của toàn xã hội. Trong quá trình nuôi nấng bạn thì phụ huynh của bạn – với hy vọng bảo vệ, giáo dục và thương yêu bạn hết mình – đã truyền cho bạn những tư tưởng mà họ học được từ phụ huynh của họ, những người cũng đã học chúng từ phụ huynh của họ… Vấn đề là rất nhiều tư tưởng trong số đó không hề liên quan tới con người họ, hoặc không hề đúng. Tôi biết rằng tôi đang nói như thể tất cả chúng ta đều điên rồ, nhưng đó là bởi gần như đúng là vậy.   *** Các khóa học và hội thảo 1. PAX—Allison Armstrong Tôi đã tham dự một trong những hội thảo hay ho của họ, có tên là “Thấu hiểu nam giới, ăn mừng nữ giới”, nói về những khác biệt giữa hai giới tính đã khiến tôi phải ngẩn ra vì ngạc nhiên – sao tôi sống được tới giờ này mà chẳng biết gì hết về những thứ này vậy? Tôi thấy nó được tổ chức rất tốt và không hề sến súa. Tôi chỉ tới mỗi buổi hội thảo đó, nhưng rất thích những gì họ thể hiện ở đó, và cũng đã nghe nói những điều tốt đẹp về các hội thảo khác của họ. 2. Viện Hoffman Thôi được, đây là một khóa học vô cùng quái đản theo kiểu Đùa-tôi-chắc? Nó bao gồm những việc như cầm gậy bóng chày vụt lên những cái gối và gào thét hết cỡ, tự kết hôn với bản thân, hát những điệu ru ngủ đứa trẻ bên trong– căn bản là những chuyện khiến người thường phải bỏ chạy thoát thân. Nó rất quá đáng, tới mức tôi phải chấp nhận làm theo vì không thể làm được điều gì khác. May là nó được tổ chức bởi những người rất giỏi giang, ngọt ngào và có khiếu hài hước. Khi tham gia khóa học, bạn sẽ phải dành cả một tuần cho những hội thảo liên tục và đào sâu vào quá khứ cùng với các tư tưởng giới hạn của bạn để bỏ chúng đi. Tôi vừa thích, vừa ghét, lại vừa muốn khuyên bạn thử nó. Những diễn giả tuyệt vời khác mà bạn nên quan tâm: Martha Beck, Esther Hicks, Marianne Williamson, Byron Katie, Wayne Dyer, David Neagle, Deepak Chopra, Gabrielle Bernstien Mời các bạn đón đọc Bạn Thật 'Bá Đạo'! của tác giả Jen Sincero.