Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cháu ông Rameau - Denis Diderot

Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Nai Trong Rừng
Truyện Con Nai Trong Rừng, chuyện nói về một người còn gái rất ngây thơ, cho dù nguy hiểm ngay trước mặt thì cô cũng không biết và cũng không biết rằng mình sắp bị ăn thịt. Cô lớn lên bởi sự bao bọc của gia đình, được chiều chuộng và có một tuổi thơ rất đẹp. Nhưng chính vì sự bao bọc đó khiến cô không bao giờ trưởng thành và tự lập được. Cho đến một ngày cô được gia đình cho đi dã ngoại cùng với bạn bè và rồi cô đã gặp kẻ xấu. Nhưng lúc đó chính cô cũng không biết rằng mình đang gặp nguy hiểm, cũng may là có bạn bè cứu giúp không thì cô đã bị chúng ăn thịt. *** Các vị khách của Tử tước Đờ Terxio đang trên đường từ Biarit trở về, nơi họ vừa vui chơi lúc chiều. Đoàn xe ngựa của họ đang lăn bánh trên con đường đưa đến lâu đài Uxagio, đi giữa những cánh đồng cỏ mà cảnh chiều tà đẹp êm ả đang lan tỏa xuống. Trên những cánh rừng phân định ranh giới của lãnh địa, mặt trời vừa lặn để lại những tia hồng nhạt và ánh sáng đang tắt dần trải dài trên đồng quê lặng lẽ. Trên các xe, những câu truyện bắt đầu từ lúc khởi hành vẫn đang tiếp tục. Phần nhiều là những câu chuyện mảnh về xã hội phù hoa, nói với thiện ý hoặc không thiện ý. Hôm nay họ nói nhiều nhất về một vấn đề; Hoàng thân Đờ Vitengrat hình như đang để ý đến cô ả Myra Nađôpulô xinh đẹp. "Cô ả đỏm dáng đến điên rồ" như bà Đờ Terxiơ đã nhận xét, không phải không có đôi chút chanh chua.  Ông Đờ Ănglơmơ, nhà ngoại giao hưu trí ngồi trước mặt bà chủ lâu đài lưu ý mọi người - Cô ta có sức mê hoặc ghê gớm. Vả lại, cô ta đã thừa kế đúng người. Bà Bá tước Xêminkhốp đẹp đẽ, mẹ cô ấy vẫn là con người mơn trớn như tôi đã gặp ở Matxcơva mười hai, mười ba năm trước đay, lúc bà ta tái giá.  - Bà ta gốc Hy Lạp phải không?  - Hy Lạp, dân phương Đông, Do Thái? Làm sao mà biết được. Tôi cho rằng trong người bà ta có sự pha trộn các chủng tộc.  - Còn người chồng thứ nhất... Ông có biết người ấy không?  -Không. hình như là một thương gia Hy Lạp giàu có mà người đẹp kia làm cho khánh kiệt trong vài năm. Sau đó, bà ta đã quăng lưới bắt được một dại úy quý tộc Nga góa vợ. Ông này không nguôi nhớ thương người vợ diễm lệ thuộc dòng dõi quý tộc danh giá nhất ở Matxcơva. Đó là nữ bá tước Ximinkhốp trẻ trung, đã chết sau ba năm kết hôn, để lại cho chồng một đứa con gái nhỏ. Theo lời khuyên của bạn bè khi thấy ông sắp quỵ trong đau khổ cự độ, ông đã đi du ngoạn. Ở Cairô, ông gặp bà Ixmen Nađôpulô, bà này đã dốc lòng an ui ông - và đã thành công đến nỗi sáu tháng sau bà trở thành Bá tước Phu nhân Xêminkhốp.  Bà Đờ Tembray, người thiếu phụ có bộ tóc vàng hoe thốt ra một tiếng cười mỉa mai:  -Đau buồn của nam giới là như thế đấy! Nhưng ông Xêminkhốp tội nghiệp ấy hình như bị vợ làm đau khổ không ít?  - Đúng thế, nói riêng giữa chúng ta thôi nhé, tôi không tin là ông ấy sung sướng.  - Phải, mụ Ixmen đẹp đẽ này không phải là người vợ đoan trang, điềm đạm và dịu dàng có lẽ không phải là những đức tính quen thuộc của mụ. nhưng bé gái của bà vợ trước như thế nào?  - Đứa bé tội nghiệp đã gặp nạn. Nó chết đưối, cô gia sư người Pháp cũng chết trong vụ tai nạn, có lẽ vì muốn cứu nó.  - Cuộc hôn nhân thứ hai của họ không có con chung sao?  - Có chứ, một đứa con trai, một đứa trẻ tàn tật đáng thương àm mẹ nó không ưa. Mụ chỉ thấy mỗi mình trên đời này, mình trước hết rồi đền đứa con gái.  - Cái cô Myra này kỳ dị thật...! Một cô ả mất nết. Ông có cho là như thế không?  - Con hơn là mất nết ấy chứ. Thật thế. Con người ấy được giáo dục mới hay làm sao. Pie Đurin kể với tôi cô ta đã gây ra bao điều đáng dị nghị về minh ở Pêtécbua vào mùa đông năm ngoái vì thái độ phù phiếm và vẻ đỏm dáng khêu gợi. Ta đã thấy một kiểu mẫu như thế trong cách cư xử của ả đối với Hoàng thân Đờ Vitengrat.... nhưng lần này thì ả phải coi chừng để khỏi mắc lại vài mảnh tim của mình ở đây. Với người này, không ai yêu nửa chừng, nửa vời được đâu!  Bà Đờ Tembray bứt rứt hỏi:  - Nghe nói người ấy là hiện thân của sự không bền vững, đúng không?  - Đúng thế. Nhưng tôi thấy ả Myra xinh đẹp có vẻ rất khôn khéo, biết dâu ả lại thành công trong việc giữ cho tính hay thay đổi của hoàng thân quay vòng lâu hơn một chút.  Trong khi nói, ông Đờ Ăngblomo liếc nhìn người thiếu phụ một cách ranh mãnh, làn da tươi mát của bà ửng hồng vì xúc động mạnh - cả bà này nữa cũng đã vướng mắc rồi đây - ông thích thú nghĩ như vậy.  - Cô myra kia hoàn toàn không có một chút gì là sang trọng.... Đây là một kiểu người du cư hoặc một thứ gì cùng loại. Bà Đờ Terxio khinh khỉnh nói.  - Tôi nghi ngờ ả thực sự làm vừa lòng Hoàng thân, một người rất tinh tế và thông minh phi thường.  Người được nói đến đang ngồi lún sâu vào đệm xe nhìn ngày tàn dần trên khu rừng đang tối thẫm lại. Chàng đã ra lệnh cho người đánh xe ghìm bớt nước kiệu của hai con ngựa đang hăng để xe đi sau các xe khác. Ngồi bên cạnh chàng và tôn trọng sự im lặng của chàng là Ôbe Đờ Griơy, một sĩ quan trẻ đến từ Angiêri trở về, đang trong thời gian nghĩ dưỡng bệnh sau một trận ốm nặng về chơi ít lâu với gia đình người anh em họ Đờ Terxiơ.  Hoàng thân Đờ Vitengrat, người không dễ có thiện cảm với ai, có vẻ nhanh chóng ưu thích người thanh niên đẹp trai có thiên bẩm thông minh và lịch sự này, là con trai của một sĩ quan bị giết năm 1870 trong trận ở Xanh-Priva. Chàng đã coi người sĩ quan như là bạn thân nhất trong suốt thời gian ở lâu đài Heagiơ. Ân huệ ấy không phải là không khơi gợi những ghen tỵ ngấm ngầm, vì có đầy rẫy những kẻ xu nịnh đang vội vã tôn xùng người giữ cương vị rất cao ở Châu Âu do dòng dõi, sản nghiệp, chưa kể đến những thiên bẩm về trí tuệ và hình thức tạo nên.  Mời các bạn đón đọc Con Nai Trong Rừng của tác giả Delly.
Trong Chiến Hào Stalingrad
Vích-to Nê-cơ-ra-xốp sinh năm 1911 ở thành phố Ki-ép, trong một gia đình bác sĩ. Sau khi tốt nghiệp khoa kiến trúc của Học viện Kiến thiết và trường diễn viên sân khấu năm 1936 ở thành phố Ki-ép, Nê-cơ-ra-xốp đã làm diễn viên và họa sĩ ở nhiều thành phố trong nước. Từ năm 1941, nhà văn tương lai, trung đội trưởng trung đội công binh, đã chiến đấu trên mặt trận chống bọn phát-xít xâm lược, trong cuộc Chiến tranh Ái quốc vĩ đại và đã bị thương nặng. Nê-cơ-ra-xốp được tặng thưởng huân chương Sao Đỏ và nhiều huy chương. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Nê-cơ-ra-xốp đi vào con đường sáng tác văn nghệ. Cuốn Trong chiến hào Xta-lin-gơ-rát của ông, xuất bản năm 1946, được tặng Giải thưởng Quốc gia. Nhà văn - chiến sĩ Xê-vô-lốt Vít-snhép-xki, tác giả cuốn Bi kịch lạc quan đã viết: «Đến nay, tác phẩm đó có giá trị nhất và chính xác nhất viết về những sự kiện ở Xta-lin-gơ-rát». Những năm tiếp sau, Nê-cơ-ra-xốp đã viết nhiều truyện ngắn về đề tài chiến tranh, truyện vừa Trong thành phố quê hương, Kia-ra Ghê-oóc-ghi-ép-na, truyện phim và bút ký đi đường. Hầu hết các tác phẩm của V. Nê-cơ-ra-xốp đều đã được dịch ra tiếng các dân tộc ở Liên Xô và tiếng nước ngoài. *** Việc chiếm được thành phố Stalingrad có tầm quan trọng rất lớn đối với Hitler và cả Mussolini vì hai lý do chính. Thứ nhất, đây là một thành phố công nghiệp lớn nằm trên sông Volga - con đường giao thông vận tải mang tầm quan trọng chiến lược nối liền Biển Caspi và miền Bắc nước Nga. Vì vậy việc để mất Stalingrad vào tay phát xít Đức sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng vận chuyển hàng hóa đến phía Bắc của đất nước. Thứ hai, việc đánh chiếm Stalingrad sẽ củng cố sườn phía Đông của quân Đức vốn đang tiến nhanh về vựa dầu tại vùng Kavkaz với mục tiêu cắt đứt nguồn cung ứng dầu hỏa cho Hồng quân Xô Viết.[23] Thêm nữa, thành phố này mang tên của lãnh tụ I. V. Stalin, việc đánh chiếm thành phố này cũng sẽ là một thắng lợi quan trọng về mặt tinh thần và tư tưởng. Hồng quân Xô Viết nhận ra rằng họ đang chịu một sức ép nghiêm trọng về thời gian và nhân lực, vật lực, vì vậy tất cả những ai có thể cầm súng chiến đấu đều được điều về bảo vệ Stalingrad.[24] Vào thời kỳ này của chiến tranh, khả năng tác chiến cơ động cao của Hồng quân vẫn còn kém hơn so với phát xít Đức, tuy nhiên việc chiến đấu trong thành phố đã giúp giảm thiểu những thiệt thòi của Hồng quân vì nơi đây là địa bàn của việc giao tranh bằng vũ khí cầm tay của bộ binh chiếm ưu thế chứ không phải là nơi dành cho việc giao chiến giữa các lực lượng tăng thiết giáp. *** Lệnh rút lui đến rất đột ngột, Chỉ mới hôm qua thôi, từ sư đoàn bộ đã gửi đến một bản kế hoạch chi tiết về các công tác phòng ngự: lập tuyến thứ hai, chữa đường sá, làm cầu con. Các đồng chí bảo tôi cho ba công binh để bố trí câu lạc bộ sư đoàn. Buổi sáng sư đoàn bộ gọi điện bảo phải chuẩn bị đón đoàn văn công ca múa của mặt trận. Thật không còn gì bình tĩnh hơn nữa! Nhân dịp đó, thậm chí tôi và I-go đã cạo râu, cắt tóc và gội đầu, đồng thời giặt áo mai-ô, quần đùi nữa, Và trong lúc chờ áo quần khô, chúng tôi nằm dài trên bờ sông con đã cạn, nhìn xem các chiến sĩ công binh của tôi đang làm những chiếc bè con cho trinh sát viên. Chúng tôi nằm hút thuốc, đánh cho nhau những con ruồi trâu chậm chạp và béo quay bám trên lưng chúng tôi và nhìn xem anh trung đội phó của tôi đang lặn hụp trong nước, nhô cái mông trắng trẻo và những gót chân đen đủi để thử xem chiếc bè có chắc không, Ngay lúc đó, La-da-ren-cô, liên lạc viên của ban chỉ huy, đã hiện ra. Từ xa tôi đã nhận ra anh đang ba chân bốn cẳng phóng qua vườn rau, một tay giữ khẩu súng trường lúc la lúc lắc vỗ vào lưng, Cứ xem cách chạy đó, tôi hiểu ngay là bây giờ chẳng còn có hòa nhạc hòa nhiếc gì nữa rồi. Chắc là lại có phái viên kiểm tra nào đấy từ quân đoàn hay mặt trận đến... Lại phải đi đến tiền duyên, phải trình bày kế hoạch phòng ngự, phải nghe những lời phê bình nhận xét. Thế là mất một đêm. Và người kỹ sư công binh phải chịu trách nhiệm về tất cả. Nằm ở thế phòng ngự, thật chẳng có gì tệ hơn nữa. Đêm nào cũng có phái viên kiểm tra đến. Mà mỗi ông một tính. Cái đó thì nhất định là như thế rồi. Ông này thì bảo là chiến hào quá chật, khó khiêng thương binh, khó vác súng máy. Ông kia thì kêu là chiến hào quá rộng, mảnh bom sẽ rơi vào. Ông thứ ba thì nói là ụ đất phía ngoài công sự thấp: đáng lẽ phải bốn tấc thế mà các ụ của anh, có thấy không, chưa đến hai tấc. Ông thứ tư thì ra lệnh hoàn toàn san phẳng những ụ ấy đi, vì chúng chỉ làm hỏng ngụy trang. Thế thì làm thế nào để vừa lòng mọi người được. Còn kỹ sư công binh của sư đoàn thì chẳng chú ý gì đến cả. Hai tuần ông ta mới đến một lần, nhưng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa suốt tiền duyên mà thôi và chẳng nói được điều gì có ích cả. Còn tôi thì lần nào cũng phải bắt đầu làm lại và phải đứng nghiêm nghe những lời quở trách của trung đoàn trưởng: «Này, đồng chí kỹ sư kính mến ơi, đến bao giờ đồng chí mới học đào chiến hào cho ra hồn được, hở?...» La-da-ren-cô phóc qua hàng giậu. - Việc gì thế, hở cậu? Anh vừa lấy mũ ca-lô lau trán ướt đẫm mồ hôi, vừa há mồm răng trắng hếu đáp lại: - Tham mưu trưởng gọi. - Gọi ai? Gọi tôi à? - Gọi cả đồng chí lẫn trưởng ban hóa chất. Tham mưu trưởng bảo là sau năm phút phải có mặt. Không, thế nghĩa là không phải phái viên kiểm tra. - Thế cậu có biết gọi để làm gì không, hở. - Có trời mà biết được. - La-da-ren-cô nhún vai ướt đẫm mồ hôi đáp. - Làm sao mà hiểu được... Tất cả liên lạc đều phái đi hết. Đại úy vừa nằm xuống ngủ, thì ngay lúc đó sĩ quan thông tin đến. Thế là đành phải mặc quần đùi, áo mai ô còn ẩm và đi đến sở chỉ huy. Các trung đội trưởng đều cũng được gọi đến cả. Tham mưu trưởng Mác-xi-mốp không có ở đây. Anh ta đang ở chỗ trung đoàn trưởng. Ở nhà hầm sở chỉ huy có cán bộ chỉ huy các đơn vị đặc biệt và những nhân viên tham mưu. Trong số tiểu đoàn trưởng chỉ có Xéc-ghi-en-cô, chỉ huy tiểu đoàn ba. Chẳng ai hiểu rõ đầu đuôi gì cả. Trung sĩ Dơ-vê-rép, sĩ quan thông tin, cao lêu nghêu đang loay hoay với chiếc yên ngựa. Anh ta vừa thở ì ạch, vừa gắt gỏng, nhưng chẳng tài nào kéo nổi sợi dây chằng. - Sư đoàn bộ đang chuẩn bị rút. Chỉ có thế thôi... Ngoài ra, anh không còn biết gì thêm nữa. Xéc-ghi-en-cô nằm sấp, đang gọt mảnh gỗ gì đấy và lầu bầu như mọi khi: - Chỉ vừa mới thu xếp xong buồng khử trùng, thì đã phải rút. Mẹ kiếp, đời lính chó má thật! Các chiến sĩ thì quào đến bật máu đầu, mà chẳng làm thể nào giết sạch chấy được... Xa-mu-xép, chỉ huy tổ súng chống tăng, có mái tóc vàng và cặp mắt xanh, nhoẻn miệng cười khinh bỉ: - Hừ, buồng khử trùng của cậu thì quan trọng quái gì... Chỗ tớ một nửa quân số sau khi tiêm thuốc xong, lưng bị sưng lên như thế này. Người ta tiêm vào xuýt nữa thì đến một cốc thuốc quỷ quái gì đấy. Bây giờ thì mặc sức mà rên rỉ, kêu ca... Mời các bạn đón đọc Trong Chiến Hào Stalingrad của tác giả V. Nê-cơ-ra-xốp.
Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết
Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau: “André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm: trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt”. Toàn thể tác phẩm đó khoảng trăm cuốn, gồm gần đủ các loại: truyện dài, truyện ngắn, sử, tiểu sử, phê bình, khảo luận, tùy bú cuốn nào cũng hữu ích và năm sáu cuốn phải kể là lớn. Tiểu sử của ông mà tôi đã chép trong cuốn Các cuộc đời ngoại hạng đáng làm mẫu mực: cần cù, liêm khiết, chân chính. Sáu mươi năm cầm bút, có lúc dạy học, diễn thuyết; tám mươi tuổi vẫn đều đều mỗi ngày ngồi vào bàn viết cả buổi sáng; vừa viết xong tập Hồi kí, thì vào dưỡng đường trị bệnh ruột và nửa tháng sau tắt nghỉ. Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thể hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. Đầu năm 1968, chúng tôi đã giới thiệu với độc giả tập Thư ngỏ gởi tuổi đôi mưoi ông viết hồi tám chục tuổi; hôm nay xin giới thiệu thêm cuốn Thư gởi Người đàn bà không quen biết viết hồi bảy chục tuổi. “Người đàn bà không quen biết” mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng Ồng lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ: đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền. Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lí của ông, cũng như trong cuốn Thư ngỏ gởi tuổi đôi mưoi là một triết lí lạc quan, khoan hòa, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm, không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn. Nhưng muốn hưởng hết cái thú thì mỗi tối ta chỉ nên coi một bức thư thôi. Đọc chầm chậm, vừa suy nghĩ thì mất độ mười lăm phút, mưòi lăm phút đó đáng kể nhất trong mỗi ngày của ta vì ta được hiểu đời hơn, hiểu ta hơn và được đàm đạo vói một danh sĩ bậc nhất của Pháp. *** Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê LỜI ĐẦU André Maurois (1885 - 1967) là nhà văn lớn Pháp, tên thật là Emile Herzog. Viện sĩ trong Viện Hàn lâm Pháp. Ông xuất thân trong một gia đình công nghiệp ở Alsaca. Khi còn ở ghế nhà trường ông là một cao đệ của giáo sư kiêm triết gia Alaine (1868 - 1951), tốt nghiệp Đại học, ông làm giáo sư triết học. Một thời gian sau ông từ chức về quản lí nhà máy dệt của gia đình và bắt đầu viết từ đó. Trong thế chiến thứ nhất (1914 - 1918) , ông làm thông dịch viên trong quân đội Hoàng gia Anh, chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), ông sống ở Anh quốc và Hoa Kỳ. André Maurois chuyên về tiểu thuyết, luận văn, sử, phê bình, khảo luận, tùy bút... Với hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại mà có người cho "toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt" đã được các thế hệ trẻ ngưỡng mộ, tin cậy và xem ông như bậc thầy. Ông viết tập "Thư gởi người đàn bà không quen biết" (Lettres à l'Inconnue) này khi ông đã ngoài bảy mươi tuổi gởi lại cho lớp đến sau, giúp họ có một vốn sống nho nhỏ trong cuộc sống. Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau : "André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm : trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt". Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thế hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. "Người đàn bà không quen biết" mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng v.v... Ông lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ : đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền... Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lý của ông là một triết lý lạc quan, khoan hoà, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm ; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn.   Tựa (của tác giả) Có cô mà không có cô. Khi một ông bạn nhờ tôi viết mỗi tuần một bức thư cho cô thì tôi thích thú tưởng tượng ra cô. Tôi tạo ra cô : hoàn toàn về óc phán đoán cũng như về nét mặt. Tôi chắc chắn cô sẽ từ cõi mộng tưởng của tôi xuất hiện thành một người thực, rồi đọc thư tôi, đáp tôi, nói với tôi tất cả những lời mà một nhà văn muốn nghe. Ngay từ buổi đầu tôi đã cho cô một hình thể rõ rệt, hình thể một thiếu phụ rất đẹp mà tôi thấy trong một hí viện. Không phải trên sân khấu mà ở trong rạp. Các ông bạn ngồi cạnh tôi không biết thiếu phụ đó là ai. Từ lúc đó cô có một cặp mắt, một làn môi, một giọng nói, một thân thể, mà vẫn là Người đàn bà không quen biết, có thể mới phải phép. Với bức thư đáng ra và tôi nhận được của nó những hồi âm mà tôi đã mong đợi. Tiếng "cô" ở đây là tiếng tập hợp, chỉ số nhiều. Các cô là cả một đám phụ nữ không quen biết, cô này ngây thơ, cô kia hay gây gỗ, cô thứ ba kì cục va hay nhạo báng. Tôi đã muốn thư từ qua lại với các cô, nhưng rồi thôi. Muốn viết cho hết thảy thì không nên viết cho từng người một. Cô trách tôi thận trọng, giữ cái cương vị một luân lí gia tình cảm. Làm sao được ? Người đàn ông nào kiên nhẫn nhất thì cũng chỉ trung tín với một người đàn bà không quen biết khi người này cho thấy mặt. Mérimée sớm biết được người đàn bà không quen biết của ông ta tên là Jenny Dacquin và ông được ngay cô ta cho phép hôn chân, chân cô ta rất đẹp. Một thần tượng phải có chân và những bộ phận khác nữa. Nếu không thì người ta sẽ chán một nữ thần vô hình. Tôi đã hứa đóng cái trò này thật lâu, chán mới thôi. Sau sáu chục tuần lễ, tôi xin đổi đề tài và được chấp nhận. Tuyệt giao trong tưởng tượng thì không khó khăn gì cả và tôi giữ được của cô một kỉ niệm không vết. Vĩnh biệt. ANDRÉ MAUROIS   Mời các bạn đón đọc Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết của tác giả André Maurois.
Khúc Nhạc Mê Ly
Nguyên tác: The Kreutzer Sonata Bản dịch của: Trần Văn Điền Dịch theo bản Anh Ngữ của Aylmer Maude   Nhưng ta nói cho các ngươi hay: ai nhìn một người đàn bà mà động lòng ao ước, đều ngoại tình trong tư tưởng rồi vậy. (Matt. V, 28) Hôm ấy là ngày đầu xuân, cuộc hành trình của chúng tôi buốc sang ngày thứ hai. Những hành khách đi những nơi gần, lên lên xuống xuống, chỉ có ba người và tôi là đi suốt chuyến xe lửa. Một người đàn bà không còn trẻ, miệng ngậm điếu thuốc, nét mặt băn khoăn, mặc chiếc áo choàng kiểu đàn ông, đầu đội nón. Một ông tuổi trạc tứ tuần, bạn của bà này, nói năng luôn miệng, mặc bộ đồ mới trông thật chỉnh tề. Người thứ ba là một người đàn ông hơi lùn, sống vẻ biệt lập. Ông ta chưa già, nhưng mái tóc quăn đã sớm bạc màu. Cử chỉ đường đột. Đôi mắt sáng có những tia nhìn thật nhanh. Ông ta mặc một chiếc áo choàng cũ, cổ lông cừu may rất khéo, và đội một chiếc nón cao cũng bằng lông. Khi cởi cúc áo choàng, người ta mới thấy ông mặc chiếc "vét" kiểu Nga không tay và áo Sơ mi thêu. Một đặc điểm nữa là ông ta hay hắng giọng, phát ra tiếng kêu cụt ngủn như tiếng cười bị tắt ngấm trong cổ họng. Suốt cuộc hành trình ông ta giữ thái độ tránh né, không muốn làm quen hoặc tiếp xúc với các hành khách khác. Mỗi khi có ai ngồi bên gợi chuyện, ông ta chỉ trả lời vắn tắt. Ngoài ra, ông thường đọc sách, hút thuốc, mắt nhìn về phía cửa sổ, hoặc uống trà hoặc móc trong bị ra một món gì để ăn. Tôi thấy dường như con người này đang âm thầm chịu đựng một nếp sống cô độc ghê gớm. Nhiều lần tôi cố gắng bắt chuyện với ông. Nhưng mỗi khi cặp mắt chúng tôi đụng nhau - điều này rất hay xảy ra vì tôi ngồi đối diện với ông ta - thì ông ta lại quay đi, nhìn ra cửa sổ hoặc nâng cuốn sách lên đọc. Đến tối ngày thứ hai, khi xe lửa ngừng lại ở một ga lớn, ông ta đi kiếm nước sôi pha trà. Người đàn ông ăn vận chỉnh tề - về sau tôi mới biết là luật sư - và người đàn bà hút thuốc mặc chiếc áo choàng kiểu đàn ông cùng xuống phòng giải khát uống trà. Trong lúc họ vắng mặt, nhiều hành khách mới lên xe, trong số đó có một cụ già, không để râu, người cao ráo đúng là một thương gia. Ông ta mặc chiếc áo lông chồn và đội chiếc nón vải rộng lòng. Lão thương gia ngồi xuống một chiếc ghế đối diện với chỗ người đàn bà và ông luật sư, rồi bắt đầu chuyện trò ngay với người thanh niên đi theo. Vẻ bên ngoài cho đoán thấy người thanh niên này là thư ký của một thương gia nào đó. Tôi ngồi ở dẫy ghế phía bên kia. Đang khi xe lửa còn đậu, không một ai qua lại giữa chúng tôi, tôi đã nghe được những mẩu chuyện của họ trao đổi nhau. Lão thương gia nói mình về thăm một cơ sở chỉ cách đây có một ga. Rồi, như thường lệ, câu chuyện xoay qua công việc buôn bán, giá cả hàng hóa. Họ bán đến tình trạng kinh tế ở Mốt Cu (Moscou), đến buổi hội chợ Nizhni Novgorog. Người thư ký kể chuyện một thương gia giầu có, cả hai đều quen biết, đã tổ chức cuộc vui chơi tại hội chợ. Cụ già liền gạt đi, thuật lại cho hắn nghe về những buổi chè chén say sưa mình đã tham dự hồi xưa tại hội chợ Kunavin. lão tỏ vẻ hãnh diện rõ rệt về đoạn đời thác loạn lão đã sống. Lão thích thú kể lại lão và mấy người bạn, trong số đó có cả người thương gia họ vừa nói tới, đã tổ chức ăn uống nhậu nhẹt tại Kanuvin và đã chơi những trò bí mật đến nỗi lão phải nói nhỏ vào tai cậu thanh niên. cậu này thích thú cười rộ lên, khiến lão già cũng cười theo, để lộ hai chiếc răng vàng kê(ch. tiếng cười của họ vang dội cả toa xe. Tôi bực bội đứng dậy định xuống sân ga đi đi lại lại chờ xe lửa khởi hành. Ra tới cửa, tôi gặp vị luật sư và người đàn bà đi tới, đang chuyện trò với nhau. Thấy tôi, người luật sư vui vẻ lên tiếng: - Không còn giờ đâu. Xe lửa đi bây giờ! Thật vậy, tôi chưa đi hết một vòng sân ga thì nghe chuông rung báo hiệu giờ khởi hành. Khi tôi trở lại, người đàn bà và vị luật sư vẫn còn đang mải mê nói chuyện. Lão thương gia ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn thẳng trước mặt, thỉnh thoảng lẩm bẩm trong miệng tỏ vẻ khó chịu. Khi đi ngang qua vị luật sư, tôi nghe ông ta nói: - Rồi bà ta bảo thẳng vào mặt chồng mình không thể và cũng không muốn sống với hắn ta nữa vì... Vị luật sư còn tiếp tục nói nhưng tôi không nghe rõ. Nhiều hành khách khác lên xe. Người soát vé đi qua. Một bác khuân vác vội vã lên theo. Tiếng ồn ào khiến tôi không còn nghe được câu chuyện của họ nữa. Một lúc sau, bầu không khí trở lại yên tịnh, câu chuyện của họ dça4 quay sang những nhận xét chung quanh, không còn đề cập tới những trường hợp riêng lẻ nữa. Vị luật sư nói bên Âu Châu dân chúng đang bàn tán sôi nổi về vấn đề "ly dị", và ở Nga, những trường hợp ly dị xảy ra mỗi ngày một nhiều. Thấy chỉ có mình mình nói, người luật sư ngừng ngang rồi tươi cười quay sang cụ già: - Ngày xưa, đâu có những chuyện như vậy phải không cụ? Cụ già toan trả lời thì xe lửa chuyển bánh. Cụ liền bỏ nón xuống, làm dầu thánh giá và thì thầm đọc kinh. Vị luật sư lễ phép quay đi, chờ đợi. Đọc kinh xong, cụ già làm dấu thánh giá ba lần, đội nón lại ngay ngắn, sửa lại cách ngồi rồi lên tiếng: - Ngày xưa cũng có chứ, nhưng ít hơn thôi. Ngày nay những chuyện như thế bắt buộc phải xảy ra. Dân chúng bây giờ được giáo dục nhiều quá mà. Xe lửa chạy mỗi lúc một nhanh hơn, lắc lư trên đường rầy khiến tôi nghe không được phải ngồi xích lại gần hơn. Người đàn ông đặc biệt có đôi mắt sáng, ngồi đối diện tôi cũng chăm chú theo dõi cuộc đối thoại. Người đàn bà mỉm cười hỏi lại: - Giáo dục có hại gì? Ngày xưa cô dâu chú rể đến ngày cưới mới thấy mặt nhau. Lấy nhau như thế thì làm sao hay hơn bây giờ được! Bà ta nói tiếp, theo dòng tư tưởng của riêng mình, không cần trả lời đúng câu hỏi người đối thoại như thói quen của phần đông các bà. - Họ cười bất cứ ai, chẳng cần biết mình có yêu được hay không để rồi phải khốn khổ suốt đời. Như thế mà cụ cho là hay được sao? Rõ ràng là bà ta muốn nói với tôi và nhất là với vị luật sư, chứ không phải với cụ già, kẻ đối thoại với mình. Lão thương gia khinh khỉnh nhìn người đàn bà, không trả lời gì thêm, chỉ lặp lại câu nói: - Họ được giáo dục nhiều quá mà! Vị luật sư mỉm cười góp ý: - Xin cụ giải thích cho biết giáo dục có liên quan gì với mối bất hòa giữa vợ chồng? Lão thương gia định nói, nhưng người đàn bà ngắt ngang: - Không, cái thời đó đã qua rồi! Vị luật sư can: - Phải, nhưng xin bà để cho cụ phát biểu ý kiến đã! Lão thương gia lên tiếng giọng cương quyết: - Bao nhiêu chuyện điên rồ đều do giáo dục mà ra cả. Người đàn bà quay nhìn vị luật sư, nhìn tôi, nhìn cả chàng thư ký đã đứng dậy, đang tựa lưng ghế chăm chú theo dõi cuộc đối thoại, rồi bà vội nói: - Họ bắt những người không yêu nhau phải cưới nhau rồi ngạc nhiên khi thấy chúng nó sống lủng củng với nhau. Chỉ có loài vật mới để cho chủ ghép đôi như thế. Con người không thế! Con người còn những xu hướng, những quyến luyến riêng của mình. Giọng người đàn bà gay gắt như muốn trêu tức lão thương gia. Ông này phản ứng: - Bà không nên nói như vậy. Loài vật là loài vật, nhưng loài người có luật lệ riêng. Người đàn bà vội đưa ra lý lẽ mà bà ta cho là mới mẻ: - Phải, nhưng làm thế nào sống được với một người mình không yêu? Lão thương gia trả lời: - Ngày xưa người ta đâu có nêu vấn đề đó ra! Bây giờ con người mới thắc mắc đủ thứ. Hơi một chút là họ nói: "Tôi không thèm sống với anh nữa!" Cái mốt đó lan tới cả đám dân quê. Cô nàng bảo chồng: " Đây, quần áo anh đây! Tôi nhất định đi theo người đàn ông đó. Đầu hắn có mái tóc quăn đẹp hơn anh." Như vậy, theo ý tôi, việc đầu tiên đòi hỏi nơi người đàn bà là phải biết sợ. Ý kiến bà thế nào? Chàng thư ký liếc nhìn vị luật sư, nhìn người đàn bà, rồi nhìn tôi. Dường như hắn muốn chờ phản ứng của chúng tôi để có thái độ thuận theo hoặc phản đối ý kiến lão thương gia. Người đàn bà hỏi vặn lại: - Sợ cái gì mới được chứ? - Sợ chồng! *** “Bá tước” Lev Nikolayevich Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 tại điền trang Yasnaya Polyana thuộc tỉnh Tula. Yasnaya Polyana là nơi Tolstoy khởi đầu sự sống của mình, là nơi khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nơi chứng kiến những tìm tòi, những biến chuyển trong nghệ thuật cũng như trong những tư tưởng triết lý, đạo đức của ông, và đó cũng là nơi mà vào đêm 28 tháng 10 năm 1910 ông đã chạy trốn khỏi, từ bỏ tất cả: gia đình, tài sản... để đi trên con tàu vô định đến cái chết khi đã ở tuổi 82 với tên tuổi đã nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm tiêu biểu Dịch thuật Một chuyến đi đầy xúc cảm qua Pháp và Ý Bút ký Những mẩu chuyện Sevastopol Một người cần bao nhiêu ruộng đất ? Tôn giáo của tôi Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn Tóm tắt Phúc âm   Truyện ngắn Bản sonata Kreytser (bản in năm 1901) Một lịch sử của ngày hôm qua (1851) Lucerne (1857) Ba cái chết Kholstomer Một cuộc xưng tội Hadji Murat Cái chết của Ivan Ilyich Đức cha Sergy (1898)   Tiểu thuyết Thời thơ ấu (1852) Thời niên thiếu (1855) Thời thanh niên (1856) Người Kazak (1963) Chiến tranh và Hòa bình (1865) Anna Karenina (1877) Con người sống bằng gì (1881) Bản sonata Kreytser (1889) Phục sinh (1899) Mời các bạn đón đọc Khúc Nhạc Mê Ly của tác giả Leo Tolstoy & Trần Văn Điền (dịch).