Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Yểu Mệnh

Tác phẩm xoay quanh hai nhân vật chính: Louisa (39 tuổi) và Paul (18 tuổi). Hai con người đều mang trong mình những giằng xé nội tâm. Paul bị ám ảnh khi chứng kiến cái chết của cha mình, ở trường học cậu hay bị bạn bè bắt nạt cho đến khi cậu gặp Daniel (hơn Paul 1 tuổi và không biết chữ, con của một tên trộm). Giữa hai người nảy sinh tình bạn thân thiết. Nhưng đứng trước ngã rẽ cuộc đời, Paul muốn có cuộc sống mới, học đại học và trở thành giáo viên; còn Daniel lại không muốn Paul chọn con đường đó. Trong một lần cả hai đi ăn trộm, Paul đáng lẽ có thể ngăn chặn Daniel giết người, nhưng vì ích kỷ cá nhân Paul đã không làm vậy. Cậu trở thành nhân chứng trong vụ án của Daniel. Lo sợ cha Daniel sẽ hại mình, Paul tham gia vào chương trình bảo vệ nhân chứng, cậu đến làm vườn ở Kelstice. *** Review sách Bông Hồng Yểu Mệnh: Nếu bạn đang mong chờ một cuốn sách trinh thám gay cấn với tình tiết gấp gáp, li kỳ, những pha suy đoán xuất sắc, rượt đuổi ngoạn mục, có lẽ "Bông hồng yểu mệnh" không phải là sự lựa chọn phù hợp."Một đám mây mơ hồ mang bóng hình anh, trôi thấp đến mức cô tưởng như có thể chạm vào và kéo xuống"... "cô nhìn thấy anh thay vì chính mình trong tất cả các vũng nước trên đường và trong các tấm kính". Đó là những dòng chữ đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi ngay từ trang đầu tiên, cho tôi kiên nhẫn và niềm tin để đọc đến hết dù bạn bè của tôi đã đưa ra những ý kiến trái chiều. Tôi thích cách miêu tả tâm lý như thế của Erin Kelly - thực sự giàu hình ảnh. Hai nhân vật chính là những người mang trong lòng mình quá nhiều ký ức, những ký ức ám ảnh đến vỡ vụn tâm hồn. Louisa, thường xuyên thực hiện "nghi lễ trừ tà" với ám ảnh chính mình, ở tuổi 19 đã giết chết Adam, người cô yêu mãnh liệt và cuồng dại. Paul, chàng trai trẻ được sinh ra sau cả khi cô "giết chết" Adam cũng đã có cuộc sống vô định, vật vờ khi tận mắt chứng kiến cái chết kinh hoàng của cha và một thời gian dài làm bạn, sống như cái bóng và không thể thoát ra khỏi một tên tội phạm, chẳng có sự quan tâm của người thân. Cả Louisa và Paul đã vật lộn, vẫy vùng và chìm nghỉm trong vực thẳm, trong hố sâu mà cả 2 đã tự đào cho riêng mình. Hai nhân vật gặp nhau, đến với nhau như sự sắp xếp tình cờ của số phận. Họ tìm thấy sự bình yên tại khu vườn cổ, một khu vườn thật kỳ diệu. Họ đồng cảm cùng nhau khi chưa biết chút gì về quá khứ của nhau. Và cả 2 bị cuốn vào những rắc rối của nhau trong hiện tại.Tuy không đánh giá là một cuốn sách thật xuất sắc, nhưng nếu bạn thích những đoạn miên man, đắm chìm trong tâm lý nhân vật, nếu bạn yêu cái đẹp của ngôn từ, sự hoàn hảo của khu vườn cổ, có lẽ bạn cũng sẽ giống tôi, chẳng tiếc thời gian bỏ ra để thả hồn mình vào trang sách.Nhưng có lẽ, với tôi, nếu tác giả tiết chế một vài đoạn, sử dụng những chi tiết chọn lọc mang tính chất đại diện, đặc trưng thì có lẽ tác phẩm sẽ trọn vẹn và thu hút hơn. Hồng Khánh, 22.9.2018. *** Tháng Chín năm 2009 Ngay khi vừa thức dậy, Louisa đã biết, tối nay mình sẽ phải làm việc này. Cảm giác như có một cơn bão đang thành hình mà chỉ riêng cô cảm nhận được. Nó lơ lửng trong không trung suốt cả ngày. Các dấu hiệu cùng nhau xuất hiện: tiếng nhạc trở nên không thể chịu đựng nổi, những đoạn đối thoại vô thưởng vô phạt giờ đây cứ vang lên trong đầu cô như tiếng “tích tắc” từ một quả bom hẹn giờ, còn ký ức thì như những con bọ chét lẫn trong chăn đệm cắn cô vào ban đêm. Và rồi, sáng hôm đó, cô đã gặp lại anh. Một đám mây mơ hồ mang bóng hình anh, trôi thấp đến mức cô tưởng như có thể chạm vào và kéo xuống. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy cô cho đến khi hình bóng đó bị gió thổi tan đi. Kể từ lúc ấy, cô hoàn toàn lạc lối: cô nhìn thấy anh thay vì chính mình trong tất cả những vũng nước trên đường và trong các tấm kính. Trong tiếng nói cười của người qua kẻ lại trên đường, cô chỉ nghe âm vang giọng nói của anh. Mọi vật trong vườn như đang chuyển động và lớn lên để hình thành chữ cái trong tên anh: cái thang đang dựa vào tường tạo thành chữ A, những đường ngoằn ngoèo mà ai đó rạch ra trên nền sỏi của mảnh đất trồng hoa giống như chuỗi những chữ M vô tận. Riêng đống đổ nát trước mắt là không đổi dạng, ba ống khói còn lại chọc thẳng lên trời như những thân cây bị sét đánh trúng. Trưa đến, khi nắng chiếu qua những ô cửa sổ không kính, tạo thành những vạch chia giờ, nhìn như chiếc đồng hồ cổ khổng lồ. Louisa biết, điều gì sẽ xảy ra khi đêm xuống, nên cô muốn ngày sẽ kéo dài mãi mãi; nhưng tất cả những công việc và những cuộc trò chuyện trong ngày chỉ như một vệt nhòe và trôi qua quá nhanh. Cô là người đến khu vườn đầu tiên và cũng là người cuối cùng rời đi. Cô kiểm tra xem cánh cửa vào nhà kính đã đóng chưa, nhanh chóng phân biệt từng chiếc chìa khóa giống hệt nhau trong chùm chìa, rồi khóa căn cabin lại. Cô lần theo đường cáp dày tìm công tắc ngoài trời, ấn nhẹ và cả không gian chìm trong bóng tối. Trăng còn sáng mờ mờ, cô thắp đuốc lên và men theo con đường chỉ mình cô biết. Cô băng qua khoảng đất đang phủ bạt. Khoảng đất này sẽ sớm trở thành bãi đỗ xe mới. Cô đi tiếp qua những bụi cây rậm rạp và cuối cùng đứng đối diện với bức tường. Cảm xúc đang dồn nén trong lòng khiến cô thấy nôn nao. Cô tự nhủ với bản thân rằng, đây sẽ là lần cuối cùng. Lần cuối của lần cuối cùng. Đã có quá nhiều lần cuối cùng rồi. Khi vào bên trong, Louisa theo thói quen nhấn công tắc ấm đun nước, rồi lại tắt nó đi ngay trước khi nước kịp sôi: cô không định uống trà tối nay. Cô đang bận rộn với nghi lễ. Trước tiên phải thắp đèn, rồi sau đó là châm nến. Một vài chiếc nến lớn đã cháy đến gần bấc nên cô buộc phải thò tay vào trong ống đèn, ngọn lửa mới thắp liếm vào mu bàn tay khiến cô bỏng rát. Cô kiểm tra lại các cửa sổ thêm lần nữa, kéo tấm rèm cửa màu vàng xuống để không ai bên ngoài nhìn vào được. Dù sao thì ai đang theo dõi cô chứ? Cô ngồi bên mép giường chừng một, hai phút, đợi lò sưởi làm căn phòng ấm lên, cho bản thân một cơ hội để rút lui. Nhưng rồi cô lại quỳ xuống, mò mẫm tìm chai rượu dưới gầm giường. Ngón tay cô run run chạm vào mặt thủy tinh mát lạnh, phần tiếp xúc với cổ chai và nút chai hơi dinh dính, gợn gợn một lớp bụi mỏng. Louisa nhíu mày. Đã bao lâu rồi cô mới làm việc này? Từ mùa xuân? Đúng, cô chợt nhận ra mình đã cố kháng cự nó trong suốt mùa hè. Thảo nào sự cám dỗ lại thôi thúc cô mãnh liệt đến vậy. Cô có thể quên anh trong suốt những tháng ngày công việc ngập đầu ngập cổ, khiến cô ngủ li bì hàng đêm do kiệt sức. Nhưng giờ là tháng Chín, thời điểm giao mùa trong năm, buổi đêm kéo đến nhanh hơn. Dù có dậy sớm hay làm việc chăm chỉ đến mức nào, cô cũng không thể trốn chạy sự thực rằng mình buộc phải ra về sớm hơn vào mỗi tối, và mỗi ngày qua đi lại mang đến thêm những phút giây yên lặng mơ hồ. Khoảng thời gian trống rỗng đó cứ chồng chất lên nhau khi một tuần trôi qua. Và đối với cô, chỉ một giờ tĩnh lặng, tối tăm đã là quá đủ. Cô mở nút chai và tu một hơi, cảm nhận rõ cổ họng bỏng rát. Giờ thì nghi lễ trừ tà có thể bắt đầu. Không còn nhiều vodka lắm, nhưng như vậy là đủ, nó tiếp thêm can đảm để cô uống whiskey. Chưa chi chân cô đã muốn không vững, cô leo lên giường và với tay lên cái tủ treo tường. Cánh tủ hẹp, giấu đi không gian sâu chừng hai, ba feet, cô thọc tay đến tận bả vai khi mò mẫm giữa những chồng túi và hộp được sắp xếp cẩn thận. Cuối cùng, cô cũng chạm tay vào đúng chiếc túi mình cần. Cô lôi nó ra mạnh đến mức ngã lăn ra giường, cái túi nylon đập lên bụng, một chai whiskey lăn ra. Cô dốc những thứ còn lại trong túi ra như thể một đứa trẻ đang dốc ngược chiếc tất Giáng sinh, dù cô biết sẽ không có bất ngờ nào. Cô trải đều mọi thứ lên giường, tự hỏi mình nên bắt đầu từ đâu, cô nhận thấy mạch ở cổ họng, cổ tay và lồng ngực đang tăng. Cô bắt đầu với chai nhỏ màu xanh tinh dầu hương cỏ, mở nắp và hít một hơi. Còn chừng một phần tư. Cứ mỗi năm trôi qua mùi hương lại nhạt dần, nhưng nó là của anh, anh đã dùng nó nên cô sẽ không bao giờ thay thế báu vật của mình bằng một lọ mới. Cô xức một chút lên phía sau mang tai, nhớ lại cách anh thoa chúng, anh lấy ngón cái ấn nhẹ lên cổ và cổ tay. Tinh dầu phản ứng khác nhau với mỗi người nên cô chẳng thể nào tái tạo lại chính xác mùi hương của anh, nhưng thế cũng tốt lắm rồi. Chai whiskey này không phải của anh, nhưng đó là nhãn hiệu anh yêu thích, loại whiskey Ai-len cổ lỗ và không có tiếng tăm nên chẳng ai tầm tuổi anh biết tên, chứ đừng nói là uống. Nó rất khó kiếm ở London. Việc cô có được một chai rượu như vậy đơn giản chỉ là kết quả từ tình yêu còn lại. Khi ấn chai rượu vào miệng, cô cảm giác như đang hôn anh, cô nhắm mắt lại như thể anh đang ở đây. Cô uống nhiều hết mức có thể và run rẩy đặt chai rượu xuống cạnh ngọn nến, óng ánh lan tỏa ánh sáng màu hổ phách. Mang theo chiếc gương duy nhất từ phòng tắm, Louisa cần trang điểm một chút, làm dịu làn da đã khô mỹ phẩm bằng vài giọt dầu ô-liu lấy từ một ngăn nhỏ. Chì kẻ mi của hãng Blackpool, còn son là của Black Cherry, cả hai đều có màu đậm vốn chỉ hợp với làn da căng mịn, trẻ trung. Cô vén tóc sang một bên, dùng cặp tóc kẹp chặt một cách thô bạo, khiến cho một phần mặt của cô - chừng nửa inch - lộ ra. Giờ mặt cô đang nghiêng về một phía. Cô xõa tóc ra và hất về bên trái. Thế này sẽ tốt hơn. Cô giơ chiếc váy lên, nhìn nó lúc nào cũng nhỏ hơn so với trong trí nhớ của cô. Cô thực sự đã mặc thứ ngắn như vậy đi ra ngoài sao? Như mọi lần, cô nín thở khi mặc nó, sau đó lại thở phào nhẹ nhõm như thường lệ khi thấy mọi thứ vẫn ổn, có chăng hơi rộng do vải bị giãn. Phần vải nhung màu mâm xôi trước ngực rủ xuống, giờ ngực cô không còn căng như trước, nhưng bụng cô cũng không xệ ra. Cô vặn vẹo khuôn mặt, trong tấm kính mờ, hình dung bản thân thời son trẻ đang trề môi trêu chọc lại cô. Thật không công bằng, cô không thể ngừng suy nghĩ, anh sẽ luôn trẻ trung như vậy. Cô với tay lấy chai rượu và suýt làm đổ ra ga giường. Cô đang say, đang rất say, nhưng vẫn uống thêm chút nữa. Louisa ngó quanh căn phòng tối. Trong giây lát, cô không hiểu chiếc ti vi đã biến đi đâu, rồi sau mới nhớ ra mình đã lấy nó làm bệ đỡ khi hong khô mấy chiếc đèn lồng Trung Hoa. Cô nhấc bình hoa và kéo tấm khăn phủ, để lộ một dàn máy tích hợp đầu phát video. Cả thứ này nữa cũng nhỏ hơn trong ký ức của cô. Nó là mẫu mới nhất lúc bố mẹ tặng cho cô. Giờ không có ăng-ten, còn điều khiển từ xa đã mất từ lâu. Liệu nó còn hoạt động không? Cô cảm thấy hơi sợ khi nhẩm tính lại quãng thời gian đã trôi qua kể từ lần cuối sử dụng. Cô cắm điện, cảm thấy nhẹ nhõm khi màn hình sáng lên. Cuộn băng có tên Glasslake này, như cô biết, hiện không còn bản nào nữa. Cô nắm chặt, gần như thách thức mình bóp nát nó. Thật dễ dàng để móc ngón tay nhỏ bé của cô vào cuộn băng và moi ruột nó ra. Cô biết mình nên phá hủy nó. Mỗi mùa đi qua cô càng thêm tự tin rằng sẽ không ai phát hiện ra mình, nhưng nếu bị phát hiện và nếu mọi thứ phản pháo lại cô, thì việc sở hữu cuộn băng này sẽ là một thảm họa. Nhưng giờ đây cô không thể làm việc đó, bất lực ngăn cản bản thân nhét cuộn băng vào đầu máy và ấn nút Play. Đoạn mở đầu chạy qua trước mắt cô theo một thứ tự quen thuộc: những hình ảnh quảng cáo thuốc lá và cà phê, đường dây 0898 dành cho những ai cô đơn đang cần khuây khỏa, đoạn mào đầu một chương trình xa xưa trên kênh 4 mà hẳn là nội dung ban đầu của cuộn băng này. Sau đó, đoạn hình ảnh phát sóng bị ghi đè lên bằng một đoạn ghi hình nghiệp dư. Khi máy quay rung rung tiến sát vào anh, ngay lập tức cô cảm thấy xao xuyến như lần đầu gặp gỡ. Anh đưa tay lên hất mái tóc khỏi mắt, cô sắp nhìn thấy vài sợi chỉ bị tưa nơi cổ tay của bộ áo liền quần màu đen anh đang mặc và cả lời hát được viết nguệch ngoạc ở mặt trong cánh tay anh. Sau này, khi đã quen nhau, anh nói với cô rằng, đôi khi những lúc lo lắng, anh sẽ quên bẵng mất những từ ngữ mình dành hàng giờ để viết. Tiếp theo là một vài đoạn ghi khác, ánh sáng mờ ảo, âm thanh méo mó, nhưng đây là phần Louisa thích nhất bởi cô đã ở đó. Cô ở đó trong khung hình đầu tiên với bộ váy xanh; rồi cô cũng xuất hiện trong cảnh thứ hai, đứng ngay trước máy quay nên có thể nhìn thấy đỉnh đầu của cô trong suốt cảnh quay. Có vẻ như anh đang hướng về phía ống kính và biểu diễn, mặc dù Louisa biết rõ tất cả những lời anh hát đều dành cho cô và hướng về cô. Đó là bằng chứng cho thấy, dù sau đó có chuyện gì xảy ra giữa hai người đi nữa, thì ngay lúc này đây anh vẫn khao khát cô nhiều như cô khao khát anh. Cô hiểu rằng, đó chính là lý do thực sự ngăn cản cô phá hủy cuốn băng này. Adam đang nhìn vào ống kính giữa những tiếng la hét cuối buổi biểu diễn. Sau một hồi dò dẫm, Louisa cũng tìm được nút Pause và dừng cảnh phim lại. Anh đang nhìn cô với ánh mắt đắm say và cáo buộc. Sự hối tiếc dâng lên trong cô mạnh mẽ đến mức gần như trở nên ngọt ngào. Cô nhoài người về phía ti vi như muốn ôm lấy nó. Cô tin rằng khao khát trong cô đủ mạnh để kéo anh ra khỏi màn hình nơi anh đang đứng yên đó, để trở về với cuộc sống, nhưng những gì cô nhận được chỉ là một nụ hôn nóng bỏng qua màn hình. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Yểu Mệnh của tác giả Erin Kelly.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoàng Tử Rắn - Elizabeth Hoyt
“Ôi, thiên thần tàn nhẫn” “Sao ông lại gọi tôi như thế? Đó có phải là tên mà ông đặt cho nhiều quý bà của ông ở London không?” Lucy nói. “Không, chỉ có nàng thôi”. Hắn chạm đầu ngón tay - chỉ một đầu ngón tay – vào má nàng. Làn da nàng ấm áp, ngay cả trong không khí ban đêm, và mịn, rất mịn màng. Nàng bước tránh ra ngay. “Tôi không tin ông”. Nàng có nghe thấy hơi thở hổn hển của mình? Hắn nhe răng cười như con quỷ trong bóng đêm, nhưng không trả lời. Chúa ơi, hắn ước có thể đơn giản là kéo nàng vào vòng tay, mở đôi môi ngọt ngào của nàng ra, cảm nhận hơi thở nàng trong miệng hắn, và ngực nàng tì vào ngực hắn. Hắn đứng lại và liều bước một bước về hướng nàng, cho đến khi họ gần như chạm vào nhau và nàng phải quay khuôn mặt tái nhợt ra nhìn hắn. Một lọn tóc nàng xổ ra vượt qua khoảng cách một vài inch giữa họ và vuốt ve cổ họng hắn. Nàng với tay ra, ngập ngừng, rồi chạm nhẹ nhàng một đầu ngón tay vào má hắn. Hắn cảm nhận được luồng run rẩy từ cơ thể truyền xuống tận những đầu ngón chân. *** Bộ sách Princess Trilogy gồm có: The Raven Prince (Hoàng tử quạ), The Leopard Prince (Hoàng tử báo), The Serpent Prince (Hoàng tử rắn),   The Ice Princess (Công chúa Băng). *** Maiden Hill, Anh Quốc Tháng 11/1760 Người đàn ông chết trên chân của Lucinda Craddock-Hayes có vẻ giống như một vị thần tử nạn. Apollo, hay giống Mars hơn, một kẻ gây chiến, giấu mình dưới hình hài một con người, bị đẩy xuống từ thiên đường và được một cô gái tìm thấy trên đường về nhà. Ngoài trừ việc các vị thần hiếm khi chảy máu. Hoặc trong trường hợp này là chết. “Ông Hedge,” Lucy gọi to. Nàng liếc nhanh quanh con đường chính độc nhất từ thị trấn Maiden Hill tới nhà của Craddock-Hayes. Nó vẫn giống như lúc trước khi nàng tìm thấy anh ta: hoang vắng, chẳng có ai ngoài nàng; người đầy tớ nam của nàng đã đi khuất sau nàng; và thi thể kia đang nằm trên cái hào. Bầu trời sà xuống thấp và ảm đạm màu xám mùa đông. Ánh sáng đã bắt đầu tắt, dù vẫn chưa đến 5 giờ. Những hàng cây trụi lá bên đường, tĩnh lặng và lạnh lẽo. Lucy rùng mình và cố gắng khép chặt áo choàng sát vào vai hơn. Người chết nằm sõng xoài, trần truồng, và úp mặt xuống. Đường rạch dài trên lưng đọng lại thành khối máu trên vai phải anh ta. Bên dưới là cặp mông rắn chắc; đôi chân cơ bắp rậm lông; và có vẻ thanh lịch kỳ lạ, với bàn chân khoẻ mạnh. Nàng chớp mắt và quay lại nhìn chằm chặp vào mặt anh ta. Ngay cả khi chết anh ta cũng vẫn đẹp trai. Đầu anh quay sang một bên, để lộ một phần gương mặt nam tính: mũi dài, gò má cao, và chiếc miệng rộng. Một đường rạch chia đôi hàng lông mày trên con mắt khép lại của anh ta. Mái tóc cắt ngắn áp sát vào da đầu, chỉ trừ những chỗ bết lại vì máu. Tay trái đặt thõng trên đầu, và trên ngón tay trỏ có cảm giác là đã có một chiếc nhẫn ở đó. Kẻ giết người hẳn đã lấy đi nó cùng với mọi thứ khác. Xung quanh thi thể bùn đã vẹt đi, dấu vết của gót ủng đóng sâu xuống ngay cạnh bên mông của người chết. Ngoài cái đó ra thì hề chẳng có dấu hiệu của người nào đó đã liệng vứt anh ta như rác thải. Lucy cảm thấy dòng nước mắt khờ khạo nhỏ ra từ mắt nàng. Điều gì đó về cái cách mà anh ta bị kẻ giết người bỏ lại, trần truồng và mất danh giá, có vẻ là một sự sỉ nhục kinh khủng với người đàn ông. Chuyện này thật đau buồn đến không thể chịu đựng nổi. Cô nàng ngu ngốc, nàng tự khiển trách mình. Nàng nhận ra mình phải trở nên kiên quyết, bình tĩnh hơn. Vội vàng, nàng gạt nước mắt ẩm ướt trên má đi. “Đầu tiên cô phải tới thăm nhà Joneses và tất cả những người bé nhỏ nhà Joneses, những kẻ làm bộ làm tịch đáng ghét. Sau đó chúng ta phải leo lên đồi tới nhà Bà Già Hardy – mụ già bẩn thỉu, không hiểu vì sao mụ ta vẫn còn chưa lên giường với một cái xẻng. Và đã hết chưa? Chưa, đó chỉ mới là một nửa thôi. Rồi, rồi cô sẽ cần phải gọi cửa nhà linh mục. Và còn tôi thì lôi cái của đông cứng này trong suốt thời gian đó.” Lucy ngăn lại thôi thúc dụi mắt. Hedge, người giúp việc của nàng, đội một chiếc mũ ba sừng dính mỡ lệch lạc trên mái tóc bạc sửng sốt. Cái áo choàng đầy bụi của ông và cái áo chẽn đều nhơ nhuốc như nhau, và ông ta đã chọn đôi vớ dài với đường chỉ viền màu đỏ tươi để làm nổi bật hai đầu gối lệch ra ngoài, không nghi ngờ gì đó là đồ thải ra của cha. Ông ta thốt lên một cách kiềm chế bên cạnh nàng: “Ôi trời, vẫn chưa chết!” ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Tử Rắn của tác giả Elizabeth Hoyt.
Gia Đình Penderwick Ở Phố Gardam - Jeanne Birdsall
Sau màu hè sôi động ở Arundel, gia đình Penderwick lại trở về tổ ấm của mình trên phố Gardam. Nhưng, một cuộc phiêu lưu mới đã chờ sẵn các cô gái nhà Penderwick: lá thư màu xanh bí ẩn của người mẹ quá cố, thái độ kỳ cục của người dì thân yêu, những cuộc hẹn hò úp úp mở mở của bố, sự xuất hiện của những người hàng xóm mới vô cùng thú vị và cả một gã Người - Bọ rình rập quanh khu phố…Và trên tất cả là Kế-Hoạch-Cứu-Bố với những tình huống dở khóc dở cười… Nhẹ hàng, hài hước, trong sáng và hấp dẫn, Gia đình Penderwick ở phố Gardam có thể coi như làn gió mát mùa hè và ngọn lửa ấm áp mùa đông. *** “Một cuốn sách để yêu qúy và để giữ ở gần giống như tấm chăn ấm áp thân thương bạn quấn quanh người cho khỏi lạnh.” - School Library Journal “Thật vô cùng thú vị khi được dành thời gian cho những nhân vật có sức lôi cuốn mạnh mẽ này, những cô gái sinh động đến nỗi người đọc sẽ cảm thấy được cả làn gió thổi bay mái tóc họ khi họ tung hoành trên sân bóng.” - Publisher Weekly “Cuốn sách thứ hai này còn hay hơn cuốn đầu tiên. Đối với các bậc phụ huynh đang tìm kiếm những cuốn sách giống như những cuốn họ đã đọc thời thơ ấu và đối với các bạn trẻ tìm cách thoát khỏi thế giới hư cấu đầy bạo lực để đến với một thế giới ngọt ngào và giản dị hơn, thì đây là lựa chọn sáng suốt.” - Matt Berman *** Gia đình Penderwicks là một trong những bộ truyện yêu thích nhất, một trong những câu chuyện về tình cảm gia đình đáng yêu nhất. Nói chung đây là một tập truyện với nhiều thông điệp và cảm xúc. Gia đình Penderwicks gồm có: Lũ trẻ nhà Penderwicks Gia đình Penderwicks ở phố Graham The Penderwicks at Point Mouette The Penderwicks in Springs ... *** Tác giả: • Giải thưởng Sách quốc gia Mỹ cho Văn chương dành cho thiếu nhi. • Giải Sự lựa chọn của Goodreads cho Sách thiếu niên & Nhi đồng hay nhất. Jeanne Birdsall sinh 1951, Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Là một trong những nhà văn thiếu nhi được yêu mến nhất trong những năm gần đây. Bà hiện sống tại Bang Massachussetts, cùng với chồng, bốn con mèo, một con thỏ, một chú sên cảnh, và một chú chó tên là Cagney. Jeanne Birdsallđã viết về tác phẩm của mình: "Khi lên mười hay mười một tuổi gì đó, tôi đã hết cả sách đọc. Tuần nào tôi cũng đến thư viện, hy vọng các tác giả yêu thích của mình vừa cho ra lò một tác phẩm mới. Hay thậm chí tuyệt hơn cả là tôi sẽ tìm được một tác giả mới trong thể loại sách mà tôi ưa thích nhất. Nhưng hầu như tuần nào tôi cũng phải đem về nhà những quyển sách đã đọc rồi, nhiều cuốn đã được đọc đến tám, chín, hay mười lần. Khi ấy tôi đã tự hứa với chính mình rằng một ngày kia tôi sẽ trở thành một nhà văn, để cho những bạn đọc như tôi có thêm một vài cuốn sách mới để khám phá và thưởng thức. “Lũ Trẻ Nhà Penderwick" chính là tác phẩm đầu tay của tôi." — The Penderwicks: A Summer Tale of Four Sisters, Two Rabbits, and a Very Interesting Boy (2005) — The Penderwicks on Gardam Street (2008) — Flora's Very Windy Day (2010) — The Penderwicks at Point Mouette (2011) — Lucky and Squash (2012) — The Penderwicks in Spring ( 2015) *** Mẹ ở trong bệnh viện với em bé mới sinh gần một tuần nay rồi. Mặc dù ba cô bé nhà Penderwick vẫn đến thăm mẹ hàng ngày - có khi hai lần một ngày - nhưng như thế vẫn không đủ. Chúng muốn bà về nhà. “Khi nào hả mẹ?”, Jane, đứa nhỏ nhất, hỏi. “Em đã hỏi mẹ năm lần rồi và mẹ không biết”, Rosalind nói, em là chị cả và cảm thấy rõ trọng trách nặng nề của mình, dù em mới lên tám. “Cho cháu bế Batty được không, dì Claire?”. Dì Claire, em gái của bố, cẩn thận trao em bé cho Rosalind, và cô bé nghĩ được ôm các bé sơ sinh quả là một trong những niềm vui tuyệt vời nhất trên đời, ngay cả khi em bé đang ngủ và không biết mình đang được bế. “Mẹ ơi, ít nhất thì mẹ về thăm nhà thôi có được không? Mẹ không cần phải đem em bé theo đâu”. Skye là con thứ, giữa Rosalind và Jane, và là đứa con duy nhất được thừa hưởng mái tóc vàng và cặp mắt xanh của mẹ. Hai đứa kia đều có mái tóc quăn sẫm màu và mắt nâu giống bố - giống cả dì Claire nữa. Còn em bé thì dù mới chỉ có một mớ tóc lơ phơ nhưng có vẻ như khi lớn lên tóc cũng sẽ sẫm màu. “Khi mẹ về nhà, cưng à, thì mẹ e là em Batty sẽ về cùng mẹ đấy”, mẹ chúng cười đáp. Rồi bà đột nhiên ngưng cười và áp tay bào bên sườn. “Cửa hàng lưu niệm nào!”, dì Claire kêu lên, nhảy ra khỏi ghế. “Sao ba đứa không chạy đến cửa hàng lưu niệm và mua cho mình món quà gì đó đi?”. “Chúng cháu không có tiền”, Jane nói. “Dì sẽ cho các cháu”. Dì Claire lấy một tờ giấy bạc trong ví ra đưa cho Skye. “Rosalind, tốt hơn hết là cháu để Batty lại đây. Em bé còn nhỏ quá, chưa đến hàng lưu niệm được”. “Dù sao thì có lẽ chúng cháu sẽ mua quà cho em bé”. Rosalind miễn cưỡng đặt em bé vào cái nôi màu trắng cạnh giường của mẹ. “Không đủ tiền cho cả nó đâu”, Skye nói. “Cư xử cho khéo nào!”, mẹ em nói. Nhưng dì Claire mỉm cười và đưa cho Skye thêm ít tiền nữa. “Giờ thì đi đi, lũ cướp biển tham lam của dì!”. Dì Claire là mẫu người họ hàng hoàn hảo nhất trên đời - dì yêu và hiểu trẻ con, nhưng lại không có con để khiến dì phải sao nhãng mấy cô cháu gái. Vì vậy không đứa nào trong số mấy chị em bận tâm khi bị dì gọi bằng đủ thứ tên. Thật ra, Skye còn có vẻ hãnh diện vì được gọi là cướp biển, thẳng tiến đến cửa hàng lưu niệm với dáng vẻ oai phong của người thủy thủ. Rosalind nắm tay Jane bám theo sau, vẻ kém hùng dũng hơn, vừa đi vừa chào những cô y tá mà mấy chị em đã trở nên thân thiết trong suốt tuần vừa rồi. Cửa hàng nằm ngay cuối hành lang, sau một khúc quanh - mấy chị em biết rõ đường, vì chúng đã đến đó nhiều lần, nhưng chưa lần nào có nhiều tiền như thế này. Dì Claire thật hào phóng. Đủ để mỗi cô gái kiếm được ít nhất là một báu vật nho nhỏ. Skye đi thẳng đến chỗ bán đồng hồ đeo tay, vì em luôn ao ước có được một chiếc màu đen. Jane ngắm nghía các thứ - lần nào em cũng làm như vậy - rồi dừng lại ở chỗ bán búp bê, hệt như mọi lần. Rosalind chọn một chú chó đen nhồi bông cho Batty, rồi tiến về tủ đồ trang sức. Anna, cô bạn thân nhất của em, vừa mới có một chiếc nhẫn màu ngọc lam, và Rosalind nghĩ sẽ không gì bằng nếu em cũng có một chiếc y như thế. Nhưng khi đến chỗ đồ trang sức thì mắt em không bị hút về phía những chiếc nhẫn, mà lại hướng về sợi dây chuyền vàng mỏng mảnh treo năm trái tim - trái tim lớn nhất ở giữa, mỗi bên là hai trái tim nhỏ hơn. Em nhìn giá tiền, nhẩm tính trên đầu ngón tay, nhẩm lại lần nữa cho chắc, rồi gọi hai đứa em đến. “Mình nên mua cái dây chuyền kia cho mẹ”, em nói. “Nhưng như thế thì sẽ tốn hết chỗ tiền bọn mình có”, Skye đã đeo một cái đồng hồ màu đen ở cổ tay. “Chị biết, nhưng mẹ sẽ thích nó. Trái tim lớn là mẹ, còn bốn trái tim nhỏ là ba đứa bọn mình và em bé”. “Trái tim này là em”, Jane nói, chỉ vào một trong bốn trái tim nhỏ. “Chị Rosalind ơi, có phải mẹ vẫn đang ốm không?”. “Ừ”. “Vì Batty à?”. “Vì bệnh ung thư”, Rosalind trả lời. Em ghét cái từ đó, ung thư. “Có nhớ bố đã giải thích cho bọn mình thế nào không? Nhưng mẹ sẽ chóng khỏi thôi”. “Tất nhiên là thế rồi”, Skye dữ dằn nói. “Bố nói các bác sĩ đang làm tất cả những gì có thể, và họ là những bác sĩ giỏi nhất trên toàn vũ trụ”. “Được rồi”, Jane nói. “Em biểu quyết là chúng mình mua sợi dây chuyền cho mẹ”. “Tầm bậy thật!”. Skye biến đi, rồi quay lại, không đeo đồng hồ mà đi cùng một cô bán hàng, cô ấy đặt sợi dây chuyền vào một cái hộp có đính chiếc nơ con bướm. Giờ thì Rosalind sốt ruột muốn quay về với mẹ và Batty. Nhưng Skye và Jane đã trông thấy cô y tá chúng yêu quý nhất, cô Ruben, người lúc nào cũng có thời gian để cho chúng ngồi xe đẩy. Biết hai đứa sẽ không sao khi ở cùng cô Ruben, Rosalind vội vã đi xuôi hành lang, bước chậm lại khi đến gần phòng mẹ. Nhưng thay vì bước vào thì em lại chần chừ ở ngoài cửa, vì em có thể nghe thấy tiếng mẹ và dì đang rì rầm nói chuyện - nghe giống như một trong những cuộc trò chuyện của người lớn mà trẻ con không được phép lảng vảng xung quanh. Rosalind biết em có nghe thì cũng không phải là hư, vì tiếng rì rầm quá nhỏ, không thể hiểu được. Nhưng rồi hai người phụ nữ cất cao giọng, và Rosalind không thể không nghe rõ từng từ họ thốt ra. “Không, chị Lizzy, không”, dì Claire đang nói. “Nói đến chuyện này bây giờ là quá sớm. Như thể chị đã bỏ cuộc rồi ấy”. “Em biết là chị sẽ không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi không còn chút hi vọng nào nữa mà, Claire. Chỉ cần em hứa là nếu chị không qua khỏi, thì ba hay bốn năm nữa, em sẽ đưa lá thư của chị cho anh Martin. Em biết là anh ấy quá nhút nhát đến nỗi nếu không được động viên thì sẽ chẳng dám hẹn hò đâu, và chị thì không thể chịu đựng nổi khi nghĩ rằng anh ấy sẽ phải chịu cảnh cô độc”. “Anh ấy còn có bọn trẻ kia mà”. “Nhưng rồi một ngày kia chúng sẽ lớn lên và…”. Câu nói bị cắt nửa chừng, vì cô Ruben đã xuất hiện với Skye và Jane, hai cô bé đang chen chúc trên một chiếc xe đẩy, vừa hò hét vừa cười khúc khích. Hai đứa lao ra khỏi xe và chạy vào phòng trong khi Rosalind đi theo, chậm chạp hơn, cố gắng hiểu xem những điều mình vừa nghe thấy nghĩa là thế nào. Mẹ em nói nếu bà không qua khỏi nghĩa là sao? Và tại sao bố em lại phải hò hẹn? Em thấy trong người lạnh ngắt đi đến nỗi toàn thân run rẩy, và càng bủn rủn hơn khi thấy dì Claire lén bỏ một chiếc phong bì màu xanh vào túi. Đó có phải lá thư mẹ em đã nhắc đến không? Skye và Jane ồn ào phấn khích vì được đi xe đẩy lại được đem sợi dây chuyền tặng mẹ, mẹ rất thích sợi dây chuyền và khi đeo nó vào, trông mẹ thật đẹp, đến nỗi không ai nhận thấy Rosalind đang ngồi tránh sang một bên, tái nhợt, im lặng. Rồi sau đó, quá nhanh, một cô y tá vào phòng với cái xe đẩy nom rất đáng sợ, và nói rõ cả bà mẹ lẫn em bé đều cần được nghỉ ngơi. Mấy chị em đành miễn cưỡng hôn tạm biệt mẹ. Rosalind đợi đến cuối cùng. “Gặp lại mẹ ngày mai, mẹ nhé”, em thì thầm. Có lẽ đến mai em sẽ hỏi được những câu cần hỏi - về niềm hi vọng, về bố phải chịu cảnh cô đơn, và về lá thư màu xanh đáng sợ nọ. Nhưng Rosalind không bao giờ hỏi được những câu hỏi của mình, và chúng nhanh chóng bị đẩy sang bên và bị quên lãng, vì khi ngày mai đến, mẹ em đột ngột yếu đi thay vì khỏe lên. Bất chấp cố gắng hết mình của các bác sĩ giỏi nhất, chỉ trong vòng một tuần, mọi niềm hi vọng đã tiêu tan hết. Elizabeth Penderwick có đủ thời gian để tạm biệt chồng và các con gái trong một buổi tối hết sức đau đớn, nhưng chỉ vừa đủ mà thôi. Bà mất trước lúc bình minh ngày hôm sau, với bé Batty lặng lẽ nằm yên trong vòng tay. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Penderwick Ở Phố Gardam của tác giả Jeanne Birdsall.
Biên Thành - Thẩm Tùng Văn
Truyện vừa - hay cũng có thể được coi là một đoản thiên tiểu thuyết xót xa buồn về cảnh vật và những con người Trung Hoa xưa cũ của nhà văn nổi tiếng Thẩm Tùng Văn. Câu chuyện diễn ra tại một bến đò lặng lẽ vùng biên thành miền Tây Hồ Nam - nơi cô bé Thúy Thúy sống với người ông quản đò sau cái chết của mẹ. Mặc dù chỉ mới 14 tuổi nhưng Thúy Thúy đã trở thành một thiếu nữ phổng phao, xinh đẹp, được nhiều chàng trai để ý, trong đó có hai anh em nhà ông chủ bến: cậu cả Thiên Bảo và cậu hai Na Tống. Trước tấm chân tình của hai anh em đối với cô cháu gái, ông ngoại cô bé cảm thấy vô cùng sung sướng nhưng cũng không giấu nổi những lo lắng cho tương lai. Đặc biệt là khi cô bé vẫn thờ ơ với chuyện cưới xin. Sự thực thì trái tim cô bé đã rung động trước tấm lòng và tiếng hát của cậu hai Na Tống nhưng Na Tống đang bị gia đình ép lấy một cô gái con nhà gia thế… Thẩm Tùng Văn được coi là “tiểu thuyết gia trữ tình lớn nhất của Trung Quốc hiện đại”. Biên thành như là một bài thơ mang giọng điệu hoài cổ với âm hưởng buồn man mác. Những cảnh vật đồng nội, những con người nhỏ bé trong tác phẩm của ông như những hình ảnh nhạt nhòa trôi dần đi và cuối cùng mất hút trong dòng chảy thời gian và nhịp điệu gấp gáp của cuộc sống hiện đại. Biên thành khiến người đọc ngậm ngùi bởi tác phẩm “tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch” (Thẩm Tùng Văn). Dưới văn phong của ông, ngôn ngữ Trung Hoa đã tìm được vẻ đẹp của mình và vẻ đẹp ấy cũng đã được chuyển ngữ thành công bằng thứ tiếng Việt giản dị, trong sáng và khúc chiết của dịch giả Phạm Tú Châu. *** Nhận định “Vẻ đẹp tạo hình của Biên thành – thiên tiểu thuyết có nhân vật chính là một ông lão và cô cháu gái này luôn được giới phê bình nhấn mạnh; nó làm ta nghĩ tới một bức tranh Trung Hoa cổ điển, và mời gọi ta trở lại kiếm tìm một thế giới trữ tình đã mất của những ai chài, của đồng nội… Một kiệt tác của một tác giả quan trọng.”  - SDM - “Bị khuất đi nhiều bởi những đồng nghiệp nổi tiếng có lối viết thiên về chính trị như Lỗ Tấn hay Lão Xá… Tác phẩm của Thẩm Tùng Văn đan dệt phức tạp, giàu có tầng lớp và trữ tình. Trung Hoa của quá khứ và hiện tại sống động trong văn ông một cách tự nhiên như vốn thế. Nỗi buồn thấm qua nhưng cảnh đồng quê… có gì đó không chắc chắn và cũng nhiều hy vọng... Trong khi Lỗ Tấn là nhà ký sự của siêu ý thức xã hội thì Thẩm giống như một nhà nhân loại học, và trong ý nghĩa này, dương như ông gần với độc giả hiện đại hơn. Trong khi những người khác hướng đến một xã hội Trung Hoa của tự phê bình, của các thay đổi, thì Thẩm, một cách đẹp đẽ và giản dị, chỉ cho ta cuộc sống vốn dĩ vẫn hiện hữu như thế đó. Tác phẩm của ông là sự hoà quyện giữa nỗi buồn sâu xa cho quá khứ, hy vọng cho tương lai, và hơn tất cả, là vẻ đẹp và sự trong sáng của cõi sống hiện tại”.  - Matthew W.Baker - *** Thẩm Tùng Văn (1902 - 1988) là nhà văn hiện đại nổi tiếng của Trung Quốc. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan võ đời Thanh; quê huyện Phượng Hoàng tỉnh Hồ Nam, bà nội là người dân tộc Miêu. Bắt đầu sáng tác từ năm 1924, kể từ đó cho tới những năm 40 của thế kỷ trước, ông đã viết một số lượng lớn đáng kinh ngạc về đủ các thể tài, từ tản văn, thơ, kịch, tùy bút, chính luận, truyện ký, truyện dài, song chủ yếu là truyện vừa và ngắn. Đề tài trong truyện của ông có diện rất rộng, từ nông thôn xa xôi, hẻo lánh tới đô thị phồn hoa, nội dung tư tưởng cũng cực kỳ phong phú. Trong số đó, những truyện viết về cuộc sống và số phận của dân tộc thiểu số vùng biên khu giữa bốn tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu là giàu đặc sắc nghệ thuật nhất. Tiêu biểu trong số đó là truyện vừa Biên thành. Biên thành (Thành trên núi) làm nổi bật bi kịch của cái thiện. Khác hẳn với mẫu hình bi kịch huỷ diệt của cái vĩ đại và cái cao cả ở Phương Tây, xuất hiện trong truyện đều là những con người bình thường hiền lành, chất phác. Số phận của họ đúng như tác giả nói: “Mọi thứ đều tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch”. Nhà văn Nhật Bản Takashi Shizuka thì nhận xét: “Xem ra dưới giọng văn hết sức bình tĩnh, e rằng đã ẩn giấu sự phê phán và phản kháng sâu sắc - ít nhất cũng là sự chán ghét nền văn minh hiện đại, đó chính là chủ ý của tác phẩm”. Biên thành, cũng như nhiều tác phẩm khác của Thẩm Tùng Văn, từ lâu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, do đó được biết rộng rãi trong bạn đọc ngoài Trung Quốc. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên Biên thành được dịch. *** Ngày Tết Đoan ngọ, đàn bà con trẻ nơi đây đều mặc áo mới, trên góc trán dùng rượu ngâm hùng Hoàng[15] viết một chữ Vương. Bất kỳ người nào đến ngày này cũng được ăn cá, ăn thịt. Khoảng mười một giờ sáng, toàn thể dân Trà Đồng đều đã ăn cơm trưa; ăn xong, mọi nhà trong thành đều khoá trái cửa, cả nhà ra khỏi thành tới bờ sông xem chèo thuyền. Ai có người quen ở cửa phố bờ sông, có thể đứng bên cửa gác sàn mà xem, nếu không thì đứng ở cửa Cục thuế quan hoặc ra bến đò mà xem. Thuyền rồng trên sông lấy một chỗ nào đó làm điểm xuất phát, trước Cục thuế quan là đích, bởi vì ngày này các sĩ quan, nhân viên thu thuế và những người có địa vị ở địa phương đều đứng xem ở trước Cục thuế quan. Trước đó mấy ngày, mọi người đã chuẩn bị cho cuộc đua thuyền. Chia tổ, chia bang xong, nhóm nào nhóm nấy tự chọn ra những trai tráng lanh lợi và chắc khoẻ nhất, tập tiến thoái ở chỗ nước sâu. Hình thức của thuyền cũng khác với thuyền gỗ thường ngày, hình thể nhất loạt phải dài và hẹp, hai đầu ngỏng cao, thân thuyền vẽ những đường chỉ dài màu hồng và đỏ thắm. Thường ngày, những thuyền này được gác trong hang khô ráo bên sông, khi dùng đến mới kéo xuống nước. Mỗi thuyền có thể ngồi từ mười hai đến mười tám tay chèo, một người dẫn đầu, một tay trống và một người đánh thanh la. Mỗi người chèo cầm trong tay một mái chèo ngắn, theo nhịp trống nhanh hay chậm mà chèo thuyền về phía trước. Người dẫn đầu ngồi ở mũi thuyền, đầu bịt một vuông khăn đỏ, tay cầm hai ngọn cờ lệnh nhỏ vẫy sang trái hoặc phải, chỉ huy thuyền tiến hoặc lùi. Tay trống và tay thanh la phần nhiều ngồi ở giữa thuyền, thuyền vừa khởi động bèn tùng tùng cheng cheng gõ trống và đánh thanh la theo nhịp đơn thuần để điều tiết nhịp chèo của các tay chèo. Thuyền chèo nhanh hay chậm không thể không dựa vào nhịp trống, cho nên khi hai thuyền đua nhau găng nhất thì trống đánh dồn như tiếng sấm, lại thêm người xem đứng hai bên bờ hò reo trợ oai, khiến ai nấy đều nghĩ tới tiếng trống trong trận thuỷ chiến trên sông Lão Hạc của Lương Hồng Ngọc[16]. Hồi Ngưu Cao[17] bắt sống Dương Ma trên sông cũng trong trận thủy chiến có trống đánh cầm trịch. Thuyền nào về trước một chút đều được lĩnh thưởng ở trước Cục thuế quan; một tấm lụa đỏ, một tấm ngân bài, bất kể treo hoặc chít trên đầu một người nào đó trên thuyền đều nói lên vinh dự nhờ cả thuyền biết hợp tác. Mỗi khi có thuyền về trước đều có một anh lính rách việc nào đó đứng bên bờ nước đốt một tràng pháo Ngũ bách hưởng để mừng thắng lợi. Đua thuyền xong, ngài Trưởng doanh lính thú trong thành muốn vui cùng dân chúng, tăng thêm niềm phấn khởi trong ngày Tết bèn cho thả xuống sông loài vịt đực lớn con, cổ dài, lông đầu xanh mướt, cổ buộc dải lụa đỏ, quân dân người nào bơi giỏi thì xuống sông đuổi vịt. Bất kể ai bắt được vịt thì vịt là của người ấy. Thế là một trò vui mới được thay đổi trên sông, trên mặt sông đâu đâu cũng là vịt, đâu đâu cũng có người bơi đuổi theo vịt. Cuộc đua tranh giữa thuyền và thuyền, giữa người và vịt kéo dài đến tối mới kết thúc. Ông quản bến - Long đầu đại ca Thuận Thuận, hồi trẻ là tay bơi lội cực giỏi, đã xuống sông đuổi vịt thì dù có thế nào cũng không chịu trở về tay không. Nhưng khi con trai thứ của ông là Na Tống ngoài mười hai tuổi đã biết xuống sông, lặn một hơi đến bên con vịt rồi bỗng chồm người từ dưới nước nhô lên tóm ngay lấy vịt thì người làm cha bèn nói như chữa thẹn. - Hay lắm, việc này đã có các con làm, cha bất tất phải xuống sông nữa! ... Mời các bạn đón đọc Biên Thành của tác giả Thẩm Tùng Văn.
Bản Đàn Thôn Dã - André Gide
La Symphonie Pastorale của tác giả André Gide có nhiều bản dịch tiếng Việt, trong đó bản dịch của Mai Kim Ngọc lấy tên Bản Đàn Thôn Dã, bản dịch của Ðoàn Văn Khanh lấy tên Khúc Nhạc Đồng Quê, còn một bản dịch nữa của Bùi Giáng thì có tên là Hòa Âm Điền Dã. Cuốn sách nào của Gide cũng mang chất hàm hỗn dị thường, là khởi từ duyên cớ đó. Dịch Gide thật là một điều đáng ngại. Ông trích dẫn lơ thơ một câu trong Kinh Thánh, một câu của Saint Paul - nhưng ông "rút một dây" mà chấn động cả một rừng... *** Đã ba hôm nay tuyết rơi không ngớt cơn, đường sá hoàn toàn bế tắc. Tôi không đi tỉnh R. làm lễ như thông lệ một tháng hai lần đã mười lăm năm qua. Sáng nay tại nhà thờ Breville chỉ có ba chục tín đồ tới. Nhân dịp rảnh rỗi bất đắc dĩ vì không ra được khỏi nhà, tôi ngồi ôn lại từ đầu sự việc đã xui khiến tôi đón Gertrude về nuôi. Tôi đã dự định viết ra đây từng bước nhỏ sự phát triển của tâm hồn ngoan đạo này mà tôi đã mang từ bóng đêm u tối ra như với mục đích duy nhất để tôn quý và yêu thương. Cám ơn Thượng Đế đã giao phó cho tôi nhiệm vụ. Câu chuyện khởi đầu đã đúng hai năm sáu tháng. Hôm đó tôi đi Chaux-de-Fonds về, có con bé lạ mặt vội vã tới tìm tôi để dẫn đi thăm một bà cụ sắp chết cách đấy bẩy cây số. Xe còn thắng ngựa, tôi bảo con bé lên ngồi sau khi với cây đèn bão mang theo, e rằng chắc phải đến đêm mới xong việc. Tôi vẫn tự cho là mình thông thạo vùng này, vậy mà vừa quá khúc rẽ sau sơn trại Saudraie, con bé chỉ cho tôi một con đường ngang tôi chưa từng phiêu lưu rẽ vào. Tuy nhiên quá đó hai cây số, phía tay trái, tôi nhận ra một cái hồ có phong cảnh huyền bí mà hồi nhỏ tôi đã đôi lần tới trượt băng. Khoảng mười lăm năm nay đã không trở lại vì không có mục vụ nào ở đây. Có ai hỏi có lẽ tôi cũng không còn biết hồ ở đâu, lại cũng không nghĩ đến nữa nên chi khi bất thần thấy hồ sáng chói trong ráng chiều huy hoàng tôi tưởng như thấy lại cảnh cũ từ một giấc mơ. Con đường chạy dọc theo con sông nhỏ một quãng, để cắt ngang cuối rừng và men theo một bãi đầm lầy. Chỗ này thì chắc chắn là tôi chưa bao giờ đặt chân tới. Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn đã một lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà tranh tưởng như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu xanh trong bóng râm chuyển thành màu vàng óng của nắng chiều. Tôi buộc ngựa vào cây táo gần nhà rồi theo chân con bé bước vào một căn phòng tối, nơi bà cụ vừa mãn phần. Tôi sững người vì quang cảnh trang trọng, cũng như sự tĩnh lặng, và vẻ trang nghiêm của giây phút. Có người đàn bà dáng còn trẻ đang quỳ bên giường. Con bé người làm mà tôi đã tưởng là cháu bà cụ bước tới cuối phòng châm ngọn đèn khói um, rồi lặng lẽ tới đứng bên giường. Trên đường tới đây, tôi đã gợi con bé mà chỉ được trả lời vài câu vắn tắt. Người đàn bà quỳ bây giờ đứng dậy. Bà không phải người nhà như tôi đoán, mà chỉ là chỗ hàng xóm tốt bụng, bạn vớì bà cụ, khi được báo tin là bà cụ sắp đi đã sốt sắng sang giúp đỡ và tình nguyện ở lại canh thi hài. Bà bảo bà cụ đi nhẹ nhàng không đau đớn gì. Chúng tôi bàn tính về tang lễ cho người mãn phần. Trong miền đất hẻo lánh này, nhiều lần tôi đã phải tự tay cắt đặt mọi chuyện cho tang gia. Tôi thoáng thấy không yên tâm vì phải giao phó căn nhà dù nghèo hèn này cho người hàng xóm và con bé người làm. Đây chỉ là mái tranh xơ xác, nhưng biết đâu lại chẳng có bảo vật cất giấu trong xó xỉnh nào. Lo vậy, nhưng thật ra tôi cũng không làm gì hơn được. Tôi hỏi xem ai là người thừa kế. Bà hàng xóm bấy giờ cầm cây nến bước tới góc nhà, và tôi nhận ra lờ mờ có người ngồi xổm bên bếp lửa, mớ tóc dày che hết khuôn mặt. Bà giải thích: “Tôi nghe đứa ở kể thì con bé mù này là cháu bà cụ; hình như gia đình chỉ có vậy, vỏn vẹn hai bà cháu. Chắc rồi phải đưa nó đi cô nhi viện thôi. Nếu không, biết ai trông nó bây giờ.” Tôi lúng túng thấy bà lớn tiếng bàn bạc về số phận con bé ngay trước mặt nó, sợ những lời sống sượng làm nó buồn lòng. Tôi nhỏ nhẹ nhắc khéo bà nên có chút tế nhị: ... Mời các bạn đón đọc Bản Đàn Thôn Dã của tác giả André Gide.