Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Em Sinh Đôi

Có anh em trai thật lắm chuyện! Tôi không hiểu tại sao các em bé tí xíu thật dễ thương lại lớn lên làm con trai làm gì. À! Mà giá có làm con trai thì cùng không đến nỗi tệ hại lắm, nhưng có nhiều lúc tôi cứ không hiểu tại sao những trẻ nít dễ thương lại thành các anh em trai nhiều chuyện. Nói thật với các bạn chứ tôi lại cảm thấy vui thích vì trên đời này có mặt con trai, nhất là loại con trai như Trần Quốc Danh. Anh ấy thật là thiệt hay, dễ thương vô cùng. Tiếc thay Tuấn, em của tôi thì không được như vậy, nó không như anh Trần Quốc Danh chút nào. Tuy vậy, cô bạn của tôi là Trần Mộng Thu lại cho rằng thằng Tuấn thật dễ thương, nhưng dĩ nhiên tôi nghĩ khác. Có lẽ thằng Tuấn hay kiếm chuyện làm tôi bực mình. Cũng có thể vì tôi chưa hết lòng quí trọng đứa em sinh đôi của tôi. Nhưng thật ra Tuấn khôi hài lắm. Không phải lối khôi hài làm mình cười được đâu, nó có kiểu khôi hài khác kỳ cục lắm kìa. Có lúc nó cười cợt vẻ chế nhạo bất cứ việc gì tôi làm, rồi sau đó nó lại nhờ tôi giữ bí mật dùm một chuyện gì cho nó. Sáng Chủ nhật tuần trước, nó đã có một dịp cười nhạo tôi nữa. Lần đó, sao mà nó cười thỏa thích thế, còn tôi tức muốn phát khóc lên được. Chuyện xảy ra bắt đầu từ hôm thứ bảy cơ. Số là các bạn gái trong lớp học của tôi đã bắt chước nhau cái mốt đi giày cao gót và quần dài phét đất, vì thế tôi mới xin Bố Mẹ sắm cho tôi một đôi giày cao gót. Lúc tôi nêu vấn đề này ra, Bố Mẹ đã trả lời bằng một mẫu câu như thường lệ: "Để Bố Mẹ nghĩ xem đã". Nghe câu trả lời, tôi biết ngay là còn lâu tôi mới có giày cao gót mà đi. Tôi đã từng kinh nghiệm rằng, mỗi khi Bố Mẹ trả lời như vậy: "Để Bố Mẹ nghĩ xem đã", thì thật sự Bố Mẹ muốn nói rằng: "Cứ để từ từ, không có gì phải vội vã". Ít ra, tôi cũng đoán được ý nghĩa câu nói của Bố Mẹ là như vậy. Nhưng cuối cùng, đến ngày thứ Bảy tuần rồi, là ngày tôi được dẫn đi mua đôi giày cao gót. Tôi không biết rõ chuyện, nhưng có lẽ Bố Mẹ thấy tôi đã đề cập đến vấn đề này từ lâu, nên Bố Mẹ không muốn để từ từ nữa. Vì vậy, hôm đó Bố đã dẫn tôi đi ra phố. Khi đến tiệm giầy, tôi nhìn chăm chăm vào tủ kính rồi chỉ cho Bố thấy đôi giày mà tôi rất thích. - Ủa, con thích đôi giày này thật à? - Bố nói với một giọng đầy ngạc nhiên - Gót giày cao quá mà. Tôi mở tròn to đôi mắt và cười thật tươi, rồi uốn giọng: - Thưa Bố, vâng ạ. Bố hơi cau mày làm như bố sợ bị lãng trí hay sao ấy. Bằng một giọng nghiêm nghị, bố nói: - Không hiểu làm sao có người đi được loại giày cao như đi cà kheo vậy. Chắc phải khó chịu lắm. Ồ, có thể Bố không hiểu tại sao người ta mang loại giày đó làm gì, nhưng riêng tôi, cứ muốn có một đôi như vậy để đi. Tôi hình dung ra những đôi mắt chứa đựng ghen tuông của mấy cô bạn trong lớp học với tôi. Cứ nghĩ đến lúc tôi có được đôi giày cao nhất, hơn hẳn những đôi giày của họ. Thích biết bao! Lúc Bố dắt tôi vào trong tiệm, người bán hàng đưa chúng tôi lại ghế ngồi. Rồi ông bán hàng hỏi tôi muối loại giày như thế nào. - Loại giày để đi phố, mang với áo dài. Tôi trả lời ông ấy minh bạch như vậy, làm ra vẻ như mình đã từng quen thuộc với việc đã mua giày lắm rồi. Nhưng khi người bán hàng đem một lô giày ra, thì Bố tôi chỉ lo chọn những đôi giày kiểu cổ lổ sĩ, gót thấp lè tè. Tôi thầm nghĩ có lẽ mình nói chưa rõ nên ông bán hàng không hiểu chăng. Tôi đâu có muốn mua những đôi giày đế thấp như vậy! Tôi chỉ thích những đôi giày thật cao kia mà. Cuối cùng, ông bán hàng cũng đã mang ra một đôi giày mà tôi thật ưng ý. Khi ông ta thử giày vào chân tôi, tôi đã suýty chút nữa kêu lên "úi da". Sao nó nhọn bó lại ở phía trước và đâm vào ngón chân tôi đau quá. Nhưng sau đó nó lọt gọn vào gót chân tôi. Ôi! Trông tuyệt đẹp! Tôi muốn mua đôi giày này ngay lập tức. Ônb bán hàng đề nghị: - Sao em không thử xem có đi nổi không? Tôi hơi cau mày nhìn ông ta. Việc gì ông ta phải nói: "Thử xem có đi nổi không?" Bộ ông ta không nói được rằng: "Cô thử đi đi lại lại trong phòng thử xem sao?". Tôi không biết ông ta có hiểu rằng đây là đôi giày cao gót đầu tiên mà tôi mang hay không, nhưng qua cách cư xử của ông, chắc ông biết như vậy. Tôi đứng lên, và cảm thấy loạng choạng trân sàn nhà, như muốn nghiêng đằng trước, ngả đằng sau. Ông ta hỏi tôi: - Em thấy thế nào? - Ồ, được lắm. Tôi nói nhưng có lẽ hơi ngập ngừng. Có lẽ đôi giày không thật sự "được vừa vặn cho lắm", nhưng cũng tạm gọi là được đi. Trong khi đứng ngắm mình trong gương, tôi tưởng như có thể thấy được vé mặt và ý nghĩ của các cậu con trai khi họ thấy tôi mang đôi gìay cao gót kiểu mới này. Tư tưởng đó làm tôi nôn nao, khó có thể chờ đến Chủ nhật, dù chỉ mai này là tới. Khi tôi trở lại chỗ ngồi, Bố tôi hỏi đi hỏi lại: - Có chắc thật là con thích đôi giày này không? Không biết lý do tại sao Bố tôi không tưởng tượng được là có người là thích loại giày như vậy. - Thưa Bố, đôi giày này đúng là kiểu con ưa thích. Tôi biết mình phải nói một cách quá quyết như vầy, vì tôi chắc rằng Bố tôi không muốn mua kiêu giày như vầy. Dù sao Bố cũng là người chi tiền trong vụ này. Bố tôi hỏi: - Có vừa vặn không? Mới đầu Bố nhìn tôi rồi Bố nhìn lên ông bán hàng. Tôi đang định cam đoan với Bố rằng đôi giày vừa khít chân tôi thì ông bán hàng đã nói dùm tôi. Ông ấy đáp: - Thưa ông, đúng là số chân của cô bé đó ạ. Chắc cô bé phải bỏ ra một ít thời giờ để tập đi kiểu giày này, nhưng các cô gái mới lớn nào cũng phải trải qua giai đoạn đó. Tôi tức muốn chết, định cấu cho ông ấy một cái vì câu nói vô duyên của ông ấy. Trước tiên là ông ta không được nói: "phải trải qua giai đoạn đó" như kiểu mẹ tôi ở nhà vẫn nói; và sau nữa là ông ta làm như tôi không biết cách phải mang làm sao cho vững nữa. Nhưng lúc đó, ông bán hàng đã làm một việc đáng khen khiến tôi muốn tha thứ cho ông ấy ngay. Ông đã đem ra một đôi giày khác cao hơn đôi giày đang thử này khoảng một ngàn đồng. Đôi giày ấy cũng có gót cao như vậy và trông lại đẹp hơn đôi giày tôi mang thử nữa. Nhưng khi Bố tôi nhìn thấy giá tiền mắc hơn như vậy. Bố liền quyết định ngay rằng nên mua đôi giày tôi đang thử đó mà thôi. Lúc tôi thấy đôi giày đẹp và mắc hơn kia; tôi mừng quá định nắm tay ông bán hàng để tỏ lòng cám ơn ông ấy; nhưng vì ông ta là người lạ, nên tôi biết chắc Bố tôi không muốn tôi tỏ bày tình cảm thân mật như vậy. Vả lại, tôi cũng cảm thấy mắc cỡ nữa. Sau đó, Bố tôi lấy tiền để trả cho ông bán giày, rồi cha con tôi dắt nhau về nhà. Tôi mở ngay họp giày ra để khoe với Mẹ đôi giày mới. Chà, tôi cứ tưởng rằng cha tôi là người khó có thể thuyết phục được, nhưng bây giờ tôi mới thấy Mẹ tôi còn khó tính hơn nữa, và nếu Mẹ dắt tôi đi mua giày, thì chắc chắn còn rắc rối hơn nữa. Lúc nhìn thấy đôi giày, Mẹ tôi chẳng nói gì với tôi ngay, mà Mẹ chỉ nhìn Bố rồi nói như khiển trách Bố. Me hỏi: - Sao mình lại để cho con bé nó chợn kiểu giày như vậy nhỉ? Khổ quá, mình thử nhìn lại đôi gót cao như tháp kia kìa. Tôi ngắt lời Mẹ: - Con mà còn bé sao ạ? Lúc nào Mẹ cũng nói như vậy không à. Mẹ coi, con đã mười lăm tuổi rồi chứ còn bé bỏng gì nữa đâu ạ. Mẹ tôi cầm một chiếc giày lên, nhìn kỹ càng. Rồi Mẹ tôi lăng lặng bỏ vào hộp. - Sao Mẹ vẫn thấy gót giày gì mà kinh khủng thế. Mẹ tôi lắc đầu rồi quay vào bếp sửa soạn dọn bữa ăn. Mãi đến sáng Chủ nhật, tôi mới khám phá ra lý do tại sao người ta lại nói rằng các bé gái phải "học" cách đi đôi giày cao gót như thế nào. Mới đầu, khi lấy đôi giày mới ra để mang, tôi thấy dường như chân tôi to hơn lúc thử giày ở tiệm hôm qua, nếu không, sao nó lại chật kinh khủng thế này. Tôi cởi ra, xem lại bên trong coi số giày là bao nhiêu. Biết đâu người bán hàng đã để lầm đôi giày số nhỏ hơn vào hộp. Nhưng không, số giày vẫn y như đôi tôi đã thử hôm qua. - Ô, thảo nào - tôi kêu to lên, nhưng lại nhớ rằng đâu có ai ở đây mà nói chuyện với. Có lã bây giờ giầy chật hơn và bó vào chân tôi như vầy là vì tôi chưa mang thêm đôi vớ mỏng cho trơn tru hơn. Tôi nhớ lúc ở tiệm giày, người bán hàng có đưa cho tôi một miếng gì để lót vào chân cơ mà. Tôi nhảy vội lên, chạy lại ngăn kéo tủ, lôi ra được một đôi vớ. Xỏ vội đôi vớ vào chân rồi mang giày vào, tôi mới thấy đôi giày thật quá chặc. Tôi vặn vẹo bàn chân đẩy tới đẩy lui mãi, mệt cả hơi mới cho được đôi chân lọt vào giày. Lúc tôi nhìn xuống đôi chân seo tôi thấv "quê" quá chừng. Trông hình mình đang mặc bộ đồ nhăn nhúm, lại mang vớ với giày cao gót, kỳ cục ghê. Khi tôi thử đứng lên, tôi cảm thấy khó có thể bước đi được. Chao ôi, sao mà chật bó tay chân thế này! Tôi không biết hồi Mẹ còn trẻ như tôi, Mẹ có trải qua giai đoạn khó khăn như vậy khi mẹ mới bắt đầu mang giày cao gót không. Rồi tôi cừ thắc mắc không biết bây giờ Mẹ tôi có còn cảm thấy như vậy không, hay là lớn lên thì phụ nữ sẽ thấy quen dần với đôi giày cao gót. Nghĩ một lúc, tôi nhất định cho rằng, nếu bỏ vớ ra, tôi sẽ dễ chịu hơn. Vì vậy, tôi bèn ngồi lên giường, cởi bỏ đôi vớ nặng chình chịch đó ra, rồi xỏ giày vào chân lại. Lần này tôi cương quyết đi xuống dưới nhà để đánh răng, rửa mặt. Có lẽ như người bán hàng đã nói, tôi phai tập đi cho quen dần. Tôi mở cưa phòng rồi đi xuống dưới nhà. Thật ra, tôi nào có bước đi tự nhiên được, tôi loạng choạng từng bước mới xuống được tới nơi. Lúc bước vào phòng tắm, tôi thấy như mình bị say sóng, Trong chốc lát, tôi phải sẵn sàng công nhận rằng tôi chọn đôi giày quả có hơi cao. Suốt lúc tôi chải răng, tôi thấy dường như gót giày cứ nghiêng qua nghiêng lại. "Eo ôi" - tôi tự nhủ, rồi nhổ hết chất kem đánh răng trong miệng ra - "Đôi gót giày này sao lung lay dữ quá. Chắc phải đóng lại cho chặt mới được". Tôi tháo một bên giày ra rồi xem thử chiếc gót. Đâu có sao, nó vẫn chắc chắn như thường mà. Tôi cảm thấy e ngại khi phải trở lại phòng vì tôi sợ thằng Tuấn bắt gặp tôi, chắc chắn thế nào nó cũng cười nhạo tôi cho mà xem. Tôi mở cửa phòng tắm thật khẽ. Tôi mông cả nhà còn ngủ, nhưng chắc cũng có người thức rồi. Tôi bắt đầu bước lảo đảo từng bước cẩn thận để về phòng. Nhưng không tránh khỏi được thằng em. Nó đã nhìn thấy tôi. Kìa, nó đang đứng ở ngay trên lối đi, nhìn tôi cười nghiêng ngã, làm như nó được nghe một câu chuyện chọc cười hay nhất thế giới vậy. - Hay quá ta! - Nó vừa nói vừa cười ầm ĩ, rồi tiếp tục trêu chọc tôi - Hôm nay chắc phải là một ngày Chủ nhật đi bằng cà kheo đây mà. Em phải đi kiếm lại mấy cây cà kheo hồi năm ngoái mới được. Em cá với chị rằng thế nào em cũng đi nhanh hơn là chị di bằng đôi giày cao "quê" như vậy đó. Tôi cố tìm một câu gì để quật lại cái thằng Tuấn này, nhưng nó cứ liến thoắng cái miệng. - Không biết bố có chịu đi bằng cà kheo không. Cha cha, Bố mà đi như vậy chắc cao lêu khêu, nổi bật cho mà coi. Càng nghe thằng Tuấn nói, tôi càng bực tức. Đó mà, tôi nói có sai đâu. Tuấn nó cứ trêu chọc tôi hoài, làm gì nó cũng phá được, nếu không như vệy, thì chị em tôi đã chơi hợp với nhau quá rồi. Nhưng phần lớn, nó cứ kiếm chuyện trêu chọc tôi. Tôi ráng bước loạng choạng cho thật mau tới phòng, ráng bước với đôi giày mời đó. Rồi đóng ngay cửa lại. Thật ra là tôi đã đóng một cái ầm. Tôi chợt nhớ đã có lần tôi bị phạt vì đóng cửa mạnh như vậy, nên lần này tôi liền hé cửa ra độ một phân, như tỏ vẻ xin lỗi, rồi mới dám đóng cửa lại. Dĩ nhiên lần này tôi đóng thật nhẹ nhàng. Tôi ngồi thật lâu bên giường để chờ đợi. Phải chi Tuấn đi xuống nhà dưới rồi, để tôi có thể ra ngoài tập đi cho quen với đôi giày mới. Tôi chắc rằng mình sẽ đi thạo nếu có dịp đi qua lại thử trong vài phút. Nhưng tôi biết ngay rằng tôi mà mở cửa đi ra, thì Tuấn cũng thế nào ở đó nhìn tôi chằm chặp cho mà xem. Rồi chắc chắn tôi sẽ bị bối rối và luống cuống đến nỗi đi có thể té dập mặt xuống sàn mất. Tôi đảo mắt nhìn quanh phòng. Phải chi cái giường không chắn nhiều lối đi, chắc tôi có thể tập đi quanh phòng để quen dần với cảm giác đi bằng đôi giày cao, quả thật cao lênh khênh như cà kheo vậy. Tôi sẽ không bao giờ nói cho Tuấn biết như vậy đâu, nhưng chính lúc này tôi thật có cảm tưởng như mình đang cà kheo vậy. Tôi nhớ lại hồi hà na8nm ngoái, tôi có dịp đi đôi cà kheo của Tuấn; đi cà kheo mà dễ thăng bằng hơn đôi giày cao gót này nhiều, vì ít ra cà kheo còn có chỗ cho mình vịn tay vào. Thế mà đôi giày oái oăm này. Chao ơi, mang nó vào bạn sẽ có cảm tưởng như bị treo lơ lửng trên không. Giá mà tôi được buột vào một chiếc dù hay một vật gì khác để biết chắc rằng mình sẽ đặt chân an toàn trên mặt đất thì đỡ cho tôi biết bao. Nhưng tôi chẳng có vật gì cả, ngay dù đó là một chiếc gối êm mà ngày xưa tôi hay dùng để kê lúc tập lộn đi lộn lại. Tôi đi tới tủ kính, nhìn vào tấm gương soi để thấy đôi chân đau ê ẩm của tôi. Trông thật kỳ cục làm sao. Nhưng có lẽ tôi tôi mang giày cao gót mà lại mặc đồ ngủ nên trông mới kỳ như vậy, chứ có ai ăn mặc như thế bao giờ. Khi cởi bỏ đôi giày ra khỏi chân, tôi lấy một chiếc khăn sạch lau cho thật bóng. Rồi tôi lấy giấy gói riêng từng chiếc một, rồi cất vào trong hộp đựng gìay còn nằm trên giường, giữa đống chăn màn chưa xếp dọn. Bây giờ nhìn đôi giày, tôi thấy nó kỳ khôi làm sao, nhưng lạ thật, lúc nó nằm trong tu kính ở cửa hàng thì trông đẹp tuyệt. Đem để vào hộp giày thấy cũng không đến nỗi nào, vậy mà, ui cha, lúc đi vào chân mới đau kinh khủng. Suýt chút nữa, tôi đã nhất định sẽ mang đôi giày có gót thấp lè tè để đi nhà thờ sáng Chủ nhật này. Nhưng tôi biết nếu tôi làm như vậy; Bố tôi sẽ không tha tôi về tội đã bắt Bố tôi đã trả nhiều tiền để mua cho tôi được đôi giày mới cao gót kia. Trong lúc này không phài là lúc tôi nên làm Bố Mẹ bực mình vì tôi, lý do là tại tôi có một điều muốn xin Bố Mẹ tôi. Từ buổi tan học chiều Thứ Sáu, tôi đã lần lữa về chuyện này, chưa dám đem ra hỏi Bố Mẹ. Vậy mà mấy cô bạn cứ giục tôi phai trả lời cho họ biết sớm. Chao ơi, tôi thật mong muốn được cùng đi với họ. Số là Kiều và Thu định rủ tôi tới Phú Lâm trong mấy ngày nghỉ cuối tuần. Ở Phú Lâm, ba má Kiều có một căn nhà để không nên họ cho phép chúng tôi đen ở chơi trong ba ngày thứ Sáu, Thứ Bảy và Chủ nhật tuần sau. Chúng tôi muốn đi xe đạp tới đó và chỉ chỉ ba đứa tụi tôi ở trong căn nhà đó mà thôi, Kiều cho biết là có một khu phố ở gần nhà, chúng tôi có thể ra đó mua sắm đồ đạc, thức ăn và những thứ cần thiết. Bố Mẹ cứ coi Tuấn và tôi như những đứa con nít. Ít ra, Bố Mẹ đã làm cho chúng tôi có cảm tưởng như vậy. Vì mỗi lần Bố Mẹ phảii đi đâu có việc vào buổi tối, Bố Mẹ luôn luôn nhờ một bà nào tới ở coi chúng tôi. Trong khi đó chúng tôi vẫn cho rằng mình đã đủ khôn lớn để ở nhà một mình, không cần ai coi giữ như vậy, nhất là chúng tôi thấy mấy đứa cùng tuổi với chúng tôi đã thường ở nhà một mình lúc cha mẹ họ có việc đi khỏi. Vì thế nên tôi thấy thật khó để xin phép Bố Mẹ cho đi chơi cuối tuần ở Phú Lâm với hai cô bạn. Tôi biết thế nào Mẹ tôi cũng tưởng tượng ra hàng trăm điều rắc rối và cứ lo nghĩ mãi về việc tôi không thể làm gì cho chính tôi được. Đầu đuôi là như vậy đó các bạn ạ. Đó là lý do khiến tôi không muốn làm cho Bố Mẹ phai bực mình về chuyện đôi giày mới này của tôi. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ một điều quan trong. Đi đôi giày cao gót mới như vậy thì tôi phải có một cái quần dài để mặc cho nó đi đôi với nhau chứ. Ai lại mang giày cao gót mà mặc cái quần ngắn tới mắt cá như mấy cái quần cũ mà tôi vần mặc khi đi dép, trông sao được. Chắc chắn là không ai coi được rồi. Tôi bèn mở cửa phòng nói vọng sang phòng Mẹ: - Mẹ ơi, con mặc cái gì bây giờ? Tôi cho rằng Mẹ đoán được điều tôi đang nghĩ. Nhưng Mẹ tôi trả lời ngay, làm như không có chuyện gì rắc rối cả: - Ơ kìa, thì con cứ mặc chiếc ào dài để dành đi nhà thờ chứ sao nữa. Tôi nói rõ hơn: - Không phải ạ, con muốn nói là mặc gì để đi đôi với giày cao gót kìa. Bố nói ngay: - Con mặc cái quần nào dài dài một chút. Chứ còn muốn mặc gì nữa? May mà người nói câu đó là Bố, chứ nếu Tuấn nói như vậy, thế nào tôi cũng chun cái mũi lại, nói một câu gì cho bõ ghét. Nhưng đối với Bố thì tôi đâu dám. Có lần tôi cũng đã lỡ làm kiểu đó, Bố liền có biện pháp kỷ luật với tôi ngay. Mà biện pháp kỷ luật của Bố nghĩa là bóp tai hoặc bắt tôi nằm sắp xuống giường, "phết" cho mấy roi vào mông. Một lát, Mẹ tôi bước vào, tay cầm chiếc quần dài của mẹ đưa cho tôi. Tôi cầm ngay lấy, ướm thử vào người. Chu cha ơi, quần gì mà dài quá thế này, trông buồn cười ghê. Chắc không làm sao vừa với tôi được. Mẹ bảo: - Đó, con mặc tạm cái quần của mẹ đi. Tôi kêu lên: - Thôi Mẹ ơi! Quần của Mẹ dài quà chừng, con phải kéo lên tới ngực sao. Mẹ ngắt lời tôi: - Làm gì mà dài tới ngực được, chỉ hơi dài một chút thôi. Tôi chống chế: - Nhưng mẹ ạ, con không mặc vừa đâu. Mẹ tôi nghiêm giọng: - Vậy con định làm sao? Tôi nhìn lên Mẹ. Tôi thấy mẹ có vẻ giận. Mà mẹ tôi có lý thật. Bây giờ tôi không có quần dài để mặc đi với với đôi giày cào gót, nên tôi muốn đi giày mới, thì phải mặc đỡ quần của mẹ chứ sao. Nghĩ vậy tôi liền xỏ thử quần mẹ vào. Mẹ tôi căn dặn kỹ càng: - Con phải cẩn thận đấy, đừng làm rách cái đường viền ren của mẹ, nếu không thì… Mẹ tôi bỏ lửng câu nói. Tôi biết mẹ rất ghét thấy đườg ren viền ống quần bị sứt. Nhớ một lần nọ, lúc đang ngồi trong nhà thờ, tôi thấy có một mối chỉ tua ra ờ gấu quần viền ren của mẹ, cái quần sa tanh mẹ vừa mới may. Tôi liền ngồi xuống đất, kéo sợi chỉ ra. Tôi càng kéo, chỉ càng tuột ra. Thình lình, mẹ tôi cúi xuống, nhìn thấy tôi đang kéo sút đường may ra, khiến cả nửa ống quần tuột khỏi đường viền ren. Mẹ tôi bối rối và ngượng chín cả người. Dĩ nhiên lúc về nhà, tôi bị một trận đòn nên thân. Khi nghĩ lại buổi hôm đó, tôi đã định rằng sẽ không bao giờ mặc quan dài viền ren cả, nhất là quần như của Mẹ. Vậy mà bây giờ tôi lại "vi phạm" cả hai điều đó; đã thế còn phải làm bộ như mình rất vui thích được mặc chiếc quần dài của Mẹ. Mẹ vừa ra khỏi phòng thì tôi cũng vừa mặc xong chiếc quần dài kinh khủng này. Lớp sa tanh mềm mại và bóng láng thật đẹp nhưng cái quần không vừa vặn với tôi chút nào. Chỗ thì lùng bùng rộng phình ra, chỗ lại xếp thành nhiều "banh", dồn về một phía. Tôi thấy mình ăn mặc như một người nhà quê mới ra tỉnh. Phải chi tôi đừng có quá nài nỉ xin Bố Mẹ sắm giày cao gót cho bằng được như vậy, thì chắc bây giờ tôi đỡ bị rắc rối biết bao. Nhưng lỡ rồi. Lúc tôi đang còn cố sửa đi sửa lại chiếc quần cho dễ coi hơn, thì Bố đã gọi xuồng ăn sáng ngay cho kịp giờ. Tôi vội diện thêm chiếc áo dài vào rồi ráng xỏ chân vào đôi giày mới tinh, cao như cái thang đó. Tôi phải cố làm bộ như đôi giày mang vô làm tôi dễ chịu lắm, và tôi rất vui thích được có đôi giày mới kinh khủng này. Nhưng thật ra, sâu tận trong tâm khảm tôi, tôi chẳng thích thú chút nào. Tôi nhìn khá lâu vào đôi giày cũ thấp gót của tôi trên sàn nhà một lần nữa, rồi mở cửa đi xuống nhà ăn sáng. Khi nhìn chiếc cầu thang dẫn xuống nhà dưới, tôi tưởng mình không thể nào đi hết được. Làm sao đi nổi hết mấy bậc thang đó với đôi giày cao gót này! Nhưng tôi biết rõ rằng mình phải cẩn thận từng bước một. Nếu không, tôi dám bị té lộn đầu xuống trước cho mà xem. Vì thế tôi ráng nắm chặt vào tay vịn cho chắc ăn. Chợt có tiếng Tuấn vang lên: - Đôi giày cao gót mới coi điệu quá ta! Vừa nói nó vừa cười khúc khích. Tôi cắt ngang: - Thôi mà, nói hoài. Nhưng rồi tôi lại thấy nó đâu có lỗi gì trong chuyện đàn bà con gái của tôi, dù sao, làm thân con trai như nó cũng sướng. Tôi nói tiếp để bào chữa cho mình: - Đôi giày mới này hơi trơn một chút, nhưng kiểu mới là như vậy. Tuấn vẫn cười, nói thêm: - Dĩ nhiên rồi. Nói xong nó quay vào bếp. Tôi mừng thầm. Ít ra tôi cũng có thể thong thả đi một mình hết các bậc thang còn lại, mà không ngượng ngập lo nó nhìn theo. Cuối cùng tôi cũng đi được vào tới bếp một cách an toàn và với một vẻ cố làm ra tự nhiên. Bố nhìn tôi bằng cặp mắt to vẻ bỡ ngỡ. Bố đứng lên khỏi bàn ăn, kéo ghế cho tôi ngồi làm như tôi là một người khách hay là một người nào quan trọng lắm vậy. Bố nói: - Chà, người thiếu nữ duyên dáng này là ai vậy nhỉ? - Đó là chị Thảo yểu điệu của con đấy, Bố ạ. Tuấn tía lia cái miệng, không để tôi kịp mỉm cười duyên với bố vì câu nói rất lịch sự của Bố. Rồi Tuấn lại nói luôn: - Trông chị Thảo nổi bật hẳn lên, bố nhỉ. Có lẽ chị ấy cao hơn Chủ nhật tuần trước cả một tác nữa đấy. Tôi chỉ muốn nói móc lại Tuấn một câu gì cho ra hồn, nhưng chắc thế nào Bố Mẹ cũng không bằng lòng kiểu đó. Nghĩ vậy, tôi đành cố nở một nụ cười với Tuấn. Nhưng chao ơi, nụ cười giả tạo đó méo xẹo làm sao. Trông nó dễ ghét quá chừng, tôi chẳng muốn gì khác hơn là tìm cách gì thật tệ để tra thù cho nó cho bõ ghét. Tôi vừa miên man nghĩ đến một biện pháp thật xấu để đương đầu với Tuấn, thì Bố đã mở Kinh thánh ra và bắt đầu đọc. Tôi đoán là Bố còn đọc nhiều hơn nữa, nhưng tôi nghe rõ và nhớ dược chừng đó. Như vậy, tôi không được quyền ghét giận Tuấn. Nếu tôi có bị khó chịu, tức mình thì cũng không hẳn là lỗi của nó gây ra. Suốt thời gian Tuấn cầu nguyện, tôi đâm ra lo sợ; vì trong gia đình tôi, chúng tôi cầu nguyện cho mọi điều. Vâng, đúng là chuyện gì cũng được chúng tôi cầu nguyện cho. Vì vậy, nếu Tuần mà cầu nguyện xin cho tôi được vui thích và thoải mái trong đôi giày mới này, thì tôi chắc - Ồ, có lẽ chắc tôi ngượng đến chết mất. Mời các bạn đón đọc Đứa Em Sinh Đôi của tác giả Thùy Trang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bông Huệ Đỏ - Anatole France
“Một trong những tác phẩm viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Pháp”. Sự đánh giá ấy đối với cuốn tiểu thuyết Bông huệ đỏ đã có từ lâu, và gần như được công nhận hoàn toàn trong đông đảo người đọc, cũng như trong giới phê bình Pháp.   Hay nhất, không phải vì nội dung tác phẩm, số phận nhân vật và tình yêu của họ đã vượt ra ngoài tầm cỡ con người bình thường, mà trái lại, là một bước dấn sâu hơn vào thế giới nội tâm phong phú phức tạp của những con người bình thường. Ba người ấy, nàng Thérèse diễm lệ và đa tình, chàng Le Ménil, rồi chàng Decharre, hoàn toàn không phải là những “siêu nhân”. Họ trần tục như hết thảy những người trần tục nhất. Họ đến với nhau, hòa quyện vào nhau, thiêu đốt nhau trong ngọn lửa đắm say cực kỳ mãnh liệt, để rồi cùng chính lúc ấy, họ gieo mầm khổ ải cho nhau bởi sự ham hố bất tận, tính ích kỷ và sự ghen tuông. Tình yêu là hạnh phúc, nhưng tình yêu cũng là khổ đau? Hạnh phúc trong khổ đau? Hay khổ đau trong hạnh phúc? Con người không phải không luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như vậy. Nhưng kết cục con người vẫn không thoát khỏi nỗi đam mê mà tấm lưới tình yêu đã giăng sẵn để đón chờ họ.   Bông huệ đỏ được viết sau hàng loạt các tác phẩm lừng danh của Anatole France, ghi nhận một bước chuyển khá quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Nếu như trong các tiểu thuyết Ðảo chim cụt, Thiên thần nổi loạn, Thais, v. v.., nhân vật của ông là những trí thức khép kín, mang nỗi đau khổ âm thầm của thời đại, thì trái lại, trong Bông huệ đỏ, Thérèse, Le Ménil, Decharre… đều bình thường, gần gũi. Có người cho rằng đó là sự phản ánh một phần tâm trạng thực của tác giả qua mối tình “hạnh phúc và đau khổ” của ông với bà Caillavel, người phụ nữ trí thức nổi tiếng thời bấy giờ.   NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ  ***   Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. *** Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.  - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.  - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.  - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:   + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)  + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)  + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)  + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)  - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.    Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972  - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.  - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.  - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.  - Thais- Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.  - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987.   Mời các bạn đón đọc Bông Huệ Đỏ của tác giả Anatole France.
Người Đưa Đường Thọt Chân - Bùi Việt Sỹ
Câu chuyên của cuốn sách dài 300 trang chỉ xoay quanh bản kê khai hải quan và chỉ diễn ra trong mấy giờ kiểm tra hàng hoá của một du học sinh Việt Nam sẽ gửi theo đường biển về nước. Thắng, vị tiến sĩ tân khoa là tuýp người điển hình cho cái thời gian khó ấy: Anh tháo vát, lanh lợi, chấp nhận hành xử hèn hèn để mưu cầu sự đổi đời cho mình và vợ con. Nhưng dù hoàn cảnh đã "uốn nắn" tính cách Thắng mềm đi đến mấy, Thắng vẫn còn hạt nhân lương tri và nó khiến anh day dứt khôn nguôi. Thắng khác hầu hết các nhân vật cùng loại, những chàng trọc phú hớn hở hợm hĩnh với mấy ngàn Dmak bồi thường không cả cần biết tới tương lai vô nghề nghiệp từng xuất hiện trên văn đàn thời đầu thập kỷ trước. Tiểu thuyết hấp dẫn chính nhờ tính cách hèn hèn nhưng vẫn đầy khát vọng cao sang của Thắng. Thắng mang hoa hồng đến làm thân với bà thiếu tá Hải quan Nga, chứ không mang tiền. Khi trả lời bà thiếu tá, đôi khi Thắng cũng nói dối cho qua chuyện, chẳng hạn với câu hỏi Mục đích đến Liên Xô, anh nghĩ rằng để đổi đời nhưng lại trả lời rằng để học tập; còn về cơ bản anh trả lời bằng các câu chuyện để qua nó làm mềm lòng người đàn bà thép với các câu hỏi tờ khai lạnh lùng. Để trả lời câu Từ đâu đến nước Nga và đã đến như thế nào? Thắng đã qua câu nói nổi tiếng của vợ một viên tướng trong phim Moscow không tin những giọt nước mắt: "Muốn có một vị tướng à? Thế thì trước hết hãy lấy một viên trung uý mới ra trường và theo hắn 15 năm hết các vùng biên cương này đến hải đảo xa xôi kia, cuối cùng còn phải chờ xem số phận có mỉm cười với mình không..." để kể lại hơn mười năm phấn đấu từ một học sinh xuất sắc, anh phải tham gia phục vụ chiến đấu trên mặt trận giao thông, lập nhiều công tích nhưng rồi vẫn phải hèn hèn làm thân với vợ chồng ông Viện trưởng, rồi lại phải mưu mẹo vượt qua các trò ma lanh khác để kiếm một suất sang đây. Để trả lời câu Mày làm gì ra mà nhiều tiền để mua nhiều hàng như thế, Thắng đã không đến nỗi nói rằng tôi sống bằng nước lã, nhưng anh cũng không dám nói toàn bộ sự thật về cuộc buôn bán chợ đen như một nền kinh tế thực sự hoạt động dưới cái vỏ của nó là nền kinh tế in giá cả lên hàng hoá nhưng mua xong bán lại thì vẫn kiếm lời từ chính nền kinh tế ấy. Những trang Thắng hồi tưởng về việc sản xuất áo lông thú giả cổ, việc bán nó và có thể đã bị lừa mất trắng, việc mua tủ đá chỉ dành bán cho những người có công huân... đã lột tả thật thê thảm hình ảnh một tiến sĩ học ở Liên Xô mà chỉ có hơn 70 từ tiếng Nga làm vốn và trả thi bằng những trò láu lỉnh được cho qua trong tinh thần hữu nghị, chiếu cố vì đất nước có chiến tranh... *** Chào một ngày tốt lành! Bà thiếu tá Hải quan Natalia vừa ngồi vào bàn, chuẩn bị cho một ngày làm việc mới, nghe thấy tiếng chào vội ngước mắt lên. Trước mắt bà là Thắng cùng với chàng thanh niên hôm ấy. Thắng vẫn ăn vận com lê lịch sự và trên tay vẫn có một bó hồng nhung đỏ tím, loại hoa quý và đắt tiền ở xứ lạnh. - Chào một ngày tốt lành! - Bà đáp lại và vội vã đứng lên. Đại uý Ivan, như lần trước, khoanh hay tay trước ngực, đứng tựa lưng vào cạnh bàn đối diện. - Thế nào, anh bạn trẻ thân mến của tôi! - Sau một chút xúc động, bà lấy lại được vẻ tự chủ và cất tiếng hỏi. - Cảm ơn bà! Mọi việc đều bình thường - Thắng mỉm cười, đáp vui vẻ tự tin. - Bình thường ư? - Bà hơi kéo dài giọng, cố ý nhấn mạnh câu trả lời của Thắng. Lạy chúa tôi. - Bà nói tiếp mà không làm dấu thánh. Còn về phần tôi thì thế này. Bà cân nhắc từng từ để nói tiếp. Tất cả hàng hoá của anh, tôi đã cho niêm phong và để vào góc kho. Đồng thời tôi cũng đã làm tờ trình, thỉnh thị ý kiến giải quyết của trên. Đó là tờ trình đầu tiên, sau hai mươi nhăm năm trong nghề của tôi. - ồ cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của bà! Giọng Thắng vẫn giữ được vẻ bình thản mà lịch sự. - Và tôi đã nhận được tờ phúc đáp như sau. Bà cúi xuống lục tìm trong một cặp hồ sơ. Và một phút sau, bà rút ra một tờ giấy cứng như một tờ bìa mầu trắng, trên đó có đánh máy các điều cần thực hiện. Rồi bà chậm rãi đọc: A. Chiếc Viđiô Sanyo người gửi hàng có thể đưa đến cửa hàng đồ cũ, ký gửi, sau đó mua lại. Khi đã có hoá đơn mua tại cửa hàng, khách gửi sẽ được làm thủ tục xuất theo luật lệ hiện hành. B. Về chiếc đàn Pianô của Italia, khách gửi phải làm đơn đưa lên Sở Văn hoá thành phố, Sở sẽ lập Hội đồng giám định xét duyệt xem có được cho xuất hay không? Chiểu theo quyết định đó, Hải quan cửa khẩu biển sẽ thi hành. ... Mời các bạn đón đọc Người Đưa Đường Thọt Chân của tác giả Bùi Việt Sỹ.
Đợi Bọn Mọi - J. M. Coetzee
Tác phẩm hiện lên qua lời kể ở ngôi thứ nhất của vị Quan tòa. Bối cảnh tác phẩm là thị trấn hẻo lánh nơi vùng biên giới xa xôi của một Đế Chế giả tưởng. Bao năm, Quan tòa luôn là người đầy tớ trung thành của Đế Chế. Lấy cớ có tin đồn về việc những thổ dân bên kia sông - những người bị gọi là "bọn mọi" - đang tìm cách tấn công thị trấn, đại tá Joll xuất hiện. Một cuộc bắt bớ người mọi đưa tới thị trấn diễn ra, sau đó là sự tra tấn dã man, vài người bị giết hại... Tận mắt chứng kiến cảnh những người tự cho là đại diện của văn minh và pháp luật tra tấn dã man người mọi, Quan tòa nảy sinh lòng xót thương những kẻ yếu thế mà trước nay ông vốn chẳng quan tâm. Khi giúp đưa cô gái mọi trở về với cộng đồng của cô, Quan tòa bị kết tội phản bội, và là "kẻ thù của Đế Chế". Từ đó, những khổ nạn của ông bắt đầu. Tác giả J.M. Coetzee không đặt tác phẩm của mình trong liên hệ trực tiếp đến một vùng đất, thời gian, con người hay sự kiện cụ thể nào. Tuy nhiên, độc giả sẽ tìm thấy sự trùng hợp giữa những chi tiết hư cấu trong tác phẩm và đời thực, cũng như suốt nhiều năm, tác phẩm được áp đặt và gán ghép vào nhiều bối cảnh không gian, thời gian và sự kiện khác nhau. Tác phẩm do đó giống một truyện ngụ ngôn, một cuốn sách có ý nghĩa ở mọi thời đại. Tác phẩm còn dễ khiến độc giả tin rằng đây là một cuốn tiểu thuyết dễ đọc vì sự "đơn giản" bề ngoài của nó: câu chuyện diễn ra trong một không gian hẹp, một khung thời gian không dài và số lượng nhân vật không nhiều và họ thậm chí không có một cái tên riêng. Nhưng Đợi bọn mọi sẽ là tác phẩm vương vấn trong tâm trí họ với những suy tưởng day dứt về cái thiện, cái ác, bản chất con người. Cuốn sách đặt ra những câu hỏi lớn về bản chất của văn minh. Đọc sách, độc giả không khỏi nghi hoặc: đâu mới thực sự là dã man? Liệu tự cho rằng mình văn minh có là văn minh khi cứ áp đặt thô bạo chuẩn mực của mình lên những người có cách sống khác, hoặc đối xử với họ như kẻ thù?  Báo The New York Times đánh giá về tiểu thuyết: "Với Đợi bọn mọi, từng trang sách, từng diễn biến của câu chuyện chính là những gì chúng ta mong đợi ở một cuốn tiểu thuyết về Đế quốc Mỹ trong những năm đầu của thế kỷ 20. Người ta yêu mến cuốn sách vì nghệ thuật sử dụng ngôn từ tài tình của J.M. Coetzee. Vừa khó nắm bắt, vừa dễ hiểu, rất đáng sợ, nhưng cũng thật quen thuộc, đó là điều đặc biệt làm nên sự cuốn hút của Đợi bọn mọi". Ra đời năm 1980, tên sách được Coetzee lấy ý từ bài thơ Chờ đợi bọn man rợ của nhà thơ Hy Lạp Constantine P. Cavafy. Đợi bọn mọi được lựa chọn vào danh sách Những cuốn sách của thế kỷ 20. Nhà soạn nhạc người Mỹ Philip Glass đã viết một vở opera cùng tên dựa theo nội dung cuốn sách.  *** Tác giả John Maxwell Coetzee sinh năm 1940 tại Nam Phi. Ông từng tham gia phong trào phản đối chiến tranh, làm giáo sư giảng dạy văn học. Coetzee bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1969 với tác phẩm Duskland. Danh tiếng của ông được khẳng định nhờ tác phẩm Life & time of Michael K. Những tổn thương do chủ nghĩa phân biệt chủng tộc gây ra là chủ đề xuyên suốt các tiểu thuyết. J.M. Coetzee nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá, như giải văn chương Nam Phi, giải CNA, hai lần đoạt giải Booker, và nhận giải Nobel năm 2003. Coetzee đã có những tác phẩm được xuất bản ở Việt Nam như: Người Chậm Tuổi Sắt Đá Giữa miền đất ấy, Cuộc đời và thời đại của Michael K, Ruồng bỏ Đợi bọn mọi Mời các bạn đón đọc Đợi Bọn Mọi của tác giả J. M. Coetzee.
Cọ Hoang - William Faulkner
W illiam Faulkner xuất bản Cọ hoang (The Wild Palms) vào năm 1939 khi danh tiếng của ông chưa có hào quang của giải Nobel văn chương bao trùm và cũng giống như Âm thanh và cuồng nộ, Nắng tháng Tám, Thánh địa tội ác, Bọn đạo chích, tác phẩm này một lần nữa khẳng định rằng người viết ra nó là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của thế kỷ XX. Với tác phẩm này, Faulkner trở nên độc đáo ngay trong cách ông kể hai chứ không phải một câu chuyện trong cùng một tiểu thuyết, hai câu chuyện riêng rẽ nhưng lại đan xen, tưởng như không liên quan mà lại soi rọi lẫn nhau một cách kín đáo và tinh tế. Đọc xong một chương, độc giả tạm dừng khám phá câu chuyện này để đến với câu chuyện kia, nhưng thật thú vị, mạch của hai câu chuyện vẫn được giữ xuyên suốt và song hành trong sự liên tưởng thầm kín. Một câu chuyện kể về cặp tình nhân lao vào cơn mê cuồng của tình yêu bất chính mà theo như người trong cuộc “chẳng phải vì lý tưởng đầy đam mê của hai kẻ bị nguyền rủa, đầy đọa, bị thế giới và Thượng Đế xa lánh đã lôi cuốn họ mà vì ý niệm về tình yêu bất chính là một thách thức đối với họ, bởi họ có một niềm khao khát không thể cưỡng lại được (và một niềm tin không gì lay chuyển nổi là họ có thể vượt qua thách thức ấy, giống như ai đó tin rằng mình có thể quản lý một nhà trọ vậy), niềm khao khát chấp nhận tình yêu bất chính và biến nó thành tình yêu chân chính” để rồi chấp nhận một kết thúc nghiệt ngã. Câu chuyện còn lại kể về một tù nhân vật lộn trong cơn lũ lụt với “hệ thống cơ bắp phải làm việc liên tục trong nhiều giờ liền… không tuân theo ý chí mà tuân theo sự suy hao vượt trên cả sự kiệt sức đơn thuần, gần như mê dại, như bị thôi miên, tiếp tục hoạt động dễ hơn là dừng lại” để bảo toàn mạng sống cho một người đàn bà mang thai mà anh ta được sai đi cứu để rồi phải chịu cảnh tù đày thêm mười năm. Với hai câu chuyện đều là bi kịch, Faulkner đã thật tài tình, táo bạo trong cách miêu tả cá tính nhân vật cũng như diễn tả tâm lý căng thẳng, phức tạp và giằng xé bên trong con người cùng sự biến động gây choáng váng của ngoại cảnh. Đặc biệt với những nhân vật chính là tù nhân, người ngoại tình, tác giả đã hướng người đọc tới cái nhìn khách quan và tính nhân văn hơn là thành kiến và sự ghét bỏ khi ông để cho độc giả tự khám phá ra rằng những con người bị xã hội coi là tội lỗi ấy lại phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về sự phức tạp của cuộc sống, về bản chất, bản năng, mong muốn thực sự của con người, nhất là khi do lựa chọn hoặc vì bất đắc dĩ, họ phải đứng trên ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, giữa căm ghét và tha thứ, giữa trống rỗng và khổ đau. Cọ hoang là một tác phẩm văn chương xuất sắc xét trên nhiều khía cạnh. Dịch tác phẩm này là một thách thức lớn đối với bất cứ dịch giả nào. Để chuyển ngữ tác phẩm này, người dịch đã dành nhiều thời gian đọc nguyên tác và các tài liệu nghiên cứu về William Faulkner. Người dịch cũng đã phải nhờ tới sự cố vấn và giảng giải của một số học giả người Mỹ am hiểu văn chương Faulkner cũng như văn hóa miền Nam nước Mỹ để làm sáng tỏ những tình huống đa nghĩa thuộc loại “tảng băng trôi” trong tác phẩm. Trong quá trình chuyển ngữ, người dịch đã cố gắng bảo tồn nội dung cũng như văn phong của tác giả một cách tối đa. Cũng xin lưu ý với độc giả rằng trong tác phẩm này, thỉnh thoảng tác giả sử dụng những câu dài, rất dài, đặc biệt có câu lên tới gần ba trăm chữ. Cho rằng Faulkner dùng câu dài một cách bất thường để diễn tả sự dồn dập của sự kiện, tâm trạng phức tạp hoặc dòng suy nghĩ bấn loạn của nhân vật nên trong bản dịch tiếng Việt, người dịch đã không đặt thêm những dấu chấm, phẩy cho những câu đó mà chỉ cố gắng làm mạch câu trở nên dễ theo dõi hơn mà thôi. Được dịch tác phẩm này cũng là một vinh dự lớn. Người dịch xin trân trọng cảm ơn các học giả đã dày công nghiên cứu tác phẩm này cũng như phong cách văn chương của Faulkner và chia sẻ kết quả nghiên cứu của mình một cách rộng rãi giúp ích cho những người dịch nó sang các ngôn ngữ khác. Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tác giả người Mỹ Bill Dunn, người đã nhiệt tình và kiên nhẫn đóng góp thời gian lẫn hiểu biết của mình giúp người dịch vượt qua những thách thức lớn nhất trong quá trình hoàn thành bản dịch. Cuối cùng người dịch hoan nghênh sự phản hồi của độc giả về bản dịch này, mong các bạn đọc góp ý để cuốn sách trở nên hoàn thiện hơn. Hà Nội ngày 12/10/2014 *** William Faulkner (1897-1962) là một tiểu thuyết gia người Mỹ. Đoạt Giải Nobel Văn học năm 1949, hai giải Pulitzer năm 1955 và 1963, ông là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế kỷ 20. Những sáng tác của Faulkner gây ảnh hưởng sâu rộng lên văn chương châu Mỹ La tinh, Pháp, Nga... nếu không muốn nói là toàn cầu. Nhắc tới ông, không thể không kể đến tứ đại kỳ thư nổi tiếng: -    Âm thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury -1924) -    Khi tôi nằm chết (As I lay Dying - 1930) -    Nắng tháng Tám (Light in August -1932) -    Absalom, Absalom! (1936) Một số tác phẩm khác đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Hoa Hồng Cho Emily Cọ Hoang ... Mời các bạn đón đọc Cọ Hoang của tác giả William Faulkner.