Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876

Trong sự nghiệp trứ tác của Trương Vĩnh Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876)[4] là tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt hơn cả. Cuốn sách này được ông xuất bản vào năm 1881, sau chuyến ra Bắc trước đó 5 năm; một chuyến đi gây nhiều hệ lụy cho (thanh danh) họ Trương và làm hao tổn không biết bao nhiêu giấy mực của giới nghiên cứu. Trong khối sách đồ sộ của ông, gồm đủ chủng loại (sáng tác, biên khảo, dịch thuật…) bằng nhiều ngôn ngữ (Việt, Hán, Bồ, Pháp…), quy mô tác phẩm này rất khiêm tốn, chỉ hơn ba chục trang in; những nhân vật, sự việc được nhắc đến trong sách cũng rất rõ ràng; đại để nội dung nói chuyện thăm viếng thường tình… Ấy thế mà nó lại là điểm xuất phát (và cũng là bằng cứ) cho những cuộc tranh cãi bất phân thắng bại kéo dài từ đầu thế kỷ XX cho đến tận ngày nay. Có một thực tế là lâu nay, khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký, giới nghiên cứu luôn gặp phải tình cảnh trớ trêu mà như có người nói, là bị một thứ “sương mù” bao phủ lên, làm nhòe mờ đi. Ông luôn bị người đời nhìn nhận bằng một thái độ nghi ngại, dè dặt. Thư tịch, tài liệu nghiên cứu về ông không hiếm, thế nhưng sự thật trong đó thường không mấy đảm bảo; khá nhiều thông tin liên quan đến Trương Vĩnh Ký bị khúc xạ theo một hướng nào đó. Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) là một trường hợp như thế. Tác phẩm này, thậm chí còn được trưng dẫn để chứng minh cho hành vi làm “Việt gian” của họ Trương. Vấn đề đặt ra ở đây là, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cần được hiểu như thế nào? Giá trị đích thực của tác phẩm này là gì? Theo dõi những cuộc tranh luận về Trương Vĩnh Ký lâu nay, dễ dàng nhận ra một điều: ảnh hưởng của các loại thiên kiến (thậm chí là định kiến), đã chi phối rất nhiều đến nhận thức của nhà nghiên cứu về đối tượng. Mà điều này lại liên quan mật thiết đến cái gọi là “điểm nhìn” (point of view) của nhà khoa học. Rút cuộc, điểm mấu chốt trong sự khác biệt giữa các loại ý kiến khi đánh giá về danh nhân Trương Vĩnh Ký nói chung, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) nói riêng, lại xuất phát từ quan điểm tiếp cận. Khi tìm hiểu các công trình, bài viết liên quan đến Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), chúng tôi rất ngạc nhiên khi nhận thấy hầu như chưa bao giờ người ta coi đó là một tác phẩm văn học đúng nghĩa; trong khi nó lại là một cột mốc thực sự của lịch sử văn học, xét trên phương diện thể tài. Đây chính là đóng góp quan trọng nhất, thể hiện vị thế của một nhà văn lớn trong quá trình hiện đại hóa văn xuôi – báo chí quốc ngữ. *** Trước tiên, hãy nói về thể tài du ký với tư cách thuật ngữ nghiên cứu văn học. Trong lịch sử văn học – báo chí Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở về trước, những tác phẩm được gọi đích danh là du ký vốn rất hiếm hoi. Có vẻ như Nguyễn Bá Trác [2] là người đầu tiên đã dùng nó một cách tự giác, với dụng ý nhấn mạnh đặc điểm của chủ đề, lối văn trong một tác phẩm được gọi là Hạn mạn du ký. Nguyễn Bá Trác, trong vai một nhà báo, đã thuật lại những gì mình trải nghiệm được từ những chuyến du lịch đến nhiều xứ sở. Thiên bút ký trường thiên này được đăng trên Nam phong tạp chí từ tháng 8 năm 1920 đến tháng 1 năm 1921 với 6 kỳ liên tục. Từ du ký (游 記), theo nghĩa từ nguyên, là ghi chép về “sự đi”, sự xê dịch, thưởng ngoạn cảnh quan xứ lạ. Thế nhưng nội hàm của khái niệm du ký  - một thể tài văn học - thì lại khá phức tạp. Chứng cớ là ngoại trừ bài của Nguyễn Bá Trác ra thì lại có nhiều tác phẩm dù không được gọi du ký nhưng xét về bản chất chúng rất gần gũi nhau. Chẳng hạn, những tập văn xuôi chữ Hán như Thượng kinh ký sự  của Lê Hữu Trác[5]; Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh[3]; Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức[3]… hoặc những tập văn xuôi quốc ngữ như Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh[1]; Pháp du hành trình nhật ký, Thuật truyện du lịch Paris, Du lịch xứ Lào của Phạm Quỳnh[2] …Thậm chí, ngay cả đối với Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thì Trương Vĩnh Ký cũng gọi tác phẩm của mình là “truyện” (trang bìa sách tác giả đề Tự thuật vãng Bắc Kỳ truyện - 自 述 往 北 圻 傳). Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra điểm chung rất quan trọng giữa chúng: lối văn ghi chép từ những chuyến đi. Nếu đối chiếu với văn học Phương Tây, thì thấy rằng trên đại thể, chúng cũng chẳng khác mấy so với lối bút ký lữ hành (travelling notes) một thể văn xuôi tự sự rất thông dụng ở nhiều nước. Nhưng nói thế không có nghĩa mọi tác phẩm viết về lữ hành đều giống hệt nhau. Nếu xét kỹ về phương thức thể hiện thì lại thấy trong cái khối chung này, có nhiều nhóm, loại với những nét đặc thù. Chẳng hạn, đều là “hành trình ký sự” song hình thức lại rất khác nhau; có những văn bản ghi chép tỉ mỉ bằng lối văn xuôi nhật dụng về chuyến đi theo một lịch trình cụ thể (được gọi là “nhật ký”, “nhật trình”); lại cũng có khi tác phẩm được thể hiện dưới dạng thơ trường thiên (Như Tây nhật trình của Trương Minh Ký là một “câu chuyện” dài tới 2000 câu thơ); có trường hợp ghi chép chuyến đi qua hồi ức, một dạng “hồi ký” (Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh); lại có cuốn được thể hiện dưới dạng “du khảo” -  thiên về giới thiệu “kiến văn” (Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Giá Viên biệt lục của Phạm Phú Thứ)[3] … . Nói cách khác, ngay trong bản thân cái gọi là du ký cũng rất đa dạng, không hề thuần nhất chút nào. Như vậy, du ký với tư cách một thể tài văn học, bao hàm trong đó những kiểu dạng tác phẩm có hình thái rất khác nhau. Nét đặc thù của những tác phẩm thuộc thể tài du ký chính là nhận thức của bản thân người viết qua các cuộc viễn du, là sự trải nghiệm lữ hành. Khác với văn học nhiều nước Phương Tây, thể tài du ký ở ta xuất hiện muộn và cũng ít được chú ý. Có nhiều lý do liên quan đến hiện tượng này, nhưng chung quy có lẽ là bởi người Việt vốn e ngại sự di chuyển, chỉ lên đường khi chẳng đặng đừng. Trong quá khứ, không kể hạng người bình dân, ngay đối với các bậc phong lưu cũng thế. Người nông dân phải nhọc nhằn vật lộn mưu sinh, bị ràng níu bởi trăm thứ hữu hình, vô hình, nên không thể có điều kiện để du ngọan đã đành; cả đến văn nhân cũng ít có điều kiện (kể cả nhu cầu) để du ngoạn đúng nghĩa. Cho đến đầu thế kỷ XX mà những người “mê” đi, “có gan” đi như Tản Đà, Nguyễn Tuân… chỉ là hạn hữu. Mà đã ít người đi, ít kẻ dám dấn bước phiêu lãng thì mạch văn chương du ký hạn hẹp, thưa thớt cũng là chuyện dễ hiểu. Trong bối cảnh đó, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) có giá trị vượt hẳn tính chất của một tác phẩm du ký thông thường; nó đánh dấu cho quá trình hiện đại hóa một thể tài, góp phần làm nên bước tiến mạnh mẽ của văn học dân tộc nói chung trên con đường hiện đại hóa chặng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. *** Tính hiện đại của Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) thể hiện qua hai điểm cốt yếu: cảm hứng lữ hành của tác giả và lối văn xuôi rất mới mẻ trong tác phẩm.             Với thiên ký sự này, lần đầu tiên trong mạch văn chương quốc ngữ xuất hiện một tác phẩm thuộc thể tài du ký đúng nghĩa. Nói như vậy là muốn nhấn mạnh đến tính chất của tác phẩm chứ không thuần xét về thời điểm xuất hiện. Bởi nếu so ra thì tác phẩm của Trương Vĩnh Ký không phải sớm nhất; Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh còn xuất hiện trước đó rất lâu (từ năm 1822). Nhưng dù vậy, dù ra đời sớm hơn nửa thế kỷ, tôi cho rằng cuốn của Philipphe Bỉnh chưa phải là một thiên du ký theo nghĩa hiện đại bởi tính chất du hý, thưởng lãm chưa trở thành ý vị chính yếu của sự đi; nó vẫn thiên về kê biên (sang chép) tư liệu; cái “tôi” lữ khách chưa thực sự nổi bật. Trong khi du ký hiện đại chủ yếu phải là những cái được “sáng tạo” (compose), là câu chuyện của chính du khách (họ là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của cuốn sách). Mặc dù so với truyền thống tự sự trong văn chương Việt, cách mở đầu tác phẩm của Philipphe Bỉnh đáng được ghi nhận là một biệt lệ. Ông viết: “Tôi là thầy cả Philip Bỉnh…” – một lối nhập đề rất mới lạ, có thay đổi so với các tác giả trung đại, song bóng dáng của người du khách vẫn rất mờ nhạt, bị khuất hẳn đi sau tư liệu (các việc). Bởi ở đây, “Tôi” cũng không phải “nhân vật” chính, “chuyến đi” cũng không phải đối tượng chính; cái chính ở đây là “việc”. Trương Vĩnh Ký bắt đầu thiên du ký một cách thật giản dị: “Năm Ất Hợi (1876), bái trưởng tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên, nhơn dịp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sắm hòm rương áo quần. Rủ thầy Ba Hớn với ông Sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một người ở Sơn Tây mà vào trong Nam Kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê quán.”. Cái lý do của chuyến đi đơn giản và rõ ràng hết sức: đi cho biết Bắc Kỳ. Mục đích đi để khám phá, tìm hiểu “xứ lạ” của chủ thể ở đây rất khác so với trạng thái bị động của phần đa kẻ lữ hành trong các thiên hành trình ký sự trước đó. Một lối khởi hành mang tính chất lãng tử, tài tử khác hẳn với những chuyến đăng trình rềnh rang nghi thức, tâm trạng ngổn ngang. Cần nhớ chuyến đi được khởi hành vào mùng mười tám tháng Chạp, là lúc đã “năm cùng tháng tận”, sắp cận kề một cái Tết cổ truyền. Thế mà vẫn háo hức lên đường. Sức hút của chuyến đi lấn át hết những vướng bận thường nhật khác. Cái tâm thế phiêu lưu này được bộc lộ rất rõ vào thời điểm tác giả đã hoàn tất chuyến đi theo dự kiến, xuống Hải Phòng để đáp tàu vào Gia Định. Rủi là bị trễ chuyến: “Lỡ dịp đi, buồn bực quá. Nhưng mà cũng chẳng qua là bởi đâu xây khiến cho được biết đất Bắc rõ hơn. (…) Vì vậy qua mồng 3 tháng 2, mới tính ở mà đợi lóng nhóng đó cũng mất công vô ích; chi bằng hồi ngữ về ngã Hương Cảng đi, để chờ dịp tàu sau về ngay Nam Kỳ. Mà bởi không biết chắc ngày nào tàu ra, mới tính đi rông ít ngày qua Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên cho biết xứ ”. Rõ ràng qua đây, cái gọi là “cảm hứng lữ hành” ở họ Trương rất nổi bật; nó được đưa vào trong tác phẩm một cách nguyên vẹn. Cần đặc biệt lưu ý tới cái tâm thế, cảm hứng lữ hành hiện đại này bởi nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cái gọi là “nhãn quan nghệ thuật” trong tác phẩm. Cái cách nhìn, lối cảm nhận về thế giới thực tại của lữ khách phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng, tâm lý cũng như cái đích nhắm đến của chuyến đi. Bởi vì cảm quan ngoại giới của một du khách sẽ rất khác với cách cảm nhận của một kẻ bộ hành với mục đích mưu sinh, hay một hành nhân tị nạn, hoặc của một kẻ bị lưu đày… Nói khác đi, tâm thế này sẽ ảnh hưởng đến việc lữ khách nhìn thấy cái gì (?), cảm thấy điều gì (?), thu nhận được ý nghĩa gì từ chuyến đi. Đối với Trương Vĩnh Ký, mục đích chuyến du hành này là để thỏa ý thích được đi; và chính đó là tâm thế của “kẻ lữ hành hiện đại”. Thích được trải nghiệm thông qua cảm giác xê dịch là một trong những đặc điểm tâm lý của chủ nghĩa cá nhân (individualism). Bởi đối với con người cá nhân cá thể  hiện đại, đi là để nhận biết và để khẳng định. Câu nói trứ danh của Paul Morand: “Ta muốn sau khi ta chết đi, có người thuộc da ta làm chiếc va li” không chỉ là tuyên ngôn của tín đồ thuộc “giáo phái xê dịch”, mà còn là một nét tâm thức thời đại. Với tâm thế chủ động của kẻ lên đường vì chính “sự đi”, Trương Vĩnh Ký đã thu nhận được nhiều điều lý thú và đưa vào trong thiên du ký. Trong đó, ông đặc biệt chú ý tiếp cận và ký chép kỹ càng về những cuộc tiếp xúc với các nhân vật ở địa phương, các phong tục tập quán và các danh lam thắng tích… đã được tận mắt chứng kiến. Dường như đây cũng chính là những dạng du lịch phổ biến nhất của lữ hành đương đại; được khái quát thành các thuật ngữ có tính chất chuyên ngành như tham quan học tập (study tour), du lịch văn hóa (cultural travel), du lịch sinh thái (ecology travel). Cách tiếp cận đối tượng, cách hành xử trong từng tình huống cụ thể của họ Trương gợi ý cho ta nhiều điều thú vị. *** Trương Vĩnh Ký kể lại trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) một cách ngắn gọn song khá đầy đủ về những cuộc tiếp xúc với rất nhiều nhân vật ở Bắc Kỳ. Mật độ các cuộc thù tiếp dày đặc. Đối tượng rất phong phú, thuộc nhiều “tip” người khác nhau, sang hèn đủ kiểu dạng. Trong số này, có 3 nhóm người được ông thuật lại khá tỉ mỉ: giới chức người Pháp, quan lại Nam triều, chức sắc nhà thờ. Điều oái oăm là, chính những cuộc tiếp xúc này đã dẫn đến những rắc rối cho ông; dư luận phán xét về hành vi này của ông khá nặng nề; nhiều nghi vấn về mục đích thực sự của chuyến đi Bắc Kỳ được đặt ra. Những đồn đoán về hành tích họ Trương kéo dài dai dẳng lâu nay một phần cũng từ đây mà ra. Nhiều ý kiến cho rằng chuyến ra Bắc của ông, du lịch chỉ là cái cớ, cái vỏ che đậy một sứ mạng chính trị quan trọng. Sứ mạng đó là gì thì chưa ai chứng minh được; thế nhưng người ta cho rằng với những cuộc tiếp kiến bất kể ngày đêm diễn ra liên tục trong suốt thời gian ông ở Bắc Kỳ, và nhất là với hầu hết những nhân vật quan yếu của chính quyền lẫn nhà thờ thì hẳn nhiên nó phải bất thường. Tất nhiên, bàn luận thị phi là quyền của dư luận. Song có một thực tế là cho đến bây giờ, cái điều bí mật được che đậy từ chuyến ra Bắc của Trương Vĩnh Ký là gì vẫn là một câu hỏi. Phải chăng dư luận đã quá khắt khe với ông? Và con người này có đáng bị trùm cho một cái nghi án mơ hồ như thế không? Thực ra, cái sự khác thường ở đây nếu có chăng, chỉ là chỗ các nhân vật mà họ Trương tiếp xúc đều thuộc diện “kẻ sang”; và quả thực, có gì đó như là một sự hâm mộ, trọng thị (đôi khi hơi quá đáng) mà người xứ Bắc dành cho ông. Nhưng nếu ngẫm kỹ, cũng chả có gì đáng gọi là bất thường ở đây. Trương Vĩnh Ký vốn là người tiếng tăm lừng lẫy, quảng giao, lại từng trải ở những vị thế đặc biệt (giám đốc trường thông ngôn, chủ bút Gia Định báo…); uy danh của ông đâu chỉ vang dội trong xứ Annam(!). Vậy thì việc họ Trương - một danh sĩ đến từ Xứ Nam Kỳ vào dịp tống cựu nghênh tân này rất đáng được coi là sự kiện lớn; rộn ràng thù tạc cũng chả có gì khác thường cả. Vả chăng, nhìn vào lịch trình thăm viếng của ông kể cũng khó chỉ ra chỗ ám muội. Ngoại trừ hai cuộc viếng thăm lãnh sự Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội (tác giả dùng chữ “thăm”, không rõ có liên quan gì đến bổn phận của một công dân khác xứ không), còn lại đều là những cuộc tiếp kiến đầy ngẫu hứng, không hẹn trước. Và Trương Vĩnh Ký tỏ ra rất hứng thú với những cuộc hàn huyên, đàm đạo này. Ngay cuộc tiếp kiến các đức thầy, cha cố, chức dịch nhà thờ… cũng là những cuộc gặp ngẫu nhiên của một du khách ưa giao du, muốn học hỏi. *** Phần chủ yếu trong cuốn sách, Trương Vĩnh Ký dành để ghi chép về những điều trải nghiệm được từ thực tế. Danh sách những thắng tích, cảnh quan Bắc Hà ở đây thật phong phú: Chùa Nguyễn Đăng Giai, Hồ Hoàn Gươm, Đền Kính Thiên, Cột cờ, Đền Công, Ông Thánh Đồng Đen, Chùa Một Cột, Hồ Tây, Văn Thánh Miếu… Có điều lý thú là với thói quen cố hữu của một nhà khoa học, ông tiếp cận cảnh vật theo cách riêng của mình; quan sát và ghi chép như một nhà khảo cứu đang tiếp cận tư liệu hơn là một du khách. Những con số, lời bình, chú giải về địa danh, địa bạ, lịch sử… của họ Trương rõ là thao tác của một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Đây là một đọan ghi chép về Thổ sản đất Hà Nội: “Lúa: lúa dê (duy), lúa thông, lúa dự, lúa lem bông, lúa trĩ, lúa hương, lúa thầy đường, lúa bạch canh. Nếp: nếp bông vàng, nếp răng ngựa, nếp ruồng, nếp cau, nếp trái vải, nếp đuôi chồn, nếp ngọc thục… Tơ, bông cán, hàng đoạn bông (phường Thọ Xương, kiên liên dệt), trừu bông (Từ Liêm), hàng lượt, lãnh bóng, lượt bùng, the rây, lụa bông, lụa trắng, thao, vải trắng, the làn, xuyến, láng gốc… Cây hội (giấy viết sắc), các thứ giấy, quạt trúc, nón nan; ngói gạch, nồi đất (đồ gốm); trà, muối diêm, mật ui, đường hạ; vôi đá, bánh phục linh, trôi nước, xôi bông đường, bánh mì khoai, rượu trắng; khoai lang mộng, khoai sáp, khoai mài, khoai tím, khoai ngọt; củ sắn, củ đậu ,củ nần, củ huỳnh tinh, xoài, mít, nhãn, hồng thơm, hồng đỏ….” Quả là không dễ để có thể kê biên một cách chi li từng giống lúa khoai, loại lụa là, thức dùng… với hàng chục tên gọi khác nhau như thế nếu không có con mắt và cái trí của nhà bác học, ham hiểu biết, rất lịch lãm. Trong cái cách kể lể, liệt kê này, ta dễ nhận thấy trạng thái háo hức, mê đắm, tập trung của Trương Vĩnh Ký. Một cái nhìn hờ hững, một sự phân tâm của chủ thể không bao giờ tạo tác được những trang tư liệu về phong thổ như vậy. Một đoạn ghi chép về phong tục xứ Bắc chứng tỏ cái nhìn hết sức tỉ mỉ, từng trải của tác giả: “Trong tứ dân đều có chuyên nghề cả, mà nông thì hội hơn. Chốn Thiềng Thị thì công thương tụ, có lộn Ngỏ Khách. Đàn ông còn trai hay ngồi quán ngồi lều trà rượu ăn chơi, còn việc cày cấy thì nhờ đàn bà con gái làm. Đàn ông ăn mặc cũng thường, diêu áo vấn tới đầu gối, đầu hay đội nón ngựa, bịt khăn đen. Đàn bà mặc áo có thắt lưng làm bìu (bọc), yếm đỏ, không gài nút nịt, nút vai thả không ra mà thôi, đầu đội nón giàu (ba tầm), lớn gần bàng cái nia, hai bên có hai quai tụi vấn toòng teng, đầu vấn ngang, lấy lượt nhiễu vấn tóc mà khoanh vấn theo đầu. (có một làng Kẻ Lòi có đàn bà bới tóc); Dưới mặc váy, chân đi dép sơn; nước da mịn màng trắng trẻo, má hồng, da ửng, gót son, phốp pháp người; răng nhuộm đen cánh gián. Thói trật áo thắt lưng là nhơn bởi trời đông thiên rét lạnh; đàn bà có con, cho bú một lần phải mở nhiều áo khó lòng, nên để luôn như vầy. Còn thắt lưng thì cũng là vì lạnh; con gái thấy vậy cũng bắt chước làm theo, mùa nào mùa nấy cũng để luôn như vậy mà thành tục.” Điều thú vị trong phần nói về phong tục không chỉ ở những thông tin mà còn ở lời nhận xét, bình luận. Quan sát, ghi nhận và bình phẩm, giải thích về các phong tục tập quán một cách tinh tế nhưng cũng rất hóm hỉnh là một đặc điểm nổi trội trong thiên du ký này. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) được xuất bản vào năm 1881, thời điểm văn xuôi quốc ngữ đang ở chặng thử nghiệm, thế mà lạ thay, nó lại mang một dáng vẻ hiện đại đến khó tin. Chả cần phải đối sánh với những truyện thơ Nôm, văn xuôi chữ Hán cùng thời, hãy cứ so với phần lớn những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ ra đời mấy chục năm sau nữa nhưng vẫn chưa thoát khỏi giọng biền ngẫu, đăng đối cổ kính… sẽ thấy văn Trương Vĩnh Ký hiện đại thế nào. Dưới đây là đọan kể chuyến du ngọan Động Từ Thức ở Thanh Hóa, đọan văn có lẽ là hay nhất trong toàn bộ tác phẩm: “Hang Từ Thức ở tại xã Trị Nội, tổng Kiều Vịnh, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung. Đi đến đó phải đi qua cái đèo, rồi đi vòng lại bên tả mới tới miệng hang. Chỗ ấy kêu là Từ Thức động hay là Bích Đào động. Ở ngoài có cái miễu nhỏ nhỏ, nơi cửa động có chữ đề khắc vô đá. Vào trong phải có đuốc, vô trong nó rung rinh, có chỗ có đường như cột đá; dưới chân, chỗ thì có đá viên tròn vo bằng viên đạn cũng nhiều, nhỏ hơn nữa cũng nhiều, có chỗ thì đầy những đá đen cục hòn mà thành hình như trái mảng cầu khô; còn có chỗ lại có đá ra hình bàn ghế, mòn trơn có vân có hoa như chạm trổ vậy. Trên đầu ngó lên thấy thạch nhũ như là màn treo có thể bỏ xuống, trong đá coi nhấp nháng sáng ngời như kim sa. Hết bùng binh nầy tới bùng binh khác. Sau hết xuống tới cổ kiềng là cái miệng xuống hang dưới nữa, nó như miệng giếng, phải nghiêng mình lận theo thì xuống mới đặng; dưới đáy hết thì có cái như cái ao bèo cám lênh láng. Đi hồi giờ thứ 6 đến giờ thứ 8 rưỡi mới tới nơi.” Đoạn văn trần thuật rất sinh động; lời dẫn rất tự nhiên, nhưng không dễ dãi mà chừng mực; đủ để bao quát hết được các hành vi. Khả năng làm chủ ngôn từ của họ Trương rất đáng nể. Các từ dùng mô tả rất chính xác, gợi liên tưởng. Đây đúng là lối văn “như lời nói thường”, bằng thứ tiếng “Annam ròng” mà họ Trương từng ao ước; một lối văn thoát ra khỏi cái trường ước lệ của thi ca, cái khuôn sáo của văn chức năng, nhật dụng. Có rất nhiều đọan, người đọc bị cuốn hút không chỉ vì được đồng hành, dõi theo quá trình thưởng lãm các cảnh trí, mà còn lây cái hóm hỉnh, vui nhộn trong cách diễn đạt của tác giả. Đây là đọan ở Ninh Bình :  “Đến đó xuống cáng để đi chân mà coi chơi cho biết, cho cáng đi không. Qua khỏi Tam Điệp rồi tới quán Cháo, ra tới quán Gành vừa tối, nên ở lại quán ngủ đó một đêm. Giờ thứ tư sáng ở quán Gành cất ra đi, khỏi quán Sanh, Ba Vuông rồi mới tới tỉnh Ninh Bình. Dọc đường đi ngó thấy tại đất bàng có nhiều cái hòn núi nhỏ riêng nhau ra từng cái, dường như núi cảnh, như non bộ đất vậy. Đi riết giờ thứ 8 rưỡi tới tỉnh vào trọ nhà bà Phó Vàng là người có đạo ở gần tỉnh. Nghỉ ngơi, cơm nước đó một lát, kế lấy trong tỉnh quan tuần phủ tên là Đặng Xuân Toán cho ông lãnh binh ra mời vô thành chơi, (giờ thứ 41). Xách dù đi có đem ông Kỳ đi theo vào thành, thiên hạ nghe tiếng người Gia định rùng rùng kéo nhau đi coi, lớp kia lớp nọ đông nức. Vào thành rồi, nó còn làm hỗn leo trèo mà coi, thì quan lãnh binh phải đóng cửa thành lại. Thăm ông tuần rồi, có quan án đó (Đồng Sĩ Vịnh) lại mời luôn về dinh. Khi từ giã ra về, người có đem tiễn chân 2 bình trà với 20 quan tiền.” Đúng thật là lối ngao du tùy hứng; không câu nệ, chả cần lịch trình; gặp gỡ, nghỉ ngơi theo ý thích. Và ngẫm ra kiểu đi “phượt”, “du lịch bụi” ngày nay của giới trẻ, cũng như cái dòng mạch văn chương du khảo đang phát triển rầm rộ trong văn học Việt thời gian gần đây không phải là không thừa hưởng được chút gì từ chuyến đi năm ấy của Trương Vĩnh Ký. *** Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh Ký là cuốn sách có nhiều giá trị. Nó không chỉ là một tài liệu quý báu trong lĩnh vực nghiên cứu quốc học, tìm hiểu về đất nước, con người, văn hóa Việt mà còn chứa đựng những thông tin đáng tin cậy để nghiên cứu về chính cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng chính trị và học thuật của Trương Vĩnh Ký, một danh nhân văn hóa tầm cỡ thế giới. Xét trên bình diện văn học, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876) cũng là một tác phẩm rất đáng chú ý của Trương Vĩnh Ký. Tính chất hiện đại, mới mẻ được bộc lộ rất rõ ràng thông qua cảm quan, giọng điệu, ngôn từ, cấu trúc của tác phẩm. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của thể tài du ký hiện đại trong văn học Việt Nam. Thiên du ký này là bằng chứng cụ thể về những đóng góp hữu ích của ông cho quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. ---------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Philipphê Bỉnh (1968, Thanh Lãng soạn, giới thiệu), Sách sổ sang chép các việc, Học viện Đà Lạt xuất bản. [2]. Du ký Việt Nam - tạp chí Nam Phong, 1917-1934 (2007, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu), Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. [3]. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội. [4]. Trương Vĩnh Ký (1881), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876), Bản in Nhà hàng C. GUILLAND ET MARTINON, SAIGON. [5]. Lê Hữu Trác (1971, Phan Võ dịch), Thượng kinh ký sự, NXB Văn học, Hà Nội. ................................... (*)  Nguyễn Phong Nam: PGS-TS. Đại học Đà nẵng - Thành viên Ban điều hành Nhóm Văn học Việt. *** I. CHUYẾN ĐI BẮC-KỲ NĂM ẤT-HỢI Năm ất hợi (1876), bãi trường tham-biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu ; nên xin với quan trên, nhơn diệp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm hòm-rương áo-quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một nguời ở tỉnh Bắc-ninh, một người ở Sơn-tây mà vào trong Nam-kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê-quán. Qua ngày 18 tháng chạp đề-huề xuống tàu. Sớm mai giờ thứ 9 rưỡi nhổ neo. Vợ con đi đưa, ngồi xe đi rảo trên bờ cho đến tàu quày trở rồi riu-ríu chạy xuống đồn Cá-trê, mới về. Xế giờ thứ hai ra cửa Cần-giờ, chỉ mũi chạy ra mũi Né. TỚI CỬA HÀN Ngày 21 vô vũng Hàn vừa giờ thứ 5 chiều. Vô đó mà đưa ông, Nguyễn-hữu-Độ, là quan triều sai vô, lên mà về kinh. Đậu ngủ đó một đêm. Chạy hai ngày rưỡi nữa, vô thân trong Cát-Bà đậu lại đó (ngày 25 hồi giờ thứ 10). Đến giờ thứ nhứt rưởi qua tàu Aspic mà lên Hải-phòng (đồn Ninh-hải). TỚI HẢI-PHÒNG Lên bờ đi thăm quan lãnh-sự (M. Turc), rồi qua bên kia sông tới trọ nhà chú Khách Wan-sing. Sáng bữa sau lại qua ăn cơm nơi quan lãnh-sự, rồi đi thăm các thầy làm việc ở đó cho luôn. LÊN HẢI-DƯƠNG Tối lại, đi theo thuyền ông thương-biện Lương quen khi đi sứ bên Tây năm 1863 mà lên tỉnh Hải dương, 27 tới tỉnh. Vào thành ra mắt quan lớn là ông Phạm phú-Thứ làm Thương-chánh đại-thần kiêm tổng-đốc tỉnh Hải-dương và tỉnh Quảng-yên, có quen thuở đi sứ bên Tây. Người mầng-rở lắm. Nội ngày cũng tới viếng ông tuần-phủ Nguyễn-Doãn, nguyên trước có quen khi người vô giao-hòa lần sau tại Gia-định. ĐI LÊN HÀ-NỘI Các quan cầm ở lại đó chơi, ăn tết rồi hãy lên Hà-nội, khi ấy là mùa đông, trời rét lạnh nên ăn ngon cơm lắm. Mấy bữa ấy, hội các quan lớn nhỏ cả tỉnh đủ mặt ; khi ăn khi uống chuyện-vản cả đêm cả ngày. Quan đại lại bày làm rạp hát cho ba bữa luôn, coi hát bội cho no, rồi lại hát nhà-trò. Vui-vầy với nhau thế ấy cho tới mồng 6 tết, chiều giờ thứ nhứt mời lên võng lên cáng mà đi đường bộ lên thành Hà-nội. Trước hết nghĩ chơn tại cái chùa kia. Qua cung sau, nghỉ Ngạt-kéo, mặt trời chen lặn tới huyện Cẩm-giàng. Ông huyện tên là Dương-Xuân ra rước vô nhà ngủ đó. Sáng, cơm nước rồi giờ thứ 8 từ-giã ra đi. TỚI HÀ-NỘI Từ Cẩm-giàng lên cho tới Hà-nội nghỉ bốn chặng : - Quán Cầu-đất (giờ thứ 10). - Tại Đồng-súng (giờ thứ 12 trưa). - Ngả-tư-Dầu (giờ thứ nhứt rưỡi). - Chợ Bún (giờ thứ 3 rưỡi). Giờ thứ tư rưỡi chiều ra tới bờ đê, đi trên đường quai xuống mé sông Bồ-đề, mướn đò đưa qua cửa Phố-mới. Giờ thứ 8 tối tới nhà Hương-công là khách-thương Gia-định ra mua hoa-chi nha-phiến đó. Mời các bạn đón đọc Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi 1876 của tác giả J. B. Trương Vĩnh Ký.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tương Lai Văn Hóa Việt Nam
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tương Lai Văn Hóa Việt Nam của tác giả Thích Nhất Hạnh. Tương lai văn hóa Việt Nam (Viết cho thằng Cu và con Hĩm) Mới ngày nào đây hai đứa còn trát bùn lên mặt, đùa giỡn với nhau bên bờ ao, vậy mà bây giờ các con đã lớn và đã bắt đầu lo nghĩ tới chuyện đời rồi. Cuộc đời nhiều chuyện lắm, ta ngại các con sẽ ít có cơ hội để ngồi lại cùng nhau mà xét nghĩ cho chín chắn về việc tương lai. Tuổi ta đã cao mà câu chuyện ta muốn nói với hai con lại là một câu chuyện cần được nói trong tĩnh lặng, vì vậy ta đã lấy giấy bút để viết những dòng này cho các con. Tập sách gồm có: Cây đào và Con Ong Bùa Mê và Thuốc Lú Nhận diện Sự sống là một Hạt lúa và Miếng Thịt Ưu Điểm và Nhược Điểm Hãy đưa bàn tay lên mà nhìn ngắm Giải tỏa tiềm năng sáng tạo Đồng sinh cộng tử Tự do là sức mạnh của Văn Hóa Vận dụng ý thức Màng lưới ngôn từ Tinh thần khoa học, tinh thần cởi mở Sự thực đến gõ cửa tìm ta Tinh thần bao dung hòa hợp Tính dân tộc tìm ở đâu? Tại sao hàng triệu người bỏ nước ra đi? Anh không chấp nhận chân lý tôi thì anh phải chết Chống Quan Liêu, Phong Kiến và Tham Nhũng ngay trong huyết quản của mỗi người chúng ta Nhân dân là ai? Và ở đâu? Bình tâm mà nhận xét Đức hiếu sinh Tước đoạt sự sống của kẻ khác là tước đoạt sự sống của chính ta Đống xương vô định đã cao Không có ý thức hệ nào quý bằng sự sống Sứ mạng mà giống nòi phú thác Đồng minh của chúng ta Hiện tượng mất chân đứng văn hóa Những phương châm chỉ đạo văn hóa Khơi nối được chất liệu văn hóa Tôi và Ông Định nghĩa Văn Hóa *** Tóm tắt Tương Lai Văn Hóa Việt Nam là một cuốn sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, được viết vào năm 1992. Cuốn sách được viết cho hai đứa con của ông, Thiện Tâm và Thiện Trí, nhưng cũng có thể được coi là một bức thư gửi tới tất cả những người quan tâm đến tương lai của văn hóa Việt Nam. Trong cuốn sách, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phân tích những ưu điểm và nhược điểm của văn hóa Việt Nam, đồng thời đưa ra những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong tương lai. Review Tương Lai Văn Hóa Việt Nam là một cuốn sách giàu ý nghĩa, mang đến cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về văn hóa Việt Nam. Cuốn sách được viết với văn phong giản dị, dễ hiểu, có nhiều ví dụ thực tế để minh họa. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Thể hiện rõ tinh thần dân tộc và tinh thần hòa hợp của văn hóa Việt Nam. Đưa ra những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong tương lai, dựa trên những giá trị truyền thống của dân tộc. Được viết với văn phong giản dị, dễ hiểu, có nhiều ví dụ thực tế để minh họa. Cuốn sách phù hợp với những người quan tâm đến văn hóa Việt Nam, những người muốn tìm hiểu về những giá trị truyền thống của dân tộc và những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong tương lai. Một số trích dẫn đáng chú ý trong cuốn sách: "Văn hóa là gì? Văn hóa là tất cả những gì mà con người đã sáng tạo ra trong quá trình sinh sống và phát triển của mình. Văn hóa bao gồm vật chất và tinh thần, bao gồm những gì hữu hình và vô hình. Văn hóa là sản phẩm của quá trình lao động, sáng tạo của con người. Nó là kết quả của sự giao lưu, tiếp biến giữa con người với con người, giữa dân tộc với dân tộc." "Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa phong phú và đa dạng. Nó có nguồn gốc từ nền văn minh lúa nước, được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Văn hóa Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa bản sắc dân tộc và tinh hoa của nhân loại." "Văn hóa Việt Nam có những ưu điểm nổi bật, như: Tính dân tộc: Văn hóa Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc, thể hiện qua những giá trị truyền thống như: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng,... Tính nhân văn: Văn hóa Việt Nam đề cao giá trị nhân văn, thể hiện qua những giá trị đạo đức như: yêu thương, nhân ái, vị tha,... Tính hòa hợp: Văn hóa Việt Nam đề cao tinh thần hòa hợp, thể hiện qua sự giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa khác nhau." "Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam cũng còn có những hạn chế, như: Tính cục bộ: Văn hóa Việt Nam còn mang tính cục bộ, chưa có sự giao lưu, tiếp biến rộng rãi với các nền văn hóa khác. Tính thụ động: Văn hóa Việt Nam còn mang tính thụ động, chưa có sự sáng tạo, đổi mới. Tính nông nghiệp: Văn hóa Việt Nam còn mang tính nông nghiệp, chưa có sự phát triển mạnh mẽ ở các lĩnh vực đô thị, công nghiệp." Tương Lai Văn Hóa Việt Nam là một cuốn sách hay và ý nghĩa, có thể mang lại cho người đọc nhiều lợi ích trong việc tìm hiểu về văn hóa Việt Nam. Mời các bạn mượn đọc sách Tương Lai Văn Hóa Việt Nam của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Quyền Lực Đích Thực
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Quyền Lực Đích Thực của tác giả Thích Nhất Hạnh. Đối với chúng ta quyền lực có ý nghĩa gì? Tại sao ai cũng tìm mọi cách để đạt cho được quyền lực? Cho dù có thể không để ý, nhưng phần đông chúng ta luôn luôn cố đạt cho được một địa vị có quyền lực bởi vì ta tin rằng quyền lực giúp ta làm chủ được đời sống, đem lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc - những gì ta mong muốn nhất. Xã hội chúng ta được xây dựng trên một khái niệm rất hạn hẹp về quyền lực, đó là giàu có, sung túc, thành công nghề nghiệp, danh tiếng, sức khỏe, sức mạnh quân sự và quyền năng chính trị. Tôi xin đề nghị với bạn một thứ quyền lực khác, một thứ quyền lực vượt bậc: quyền lực giúp ta thoát khỏi sự ám ảnh của mê đắm, sợ hãi, tuyệt vọng, sự trấn ngự của kỳ thị, sân hận, ngu dốt; quyền lực giúp ta đạt được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Đây là một thứ quyền lực mà bất cứ ai sinh ra cũng đều có quyền hưởng, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu. Xin mời bạn cùng tôi tìm hiểu thứ quyền lực đặc biệt này. Tất cả chúng ta ai cũng muốn có quyền lực và thành công. Nhưng nếu vì cố sức tranh đấu để có được quyền lực, rồi lại cố sức tranh đấu bảo vệ quyền lực mà bị hao mòn, mệt mỏi, bị chia cách tình nghĩa thì đâu còn có thể vui hưởng quyền lực và thành công? Quyền lực và thành công như vậy thật chẳng có ý nghĩa gì. Sống một cuộc sống sâu sắc và hạnh phúc, có thì giờ chăm sóc người thương là một thành công khác, một quyền lực khác, một thứ thành công và quyền lực quan trọng hơn nhiều. Chỉ có một thành công đáng kể đó là thành công khi chuyển hóa tự thân, vượt thắng phiền não, sợ hãi và sân hận. Đây là thứ thành công, thứ quyền lực đem lợi lạc cho chính ta và cho những người khác mà không gây ra một tác hại nào. Muốn có quyền lực, muốn được danh tiếng hay giàu sang không phải là điều xấu. Nhưng phải nhớ rằng chúng ta theo đuổi quyền lực, danh tiếng hay tiền tài là để được hạnh phúc. Nếu giàu có và quyền thế mà không hạnh phúc thì giàu có và quyền thế để làm gì? Tập sách này sẽ cống hiến những thực tập đơn giản, thiết thực và hữu hiệu để tạo một thứ quyền lực đích thực, đó là tự do, an ninh và hạnh phúc mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nơi đây, ngay bây giờ, cho chính chúng ta, cho gia đình, cộng đồng, xã hội và cho cả hành tinh. Ước vọng vun trồng hiểu biết, thương yêu, ước vọng giúp đời là một năng lượng mầu nhiệm khiến cho cuộc sống có mục tiêu chân thực. Nhiều bậc thầy vĩ đại trước chúng ta – Jesus, Bụt, Mohamed và Moses – đã từng có ước vọng như thế. Ngày nay chúng ta cũng có ước vọng sâu sắc như các vị: thực hiện hòa bình, vượt thắng khổ đau và giúp đỡ người khác. Chúng ta đã chứng kiến những người chỉ một mình mà có thể giải thoát, chữa lành cho hàng ngàn, có khi hàng triệu người. Mỗi chúng ta - chính trị gia, thương gia, công nhân, nhân viên nhà hàng, hay nghệ sĩ… - đều cùng chung ước vọng như thế. Nhưng cần phải nhớ rằng, muốn thực hiện ước vọng đó, trước hết ta phải chăm sóc ta. Muốn đem lại hạnh phúc cho người khác thì chính ta phải tỏa chiếu hạnh phúc. Và đây là lý do vì sao phải thực tập để chăm sóc thân tâm của ta trước. Chỉ khi thân tâm vững chãi ta mới đủ khả năng chăm sóc người ta thương. Sống thiếu tỉnh thức, thiếu khả năng nhìn rõ thực trạng chung quanh thì chẳng khác gì một chuyến xe lửa tốc hành không người lái. Điều này lại càng đúng hơn trong đời sống nghề nghiệp, nếu quá chú tâm đến nghề nghiệp thì cứ mãi quay cuồng. Đau khổ trong đời tư ảnh hưởng tới nghề nghiệp và ngược lại, đau khổ trong nghề nghiệp ảnh hưởng tới đời tư. Ôm đồm quá nhiều việc, hoạch định thiếu thực tiễn, môi trường làm việc không thoải mái, luôn bị căng thẳng, luôn lo sợ bị sa thải – đó là những nguyên nhân gây đau khổ trong nghề nghiệp. Những đau khổ đó sẽ ảnh hưởng tới cả đời sống. Và hình như chẳng có ai giúp ta được. Nhưng mà đâu đến nỗi phải như vậy. Nếu biết tu tập vun trồng quyền lực đích thực, một thứ quyền lực chứa đựng tính chất tâm linh, nếu biết chánh niệm trong mọi liên hệ hằng ngày thì chúng ta có thể thay đổi hoàn toàn phẩm chất công việc cũng như phẩm chất cuộc sống của chúng ta. Chánh niệm là thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, là tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Sử dụng những cách thực tập đơn giản trong tập sách này để rèn luyện tâm trí và tập trung tâm ý, không những chúng ta sẽ làm việc có năng suất và hữu hiệu hơn, mà còn thoải mái và hăng say hơn. Chúng ta có đủ thì giờ để chăm sóc những người thương và những việc quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta có thể sống trọn vẹn từng giây phút, ý thức rằng đây là giây phút tuyệt vời, giây phút duy nhất mà ta thực sự có được. Khi chú trọng vào quyền lực tâm linh, lòng từ bi cũng sẽ trở thành mục đích của ta bên cạnh mục đích tối hậu là cầu lợi. Chúng ta không cần khước từ tài lợi, nhưng lòng từ bi sẽ giúp chúng ta thành công hơn về kinh tế hay chính trị. Tôi tin rằng nếu bổ sung ý thức về ảnh hưởng tích cực của chúng ta tới người khác và trên thế giới vào những mục đích chính của doanh thương thì chỉ tốt cho doanh thương mà thôi. Một doanh nghiệp biết phối hợp thông minh mục đích thu lợi với đức tính thanh liêm và ý thức quan tâm tới thế giới thì nhân viên dưới quyền luôn được vui vẻ, khách hàng luôn được vừa ý, đồng thời sẽ thu lợi gấp bội. Hằng năm tạp chí Fortune có đăng danh sách một trăm công ty lý tưởng để xin vào làm. Những công ty đó luôn luôn thành công trên mọi mặt. Hàng năm, những công ty đó đều nêu rõ chính sách chú trọng bảo hiểm sức khỏe, chăm sóc thiếu nhi, chế độ ngày nghỉ, ý thức bảo vệ môi trường và chia sẻ lợi tức. Những công ty rất đáng khâm phục đó biết rõ rằng đầu tư tiền bạc, thì giờ và năng lực vào việc chăm sóc sức khỏe và an lạc của nhân viên, của cộng đồng là việc làm thiết yếu cho sự phát triển vững mạnh của công ty mình. Hầu hết các nhà chính trị và doanh thương – từ kỹ nghệ dược phẩm cho đến kỹ thuật truyền thông – luôn luôn bắt đầu bằng một ý hướng giúp giảm bớt khổ đau. Ý hướng đó cần phải được nuôi dưỡng, vì khi tâm cầu lợi lấn át ý hướng cao đẹp ấy thì chúng ta sẽ tự hủy diệt. Bài học của bao nhiêu doanh nghiệp như Enron, Tyco, Worldcom sụp đổ vì gian lận nhắc nhở ta điều đó. Vì vậy kinh doanh với tâm từ bi, lân mẫn là điều rất quan trọng. Nếu không có tâm từ bi thì dù cho giàu có cách mấy cũng không hạnh phúc được. Bạn sẽ cô đơn, sẽ bị giam hãm trong thế giới của riêng mình, và không có cơ hội để liên hệ hay hiểu biết ai. Chỉ mưu cầu tài lợi mà bỏ quên tâm từ bi sẽ làm cho bạn đau khổ cũng như làm cho người khác đau khổ. Nhìn cho sâu sắc bạn sẽ thấy khổ đau chung quanh bạn và bạn sẽ phát tâm muốn làm vơi đi những khổ đau đó. Bạn cũng sẽ khám phá ra rằng đem niềm vui đến cho người khác là một nguồn vui lớn nhất, là một thành công vượt bậc. Tạo dựng quyền lực chân thực đâu cần phải khước từ một cuộc sống cao sang. Bạn sẽ sống thỏa mãn hơn, sẽ cảm thấy thảnh thơi, hạnh phúc khi đem niềm vui tới cho người và giúp người bớt khổ. *** Tóm tắt Cuốn sách Quyền Lực Đích Thực của Thích Nhất Hạnh đề cập đến một khái niệm về quyền lực khác với khái niệm quyền lực thông thường trong xã hội. Quyền lực đích thực không phải là quyền lực về vật chất, danh vọng, hay địa vị, mà là quyền lực của sự hiểu biết, tỉnh thức, và từ bi. Theo Thích Nhất Hạnh, quyền lực đích thực giúp chúng ta thoát khỏi sự ám ảnh của mê đắm, sợ hãi, tuyệt vọng, sự trấn ngự của kỳ thị, sân hận, ngu dốt; giúp ta đạt được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Quyền lực đích thực là thứ quyền lực mà tất cả chúng ta đều có quyền hưởng, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu. Tác giả đã đưa ra những thực tập đơn giản, thiết thực và hữu hiệu để giúp chúng ta vun trồng quyền lực đích thực trong cuộc sống. Những thực tập này bao gồm: Thực tập chánh niệm trong từng giây phút hiện tại Thực tập yêu thương và tha thứ Thực tập chia sẻ và giúp đỡ người khác Đánh giá Cuốn sách Quyền Lực Đích Thực là một tác phẩm giàu giá trị, mang lại nhiều điều bổ ích cho người đọc. Cuốn sách đã giúp người đọc nhận thức được một khái niệm mới về quyền lực, một khái niệm giúp chúng ta sống hạnh phúc và có ý nghĩa hơn. Cuốn sách được viết với lối văn nhẹ nhàng, gần gũi, dễ hiểu. Những lời chia sẻ của Thích Nhất Hạnh thấm sâu vào lòng người đọc, khơi gợi những suy nghĩ và hành động tích cực. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách đề cập đến một khái niệm mới về quyền lực, một khái niệm giúp chúng ta sống hạnh phúc và có ý nghĩa hơn. Cuốn sách cung cấp những thực tập đơn giản, thiết thực và hữu hiệu để giúp chúng ta vun trồng quyền lực đích thực trong cuộc sống. Cuốn sách được viết với lối văn nhẹ nhàng, gần gũi, dễ hiểu. Những lời chia sẻ của Thích Nhất Hạnh thấm sâu vào lòng người đọc, khơi gợi những suy nghĩ và hành động tích cực. Mời các bạn mượn đọc sách Quyền Lực Đích Thực của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Nói Với Tuổi Hai Mươi
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tùy bút Nói Với Tuổi Hai Mươi của tác giả Thích Nhất Hạnh. Thắm thiết và sâu đậm, Nói Với Tuổi Hai Mươi tựa như những lời tâm tình nhẹ nhàng gieo vào lòng độc giả. Chọn lối viết tự sự, Thiền sư Thích Nhất Hạnh mang đến cho bạn đọc một cảm giác ấm áp, chân thành nhưng cũng không kém phần mãnh liệt, sâu sắc. Những lời chia sẻ của Thiền Sư thấm sâu vào lòng những người trẻ tuổi, khơi gợi những ước mơ hoài bão, khơi dậy sức sống dạt dào trong trái tim của họ, làm bừng cháy những yêu thương. Nói Với Tuổi Hai Mươi tìm thấy điểm đồng điệu trong lời thơ của Tố Hữu: "20 tuổi hồn quay trong gió bão/ gân đang xanh và thớ thịt căng da", và sức trẻ đó phải được tỏa sáng trong tình yêu và trách nhiệm với đất nước, trong lý tưởng và khát vọng, trong tình yêu và cuộc sống của mình. Đọc Nói Với Tuổi Hai Mươi để thấy rằng cuộc đời vô cùng cao quý và tươi đẹp, và các bạn trẻ, hãy sống sao cho khỏi sống hoài, sống phí, để sức trẻ căng tràn của các bạn sẽ hữu ích cho cuộc đời, cho thế gian và nhân loại. *** Tóm tắt Tùy bút Nói Với Tuổi Hai Mươi của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được viết vào năm 1965, khi tác giả đang ở tuổi 39. Cuốn sách được chia thành 8 phần, mỗi phần đề cập đến một khía cạnh trong cuộc sống của người trẻ tuổi. Trong phần đầu tiên, Nhận diện, Thiền sư Thích Nhất Hạnh giúp người trẻ tuổi nhận diện được những giá trị quý báu của bản thân, bao gồm sự trong sáng, vô nhiễm, thiện lành và khả năng sáng tạo. Trong phần thứ hai, Cô đơn, tác giả chia sẻ những trải nghiệm của mình về sự cô đơn, một cảm xúc thường gặp ở người trẻ tuổi. Ông cho rằng sự cô đơn là một cơ hội để khám phá bản thân và tìm kiếm những giá trị đích thực trong cuộc sống. Trong phần thứ ba, Lý tưởng, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có một lý tưởng sống. Ông cho rằng lý tưởng sẽ giúp người trẻ tuổi vượt qua những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Trong phần thứ tư, Học hành, tác giả khuyên người trẻ tuổi nên học tập để phát triển trí tuệ và khả năng của bản thân. Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập để phục vụ xã hội. Trong phần thứ năm, Thương yêu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói về tầm quan trọng của tình yêu thương. Ông cho rằng tình yêu thương là sức mạnh có thể giúp thay đổi thế giới. Trong phần thứ sáu, Tôn giáo, tác giả nói về tầm quan trọng của tôn giáo trong cuộc sống của người trẻ tuổi. Ông cho rằng tôn giáo có thể giúp người trẻ tuổi tìm được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Trong phần cuối cùng, Lời cuối, Thiền sư Thích Nhất Hạnh gửi gắm những lời khuyên chân thành đến người trẻ tuổi. Ông mong muốn họ sẽ sống một cuộc đời có ý nghĩa, góp phần xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đánh giá Nói Với Tuổi Hai Mươi là một tác phẩm giàu giá trị, mang lại nhiều điều bổ ích cho người trẻ tuổi. Cuốn sách đã giúp người trẻ tuổi nhận diện được những giá trị quý báu của bản thân, tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và biết cách sống một cuộc đời có ý nghĩa. Cuốn sách được viết với lối văn nhẹ nhàng, gần gũi, dễ hiểu. Những lời chia sẻ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh thấm sâu vào lòng người đọc, khơi gợi những ước mơ hoài bão, khơi dậy sức sống dạt dào trong trái tim của họ. Nói Với Tuổi Hai Mươi là một cuốn sách không thể thiếu đối với người trẻ tuổi. Cuốn sách sẽ là người bạn đồng hành, giúp họ vững vàng bước vào đời. Mời các bạn mượn đọc sách Nói Với Tuổi Hai Mươi của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Cho Đất Nước Mở Ra
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Cho Đất Nước Mở Ra của tác giả Thích Nhất Hạnh. Người thương của tôi mất rồi, tôi phải đi tìm ở đâu? Ngày 16.03.2007 Tại chùa Vĩnh Nghiêm - Sài Gòn Trong Đại lễ Trai Đàn Chẩn Tế I Kính thưa Đại chúng, Hôm nay là ngày 16 tháng 3 năm 2007, chúng ta đang ở tại chùa Vĩnh Nghiêm trong ngày đầu của Đại Trai Đàn Thuỷ Lục Giải Oan Chẩn Tế Bình Đẳng. Đề tài buổi thuyết giảng của ngày hôm nay là: Người thương của tôi mất rồi, tôi phải đi tìm ở đâu ? Người thương tôi chết, tôi phải đi tìm người đó ở đâu? Chúng ta phải lắng lòng và cùng quán chiếu để có thể thấy được. Khi chúng ta gieo một hạt bắp xuống đất và nếu có trận mưa thì trong năm hay bảy ngày, hạt bắp sẽ nẩy mầm và lên một cây bắp. Mười ngày sau đó, chúng ta thấy một cây bắp non, hai hay ba lá và nhìn kỹ thì không còn thấy hạt bắp nữa. Giờ đây thay vì thấy hạt bắp thì mình thấy cây bắp con và mình nói hạt bắp đã chết rồi. Kỳ thật hạt bắp không có chết. Hạt bắp đã trở thành cây bắp con. Hạt bắp chỉ thay hình đổi dạng. Nếu nhìn cho kỹ, nhìn bằng con mắt của người phật tử, nhìn bằng con mắt của người biết tu, biết quán chiếu, thì khi thấy cây bắp non, mình cũng có thể thấy được hạt bắp ngày xưa đang có mặt trong cây bắp non đấy. Nó chưa chết, nó vẫn còn tiếp tục ở trong cây bắp non và chỉ thay hình đổi dạng. Chúng ta cũng vậy. Khi nhìn thật kỹ vào thân thể chúng ta, chúng ta thấy cha ở trong ta, mẹ ở trong ta. Có thể cha ở ngoài mất rồi, mẹ ở ngoài mất rồi, nhưng cha trong ta và mẹ trong ta vẫn còn sống, vẫn còn tiếp tục, tại vì mình là sự tiếp nối của cha, mình là sự tiếp nối của mẹ. Mình đang mang cha và mẹ đi vào tương lai. Khoa học cũng nói như vậy. Tất cả những gen (ADN) của cha và mẹ đang có ở trong từng tế bào cơ thể của mình, vì vậy khi mình thở vào thì cha cũng thở vào với mình. Khi mình thở ra thì mẹ cũng thở ra với mình. Đây là một vấn đề khoa học. Nếu mình buồn khổ thì cha mẹ trong mình cũng buồn khổ, nếu mình nhẹ nhàng khỏe khoắn thì cha mẹ ở trong mình cũng nhẹ nhàng khỏe khoắn. Cho nên sống như thế nào, tu tập như thế nào để mình có sự nhẹ nhàng khỏe khoắn và cha mẹ trong ta cũng được nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Mình là một đứa con có hiếu. Nếu mình giận dữ, mình buồn tủi, mình khổ đau thì cha trong mình cũng giận dữ, buồn tủi, khổ đau, mẹ trong mình cũng giận dữ buồn tủi, khổ đau. Nhưng nếu mình mỉm cười hoan hỷ được, thì cha ở trong mình cũng mỉm cười hoan hỷ, và mẹ ở trong mình cũng có thể mỉm cười hoan hỷ. Mình như thế là một đứa con có hiếu. Chúng ta là sự tiếp nối của cha mẹ và của ông bà, tổ tiên. Mình tưởng rằng ông bà tổ tiên đã mất rồi, không còn nữa, nhưng kỳ thật ông bà tổ tiên vẫn đang còn ở trong mình và mình mang ông bà tổ tiên dòng họ và cha mẹ mà đi vào trong tương lai. Mình cũng sẽ trao truyền tất cả tổ tiên ông bà, cha mẹ cho con cháu của mình. Đó là con cháu huyết thống. Mình trao truyền tổ tiên, ông bà, cha mẹ cho con cháu huyết thống. Khi xuất gia thì sẽ không có con cháu huyết thống nữa, nhưng mình có con cháu tinh thần. Khi có đệ tử và đệ tử của đệ tử, đó cũng là một loại con cháu và con cháu này thuộc về dòng họ tâm linh. Mình cũng trao truyền tất cả những sự tu học, thành đạt, an lạc, hạnh phúc, giải thoát của mình cho đệ tử và đệ tử của đệ tử. Vì vậy trong người đệ tử có thầy và khi người đệ tử đó nói một câu dễ thương thì thầy trong người đệ tử cũng đang nói một câu dễ thương. Nếu người đệ tử nói một câu khó thì thầy trong người đệ tử cũng nói một câu khó thương. Người đệ tử đó không có hiếu với thầy. Nếu người đệ tử có tu học, biết thở vào cảm thấy khỏe, thở ra cảm thấy nhẹ thì đó là người đệ tử đang làm cho thầy mình hạnh phúc. Nếu mình tu học thành công, mình có sự thảnh thơi, giải thoát, lòng từ bi nhiều thì mình sẽ trao truyền được những cái đó cho các đệ tử và đệ tử của đệ tử mình. Trong mỗi chúng ta có hai gia đình. Một là gia đình huyết thống và hai là gia đình tâm linh. Nếu thiếu một trong hai gia đình đó thì nó còn thiếu nhiều. Trên hai vai chúng ta mang hai gia đình. Một vai mang gia đình huyết thống gồm có tổ tiên ông bà cha mẹ và một vai mang gia đình tâm linh, có thầy, có tổ, có Bụt và chư vị Bồ Tát. Trong con người của mình có sự tiếp tục của ông bà tổ tiên huyết thống và có sự tiếp tục của ông bà tổ tiên tâm linh. Vì vậy mình phải là những người con có hiếu. Mình phải làm thế nào để đừng đánh mất giá trị của tổ tiên ông bà đã trao truyền cho mình. *** Tóm tắt Trong bài giảng "Người thương của tôi mất rồi, tôi phải đi tìm ở đâu?", Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã dùng hình ảnh hạt bắp để minh họa cho sự tiếp nối của sinh mệnh. Hạt bắp tưởng chừng như chết đi khi nảy mầm thành cây bắp, nhưng thực chất nó chỉ thay hình đổi dạng và tiếp tục tồn tại trong cây bắp con. Tương tự như vậy, khi người thân của chúng ta mất đi, họ không thực sự chết mà chỉ chuyển sang một dạng tồn tại khác. Họ vẫn tiếp tục hiện diện trong chúng ta qua những ký ức, những tình cảm, những giá trị mà họ đã trao truyền cho chúng ta. Review Bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh mang lại cho chúng ta một cái nhìn mới về sự sống và cái chết. Nó giúp chúng ta hiểu rằng sự mất mát không phải là một sự kết thúc mà là một sự bắt đầu. Khi người thân của chúng ta mất đi, họ không biến mất mà chỉ thay đổi dạng thức tồn tại. Họ vẫn ở bên cạnh chúng ta, tiếp tục yêu thương và bảo vệ chúng ta. Bài giảng cũng giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của việc nối tiếp truyền thống. Chúng ta là những người nối tiếp của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Chúng ta có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị mà họ đã trao truyền cho chúng ta. Bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một lời an ủi và động viên cho những ai đang phải đối mặt với sự mất mát. Nó giúp chúng ta vượt qua nỗi đau buồn và tiếp tục sống một cuộc đời ý nghĩa. Điểm nổi bật Hình ảnh hạt bắp là một hình ảnh minh họa rất sáng tạo và dễ hiểu. Nó giúp chúng ta hiểu được sự tiếp nối của sinh mệnh. Bài giảng mang lại cho chúng ta một cái nhìn mới về sự sống và cái chết. Nó giúp chúng ta hiểu rằng sự mất mát không phải là một sự kết thúc mà là một sự bắt đầu. Bài giảng giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của việc nối tiếp truyền thống. Chúng ta có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị mà tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã trao truyền cho chúng ta. Đối tượng phù hợp Bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh phù hợp với tất cả mọi người, đặc biệt là những ai đang phải đối mặt với sự mất mát. Mời các bạn mượn đọc sách Cho Đất Nước Mở Ra của tác giả Thích Nhất Hạnh.