Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

THƯ
Tegami – Thư là câu chuyện về những lá thư trong tù của phạm nhân cướp của giết người Takeshima Tsuyoshi đến người em trai Takeshima Naoki. Nhưng Naoki lại chẳng mong muốn những lá thư đó gửi đến. Bởi đấy là minh chứng cho quá khứ, cho vết nhớ trong cuộc đời, cho định kiến mà miệng lưỡi thế gian dành cho anh – người nhà của phạm nhân. Cũng như bao cuốn sách khác của Higashino Keigo, tiểu thuyết Tegami – Thư không đặt nặng ở yếu tố trinh thám. Các sự kiện xuất phát từ một vụ án, liên quan đến chất phá án chỉ là chất xúc tác, là tầng đá vỉa bên ngoài để tạo tiền đề cho câu chuyện phát triển. Tầng sâu ý nghĩa của tác phẩm nằm ở tâm lý, suy nghĩ nội tâm của từng nhân vật; là cách tác giả dẫn truyện, làm cho câu chuyện chảy trôi đầy tự nhiên song cũng vô cùng ám ảnh, day dứt. Như hơi thở cuộc sống: lặng lẽ trôi đi đầy vô tình mà khiến cả người trong cuộc lẫn những người xung quanh, ngay chính độc giả, nghĩ mãi chẳng thể dứt ra. Cũng vì câu chuyện nhẹ về yếu tố trinh thám, nặng về yếu tố tâm lý nên có thể nói, Tegami – Thư có một cốt truyện, nội dung hết sức đơn giản: Hai anh em nhà Takeshima mồ hôi cả cha lẫn mẹ. Người anh Tsuyoshi, để thực hiện khát vọng giúp em trai là Naoki vào đại học, đã làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe kiệt quệ. Trong cơn tuyệt vọng vì thất nghiệp mà ngày thi đại học của em trai mỗi lúc một đến gần, Tsuyoshi đã gây ra tội ác: Cướp của giết người. Anh ta bị cảnh sát tóm gọn một cách nhanh chóng. Trong thời gian ở tù, Tsuyoshi được phép gửi cho em trai một lá thư vào mỗi tháng. Nhưng, một kẻ ở tù, cách xa với cuộc sống bên ngoài như Tsuyoshi, không biết được rằng sự tồn tại của anh ta, những lá thư mà anh ta gửi đã trở thành gánh nặng, bóng ma quá khứ mỗi lúc một đào sâu thêm sự định kiến mà người đời đối với Naoki, khiến cho Naoki, chẳng thể ngẩng mặt sống một cách chính trực trước cuộc đời.  Với một cốt truyện đơn giản như thế, cũng không đao to búa lớn như nhiều tác phẩm sau này hướng đến những gì quá vĩ mô như luật pháp của một đất nước, vấn đề bảo vệ môi trường hay sự tồn vong của cả nhân loại…; Higashino Keigo đã tạo dựng được một tuyến nhân vật, không quá đông nhưng lại rất người, rất đời và rất thực.  Đó là Takeshima Tsuyoshi, gần như không thấy bóng, không thấy hình nhưng lại luôn hiện hữu qua từng lá thư anh ta gửi. Vẫn nói, Tsuyoshi ở từng lá thư cứ hồn nhiên, vô tư, không nghĩ đến cảm nhận của những người bên ngoài, song, liệu điều đó có thật không? Sự cô đơn của kẻ chỉ biết nhìn thời gian qua đi, sự sám hối ăn mòn một con người hiện tại và mãi mãi về sau, sự ăn năn khi đã gây ra khó khăn cho người em ruột anh ta hằng yêu quý… Tsuyoshi vô tư ư? Hẳn là không phải. Mà anh ta chỉ cố tỏ ra vô tư bởi anh ta hiểu, anh ta không có quyền để thể hiện nỗi cô đơn để từ đó, đòi hỏi Naoki hay gia đình nạn nhân bất cứ điều gì.  Tuy vậy, những lá thư của Tsuyoshi thực sự cần thiết? Về điều này lại chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng bởi nếu làm rõ trên khía cạnh nào, cũng đều thấy nó thật nghiệt ngã. Nhưng riêng với Tsuyoshi, viết thư là cần thiết. Bởi đó là cách duy nhất anh ta, một phạm nhân cướp của giết người, đã mất đi quyền công dân còn có thể liên hệ với thế giới bên ngoài, là cách duy nhất anh ta khẳng định được rằng mình vẫn đang sống, đang tồn tại. Đó là Takeshima Naoki, em trai của hung thủ, người đã cố vẫy vùng để vượt thoát khỏi vết nhơ trong quá khứ để làm lại cuộc đời, mà càng vẫy vùng, Naoki như càng chìm sâu thêm vào vũng lầy vô định. Vũng lầy đó có tên là định kiến, là miệng lưỡi thế gian về cái danh người ta gán cho anh “em trai của tội phạm cướp của giết người”. Mà không chỉ Naoki của hiện tại, gia đình anh sau này cũng là nạn nhân của định kiến ấy. Vì thế, Naoki có những hành động hết sức cực đoan, đã từng thử đối mặt với tất cả, những đến cuối cùng, thứ anh nhận về chỉ là trái đắng. Để rồi chính Naoki cũng kì thị bản thân mình. Để anh nhận ra, cuộc đời anh là một bản nhạc buồn đầy tuyệt vọng. Cũng như việc, dù anh có đoạn tuyệt, cũng chẳng thể thay đổi được sự thật Takeshima Naoki là em trai của Takeshima Tsuyoshi. Có thể nói chăng, Naoki, có gì đó thật giống với Ryoji hay Yukiho và rất nhiều nhân vật khác trong sáng tác của Keigo-sensei, dù ở hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, mang số phận này hay số phận kia, tất cả đều như đang lần dần bước đi vào màn “đêm trắng” không lối thoát. Và mỗi chương truyện qua đi, lại xuất hiện những nhân vật, có thể chỉ thoáng qua, cũng có thể đóng vai trò chủ đạo trong chương đấy, dù là vô tình hay hữu ý, đang góp phần mỗi lúc một tô đậm thêm màn “đêm trắng” mà Naoki đang bước. Họ, có tên tuổi, danh tính, nhưng đều như đại diện cho hai chữ “định kiến”, hai tiếng “trừng phạt” cho tội ác mà Tsuyoshi gây ra. Đúng như ông Hirano đã từng nói: “Họ kì thị là lẽ đương nhiên”, “Tội phạm bắt buộc phải nhận thức được chuyện này. Vấn đề không phải cứ vào tù là xong. Họ phải hiểu rằng sự trừng phạt không chỉ nhắm vào mỗi mình họ”. Vì thế, đến cuối cùng, có lẽ chẳng thể trách cứ hay đổ lỗi cho bất cứ ai. Bởi mọi vấn đề, mọi suy nghĩ, mọi hành động của con người xuất hiện trên trang văn của Keigo-sensei đều hợp tình, hợp lý, hợp suy nghĩ mà một người bình thường sẽ nghĩ đến. Không thể yêu, không thể trách, không thể ghét hoàn toàn, chính vậy mà cõi lòng độc giả khi tiếp xúc với tuyến nhân vật trong Tegami – Thư lại càng thêm nặng nề, day dứt. Chẳng phải, con người vốn thích những gì rõ ràng sao? Nhưng bản chất đời sống lại chẳng khi nào rõ ràng, dễ dàng để người ta thấu hiểu, cắt nghĩa đến thế. Và mỗi bóng hình xuất hiện trong Thư, lại lần nữa xoáy sâu vào tâm trí những suy ngẫm, khắc khoải nhân sinh về hai tiếng con người, về hai chữ làm người giữa cuộc đời vốn thiện – ác đan xen như này. Tuy nhiên, giữa sắc màu u ám, trầm uất của Tegami – Thư, vẫn có những cá nhân như Kurata, Shiraishi Yumiko hay Terao Yusuke , để ít nhất, người đọc còn thấy điểm sáng giữa màn “đêm trắng”. Họ có thể là người cùng chung hoàn cảnh như Naoki nên dễ đồng cảm, thấu hiểu cho nỗi đau của anh từ tận đáy lòng. Đó có thể người bạn chơi với Naoki bằng tất cả sự vô tư, trong sáng, hào sảng, nghĩa hiệp nhất. Họ là tình đời, tình người, để đến tận cùng, Tegami – Thư có đau thương, tuyệt vọng, có nghiệt ngã, tăm tối đến thế nào cũng vẫn còn hi vọng le lói về tương lai hay ngày mai. Được viết vào năm 2003, có thể nói, mọi bối cảnh, không gian trong Tegami – Thư so với thời điểm hiện đại đều khá cổ kính. Nhưng chính sự cổ kính đó lại hợp với bầu không khí ngột ngạt, u ám như đêm trường bất tận đến lạ. Một không khí rất Nhật với những con người mất đi căn cước, đang vẫy vùng để có thể nói được lên tiếng nói cá nhân, để chứng minh rằng bản thân đang tồn tại giữa cuộc đời. Một Tsuyoshi mất quyền công dân vì làm điều ác vẫn cố níu giữ chút niềm con người cuối cùng qua việc anh ta viết thư đến những người xung quanh. Một Naoki muốn chối bỏ thân phận thật là em trai kẻ sát nhân để dựng lên căn cước mới, hi vọng có cuộc đời tươi đẹp hơn. Một Shiraishi luôn muốn Naoki sống thật mạnh mẽ, đường hoàng nhưng chính bản thân cô lại luôn sống trong cảnh lo âu, sợ sệt, chui lủi vì món nợ của người cha. Một Yusuke vật lộn trong ngành giải trí chỉ để khẳng định được cái tôi với quan điểm nghệ thuật: âm nhạc phải là âm nhạc, ở đó trước là chuyên chở tài năng của người nghệ sĩ, sau đấy mới đến thỏa mãn phục vụ số đông khán giả… Những con người của năm 2003, nhưng dưới ngòi bút của Keigo-sensei, lại hiện lên như con người Nhật Bản thời hiện đại nói riêng, như con người nói chung.  Ngoài một không khí cùng những con người rất Nhật để tạo nên cái riêng cho tác phẩm, Tegami – Thư còn là câu chuyện chung của con người trên thế giới, về tâm lý chung của loài người khi đối diện với những kẻ “lạc loài”, những ai thuộc về phần thiểu số. Phải, đó là tội phạm và người thân của tội phạm.  Nếu như trong Akui – Ác ý, thành kiến tạo nên ác ý, từ ác ý mà cấu thành tội ác; thành kiến đó, xuất phát từ sự đớn hèn, từ sự giáo dục của gia đình, nhà trường. Thì đến với Tegami – Thư, vẫn là câu chuyện thành kiến ấy nhưng định kiến bây giờ xuất phát từ chính tâm lý chung của người đời khi đứng trước tội ác. Kẻ phạm tội chịu sự phán xét của pháp luật, còn người thân của họ sẽ phải chịu phán xét của người đời: bị đối xử như người ngoài lề, bị xa lánh, kì thị… dù bản thân người đó không làm bất cứ điều gì sai. Keigo-sensei đã gọi đó là tâm lý tự bảo vệ, hành vi “chống phân biệt đối xử”, hay chính là phản xạ tự nhiên, không điều kiện của con người khi gặp phải một sự việc, trái với đường ray, quỹ đạo cuộc sống yên bình. Luật pháp, có thể chỉ là một thứ “thánh giá rỗng”, nhưng miệng lưỡi thế gian chính là thứ luật không tên, không văn bản ràng buộc tất cả những ai trong cuộc: cả kẻ phạm tội, gia đình tội phạm, và cả nạn nhân nữa. Nhưng vì thế mà thứ luật không thành văn đẩy người trong cuộc mãi chìm sâu vào vũng lầy, vào “đêm trắng” chẳng thấy ngày mai. Đó là sự trừng đầy nghiệt ngã, đau đớn với một bộ phận thiểu số kia. Đến nỗi, lúc Naoki đủ dũng khí đối diện với người anh trai sau khi đã trải qua đủ thương đau, vẫy vùng mọi cách để vượt thoát quá khứ, vẫn nghẹn lại mà thốt lên: “Anh ơi! Naoki thầm gọi trong tim. Tại sao chúng ta lại sinh ra trên đời này”. Bài hát Imagine Naoki đã từng cất tiếng hát, xuất hiện thấp thoáng, trở đi trở lại, làm thành kết cấu đầu cuối tương ứng cho Tegami – Thư như chính nguyện vọng Naoki đã từng: một thế giới không còn ranh giới, một thế giới chẳng có phân chia, định kiến. Để rồi, Naoki lại chẳng thể cất tiếng hát lên lần nữa, bởi anh đã hiểu, nguyện vọng đó mãi chỉ lại vọng tưởng trước hiện thực tăm tối, phũ phàng. Bên cạnh vấn đề : “Thành kiến trong lòng người khác như ngọn núi lớn, cho dù ngươi có cố dịch chuyển thế nào cũng chỉ là mơ mộng hão huyền.” (Thân Công Báo – Na Tra Ma đồng giáng thế), Tegami – Thư còn là câu chuyện về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời đầy những sự kiện mà chẳng ai có thể lường đến. Ngay lúc gây ra tội ác, Tsuyoshi đã đứng trước muôn vàn chọn lựa: có tiếp tục việc trộm cắp không? Có nên ở lại lấy gói hạt dẻ rang đường, có nên ở lại xem tivi, có nên giết người? Khi vào tù lại là việc lựa chọn: gặp em trai hay là không, viết thư hay là không? Naoki phải lựa chọn cách sống làm sao với cái danh em trai của kẻ cướp của giết người: đánh đổi ước mơ, tình yêu, công việc, và cuối cùng là mối quan hệ đầy oan trái,… Và cả những người khác nữa. Không biết chọn lựa đó là đúng hay sai, có giải quyết được tận gốc vấn đề hay không nhưng con người vẫn phải không ngừng lựa chọn cách sống, lối sống, tâm thế trước trường đời.  Cuốn sách khép lại dưới hình thức mở, Higashino Keigo không nói tiếp đến cuộc đời Naoki, cũng không kể tiếp đến tương lai lúc Tsuyoshi ra tù. Chặng đường tiếp theo của hai anh em, vẫn tiếp tục là những phép thử và sai, bởi cuộc đời phía trước, còn nhiều lắm đau thương. Vì thế, với Tegami – Thư, độc giả có thể khóc khi người trong cuộc nói được lên tiếng nói từ tận đáy sâu tâm hồn họ, sau rất nhiều nghẹn ngào mà sáng tác của Keigo-sensei mang lại trước giờ. Tegami – Thư, câu chuyện được kể từ hai điểm nhìn, hai ngôi kể: điểm nhìn của Tsuyoshi với ngôi kể thứ nhất qua những lá thư hắn gửi; điểm nhìn của Naoki với ngôi kể thứ ba qua cuộc sống anh phải trải qua sau ngày Tsuyoshi bị bắt giữ. Bởi thế, Keigo-sensei đã tạo lên được hai không gian truyện, hai tâm thế con người rất khác biệt: không gian trong tù và không gian ngoài xã hội, tâm lý tội phạm và tâm lý người nhà phạm nhân; cùng với đó là các mối quan hệ xã hội không dễ gì có thể làm ngơ, chối bỏ. Một tác phẩm, tưởng rằng nói lên những vấn đề cá nhân hết sức nhỏ nhặt, mà lại day dứt, ám ảnh lòng người mãi không thôi. Một câu chuyện, chứa đựng những khắc khoải nhân sinh mà chẳng ai có thể phân rõ đúng – sai, thiện – ác. Để rồi, trang sách cuối còn mở, mà những nghẹn ngào đã chảy thành nước mắt từ khi nào chẳng rõ.  Mọt Mọt review *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm ... *** Tsuyoshi nhằm vào ngôi nhà đó không vì lý do gì đặc biệt, chẳng qua do hắn đã biết trước phần nào tình hình nơi ấy mà thôi. Nhưng khi quyết định phạm tội, hình ảnh đầu tiên thoáng qua trong đầu hắn lại là bà Ogata với mái tóc bạc trắng chải chuốt gọn gàng cùng lối ăn mặc thanh lịch quý phái. “Cảm ơn cậu nhé! Còn trẻ thế này mà đã đi làm. Tháo vát quá!” Bà lão vừa nói vừa chìa cho Tsuyoshi một phong bì nhỏ. Mở ra, hắn thấy bên trong là ba tờ 1000 yên. Từ ngày làm công nhân chuyển nhà đến giờ, đây là lần đầu tiên hắn được boa nhiều tới vậy. Nhìn nét mặt đủ biết bà là người tử tế. Khi bà mỉm cười, từng nếp nhăn cũng toát lên vẻ hiền hậu. Tsuyoshi gật đầu qua quýt tỏ ý cảm ơn, đàn anh đi cùng thấy vậy liền mắng, “Này, cảm ơn cho cẩn thận đi.” Đó là chuyện của bốn năm trước, khi Tsuyoshi vừa tròn 19 tuổi. Từ thời Edo, phố Kiba quận Koto đã có rất nhiều hàng buôn gỗ, cái tên Kiba có lẽ cũng bắt nguồn từ đó. Trên xe tải tới nhà bà Ogata, đàn anh kể với Tsuyoshi rằng gia đình Ogata một thời cũng từng buôn gỗ. Tuy nhiên, việc kinh doanh chỉ được thời gian đầu, hiện giờ thu nhập chủ yếu của nhà Ogata lại là tiền thu về khi sử dụng chính khu đất đã từng kinh doanh gỗ ngày trước vào việc khác. “Thế nên họ chẳng cần làm gì vẫn được ăn sung mặc sướng.” Đàn anh nói với giọng đầy thèm muốn. “Ngoài bãi đỗ xe, chắc chắn họ còn có cả chung cư và căn hộ cao cấp. Một mình bà lão làm sao tiêu hết, nên cứ mỗi tháng lại tích được một khoản. Anh con trai vừa đòi có nhà riêng là bà ấy rút ngay ra một xấp tiền lớn.” “Nhà mới của anh con trai là bà ấy mua cho ạ?” Tsuyoshi ngạc nhiên hỏi. “Chẳng biết nữa, nhưng chắc là vậy. Nghe nói anh ta không nối nghiệp gia đình. Nếu chỉ là người làm công ăn lương bình thường, làm sao mua nổi nhà.” Rõ ràng đàn anh tự suy diễn, nhưng khi tới nhà Ogata, Tsuyoshi nhận ra không phải tất cả suy diễn đều là vô căn cứ. Họ ở căn biệt thự một tầng trên khoảnh đất rất rộng, pha trộn phong cách Nhật và Tây ít thấy vào thời đó. Đối diện biệt thự là bãi đỗ xe thu phí tháng cũng treo biển hiệu Ogata. Phía Nam biệt thự là khoảnh vườn rộng đủ xây một ngôi nhà nhỏ, bên trong có một con chó to cỡ con bê đang đi đi lại lại. Bà lão nói nó thuộc giống chó núi Pyrenees. Con chó chưa nhìn thấy nhóm Tsuyoshi đã xồ lên sủa hung hãn. Chắc nó đánh hơi thấy người lạ trước cả khi người ta kịp xuất hiện. “Ồn ào quá, con kia!” Đàn anh vừa quát vừa bọc chống sốc quanh tủ. Tuy đã bị nhốt vào chuồng nhưng con chó vẫn sủa liên hồi suốt thời gian họ làm việc. Một đàn anh khác bảo, “Cũng nhờ có nó mà bà lão sẽ an tâm hơn khi sống một mình. Chắc bình thường không xích lại đâu. Tên trộm nào dám trèo tường vào nhà, nó sẽ nhào ra cắn ngay.” Công việc lần này là chuyển đồ cho gia đình người con trai cả ra ở riêng. Con trai bà cụ là một tên gầy gò ngoài bốn mươi tuổi, lầm lì ít nói, hoàn toàn thờ ơ với việc chuyển nhà. Trong khi đó chị vợ mập mạp lại hồ hởi ra mặt, đầu óc chỉ chăm chăm hướng về ngôi nhà mới chứ chẳng buồn bận tâm đến ngôi nhà mà họ sắp rời đi. Đàn anh lại bắt đầu suy diễn đủ điều, “Người chồng tính tình nhu nhược, bị vợ dắt mũi nên mới buộc phải chuyển đi. Thông thường cứ xây sửa lại nhà cũ là xong, nhưng như vậy bà lão sẽ tiếp tục sống chung với họ. Chắc hẳn người đứng tên ngôi nhà này cũng là bà lão, gia đình người con trai khác nào ăn nhờ ở đậu. Chị con dâu mập ú chẳng vui vẻ gì chuyện này nên mới bắt anh chồng phải mua nhà riêng. Cậu nhìn mà xem, vẻ mặt chị ta cứ như thể ‘từ nay thoát cũi sổ lồng’ vậy.” Đàn anh vừa nói vừa nhếch mép cười. Sau khi chất hết hành lý lên xe, nhóm Tsuyoshi tới chào bà lão. Bà không đi cùng sang nhà mới để giám sát việc dỡ đồ. Bà cổ vũ riêng Tsuyoshi, “Cố gắng lên nhé.” Chắc vì thấy hắn trẻ người nhất và cũng non dạ nhất. “Vâng!” Tsuyoshi khẽ gật đầu. Khoảng một năm sau, gần nhà Ogata lại có người muốn chuyển nhà. Buổi trưa, sau khi ăn xong cơm hộp mua ở cửa hàng tiện lợi gần đó, Tsuyoshi đi bộ tới nhà Ogata. Bức tường đá oai nghiêm không khác gì một năm trước. Nhưng khi bước lại gần cổng, tự nhiên hắn thấy khang khác mà chính hắn cũng không hiểu tại sao. Cho tới khi tiến về phía vườn, hắn mới nhận ra không còn tiếng sủa của con chó to ngày nọ nữa. Hắn đứng cạnh tường đá thử dòm vào trong vườn. Cái chuồng vẫn ở đó nhưng không thấy bóng dáng con chó đâu. Hắn chắc mẩm nó chỉ đang đi dạo loanh quanh cùng bà lão thôi. Bỗng hắn nhận ra ngay cạnh chuồng dựng một thanh gỗ dài, bên trên treo vòng cổ màu xanh. Tsuyoshi nhớ đó là vòng cổ của con Pyrenees. Tsuyoshi thầm nghĩ, hẳn bà lão phải rất cô đơn khi con trai rời khỏi nhà và con chó yêu quý cũng ra đi. Đây là điều duy nhất thoáng qua trong đầu hắn tại giây phút đó. Chỉ là những suy nghĩ tản mạn, chứ hắn tuyệt nhiên không có ý hãm hại bà lão giàu có sống một mình. Thậm chí suốt ba năm tiếp theo, hắn cũng chưa một lần nhớ về bà. Có lẽ nếu không lâm vào cảnh cùng cực như hiện giờ, suốt đời này hắn cũng chẳng nhớ tới bà nữa. Hắn tiến lại gần. Biệt thự với kiến trúc kết hợp hài hòa hai phong cách Đông-Tây nằm lặng lẽ giữa tường bao bằng đá. Gió mùa này bắt đầu se lạnh. Chỉ tầm một tháng nữa thôi, người ta sẽ phải co rúm vai lại cho bớt khó chịu khi đi trên đường. Tiếp đến sẽ là tháng Chạp, rồi tháng Giêng. Đến lúc ấy đường phố chắc chắn sẽ rất đông đúc, người người qua lại tấp nập. Vì có công việc nên họ mới chạy đây chạy đó. Vì có tiền nên họ mới hào hứng phấn khởi. Còn mình không có cả hai. Hắn không cần tiền mua bánh Giáng sinh hay mochi cho năm mới. Thứ mà Tsuyoshi muốn là khoản tiền đủ làm yên lòng Naoki, để thằng bé khỏi phải trăn trở về việc thi đại học nữa. Tsuyoshi bắt đầu mơ mộng hão huyền. Nếu có số tiền này trong tay, đầu tiên hắn sẽ đem gửi ngân hàng rồi cho Naoki xem sổ, “Thế nào, dù không kể với em nhưng anh đã tiết kiệm được bao nhiêu đây. Với chỗ tiền này anh cóc sợ phí dự thi hay phí nhập học nữa, em không việc gì phải lo lắng cả.” Tsuyoshi biết Naoki đang dần mất niềm tin vào việc thi lên đại học. Hắn cũng biết thằng bé bí mật đi làm thêm. Thằng bé sợ anh giận nên chưa dám nói, nhưng đã bắt đầu âm thầm tìm hiểu các công ty. Hắn biết nếu không mau mau nghĩ cách thì không kịp mất, nhưng hiện giờ, hắn không những không có tiền để gửi tiết kiệm, mà còn mất luôn cả cần câu cơm. Hắn nghỉ việc ở công ty chuyển nhà đã hai tháng nay. Nguyên nhân trực tiếp là bởi đau hông và đầu gối. Vốn dĩ hắn cũng không phải nhân viên chính thức nên không thể xin điều chuyển sang bộ phận khác. Ngoài ra, hắn còn làm nhân viên chuyển đồ nội thất, nhưng hợp đồng với bên đó cũng chấm dứt rồi. Hân là kẻ vụng về và có trí nhớ kém. Điều duy nhất hắn tự tin về bản thân là thể lực nên mới chọn những công việc kiểu này làm kế sinh nhai, rốt cuộc lại hủy hoại chính sức khỏe mình. Không có thể trạng tốt thì chẳng nơi nào chịu thuê. Cho đến tuần trước hắn vẫn còn đi giao đồ ăn, chẳng may đang giao hàng thì hông đau dữ dội, thùng đồ ăn rơi tung tóe, nên lại bị sa thải. Muốn đi làm ở công trường, e rằng sức không chịu nổi. Suy tính chán chê, hắn vẫn không tìm ra lối thoát nào. Người ta nói hiện giờ cả thế giới đều khó khăn, Tsuyoshi lại thấy ngoài hắn ra hình như ai cũng giàu có. Dạo này mấy cửa hàng giá rẻ rất được ưa chuộng, nhưng giá có rẻ hay không cũng chỉ quan trọng với người có khả năng mua được. Hắn cho rằng thực phẩm lành mạnh trở nên thịnh hành như vậy đều do người ta sống quá dư dả. Giá như họ chia cho hắn một phần nhỏ của sự dư dả đó thì tốt biết bao. Hắn không cổ xúy người nghèo nên đi ăn trộm, nhưng giờ hắn không nghĩ ra được cách nào khác. Dù có than thở hay cầu nguyện, tiền cũng không thể tự nhiên mà có, xem ra hắn chỉ còn cách tự thân vận động mà thôi. Trong đầu hắn hiện lên khuôn mặt hiền hậu của bà Ogata. Bà lão tiền nhiều vô kể, lấy trộm một ít cũng chẳng phải chuyện gì nghiêm trọng. Nếu biết kẻ trộm là một người khốn khổ như hắn, có khi bà lại tha thứ cũng nên. Nhưng tốt nhất vẫn không nên để bà phát hiện ra. Tsuyoshi đảo mắt nhìn quanh. Cả khu phố gồm toàn nhà dân xen lẫn vài công xưởng nhỏ, hầu như không có cửa hàng. Chắc vì vậy mới không thấy bóng dáng ai đi lại trên đường. Ngay bên cạnh có vài chung cư, nhưng cổng chính đều dẫn thẳng ra đường lớn nên cư dân ở đó rất ít khi bén mảng ra con phố phía sau. Cái bóng nhỏ thó của hắn đổ trên mặt đường nhựa. Hắn không rõ thời gian chính xác, chắc khoảng 3 giờ chiều gì đấy. Mười phút trước, hắn có xem giờ lúc vào cửa hàng tiện lợi. Hắn vào để mua găng tay. Trước khi tới đây, hắn đã quên khuấy mất chuyện sẽ để lại dấu vân tay. Hắn biết hiện giờ nhà Ogata đi vắng hết. Ban nãy hắn đã thử gọi bằng điện thoại công cộng ở bên ngoài cửa hàng tiện lợi. Hắn lấy số từ biển hiệu của bãi đỗ xe đối diện nhà Ogata. Điện thoại có kết nối, nhưng âm thanh vang lên lại là tiếng hệ thống trả lời tự động. Tsuyoshi từ từ tiếp cận cổng nhà Ogata. Tất nhiên hắn cũng do dự. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi trước khi đến được cổng, hắn tự hỏi tự đáp không biết bao lần. “Làm thế này có ổn thật không? Đương nhiên là không. Nhưng đâu còn cách nào khác. Đằng nào cũng chỉ có thể ăn trộm, thôi thì đi trộm của người giàu vậy. Nếu bị bắt thì phải làm sao? Không, không có chuyện bị bắt đâu. Trong ngôi nhà này chỉ có bà lão sống một mình, chẳng may bị phát hiện thì cứ chạy trốn là xong. Không thể nào bị tóm được.”   Mời các bạn đón đọc THƯ của tác giả Higashino Keigo.
Ba Ngày Và Một Đời
Bạn chờ đợi gì ở tác phẩm tiếp theo của một nhà văn vừa giành Giải Goncourt danh giá nhất nước Pháp? Nhất là khi giải thưởng ấy đã được trao cho tác phẩm không-trinh-thám đầu tiên của nhà văn chuyên viết trinh thám? Với Ba ngày và một đời, Pierre Lemaitre đã có một lời đáp thật khéo léo cho những trông đợi ấy. Ba năm sau giải Goncourt, Lemaitre trở về với sở trường trinh thám, nhưng là kiểu trinh thám rất khác với những gì ông viết trước đây. Một cốt truyện có thể tóm tắt được chỉ trong một câu nhưng chứa đựng câu chuyện của cả một đời người, và cả xã hội đương thời. Chậm rãi, u uẩn và đầy triết lý.   Bởi vậy, hãy quên hào quang của Hẹn gặp lại trên kia đi, hãy nhắm mắt lại và để Pierre Lemaitre dẫn bạn khám phá những ngóc ngách sâu kín trong đầu óc của một "kẻ sát nhân mười hai tuổi"! *** Ba ngày bi kịch quyết định cái chết của một đứa trẻ và sự sống sót của một đứa trẻ khác.  Một đời che dấu, dối trá, ác mộng và cảm giác tội lỗi, đắn đo giữa việc tới gõ cửa sở cảnh sát hay cứ lặng lẽ mà sống tiếp.   *** Ba ngày và một đời là tiểu thuyết trinh thám đánh dấu sự trở lại của nhà văn nổi tiếng nước Pháp Pierre Lemaitre. Sau thành công vang dội năm 2013 với giải thưởng Goncourt – giải thưởng văn chương danh giá nhất nước Pháp, Pierre Lemaitre đánh dấu sự trở lại cùng Ba ngày và một đời. Vẫn khai thác đề tài trinh thám quen thuộc, song tác phẩm này mang những đặc điểm rất khác so với những gì ông từng viết trước đây. Chậm rãi, u uẩn và đầy triết lý, một cốt truyện có thể tóm tắt được chỉ trong một câu nhưng chứa đựng câu chuyện của cả một đời người, và cả xã hội đương thời. Không hoàn toàn giống với Alex, ở Ba ngày và một đời, Pierre Lemaitre đã phá vỡ hoàn toàn lối viết trinh thám thông thường, khiến độc giả đôi khi tự hỏi: Liệu đây có phải một tiểu thuyết trinh thám? Câu chuyện bắt đầu từ một sự việc vặt vãnh trong một làng nhỏ hẻo lánh, kéo cậu nhóc Antoine 12 tuổi vào một cơn kích động không kiềm chế được, rồi dẫn tới án mạng. Bị tấn thảm kịch cuốn đi, Antoine mang theo mình bí mật khủng khiếp, một gánh nặng quá tầm đối với một cậu thiếu niên. Bắt đầu từ đây, Pierre Lemaitre dẫn độc giả tiến vào sâu hơn con đường rối rắm trong đầu óc một cậu nhóc 12 tuổi, để ta sống cùng cảm giác tội lỗi của cậu, trải qua cùng cậu từng phút hoảng loạn, từng giây ám ảnh. Cũng như nhân vật Raskolnikov của Dostoievski, Antoine luôn dằn vặt về tội ác mình đã gây ra và trong lòng luôn thường trực nỗi băn khoăn: thú tội hay trốn chạy. Ở những trang đầu, ta như được chứng kiến phiên bản hiện đại của Tội ác và trừng phạt. Nhưng với bàn tay lão luyện của người đã có mười năm viết trinh thám, Pierre Lemaitre cuốn người đọc vào những nút thắt mở liên tục, thôi thúc ta đọc tiếp, không một phút ngơi nghỉ. Phần sau cuốn sách đặt người đọc vào một quãng thời gian sau đó, khi Antoine đã lớn hơn. Ta gặp lại tất cả những người chủ chốt liên quan đến vụ án năm xưa trong một cuộc đời mới. Sự pha trộn những sự vụ trong quá khứ với những hệ quả hiện hữu ở hiện tại khiến cuộc sống của Antoine có thêm những góc độ mới. Những gì còn lại từ quá khứ đóng vai trò quan trọng trong từng quyết định cũng như trong số phận sau này của nhân vật chính. Và những tiết lộ cuối cùng mà Pierre Lemaitre mang lại cho độc giả thật sự ngoài sức tưởng tượng. Bất ngờ, hợp lý và đáng suy ngẫm. Một cuốn sách không dồn dập, mau lẹ với những tình huống cấp tập, mà sâu sắc và đầy ẩn ý. Bởi vậy, hãy quên hào quang của Hẹn gặp lại trên kia đi, hãy nhắm mắt lại và để Pierre Lemaitre dẫn bạn khám phá những ngóc ngách sâu kín trong đầu óc của một “kẻ sát nhân mười hai tuổi” trong Ba ngày và một đời! Theo Bookaholic.vn *** Ba ngày và một đời có thể được tóm gọn trong một câu thế này: Câu chuyện diễn ra trong ba ngày và gây ám ảnh cả một cuộc đời. Ngày thứ nhất, cậu bé ấy giết người. Ngày thứ hai, cậu ta cùng gia đình nạn nhân đi tìm hung thủ. Ngày thứ ba, một cơn bão đã cuốn phăng tất cả mọi thứ, chôn vùi luôn cả bí mật mà cậu muốn che giấu suốt cuộc đời mình. Hung thủ được nêu đích danh ngay ở những chương đầu tiên, thậm chí phần giới thiệu ở bìa truyện phía sau quyển sách còn tiết lộ rằng kẻ sát nhân mới chỉ mười hai tuổi. Xuyên suốt quyển truyện không hề có những tình tiết phá án đuổi bắt hồi hộp, cũng không có quá trình điều tra bộ mặt thật của hung thủ. Tất cả chỉ là vụ giết người bí ẩn được đăng trên các phương tiện truyền thông nhưng lạ lùng thay, không có bất kỳ vết tích cụ thể nào được khẳng định. Ba ngày và một đời thể hiện đúng thứ tinh thần cần có của một quyển trinh thám xã hội, nặng về yếu tố tâm lý và khai thác những góc cạnh tối tăm trong suy nghĩ của nhân vật. Tớ nghĩ về mặt này Pierre Lemaitre đã làm rất tốt, đặc biệt ở những phân đoạn đấu tranh nội tâm của hung thủ. Ba ngày và một đời đề cập một phần về xã hội Pháp, lấy một nhóm nhỏ để đại diện cho xã hội đương thời, tuy có hơi chủ quan vì không xét trên tổng thể rộng lớn, nhưng nhóm người mà ông khắc hoạ cũng đã đủ để tạo thành một xã hội thu nhỏ, nơi mà mỗi cá thể bị trói chặt lại bằng định kiến và ánh nhìn của người khác. Khi ta huỷ hoại cuộc sống của một ai đó, khi ai đó huỷ hoại cuộc sống của ta, ánh nhìn của xã hội đóng vai trò gì. Xã hội và cá thể không thể tách rời nhau, một cá thể có thể tác động lên xã hội và ngược lại, cả xã hội có tác động vô cùng to lớn đối với một cá nhân nhỏ bé. Câu hỏi mà hung thủ tự đặt cho chính mình cứ khiến tớ nghĩ hoài: Chấp nhận đầu thú, hay là chịu hình phạt trong tình trạng hoàn toàn tự do với cái giá phải trả là toàn bộ cuộc đời mình. Hẳn là không ai muốn đầu thú rồi, nhưng đầu thú rồi chấm dứt nỗi đau đó hay là sống với sự ân hận và niềm day dứt cho tới phút cuối cùng của cuộc đời, quả không dễ trả lời. Điểm duy nhất khiến tớ chưa hoàn toàn đánh giá cuốn này 4 sao là vì tác giả cho người đọc biết khá sớm về hung thủ, điều đó giống như một con dao hai lưỡi, nó vừa có thể khiến câu chuyện bớt đi một phần lôi cuốn vì người đọc đã biết trước, lại cũng có thể khiến câu chuyện trở nên hồi hộp và bí ẩn vì người đọc hẳn sẽ tò mò đến cuối cùng thì hung thủ sẽ bị vạch trần thế nào. Dẫu sao tớ cũng thích những quyển trinh thám đấu trí cân não, nhưng quyển này là trinh thám xã hội nên tạm thời gác lại vấn đề này. Thường thì trinh thám xã hội sẽ đưa ra câu trả lời Hung thủ là ai, rồi mới dẫn dắt người đọc đi tìm Hung thủ đã làm chuyện đó như thế nào. Có điều khoảng cách giữa “Là ai” và “Làm như thế nào” trong quyển này hơi ngắn. Ừm tớ chỉ nhận xét có vậy thôi. Dẫu sao trinh thám của Pierre Lemaitre cũng đáng để đọc thử mà. Đại khái thì nếu cậu tò mò thì hãy cứ đọc đi, mình đâu biết được mình thích một quyển sách cho đến khi cầm lên và đọc nó. Truyện này có thể không quá xuất sắc đối với những ai là fan cứng của thể loại trinh thám, còn đối với một đứa coi trọng yếu tố tinh thần của truyện như tớ thì nó đọc ổn. *** Thật là khó định danh thể loại cho tác phẩm này, bảo nó là trinh thám thì chắc chắn không phải rồi. Vậy thì cứ gọi nó là một cuốn tiểu thuyết tâm lý – tội ác đi. Cậu bé Antoine, vì gặp nhiều ức chế nội tâm không thể xả bỏ, đã vô tình đánh chết Rémi, đứa bé 6 tuổi con nhà hàng xóm. Quá sợ hãi, cậu đã giấu xác Rémi xuống cái hố sâu trong rừng và tình cờ làm sao, khi người ta đang ráo riết tìm kiếm Rémi thì một cơn bão xuất hiện. Cơn bão khủng khiếp đó đã phá tan thị trấn nhỏ, thậm chí thổi rạp cả khu rừng tội ác. Người ta bận rộn tái thiết thị trấn, tu sửa thiệt hại, hầu như không còn ai muốn quan tâm đến số phận Rémi nữa, Antoine thoát hiểm một cách ngoạn mục…   Thật ra, từ đầu đến cuối, Antoine luôn thoát hiểm, dù cho đó là lúc cậu lỡ tay đánh chết người, hay mười mấy năm sau, khi cậu đã trở thành bác sĩ của thị trấn, xác Rémi được tìm thấy, thì cậu vẫn lọt lưới. Nhưng cái giá để trả cho sự trong sạch giả tạo ấy quả thực không nhỏ nếu không muốn nói là cậu sẽ phải gánh nó trên vai, mãn kiếp. Một án chung thân của tòa lương tâm đại hình đã lặng lẽ tuyên ngay từ khi câu vung gậy… Cuốn sách này vừa mỏng vừa nhẹ, đã thế lại đầy chi tiết thừa thãi, thậm chí có chỗ còn thiếu logic, mạch văn ỡm ờ chậm không ra chậm nhanh không ra nhanh, ít ra cũng phải đến 1/3 nội dung có thể cắt bỏ mà không làm ảnh hưởng gì đến kết cấu truyện. Nhưng cái kết thì đặc biệt xuất sắc, chỉ vài trang cuối truyện đã làm cho giá trị cuốn sách tăng vọt, với tôi nó gần giống như một cú shock vậy. Và sau cái kết, có lẽ hiệu ứng đi kèm với nó là cảm giác thỏa mãn nhẹ nhàng. Thoát được tội ác do mình gây ra không đồng nghĩa với việc thoát được nỗi bất hạnh mà mình phải gánh chịu. Có lẽ, chỉ là có lẽ, ở một góc heo hút nào đó của nước Pháp, Antoine vẫn đang tự sám hối lỗi lầm. Trần Hùng *** Đọc Pierre Lemaitre nên xác định luôn rằng với nhà văn này, không có ranh giới định dạng thể loại trinh thám, tâm lý hay xã hội… tôi không thích việc nhất định phải định danh các tác phẩm của Pierre Lemaitre vào thể loại văn học gì (nếu nó là trinh thám thì phải như này như kia, nếu nó là xã hội thì phải thế này thế khác…), bởi ở Hẹn gặp lại trên kia là tác phẩm không trinh thám đầu tiên của tác giả thì nó cũng có yếu tố trinh thám, rượt đuổi, điều tra thông tin; ở Alex, Ba ngày và một đời dù được định danh là tiểu thuyết trinh thám song là kiểu trinh thám không cần thiết phải rõ nét vai trò của thám tử cảnh sát điều tra. Pierre Lemaitre thích các “bài thực hành ngưỡng mộ văn chương”, các câu văn, ý tứ có sự vay mượn của các tác giả mà ông ngưỡng mộ, tiếc rằng ở đối tượng người đọc trâu cũng như bò như tôi, thì chỉ nhận ra “bài thực hành ngưỡng mộ văn chương” của tác giả ở tiểu thuyết giành giải Goncourt Hẹn gặp lại trên kia. Chúng ta có trinh thám vừa đọc vừa suy đoán hung thủ hoặc vừa đọc vừa khớp tất cả mảnh ghép để hoàn thành bức tranh; trinh thám biết ngay hung thủ và sự thật từ đầu; trinh thám để mở, mỗi người đọc có một đáp án… Ba ngày và một đời là kiểu trinh thám có thể biết ngay hung thủ là ai từ khi chưa mở sách, chỉ cần tinh ý đọc text bìa cũng lờ mờ đoán ra thủ phạm, hoặc chỉ sau 20-30 trang đầu đã rõ mười mươi hung thủ. Thế thì tại sao còn đọc làm gì. Cái này là gout đọc, tôi đọc trinh thám không nhiều, lại thích trinh thám chậm, thiên về tâm lý nhân vật, các chi tiết rất nhỏ lẻ và thực ra không thích quy mô vụ án nhiều xác chết. Vụ án chỉ tầm ở mức tìm thấy một chiếc chìa khóa lạ của người đã khuất và muốn tìm hiểu chiếc khóa này mở cái gì thì với tôi cũng đáng đọc, miễn sao, quá trình điều tra thu thập xử lý thông tin được tác giả chú trọng vào các chi tiết rất nhỏ nhưng kỹ thuật quăng thả phải thật khéo, tâm lý nhân vật phải nhiều suy tư móc nối nhạy cảm, và cuối cùng, rất quan trọng, đã là văn học thì thể loại nào cũng vậy, phải nhiều tính văn chương (nhưng đừng sến quá). Ba ngày và một đời kể một câu chuyện rất đơn giản, cậu bé 12 tuổi Antoine với nhiều vấn đề bị dồn nén không giải quyết được đã lỡ tay dùng gậy phang vào đầu (chỗ hiểm) của cậu bé 6 tuổi Rémi và Antoine trở thành hung thủ gây ra án mạng. Trong 2-3 ngày người ta cho rằng Rémi bị mất tích và tổ chức tìm kiếm nhưng không có kết quả, Antoine lọt lưới. Trong thời gian sau đó, một cơn bão kéo theo mưa giông quét qua thị trấn, tất cả mọi vật, việc trôi bồng bềnh, đảo lộn trật tự vị trí, người ta cũng không thấy dấu vết của Rémi, Antoine cũng lọt lưới. 12 năm sau, xác của Rémi được tìm thấy nhưng Antoine vẫn thoát tội. Nếu chỉ nghe kể như vậy, thấy bất công không? Trong một tập truyện ngắn của Karel Capek tôi đọc gần đây, tôi rất ấn tượng ở một vài truyện ngắn bởi ý tứ của nó, rằng, con người thích hợp và phải chịu thứ công lý của chính xã hội loài người, không phải Thượng Đế hay bất cứ đấng nào phán xét, mà chính là những gì thuộc về xã hội loài người, mà ở Ba ngày và một đời, chính là sự cắn rứt lương tâm của hung thủ. Cậu bé 12 tuổi đồng nhất sự nặng nề của cuộc sống với nỗi cô đơn, sự sợ hãi của cậu, từ đấy cậu có cái nhìn bi quan với cuộc đời dù rất cố gắng sống tốt đẹp hơn mỗi ngày. Sự thật dường như được che đậy để không một ai biết, nhưng, những biểu hiện rất nhỏ của mọi người cũng khiến Antoine bị giày vò, muốn chạy trốn, chối bỏ vùng đất với ký ức buồn thảm. Công lý là trừng phạt sẽ hoàn toàn không có giá trị nếu như người phạm tội không sám hối. Sám hối là sự dừng lại, không tái diễn và ăn năn về hành vi đã gây ra. Hung thủ ở Ba ngày và một đời trở thành trung tâm của nỗi bất hạnh, một nỗi buồn thảm thuần khiết đã được dành cho Antoine ngay từ tuổi ấu thơ. Để rồi phải trả giá bằng việc sống không thôi lo sợ dằn vặt, lấy một người phụ nữ mình không yêu, là bố của đứa con ngoài mong muốn… như vậy, Antoine đã tự kết án chính mình. Hơn 240 trang sách, hung thủ biết ngay từ đầu nhưng tôi vẫn đọc, để cùng đi qua hành trình nhiều năm dài cô đơn u uẩn của Antoine, người đọc cũng có cùng tâm trạng như Antoine rằng, lúc này đây, sự việc cậu bé Rémi chỉ cần có người hỏi cặn kẽ thì lập tức sẽ nhận tội luôn, để mong chấm dứt sự khổ sở trong lòng, được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi, ăn năn. Trong ba quyển của Pierre Lemaitre xuất hiện ở VN thì Ba ngày và một đời là quyển có lẽ mờ nhạt, lỏng lẻo nhất; đầu tiên ở văn chương rời rạc, nhiều đoạn được viết gượng ép ngô nghê như một cây bút non tay, việc này gây thất vọng không nhỏ cho người đọc thích Pierre Lemaitre (như tôi, có lẽ khoảng viết về trận bão và mấy chục trang đoạn cuối là tôi thấy đúng chất Pierre Lemaitre); thứ nữa về nội dung nhàm chán, ề a, tiết tấu nhanh không ra nhanh, chậm rãi xoáy vào tâm lý tạo độ sâu cũng không, nó rất không phù hợp với độc giả quen đọc trinh thám cướp giết hiếp nhiều án mạng và hành động, thậm chí chắc chắn sẽ có người chê đây là một quyển trinh thám nhiều lỗi, phi lô gíc, gượng gạo. Nhưng tôi lại đặc biệt thích cái kết của nó, một cái kết như nhét kẻ trụy lạc vào đời sống khổ hạnh vậy, trừng phạt, trả giá, kỷ luật đôi khi chỉ cần mang hình bóng như cái kết này thôi đã là một hình thức chịu án khổ hình rồi vì không gì bằng toà án lương tâm. Với một số trường hợp người ta sống tốt hơn hay tu tập, không phải bởi tính bản thiện mà chỉ bởi có thể sống như vậy người ta mới cảm thấy được thanh thản, đẩy lùi được phần tối trong họ. Cái kết diễn ra nhanh và đột ngột trong 1-2 trang cuối, nó tạo một cú chuyển bất ngờ, một cảm giác lâu lắm rồi tôi mới có lại kể từ thời đọc Nghe mùi kết thúc của Julian Barnes cách đây 4 năm, nó gây nên chút chao đảo và ngay sau đó, cho tôi cảm giác dễ chịu như vòng tròn đã khép lại, ta quay trở về điểm xuất phát ban đầu. “Hình phạt mà anh phải chịu, vì tội ác anh từng phạm phải, không được hình thành từ những năm tháng ngồi tù, mà từ cả một cuộc đời anh đã kinh tởm từ trước, nó là tất cả những gì anh ghét cay ghét đắng, phải gần gũi những con người tầm thường, phải làm cái nghề mà anh yêu thích trong một hoàn cảnh mà anh căm thù. Hình phạt dành cho anh là như thế đó: chịu hình phạt trong tình trạng hoàn toàn tự do với cái giá phải trả là toàn bộ cuộc đời mình”. Bất kỳ điều gì bắt đầu, đều khởi sự một kết cục. Ta đã kích hoạt một kết thúc bắt đầu vận hành, như bật một công tắc. Và dù cơn bão nào có quét qua, thì tất cả rồi sẽ được thiết lập lại theo trật tự và cách riêng của nó. EMi Delicate Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Và Một Đời của tác giả Pierre Lemaitre & Phúc Chi Nhi (dịch).
Phương Trình Hạ Chí
Nằm trong series điều tra của thanh tra Kusanagi và thiên tài phá án - nhà vật lý học Yukawa, câu chuyện bắt đầu bằng cái chết của một cô gái trẻ tại một khách sạn hạng sang ở Tokyo. Một thời gian sau, những vụ nổ kỳ quái liên tiếp  xảy ra, khi ngoài đảo, lúc trên thuyền,mà không ai biết vì sao. Cuộc điều tra chỉ được bắt đầu từ án mạng của một cây viết tự do, để rồi các mối liên hệ bất ngờ dần lộ diện. Nhưng lần này, kẻ tình nghi lại là một “đệ tử tài giỏi ngoài sức tưởng tượng” đã được Yukawa truyền dạy nhiều kiến thức vật lý và khoa học. Làm thế nào để những thành tựu nghiên cứu không trở thành “ma thuật bị cấm” dưới bàn tay của tài năng đó? Lần này, Yukawa phải tự mình giải quyết  câu hỏi lớn. Một cuộc gặp tình cờ với cậu bé Esaki Kyohei trên xe lửa đã đưa đẩy Yukawa Manabu, một phó giáo sư vật lý đang đi dự hội nghị, tới nghỉ tại quán trọ buồn hiu mang tên Lục Nham Trang, để rồi bị cuốn vào số phận những con người nơi đó. Cái chết của người khách trọ Tsukahara Masatsugu, cựu cảnh sát hình sự thuộc Sở Cảnh sát Tokyo dưới vách đá gần biển Harigaura buộc cảnh sát phải lục lại hồ sơ một vụ án xảy ra cách đó mười sáu năm, nhưng Yukawa Manabu, vị "thám tử Galileo" đã nhận ra những điều bất thường quanh đó. Một bí mật tưởng chừng đã bị chôn sâu dưới đáy biển Harigaura đang chờ khám phá, mà cội nguồn của nó có thể kéo về tận Tokyo nhiều năm về trước. *** Phương Trình Hạ Chí là tác phẩm mới được xuất bản của nhà văn Higashino Keigo, người đã nổi tiếng với những tác phẩm như Phía sau nghi can X, Bạch Dạ Hành, Bí mật của Naoko Nhiều năm trước, có một cô gái xinh đẹp ở Tokyo trước đây từng là tiếp viên, sau đổi sang nhân viên quán ẩm thực địa phương, mặc dù biết anh chàng “nọ” đã có vợ nhưng vẫn yêu thầm. Thậm chí đến khi sắp sửa cưới chồng, trước khi kết hôn còn có tình một đêm chóng vánh với anh chàng ấy. Và nhiều năm sau, chính cái hậu quả của mối tình một đêm năm xưa, đã gây ra bao nhiêu câu chuyện đau lòng. 2 cái chết, một cái chết lãng xẹt và một cái chết đáng thương đã xảy ra, những người đáng bị pháp luật trừng trị, thì đều đã hưởng một cái kết khoan hồng hơn rất nhiều. Còn những người thân – những đàn ông vĩ đại bên cạnh họ, lại chịu một thảm cảnh khốc liệt. Thật đúng với câu “một phút sa chân, người thân lãnh đủ”. Phương trình hạ chí là một tác phẩm trinh thám mà yếu tố suy luận logic được đặt lên hàng đầu – có vẻ như ông tác giả là một fan trung thành của trinh thám cổ điển. Higashino không miêu tả quá nhiều tới pháp y, tới các vật chứng – điều mà trinh thám hiện đại làm rất tốt & nhanh gọn. Thực tế thì nếu có sự hỗ trợ tài tình của pháp y, kiểu như nhà hình sự học Lincoln Rhyme của Jeffery Deaver, hay team pháp chứng của Tần Minh, thì vụ án mạng này sẽ được phá giải không đến một tuần. Nhưng vì để thể hiện tài năng suy luận logic của thám tử, sự vô dụng của cảnh sát địa phương cũng như thể hiện một tác phẩm có chiều sâu hơn (suy ngẫm về hậu quả của những hành vi sai trái), Keigo đã dụng ý để cho hung thủ từ từ lộ diện bằng những phán đoán đầy logic. Đỉnh cao về trinh thám cổ điển được Keigo miêu tả trong Phía sau nghi can X có thể nói là mẫu mực nhất của ông, điển hình tiêu biểu tới mức những tác phẩm khác, đều rất khó để sánh kịp. Phương trình hạ chí cũng là trường hợp tương tự, dù rằng nó vẫn thể hiện một cách hết sức xuất sắc. Yếu tố bất ngờ không được chú trọng trong tác phẩm này. Vì giáo sư vật lý nổi tiếng Yukawa đóng vai thám tử nên không có gì ngạc nhiên, những suy luận của thiên tài này đều hết sức đắt giá. Thậm chí có thể nói từ đầu tới cuối, duy nhất anh ta là người nhìn thấu rõ hoàn toàn sự việc, dựa trên những chi tiết tưởng chừng không liên quan. Tuy nhiên độc giả hoàn toàn có thể dễ dàng đoán ra được hung thủ đã sát hại vị cảnh sát già Tsukahara, bởi cái nhà trọ Lục Nam Trang không có quá nhiều thành viên! Như Sherlock Holmes từng nói “bắt một gã sát thủ trong một đám tù nhân là điều hết sức dễ dàng, với tôi thì chỉ cần 24h là đủ “. Ấy vậy mà mỉa mai thay, đám cảnh sát Nhật bản ở địa phương lại loay hoay trong đám tơ vò mà mãi mãi chẳng thể tìm ra đáp án! Có vẻ như tất cả sẽ phải “cạn lời” khi mà nguyên nhân tử vong đã rất rõ ràng “ngộ độc khí CO trong một không gian khép kín”. Chỉ cần vài suy luận đơn giản cũng có thể đoán ra, chẳng hiểu sao Higashino Keigo lại để cho hình ảnh của đám cảnh sát tỉnh trở nên tầm thường đến thế. Dù không ghi điểm với tính chất của một sách trinh thám, song tác giả của Phương trình Hạ Chí lại rất thành công khi để lại dấu ấn với những ví dụ hết sức thực tiễn về vật lý, toán học, hóa học & nêu lên thực trạng về môi trường biển đáng để độc giả suy ngẫm Ít ai biết một miếng giấy thiếc có khả năng làm gián đoạn sóng điện thoại, và việc của hành khách đi tàu khi không muốn tắt nguồn chỉ cần đơn giản là dùng thiếc bọc quanh nó. Giáo sư Yukawa đã dạy cậu bé Kyohei một cách dễ hiểu như thế. Tại sao tổng ba góc của một tam giác lại bằng 180 độ? Nhiều lúc chúng ta chỉ cần thêm nhiều những giáo sư như thế, dạy học bằng bản chất, đơn giản là suy luận logic dễ hiểu, không khuôn sáo máy móc. Việc giáo dục gắn với thực tiễn sẽ khiến cho học sinh cảm thấy đi học là điều hết sức tuyệt vời Khí CO được sinh ra trong điều kiện cháy không hoàn toàn. Ví dụ đơn giản hơn là chúng ta nếu muốn sưởi ấm bằng than tổ ong trong mùa lạnh, rất dễ gây ra tai nạn chết người vì bình thường trong môi trường đóng kín thiếu Oxi, than sẽ cháy không sinh ra CO2 mà lại là khí độc CO. Higashino có vẻ ác cảm với các nhân vật nữ. Bởi không chỉ riêng Phương trình hạ chí mà các tác phẩm khác như Bạch Dạ Hành, Ảo dạ, Trước khi nhắm mắt, Bí mật của Naoko, các nhân vật nữ chính đều được ông Keigo miêu tả với phong cách rất “rắn độc”. Yuhiko trong Bạch dạ hành, người đã cộng sinh với Ryo, giết người, tổ chức cưỡng hiếp, đe dọa tống tiền, giết người thân… Không có việc gì mà cô không dám làm để đạt được mục đích Mifuyu trong Ảo dạ, một phiên bản độc ác nâng cấp hơn so với Yuhiko Naoko (Bí mật của Naoko) được xem là ích kỷ, sẵn sàng lừa gạt người chồng tội nghiệp chỉ để được sống một cuộc đời mới! Với Phương trình hạ chí, lại một lần nữa, nơi mà những sai lầm của nữ nhân xinh đẹp đều khiến cánh mày râu – những người thân trong gia đình, họ hàng, phải lãnh một hậu quả nặng nề. Không biết đọc xong tác phẩm này, những người đàn ông thành đạt còn có ý định trăng hoa với những cô bồ nhí bên ngoài nữa hay không. Bởi sau tất cả: Kẻ tù tội, rồi chết vì u não. Người nhẹ nhàng hơn thì lĩnh án vài năm vì tội bao che. Kẻ lại bất đắc dĩ phải ra tay sát hại người vô tội đáng kính, kết cục cũng thê thảm. Vấn đề giáo dục về những giá trị đạo đức một lần nữa lại trở thành đề tài nóng hổi. Nếu như một cô gái có được môi trường giáo dục tốt, liệu rằng có yêu một người đàn ông đã có vợ, thậm chí cắm sừng ông chồng tương lai? Chắc chắn là không rồi. Viện cớ nhân danh tình yêu, thẳng thắn mà nói thì tất cả chỉ là ngụy biện Một tác phẩm không quá đỉnh cao về trinh thám, nhưng sẽ lại khiến độc giả nhớ mãi, vì những điều thật đặc biệt. *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm ... Mời các bạn đón đọc Phương Trình Hạ Chí của tác giả Higashino Keigo.
Sổ Tay Hình Cảnh - Ngô Đồng Tư Ngữ
Nếu bạn quen biết một chuyên gia tâm lý tội phạm, hãy yêu quý, vì chỉ có họ mới chạm tới được những bí mật sâu kín nhất của tội phạm... Nếu bạn quen với một pháp y, hãy trân trọng, vì chỉ có họ mới lắng nghe được tiếng nói sau cùng của người đã khuất... Chuyên gia tâm lý tội phạm - Cung Khắc, vì người bạn tốt tham của rẻ, đã vào ở một căn nhà mà trong mắt người ngoài là "có ma". Nhưng vào ở tới ngày thứ hai, Cung Khắc phát hiện ra người sống sát vách không phải nữ quỷ gì mà là nữ pháp y Diệp Nam Sênh tính cách cực kỳ quái gở. Mối quan hệ giữa họ không chỉ đơn thuần là hàng xóm kể từ khi Cung Khắc và Diệp Nam Sênh cùng tham gia giải quyết một vụ án. Không những vậy, Diệp Nam Sênh còn phải lòng anh chàng này và theo đuổi quyết liệt. Yêu một người chính là cam tâm tình nguyện bước chân vào một thế giới xa lạ thuộc về một con người khác. Diệp Nam Sênh yêu Cung Khắc. Khi Cung Khắc ôm Diệp Nam Sênh, họ nguyện chìm đắm vào thế giới xa lạ của nhau, chỉ dựa vào một phần dũng cảm. *** Ngày 25 tháng 8 năm 1992, cơn mưa rào như trút nước vào lúc chập tối quét qua thành phố cảng Lâm Thủy, phía Đông Bắc. Lượng nước mưa dày đặc như đổ ào từ trên trời xuống, cộng với sức gió giật cấp năm, quá nửa những cây mới trồng tại dải phân cách xanh ở Lâm Thủy đã bị quật đổ trong chốc lát. Những cây du bị bật cả rễ nằm ngổn ngang bên vệ đường quốc lộ, có những cây đổ ngang ra giữa đường. Con đường giao thông huyết mạch của thành phố Lâm Thủy đối mặt với một thách thức nghiêm trọng, vô số xe cộ bị ách tắc trên đường không thể nhúc nhích, người trong xe ngoài việc bấm còi inh ỏi để trút giận thì cũng chỉ còn cách cầu xin ông trời nhanh chóng dừng cơn mưa dữ dội này lại. Tài xế xe buýt đường 11 - Lý Tôn Nghĩa - cũng đã phải đứng trên con đường Nghĩa An góc Tây Bắc thành phố tròn hai tiếng đồng hồ. Đừng nói là khách trên xe sốt ruột, ngay cả anh ta cũng sắp són ra quần vì nhịn tiểu. Tám giờ đúng, anh ta trở về đội bàn giao xe, chẳng kịp ký tên đã cởi quần lao vội ra ngoài cửa. "Lý, anh vội đi đầu thai đấy à!" Người đồng nghiệp cất xe sớm hơn anh ta một lúc - tài xế NGô đã thu dọn xong hộp bút chì buổi tối định mang về nhà cho con gái, gào lên sau bóng lưng sắp khuất dạng của Lý Tôn Nghĩa: "Có cần tôi chở anh về nhà không?". "Tôi đi vệ sinh một lát, sao anh nhiều chuyện thế hả!". Trong lúc nói, Lý Tôn Nghĩa đã vòng ra cửa lớn của công ty giao thông công cộng, lách vào một con ngõ nhỏ gần đó. Anh ta cởi khóa quần, vừa "trút nước" vừa thoải mái nói chuyện với anh Ngô này, anh bảo hôm nay mưa to như thế mà Đài phát thanh cũng chẳng dự báo trước một tiếng, đi đường cứ gọi là tắc cứng. "Thì ai nói không." Anh Ngô lại bỏ hộp bút chì ra, trời rất tối, ngọn đèn đường duy nhất xung quanh đó cũng phải cách vài mét. Loại ánh sáng tù mù này khiến những hình vẽ trên hộp bút hoàn toàn không thể nhìn rõ. Mặc kệ đi, con gái chắc là sẽ thích thôi. Nghĩ tới chuyện về nhà con bé nhìn thấy hộp bút chì sẽ nhào vào lòng anh gọi "bố", tài xế Ngô cười thật thà, rồi ngẩng đầu lên nói vọng vào trong ngõ: "Tôi bảo này anh Lý, trút lâu vậy chắc là xong rồi chứ, đừng coi mình là cái đập nước, cứ cố mà tích vào". .... Mời các bạn đón đọc Sổ Tay Hình Cảnh của tác giả Ngô Đồng Tư Ngữ.