Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đối Thoại Với Tuổi Đôi Mươi
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Đối Thoại Với Tuổi Đôi Mươi của tác giả Vũ Đức Sao Biển. Tuổi đôi mươi là tuổi tươi đẹp nhất của đời người. Có thể em vừa tròn mười tám, mới thi đậu xong tú tài, đang chuẩn bị thi vào dại học. Có thể em vừa đúng đôi mươi, vừa tốt nghiệp từ một trường trung học dạy nghề. Có được bằng chứng nhận thợ bậc 3/7 trong tay nhưng chưa xin được việc làm. Có thể em đã tốt nghiệp cá nhân, may mắn có một công việc làm trong một cơ quan, đơn vị với đồng lương tháng khấm khá, đang mơ ướcc học thêm để bay cao, nhảy xa hơn. Cũng có thể em không được học hành tới nơi tới chốn, đang lỡ bước lầm đường; em gái đang đi bán bia ôm; em trai đang nằm trong trại giam. Có thể em đã tìm được một con đường lý tưởng, đang cầm súng để bảo vệ Tổ quốc hay đang miệt mài lao động trên các công trường, nông trường làm giàu cho đất nước. Hãy cho phép tôi gọi chung các em là tuổi đôi mươi, một khái niệm “đôi mươi” mở rộng. Hãy cho phép tôi gọi các em là em, một danh xưng ở ngôi thứ hai, không phân biệt sang hèn, cao thấp. Hãy cho phép tôi đối thoại với các em qua tập sách này.  Đối thoại là con đường dẫn đến sự thông cảm, sự gần gũi giữa người và người. Đối thoại có nghĩa là tôi có thể sai, các em có thể đúng hoặc cả chúng ta đều có thể sai, đều có thể đúng. Đối thoại làm khoảng cách ngắn lại, tình người dài ra, nới rộng thể tích những tâm hồn. Đối thoại có nghĩa là không được phép áp đặt ý kiến, không lên gân dạy dỗ lẫn nhau. Đối thoại là cùng nói, cùng lắng nghe trong tinh thần quý trọng lẫn nhau. Tôi muốn được đối thoại với tất cả các em như vậy.  Tôi mong tập sách nhỏ này là người bạn đường tốt trong những người bạn đường tối đối với các em. Thảng hoặc, có một đôi chỗ kiến thức hơi xa lạ với các em thì mong các em hiểu rằng cái văn hóa mà tôi hấp thụ được vốn như vậy; tôi phải trả lại đời như vậy. Thân mến cùng các em.  *** Có thể xem cuốn sách Đối thoại với tuổi đôi mươi (ảnh) của nhà văn - nhà báo Vũ Đức Sao Biển là một cuộc chuyện trò bình đẳng và thẳng thắn giữa một nhà văn với các bạn thanh niên trên dưới hai mươi tuổi về những vấn đề gần gũi nhất của tuổi đôi mươi. Với trải nghiệm và hiểu biết dày dặn của mình, bằng một giọng văn giản dị, tỉnh táo pha chút hài hước cố hữu, tác giả dành 18 chương để “bàn bạc, tâm tình” với độc giả trẻ về tuổi thơ, thời dậy thì, tình yêu, tình dục, thần tượng, tiền bạc lương bổng, ăn mặc, lòng trung thực, cách giao tiếp, cách thưởng thức văn học nghệ thuật, học hành thi cử, hạnh phúc và đau khổ... Với nội dung trên, quyển sách xứng đáng là hành trang cho tuổi đôi mươi vào đời trong xã hội hiện nay, đồng thời là một “cẩm nang” đối với các bậc cha mẹ muốn hướng dẫn, giúp đỡ con cái sống đẹp, sống có ích cho gia đình, xã hội và đất nước.  ***  Vũ Đức Sao Biển tên thật là Vũ Hợi, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1948, tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Nguyên quán ông tại Duy Vinh, Duy Xuyên, Quảng Nam. Năm 18 tuổi, ông vào Sài Gòn học Đại học Sư phạm (ban Việt - Hán) và Đại học Văn khoa (ban Triết học phương Đông). Tháng 10 năm 1970, ông tốt nghiệp rồi xuống Bạc Liêu dạy học các môn Văn và Triết học bậc trung học tại Trường Công lập Bạc Liêu cho đến năm 1975. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông trở về Thành phố Hồ Chí Minh dạy học, có một thời gian làm tại phòng Giáo dục huyện Nhà Bè; Để rồi bắt đầu cộng tác với các báo: Tuổi Trẻ Cười, Thanh Niên, Kiến Thức Ngày Nay, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh,... Mười năm sau đó, ông trở lại Bạc Liêu và sáng tác loạt ca khúc về Bạc Liêu và miền đất phương Nam. Những bài như Điệu buồn Phương Nam, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim quyên, Trở lại Bạc Liêu, Trên sóng Cửu Long... là những tác phẩm được rất nhiều người yêu thích. Giai đoạn sau thập niên 2010, một số đài truyền hình trung ương và địa phương mời ông thực hiện phim tư liệu về tác giả và tác phẩm nhạc vàng. Ngoài sáng tác nhạc, ông còn viết báo, tiểu thuyết, tiểu phẩm trào phúng và đặc biệt là phiếm luận về truyện kiếm hiệp Kim Dung (Kim Dung giữa đời tôi). Ông là thành viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam. Năm 1999, theo gợi ý của Bí thư tỉnh ủy Bạc Liêu Nguyễn Văn Út, ông tiến hành phục dựng lại bài Dạ Cổ Hoài Lang đem cho nhạc sĩ Quốc Dũng hòa âm và ca sĩ Hương Lan, Hạnh Nguyên trình diễn lần đầu tiên trên sóng VTV1. Năm 2013, ông lại cùng ba nhà báo Anh Đức, Liêu Phúc Minh, Tố Loan dịch tiếp bản Dạ Cổ Hoài Lang ra ba thứ tiếng Anh, Pháp và Quan thoại. Năm 2009, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh mời ông thỉnh giảng hai môn “Tạp văn và tiểu phẩm” và "Tường thuật chuyên ngành văn hóa - nghệ thuật" cho Khoa Báo chí - Truyền thông của trường này. Hiện ông đang điều trị ung thư vòm họng tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Tác phẩm Thể loại Năm Nhà xuất bản Ghi chú Bản báo cáo biết bay Tiểu phẩm trào phúng 1983 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hoa hồng trên cát Tiểu thuyết 1989 NXB Đồng Nai   Vạn tuế đàn ông Tiểu phẩm trào phúng 1989 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ảo ảnh sương khói Tiểu thuyết 1991 NXB Long An   Kiếm hoàng hoa Tiểu thuyết 1995 NXB Long An   Kiều Phong - Khát vọng của tự do Biên khảo 1996 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Thượng Vĩnh biệt thốt nốt Tiểu phẩm trào phúng 1996 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Thiên hạ đệ nhất mỹ nhân Biên khảo 1997 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Trung Ngôn ngữ từ những phiến cẩm thạch Bút ký 1998 NXB Trẻ   Thỏ thẻ cùng hoa hậu Tiểu phẩm trào phúng 1998 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Ba đời ham vui Tiểu phẩm trào phúng 1999 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Người mang số Q1 2629 Phóng sự 1999 NXB Trẻ   Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo Biên khảo 1999 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Hạ Đi tìm sự thật Phóng sự 2000 NXB Trẻ   Thanh kiếm và cây đàn Biên khảo 2000 NXB Trẻ Kim Dung giữa đời tôi - Quyển Kết Đối thoại với bản án tử hình Phóng sự 2001 NXB Trẻ   Tiếu ngạo giang hồ (8 tập) Dịch 2001 NXB Trẻ Dịch chung Lê Thị Anh Đào, Trần Hải Linh Nhân vật Kim Dung nhìn qua lăng kính pháp luật Biên khảo 2002 NXB Trẻ   35 năm chuyện trò cùng chữ nghĩa Bút ký 2003 NXB Trẻ   Những vụ án kinh điển trong tiểu thuyết Kim Dung Biên khảo 2003 NXB Trẻ   Úi chao, 60 năm Hồi ký 2007 NXB Trẻ   Chuyện dây cà kéo ra dây bí Tiểu phẩm trào phúng 2010 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Hai tuồng hát bội Truyện ngắn 2010 NXB Trẻ   Quảng Nam hay cãi Tạp văn 2010 NXB Trẻ   Án lạ phương Nam Bút ký 2011 NXB Trẻ   Dài & To Tiểu luận 2011 NXB Trẻ   Hướng đến Chân Thiện Mỹ Triết lý dành cho tuổi thanh niên Kỹ năng sống 2011 NXB Trẻ   Phía sau mặt báo Bút ký 2011 NXB Trẻ   Thâm sơn kỳ cục án Truyện ngắn 2011 NXB Trẻ   Sông lạc đường về Tiểu thuyết 2012 NXB Trẻ   Xuân dược Tiểu phẩm trào phúng 2013 NXB Trẻ Bút danh Đồ Bì Đối thoại với tuổi đôi mươi Tản văn 2016 NXB Trẻ   Ơi, cái tuổi trăng tròn Kỹ năng sống 2018 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Lắng nghe giai điệu Bolero Biên khảo 2019 NXB Trẻ   Phượng ca Hồi ký 2019 NXB Văn hóa - Văn nghệ   Mời các bạn mượn đọc sách Đối Thoại Với Tuổi Đôi Mươi của tác giả Vũ Đức Sao Biển.
Lối Mòn Của Tư Duy Cảm Tính
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Lối Mòn Của Tư Duy Cảm Tính của tác giả Ori Brafman & Rom Brafman. Dựa trên những nghiên cứu sâu sắc về các lĩnh vực tâm lý xã hội, kinh tế học hành vi và hành vi tổ chức, nhà lý luận xã hội học nổi tiếng Ori Brafman cùng anh trai ông là nhà tâm lý học Rom Brafman đã khám phá ra nhiều tác động tâm lý có sức ảnh hưởng đến đời sống cá nhân và công việc của mỗi người, bao gồm tâm lý lo sợ thiệt hại (xu hướng thoái lui nhằm tránh thiệt hại, tổn thất có thể xảy ra), hiện tượng sai lệch chẩn đoán (tình trạng con người mất khả năng đánh giá và nhận định lại những xét đoán ban đầu về một người hay một sự việc nào đó) và hiệu ứng tắc kè hoa (xu hướng chấp nhận cả những tính cách vốn bị người khác gán ghép tùy tiện cho bản thân mình). Lối mòn của tư duy cảm tính không chỉ giúp bạn thay đổi quan niệm về thế giới xung quanh mà còn giúp bạn thay đổi cách tư duy của chính mình. Với Lối mòn của tư duy cảm tính, hai tác giả Ori và Rom mang đến cho người đọc những nhận định khách quan, giải thích cho hàng loạt các hành vi cảm tính đồng thời giới thiệu về các phương pháp có thể giúp chúng ta chế ngự và vượt qua những tác động tiêu cực của lối tư duy này. ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ Ori Brafman là đồng tác giả của cuốn Sao biển và nhện, là một chuyên gia xã hội học nổi tiếng thường diễn thuyết cho các tập đoàn kinh tế hàng đầu, các tổ chức chính phủ và quân đội ở Mỹ. Ori tốt nghiệp Đại học Stanford và hiện đang sống tại San Francisco. Rom Brafman là tiến sĩ tâm lý học giảng dạy các môn học nghiên cứu về tính cách và sự phát triển của con người tại các trường đại học. Rom đặc biệt yêu thích nghiên cứu các tác động trong mối quan hệ giữa người với người. Hiện Rom đang làm việc tại văn phòng tư vấn của mình ở Palo Alto, California. Báo chí nước ngoài nhận xét về tác phẩm “Lối mòn của tư duy cảm tính” Nếu từ trước đến nay bạn vẫn luôn cho rằng bạn biết rõ mình suy nghĩ như thế nào thì giờ chính là lúc bạn nên xem xét lại nhận định đó! Hãy tham gia vào cuộc hành trình thú vị và sâu sắc này, bạn sẽ bất ngờ khi hiểu ra tâm trí con người thật sự vận hành như thế nào. ~Alan M. Webber - Biên tập viên sáng lập tạp chí Fast Company. Vừa lôi cuốn vừa bí ẩn, Lối mòn của tư duy cảm tính là cuốn sách được viết một cách khúc chiết và thuyết phục, có khả năng tạo ra sự ảnh hưởng lâu dài đến tất cả những quyết định của bạn trong tương lai. ~Rory Freedman - Đồng tác giả của cuốn Skinny Bitch, tác phẩm bestseller do New York Times bình chọn. Mã hàng    8935086844977 Tên Nhà Cung Cấp    FIRST NEWS Tác giả    Ori Brafman, Rom Brafman NXB    NXB Tổng Hợp TPHCM Năm XB    2019 Ngôn Ngữ    Tiếng Việt Trọng lượng (gr)    250 Kích Thước Bao Bì    13 x 20.5 Số trang    248 Hình thức    Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất    Top 100 sản phẩm Kỹ năng sống bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Chính sách khuyến mãi trên Fahasa.com không áp dụng cho Hệ thống Nhà sách Fahasa trên toàn quốc Dựa trên những nghiên cứu sâu sắc về các lĩnh vực tâm lý xã hội, kinh tế học hành vi và hành vi tổ chức, nhà lý luận xã hội học nổi tiếng Ori Brafman cùng anh trai ông là nhà tâm lý học Rom Brafman đã khám phá ra nhiều tác động tâm lý có sức ảnh hưởng đến đời sống cá nhân và công việc của mỗi người, bao gồm tâm lý lo sợ thiệt hại (xu hướng thoái lui nhằm tránh thiệt hại, tổn thất có thể xảy ra), hiện tượng sai lệch chẩn đoán (tình trạng con người mất khả năng đánh giá và nhận định lại những xét đoán ban đầu về một người hay một sự việc nào đó) và hiệu ứng tắc kè hoa (xu hướng chấp nhận cả những tính cách vốn bị người khác gán ghép tùy tiện cho bản thân mình). Lối mòn của tư duy cảm tính không chỉ giúp bạn thay đổi quan niệm về thế giới xung quanh mà còn giúp bạn thay đổi cách tư duy của chính mình. Với Lối mòn của tư duy cảm tính, hai tác giả Ori và Rom mang đến cho người đọc những nhận định khách quan, giải thích cho hàng loạt các hành vi cảm tính đồng thời giới thiệu về các phương pháp có thể giúp chúng ta chế ngự và vượt qua những tác động tiêu cực của lối tư duy này. ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ Ori Brafman là đồng tác giả của cuốn Sao biển và nhện, là một chuyên gia xã hội học nổi tiếng thường diễn thuyết cho các tập đoàn kinh tế hàng đầu, các tổ chức chính phủ và quân đội ở Mỹ. Ori tốt nghiệp Đại học Stanford và hiện đang sống tại San Francisco. Rom Brafman là tiến sĩ tâm lý học giảng dạy các môn học nghiên cứu về tính cách và sự phát triển của con người tại các trường đại học. Rom đặc biệt yêu thích nghiên cứu các tác động trong mối quan hệ giữa người với người. Hiện Rom đang làm việc tại văn phòng tư vấn của mình ở Palo Alto, California. Báo chí nước ngoài nhận xét về tác phẩm “Lối mòn của tư duy cảm tính” Nếu từ trước đến nay bạn vẫn luôn cho rằng bạn biết rõ mình suy nghĩ như thế nào thì giờ chính là lúc bạn nên xem xét lại nhận định đó! Hãy tham gia vào cuộc hành trình thú vị và sâu sắc này, bạn sẽ bất ngờ khi hiểu ra tâm trí con người thật sự vận hành như thế nào. ~Alan M. Webber - Biên tập viên sáng lập tạp chí Fast Company. Vừa lôi cuốn vừa bí ẩn, Lối mòn của tư duy cảm tính là cuốn sách được viết một cách khúc chiết và thuyết phục, có khả năng tạo ra sự ảnh hưởng lâu dài đến tất cả những quyết định của bạn trong tương lai. ~Rory Freedman - Đồng tác giả của cuốn Skinny Bitch, tác phẩm bestseller do New York Times bình chọn. *** Tóm tắt Lối mòn của tư duy cảm tính là cuốn sách của hai tác giả Ori Brafman và Rom Brafman, khám phá những lối mòn tư duy phổ biến của con người, những lối mòn này có thể dẫn đến những quyết định sai lầm trong cuộc sống cá nhân và công việc. Cuốn sách chia thành 8 chương, mỗi chương đề cập đến một lối mòn tư duy cụ thể: Chương 1 NGUYÊN NHÂN CỦA MỘT TAI NẠN Chương 2 SA LẦY TRONG Ý THỨC TRÁCH NHIỆM Chương 3 NGƯỜI LÙN HOBBIT VÀ MẮT XÍCH CÒN KHUYẾT Chương 4 MICHAEL JORDAN VÀ LỐI PHỎNG VẤN “LẦN ĐẦU” Chương 5 CHỨNG RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC và HIỆU ỨNG TẮC KÈ HOA Chương 6 Ở PHÁP, MẶT TRỜI QUAY QUANH TRÁI ĐẤT Chương 7 KHOẢN ĐỀN BÙ và CHẤT KÍCH THÍCH Chương 8 LẼ PHẢI KHÁC BIỆT Đánh giá Lối mòn của tư duy cảm tính là một cuốn sách thú vị và bổ ích, giúp người đọc hiểu rõ hơn về cách thức hoạt động của tâm trí con người. Cuốn sách được viết theo phong cách dễ hiểu, lôi cuốn, với nhiều ví dụ thực tế minh họa cho các lối mòn tư duy được đề cập. Sau khi đọc cuốn sách, người đọc sẽ có những nhận thức mới về bản thân và thế giới xung quanh, đồng thời có thể áp dụng những kiến thức được học để đưa ra những quyết định sáng suốt hơn. Một số điểm nổi bật Cuốn sách được viết bởi hai tác giả là chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học và xã hội học, vì vậy các nội dung trong sách đều được dựa trên những nghiên cứu khoa học có tính thuyết phục cao. Cuốn sách được viết theo phong cách dễ hiểu, lôi cuốn, với nhiều ví dụ thực tế minh họa cho các lối mòn tư duy được đề cập. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức bổ ích về cách thức hoạt động của tâm trí con người, giúp người đọc đưa ra những quyết định sáng suốt hơn. Kết luận Lối mòn của tư duy cảm tính là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới xung quanh, đồng thời muốn đưa ra những quyết định sáng suốt hơn. Mời các bạn mượn đọc sách Lối Mòn Của Tư Duy Cảm Tính của tác giả Ori Brafman & Rom Brafman.
CHA - Điểm Tựa Đời Con
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách CHA - Điểm Tựa Đời Con của tác giả Jack Canfield & Mark Victor Hansen. Bạn thân mến! Bạn đang cầm trên tay cuốn sách Cha - Điểm tựa đời con và chuẩn bị cùng chúng tôi bước vào hành trình khám phá thế giới của những người cha. Trên hành trình này, bạn sẽ nhận ra những cung bậc tình cảm của cha và sẽ hiểu rõ hơn về trải nghiệm trong chính tình cảm cha con của mình. Có thể nói, tình yêu thương cha dành cho con là tuyệt đối và vô song. Dù muốn hay không, mỗi bước đi trong cuộc đời mỗi người con chúng ta đều cỏ sự hiện diện của hình bóng cha. Cha cho ta hình hài và nâng bước ta bằng đôi cánh của sự hy sinh thầm lặng. Cha cho ta lòng dũng cảm để đương đầu với mọi thử thách của cuộc sống. Cha cho ta sức mạnh để vững bước trên đường đời. Trên hết, cha cho ta niềm tin vào sự kỳ diệu của tình yêu thương và sự bao dung. Nếu tình mẹ êm đềm và sâu lắng như sông thì tình cha lại cao cả và vững bền như núi. Xưa nay, tình mẹ luôn là đề tài bất tận của mọi cảm hứng nghệ thuật và thơ ca. Và vì quá để tâm đến tình mẹ mà dường như chủng ta đã đối xử “bất công” với tình cha. Cha lạnh lùng để ta khôn lớn; cha nghiêm khắc để ta nên người. Và đôi lúc, vì không có được sự quan tâm của cha như mong muốn nên ta quên rằng tận sâu trong trái tim cha, ta luôn lả tuyệt đối. Vỉ thế, nếu một ngày kia bạn vấp ngã trên đường đời, sự nghiệp phá sản, tình yêu đổ vở hay bị ai đó phản bội... thì hãy nghĩ về cha cùng những kỳ vọng mà người đã dành cho bạn. Hãy để cha trở thành niềm an ủi cho bạn trong những phút giây yếu lòng. Hãy tìm về với cha - dù bằng xương bằng thịt hay chỉ là trong ý nghĩ - để tin rằng dù thế nào chăng nữa cũng luôn có người yêu thương bạn bằng cả trái tim. Với cuốn sách Cha - Điểm tựa đời con, chúng tôi muốn chia sẻ với các bạn những câu chuyện cảm động về tình cha. Trong mọi hoàn cảnh và ở mọi thời điểm, cha vẫn luôn theo sát cuộc đời mỗi chúng ta, soi sáng lối ta đi bằng ánh sáng của tình yêu thương. Qua đây, chúng tôi - những người thực hiện tập sách này - cũng xin được gửi lời tri ân đến người cha của mình. Tình yêu thương và sự chở che của cha là điểm tựa vững chắc suốt cuộc đời con!   - First News *** Tóm tắt Cuốn sách Cha - Điểm tựa đời con của tác giả Jack Canfield & Mark Victor Hansen kể về những câu chuyện cảm động về tình cha. Trong mọi hoàn cảnh và ở mọi thời điểm, cha vẫn luôn theo sát cuộc đời mỗi chúng ta, soi sáng lối ta đi bằng ánh sáng của tình yêu thương. Review Cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương là một câu chuyện khác nhau về tình cha. Những câu chuyện ấy được kể với giọng văn nhẹ nhàng, chân thành, khiến người đọc cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con. Trong chương đầu tiên, tác giả kể về câu chuyện của một người cha đã hy sinh cả cuộc đời mình để nuôi dạy con gái. Người cha ấy đã phải làm việc cật lực để kiếm tiền nuôi sống gia đình, nhưng ông vẫn luôn dành thời gian cho con gái. Ông dạy con gái học cách tự lập, cách đối mặt với khó khăn và cách yêu thương người khác. Trong chương thứ hai, tác giả kể về câu chuyện của một người cha đã luôn ở bên cạnh con trai khi con trai gặp khó khăn. Người cha ấy đã giúp con trai vượt qua những thất bại trong cuộc sống và tìm thấy con đường đi đúng đắn cho mình. Những câu chuyện trong cuốn sách không chỉ là những câu chuyện cảm động mà còn là những bài học quý giá về tình cha. Tình cha là thứ tình cảm thiêng liêng và cao cả nhất trong cuộc đời mỗi người. Đánh giá Cuốn sách Cha - Điểm tựa đời con là một cuốn sách ý nghĩa dành cho mọi người. Cuốn sách sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về tình cha và trân trọng những gì cha đã dành cho chúng ta. Dưới đây là một số đánh giá của độc giả về cuốn sách: "Cuốn sách đã khiến tôi nhớ lại những kỷ niệm về cha mình. Tôi biết ơn cha vì tất cả những gì cha đã làm cho tôi." "Cuốn sách đã mang lại cho tôi những cảm xúc khó tả. Tôi đã khóc khi đọc những câu chuyện về tình cha." "Cuốn sách là một món quà ý nghĩa dành cho những người cha." Mời các bạn mượn đọc sách CHA - Điểm Tựa Đời Con của tác giả Jack Canfield & Mark Victor Hansen.
Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn của tác giả Philip Delves Broughton. Tôi không định đến Trường Kinh doanh Harvard (HBS) để viết sách về những gì trải qua. Thực ra, sau mười năm làm báo, tôi đến nơi này để thoát khỏi nghiệp viết lách, để không còn moi móc chuyện ngoài đời đưa lên những trang báo. Tôi muốn học về kinh doanh để làm chủ vận mệnh tài chính và quan trọng hơn, làm chủ thời gian của mình. Tôi đã quá mệt mỏi với việc phải kè kè chiếc điện thoại di động hay suốt ngày bị sếp hoạnh họe. Tôi hy vọng tấm bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA) sẽ giúp tôi hiểu biết nhiều hơn về hoạt động của thế giới và có nhiều lựa chọn hơn cho cuộc sống của mình. Thực ra, tôi viết cuốn sách này không phải để “vạch áo cho người xem lưng”. Xét về nhiều mặt, tôi yêu quý hai năm ở Harvard. Các bạn học của tôi rất lịch thiệp và ân cần. Hầu hết giảng viên trong khoa tận tụy truyền cho sinh viên niềm say mê môn học. Cơ sở vật chất và con người đều rất tốt. Chẳng có chỗ nào quan sát chủ nghĩa tư bản tốt hơn nơi này. Đối với tôi và với những người tôi biết, Harvard đã làm thay đổi cách nhìn nhận tương lai và cơ hội bằng con đường kinh doanh. Nhưng đó cũng là thời kỳ căng thẳng hơn tôi nghĩ rất nhiều. Khối lượng bài học nặng nề, nhất là trong những tuần đầu tiên, chúng tôi phải đánh vật với các lĩnh vực chuyên môn của kinh doanh như tài chính, kế toán, điều hành, marketing và ứng xử trong tổ chức. Vài tháng sau, bản thân áp lực tìm việc, một công việc “thích hợp”, đã là một quá trình giáo dục riêng, vượt xa những gì xảy ra trong lớp học. Cuốn sách này là nỗ lực mô tả trải nghiệm của tôi và các bạn học trong cái nôi của chủ nghĩa tư bản này. Sau khi đọc lại nhật ký hai năm ở Harvard, tôi ngạc nhiên trước cảm xúc nảy sinh từ những gì đã trải qua. Tôi đã cho rằng thời gian học ở trường kinh doanh sẽ là một thời kỳ vô tư, chỉ có học và chuẩn bị chuyển nghề. Nhưng chúng tôi đã trò chuyện nhiều về khát vọng và cuộc sống tương lai cho mình và gia đình. Điều đó được thể hiện rõ trong cuốn sách này, bên cạnh những gì chúng tôi học được, những gì các diễn giả nổi tiếng diễn thuyết và những quyết định về công việc của chúng tôi… Cơ hội học ở HBS là một món quà quý giá. Năm 1960, mới chỉ có 5.000 người tốt nghiệp MBA từ các trường của Mỹ. Đến năm 2000, con số này tăng lên hàng trăm nghìn. Hiện nay, có đủ các loại khóa học MBA: khóa học điển hình toàn thời gian hai năm tại trường hoặc các khóa học bán thời gian, trực tuyến, buổi tối hay từ xa. Số lượng người đăng ký học MBA tại Trung Đông, Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng vọt. Những người có bằng MBA có xu hướng hưởng lương cao hơn và công việc tốt hơn. MBA ba chữ cái quý báu này trở thành tấm vé “vào cửa”, trong một số trường hợp còn là điều kiện tiên quyết, để thành công trong kinh doanh. Tôi học tại HBS từ năm 2004 đến 2006. Cho tới thời điểm đó, trong số các cựu sinh viên của trường gồm có Tổng thống Mỹ, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, Thị trưởng New York, chưa kể CEO của các tập đoàn lớn như General Electric, Goldman Sachs và Procter & Gamble (P&G). Theo danh sách Fortune 500 thì cựu sinh viên HBS chiếm tới 20% số những người đảm nhiệm các vị trí cao nhất trong công ty. Trong các quỹ đầu tư cũng đầy những MBA của Harvard. Mỗi khi trở lại trường, họ được tiếp đón như những ông hoàng. HBS cho rằng những đức tính cần có để thành công trong kinh doanh cũng cần thiết cho tất cả các ngành khác như chính trị, giáo dục, y tế và nghệ thuật. Tôi không xuất thân từ giới kinh doanh và về bản năng, tôi phản đối quan điểm doanh nhân có thể điều hành mọi thứ. Quan điểm này xuất hiện liên tục trong hai năm qua và lý giải vì sao một cuốn sách viết về tấm bằng MBA ở Harvard lại là mối quan tâm của đông đảo bạn đọc, không chỉ những người đã có hay muốn có bằng MBA. Ngôn ngữ, thói quen và phong cách lãnh đạo được dạy trong khóa học MBA ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Các trường dạy kinh doanh không chỉ sản sinh ra các nhà lãnh đạo trong kinh doanh. Các khóa học MBA còn quyết định cách sống, giờ giấc làm việc, các kỳ nghỉ, nền tảng văn hóa, sự chăm sóc y tế mà chúng ta nhận được và cả nền giáo dục cho con cháu chúng ta. Từ năm 2000, ngài Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh đã có những quyết định quan trọng về mặt lịch sử và toàn cầu. Tóm lại, tấm bằng MBA, nội dung của nó và mạng lưới những người sở hữu tấm bằng này là rất quan trọng. Và nó có tham vọng để trở nên quan trọng hơn nữa. Cuốn sách này thể hiện quan điểm cá nhân tôi. Không một MBA nào có thể đại diện cho 900 sinh viên niên khóa 2006 của HBS. Mọi điều trong cuốn sách này đều đúng như tôi mô tả. Nhưng tôi đã đổi một số tên nhân vật và các chi tiết liên quan vì hai lý do: thứ nhất là vì sự riêng tư. Lớp học của HBS là một môi trường học tập an toàn, một nơi để thử và sai. Các bạn cùng lớp không biết tôi sẽ viết về những điều chúng tôi đã trải qua. Lý do thứ hai là việc thay đổi đó cho phép tôi mô tả trung thực những gì trải qua mà không phải lo lắng về danh tiếng của những người tôi yêu quý và khâm phục. Các giáo sư, vì vị thế thầy giáo của họ là công khai, cũng như các diễn giả từng đến nói chuyện, sẽ xuất hiện đúng như trong thực tế. Tôi dự định kết hợp các cách tiếp cận này để cung cấp một bức tranh chân xác về thời gian tôi ở HBS. Khi khóa học của chúng tôi kết thúc vào tháng 6 năm 2006, chúng tôi nhận được một bức thư ngỏ của thầy hiệu trưởng Jay Light. Ông viết: “Khi các bạn hòa vào đội ngũ cựu sinh viên HBS khắp nơi trên thế giới, tôi hy vọng các bạn tiếp tục giữ liên lạc với trường, chia sẻ suy nghĩ và quan điểm về những năm học ở đây”. Đây là suy nghĩ và quan điểm của tôi. *** Tóm tắt Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" của tác giả Philip Delves Broughton là một cuốn sách tự truyện kể về trải nghiệm của ông khi học MBA tại Trường Kinh doanh Harvard (HBS) từ năm 2004 đến năm 2006. Broughton là một nhà báo, và ông đã viết cuốn sách này để chia sẻ những suy nghĩ và quan điểm của mình về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Review Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Nhập học HBS Trong phần này, Broughton kể về quá trình nộp hồ sơ và trúng tuyển vào HBS. Ông cũng chia sẻ những suy nghĩ và cảm xúc của mình khi bắt đầu học tại đây. Phần 2: Học tập tại HBS Trong phần này, Broughton mô tả những trải nghiệm học tập của mình tại HBS. Ông nói về các lớp học, các giảng viên, các bạn học và những bài học mà ông đã học được. Phần 3: Ra trường HBS Trong phần này, Broughton kể về quá trình tìm việc và bắt đầu sự nghiệp của mình sau khi tốt nghiệp HBS. Đánh giá Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" là một cuốn sách thú vị và hấp dẫn. Broughton là một người viết giỏi, và ông đã kể câu chuyện của mình một cách chân thực và lôi cuốn. Cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Ưu điểm Cuốn sách được viết một cách chân thực và hấp dẫn. Broughton là một người viết giỏi, và ông đã chia sẻ những suy nghĩ và quan điểm của mình một cách sâu sắc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc về HBS, về kinh doanh và về thế giới. Nhược điểm Cuốn sách có thể hơi dài dòng và chi tiết. Kết luận Cuốn sách "Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến HBS, kinh doanh hoặc thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Những Điều Trường Harvard Thật Sự Dạy Bạn của tác giả Philip Delves Broughton.