Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Mang Thai - Yoko Ogawa

Một cô gái âm thầm sử dụng những quả bưởi có chất bảo quản, nấu thành mứt cho chị ăn trong suốt thời gian thai kỳ (Nhật ký mang thai). Một thầy giáo mất hai tay và một chân với những dẻ xương sườn biến dạng xiết chặt khu vực của tim và phổi, đang ẩn dật trong khu ký túc xá vắng lặng (Ký túc xá). Một người đàn ông có thể đứng hàng giờ mỗi ngày ngắm nhìn nhà ăn để chìm đắm trong mớ ký ức giằng xé (Nhà ăn buổi chiều tà và bể bơi dưới mưa)… Bản thân các nhân vật trong cuốn truyện đã hé mở những điều bất an ngay từ đầu, và tác giả không chút ngại ngần dẫn dắt độc giả bám theo những điều nghi hoặc sắp xảy đến. Với giọng văn dịu dàng mà sắc sảo, Yoko Ogawa đã thể hiện những chuyển động tâm lý tinh tế trong các nhân vật, dẫn dắt người đọc băng qua những cảm nhận về bề mặt tới sự thật hiện hữu của thế giới thực. Các nhân vật đều như tiềm ẩn thứ mầm ác được che khuất, giống như chúng ta vẫn thường bỏ qua những suy nghĩ bất chợt lóe lên bên trong. Yoko Ogawa theo đuổi những gì “không nhìn thấy được” ấy bằng thứ văn xuôi chậm rãi, khung cảnh tĩnh lặng cùng linh cảm sầu muộn về nỗi bất an sâu xa. Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp ám ảnh của Nhật ký mang thai. *** — “Yoko Ogawa là một nhà văn có thể diễn tả một ách uyển chuyển và sắc sảo những nét tâm lý khó nắm bắt nhất của con người” – Kenzaburo Oe — “Sự hư cấu của Yoko Ogawa tựa như một liều thuốc gây ảo giác nhẹ. Rất lâu sau khi đọc, câu chuyện vẫn sẽ còn đọng lại, làm thay đổi quang cảnh trước mắt bạn, khiến sự điềm nhiên của bạn lung lay, gieo vào đầu óc bạn sự nghi hoặc đối với ngay cả những người bạn thường hay gặp. Tài năng của bà vừa hé lộ vừa lưu giữ sự bí ẩn về bản chất con người” – Kathryn Harrison, tác giả của The Kiss — “Giống như tiểu thuyết gia Nhật Bản Kenzaburo Oe, những mẩu đối thoại rời rạc của Yoko Ogawa đã chạm tới niềm bất an sâu thẳm nhất trong tiềm thức cùng với sự tỉnh tại tuyệt đối” – the Pedestal Magazine. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Đ i làm về, tôi thấy trên bàn ăn mẩu giấy anh rể nhắn lại. “Chị trở dạ. Anh đưa chị vào viện"? Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ ngắn ngủi ấy. Chiếc thìa còn dính mứt nằm chỏng chơ bên cạnh. Tôi ném nó vào trong bồn rửa bát, suy nghĩ giây lát phải làm gì tiếp theo. Tôi đọc lại mẩu giấy lần nữa rồi đi ra ngoài.Quang cảnh trước mắt toàn là nắng. Những tấm kính trước của xe ô tô và những cột nước phun lên từ đài phun nước trong công viên làm tôi lóa mắt. Tôi nhìn xuống dưới, vừa quệt mồ hôi vừa bước đi. Hai đứa trẻ đội mũ cói chạy vụt lên phía trước tôi. Cổng chính của trường tiểu học đóng kín, sân trường vắng vẻ trải rộng. Đi qua khỏi cổng trường là tới một hàng hoa nhỏ. Cả người bán lẫn người khách hàng đều chẳng thấy đâu. Trong tủ kính, mấy bó thạch thảo rung lên khe khẽ. Rẽ khỏi góc phố, cuối đường là viện M. Đúng như những gì chị nói, chỉ có thời gian ở đây là dừng lại. Hình ảnh về một bệnh viện bị gói kín trong kí ức bấy lâu hiện ra nguyên vẹn ngay trước mắt. Bên cạnh cổng là cây long não đại thụ, cửa kính mờ đục, chữ trên bảng hiệu bong gần hết. Không một bóng người, chỉ có bóng nắng của tôi in đậm trên đường. Từ đây men theo tường rào phía sau, chắc chắn có cánh cổng phụ sắp hỏng. “Hẳn là cánh cửa ấy vẫn sắp hỏng như ngày xưa", không hiểu sao tôi lại có thể hình dung rõ ràng đến thế. Chẳng sai tẹo nào, vẫn là cánh cửa bị bung mất một bên bản lề. Tôi vừa tránh để mắc áo vào đinh vừa lách mình qua khe cửa, trước mắt là khoảng sân có bãi cỏ. Khẽ đưa chân dẫm lên đám cỏ xanh được cắt tỉa gọn gàng, cảm giác xốn xang trong lồng ngực sống dậy. Tôi lấy tay ngăn mồ hôi trên trán và nhìn lên. Tất cả dãy cửa sổ bằng kính đều sáng đến lóa mắt. Tôi từ từ lại gần tòa nhà, mùi sơn từ khung cửa sổ bay thoang thoảng. Không một bóng người, không một ngọn gió, ngoài tôi ra chẳng có gì chuyển động. Không cần những thùng các tông tôi cũng có thể ngó được vào trong phòng khám. Không có cả bác sĩ lẫn y tá. Bên trong mờ tỏ như lớp học nấu ăn sau giờ tan trường. Tôi nheo mắt lần lượt xác định từng thứ một: Lọ đựng thuốc, máy đo huyết áp, bức hình hướng dẫn dẫn tư thế sửa ngôi thai, máy siêu âm. Tấm kính áp vào mặt âm ấm.Tôi mơ hồ nghe thấy tiếng trẻ sơ sinh khóc. Tiếng khóc bé nhỏ run rẩy và nghèn nghẹn vọng lại từ phía bên kia ánh mặt lấp loáng. Lắng tai nghe, tiếng khóc ấy xoáy thẳng vào màng nhĩ. Đáy tai đau nhói. Tôi đưa mắt về phía tầng ba. Một người đàn bà trong bộ đồ sản phụ đang nhìn ra xa. Những đường cong của bờ vai hắt trên tấm kính. Mái tóc xõa xượi rủ xuống trán, để lại những khoảng tối trên gương mặt xanh xao, thành ra tôi không chắc có phải là chị hay không. Người đàn bà khẽ mấp máy đôi môi thâm xám, chớp mắt. cái chớp mắt yếu đuối như lúc khóc. Khi tôi cố nheo mắt nhìn thì bị tia nắng hắt ra từ ô của kính chắn mất tầm nhìn. Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Mang Thai của tác giả Yoko Ogawa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truyện Hai Người - Vũ Bằng
Nếu người ta muốn tìm ở truyện này một truyện gì, tôi xin nói ngay truyện này không có truyện gì cả . Bạn đọc xem hết, sẽ thấy nó thường lắm, bởi vì nó xảy ra luôn và còn cứ xảy ra mãi mãi. Nhưng cái đó không quan hệ. Cái quan hệ là nhân vật. Trong rừng cây, không có hai cái lá giống nhau, thì trong rừng người, làm sao mà lại có hai người giống nhau cho được ? Vậy, cái khó của một nhà văn, phải đâu là chụp lại nhân vật để các bạn khác cùng xem. Tôi nghĩ nếu công việc của nhà văn có khó thì chính ở chỗ « sáng tạo » ra nhân vật vậy. Hai người. Hai người trong truyện này là hai kẻ bị đọa đày.  Linh hồn họ đau đớn, họ là những người đáng thương. Sự đau khổ nâng cao họ gần trời. Những người thực cao thượng đều phải thấy một cái buồn mênh mông trên trái đất. *** Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Kéo cái chăn chiên lên cổ, y lắng nghe cái đêm khuya rơi não nùng ở một góc vườn. Hoa rụng, gió gào. Trời sầu thảm tựa một linh hồn đau khổ. Những hạt mưa hình như mang lại những lời trối trăn cuối cùng của cây cỏ và phố xá. Không có một tiếng rao. Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Y vò võ nằm thu hình ở trong một cái buồng con. Bóng tối đầy thăm thẳm. Ngủ được thì thực tốt. Nhưng y không ngủ được, và y nghe thấy những tiếng động chung quanh cuộc đời của y. Y nằm cái giường của y và y nghe những tiếng động ấy, y ở cái gác của y và y nghĩ miên man đến đời của y. Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Ấy chính lúc ấy, y thấy hai mươi tuổi của y tiến lại trước mặt y. tại sao? Y không phải là một người ốm quay lại nhìn dĩ vãng. Nhưng mà những hạt mưa kêu lên như một linh hồn bị xiềng xích và những tiếng kêu ấy đã làm những tiếng kêu của y thức dậy. Người ta có thể bảo rằng đời người sắp xảy ra một cái nạn gì đây. Y thấy cái tuổi hai mươi của y đến ở giữa tấm lòng giá lạnh và y buồn, bởi vì hai mươi năm mà y đã trải qua không phải là hai mươi năm y ước định. Không, cái đời của y, y định nó khác lắm, chứ có đâu như thế này …. Lúc mười tám tuổi, y nghĩ: Đến hai mươi tuổi ta sẽ lập thân ta. Ta không biết rồi ta làm gì, nhưng ta biết chắc là ta làm nên to lắm bởi vì ta theo học đến tú tài mà bất cứ về môn nào ta cũng đứng hạng nhì, ba cả. Đến mười chín tuổi, y có những ý muốn rõ ràng hơn: Hai mươi tuổi, ta sẽ đổ tú tài, ta vào học thuốc, và sau dăm bảy năm theo học, người ta sẽ thấy ta đi lại ở trong tỉnh như một bức tranh nhân đạo. Nhưng chỉ ít lâu sau, y lại đổi ý kiến ngay bởi những ông bác sĩ có cái trách nhiệm nặng nề quá và chỉ vô ý một chút cũng có thể làm chết người được như chơi. Lại nữa, y có một người bạn học ở ban văn chương tìm đủ lý lẽ để cho y hiểu rằng học luật và học thuốc đều không làm gì được cả. Y bèn sang học ban văn chương và ra công khảo về Boileau, về Rouseau, vê Goethe. Văn chương có thể đưa người ta đến tất cả các nghề: nghề dạy học, nghề thư ký, nghề tham biện, và không ngăn cấm ta làm báo, làm họa sĩ, làm giáo sư âm nhạc. Những học trò tú tài ban văn chương đi riễu trong một cánh đồng đầy mộng và chứa chan hy vọng. Y chứa chan hy vọng quá thành thử những cái thích của y không bờ bến. Nhưng mà đêm nay … Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Tâm hồn y rung động những tiếng vang lạnh lẽo. Từ những sự rầu lòng đến hy vọng, đó là những năm tháng bị giam hãm ở bốn bức tường trường học nó kêu rên, nó đi lại, nó kể lễ những hình phạt của những ông giám thị, nó nhắc nhở một quãng đời bó buộc và buồn rầu, nó đem diễn lại những buổi chiều ngồi ngủ gật trong "ê – tuýt". ( Tiếng Pháp Étude = nơi học tập ) Ngọn đèn hoa kỳ để ở trên bàn ngủ của người trẻ tuổi chiếu một thứ ánh sáng não nùng. Người ta thấy những quyển sách viết trong bốn năm học Bưởi của y. Gió đập cửa thình thình, mưa rào rào xuống như một người khóc không bao giờ nín. Y tưởng như nghe thấy từng bài thơ của Villon, của Chénier, của Lamennais. Y nhớ lại cả những giờ toán pháp. Nằm nghe gió thỉnh thoảng rít lên, y lại tưởng như nghe thấy những chữ X,Y,Z vậy. Những chữ x,y,z ấy ở trong những bài kỷ hà học của y: thấy chúng là những kẻ khốn nạn làm ăn vất vả quá, đến tận lúc chết có lẽ cũng không được nghỉ. Việc ấy như thế này: Hồi đó, y vừa mới lên năm thứ ba. Ông cụ sanh ra y làm chánh tổng ở một làng ở Hải Dương. Một hôm, nhân dịp được nghỉ lễ, y về quê thăm nhà, và ông bố cưỡi con ngựa đèo con đi sang làng bên cạnh để khoe con mình học ở trường Cao Đẳng trên Hà Nội về chơi. Bất ngờ đến một con dốc kia, con ngựa ngã. Hai bố con văng mỗi người một nơi. Ông cụ nói: Hải ơi, con đã thấy chưa? Thầy độ này suy lắm. Gân cốt kém, mắt mũi cũng kém, thế mà con chẳng biết thương thầy, Hải ạ! Thầy cặm cụi một sương hai nắng để gửi con lên học ở Hà Thành, thầy cho con cái vốn đấy, thế mà con không chịu khó học hành gì cả. Kỳ thi nào con cũng gần bét. Con là con cả của thầy, con còn các em, con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ! Hai bố con nói thế xong rồi về, mang một khối nặng ở trong đầu. Thế rồi, cách ba tháng sau, vào giữa lúc buổi học chiều bắt đầu, người cha khốn nạn ấy không sống nữa. Một bức điện tín đến báo tin, chính ông giám thị đã mở ra đọc trước. Nước mắt không đến được, nhưng mà hình như suốt đời, ông già đã chết ấy vẫn còn nói câu này: "Con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ!". Chịu tang đâu đấy cả rồi, Hải lại quay lại sân trường cũ. Y không kể chuyện của y cho ai nghe hết, nhưng chuyện này, đầu y không theo chân y nhưng chính là đầu y theo chân y. Y xếp hai chân ngang hàng với nhau. Còn hai tay, y để vào hai thái dương. Mười ngón tay của y kẹp chặt lấy cái trán để cho những cái gì đã đọc được ở sách, bằng hai con mắt, đều phải ở lại cả trong óc, không thoát ra được ngoài. Sự thực thì cũng hơi khó khăn một chút: những bàn tay thì ở lại, nhưng hai con mắt thì vẫn để đi đâu … Tuy vậy, cuối năm y cũng được hai giải thưởng: giải thưởng cách trí và giải thưởng sử ký và địa dư. Lúc ông hiệu trưởng gọi tên y để lên trên bục nhận thưởng, y nhìn chòng chọc vào gói sách, rồi đánh đùng một cái, y hệt một cái máy nước chảy, y khóc, khóc, khóc bao nhiêu là nước mắt, đến nỗi ông hiệu trưởng phải kêu hai người học trò lớn đến dìu y ra ngoài. Người bố đã chết rồi, y mới được thưởng thực là chậm quá. Bây giờ, Hải như một người nhà quê đã cày xong thửa ruộng của mình. Một trận gió thổi ở trên những bông lúa sắp cấy, và người nhà quê ấy tìm ở trên mặt đất xem còn có gì sót lại hay không. Nhưng mà những việc chua chát ở đời bao giờ cũng có ngày mai. Một đêm mưa gió, có một người nằm không ngủ được. Y thấy cuộc đời của y bỗng có một buổi chiều chua chát. Nhà y hết tiền. Mẹ y thì già yếu. Y lại có nhiều em. Cái chí nguyện của y lại bật rễ như một cây cổ thụ, mảnh bằng tú tái mày mong mỏi bấy giờ chỉ còn lại một cái đích để không bao giờ tới nữa. Y bỏ học. Y đem mẹ và em lên buôn bán lặt vặt ở Hà Thành. Thôi thế là thôi, bao nhiêu mộng tan tành, bây giờ y chỉ là một kẻ dở dang, những đêm mưa lạnh, nằm nghĩ đến hồi đi học trông đợi ngày thi ra. Buổi sáng, y thức dậy và hỏi bốn phương trời. Y không muốn có một ý nghĩ bi quan nào cả. Đây này: khí trời buổi sáng đem bao nhiêu là sự mát mẻ ở những phương trời xa lại. Y, một người đã đỗ bằng thành chung và đã học ba năm ban tú tái! Có chức thư ký nhà nước, thăng từng trật một, mà trật nào cũng chứa một mẩu tương lai. Có chức thư ký nhà buôn, mới nghe thì tưởng chẳng nên trò gì cả, nhưng chính ra thì lương bổng hậu lắm, lấy được vợ đẹp và làm được nhà cho thuê là khác. Có chức giáo học tư gia nhàn rỗi, cơm ăn nước uống tử tế, mà mỗi tháng, nếu chịu khó thì lại con để được ra vài chục. Này này, đời nhiều hứa hẹn lắm! Chỉ sợ mình không có sức mà thôi, chứ có sức thì trăm hai mươi chỗ làm vừa Nhà nước, vừa tư gia kia kìa. Người ta không thiệt gì cả. Một ông cử nhân luật chẳng đã bảo y rằng những bực tài giỏi xưa nay đều là những hạng rẽ ngang ư? Mà chính vì có rẽ ngang như thế mà một người bạn của ông ta mới xoay làm nghề báo, mỗi năm kiếm đến vài ba nghìn đồng. Hải sống với cái tâm trạng ấy trong hai năm. Mẹ y cũng vậy, nhưng hơi lo một chút... - Đời mỗi lúc một khó khăn, con ạ. Hải cười. Y đứng lên. Mẹ ơi, cuộc đời nó có những lý luận ấy và thấy nó đi qua cửa sổ. Mẹ nghi ngờ sự thực. Hải lấy làm phiền không làm cho mẹ hiểu rõ hơn. Y có năm vạn ước vọng, mà ước vọng nào cũng bị mẹ hơi ngờ cả. Tại sao? Y cũng có những lý luận riêng. Mỗi lý luận, Y lại tìm ví dụ cho thâm cứng. Những bạn cũ của y bây giờ đều có việc làm cả. Y cũng như họ, y sẽ theo những đường mà họ đã đi. Tiện lắm. Mà y lại lợi hơn là khác: bởi vì y đi sau, y chỉ bắt chước những người đi trước, chứ không phải nghĩ ngợi mưu cơ gì cả. Bà cụ già, nghe nói mà sợ hãi thay.Gần trải hết một cuộc đời rồi, bà còn lạ gì cái nghề nghiệp nó cũng như của cải ở đời. Những người nghèo không có nghề. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Hai Người của tác giả Vũ Bằng.
Trong Rừng Nho - Ngô Tất Tố
Là tiểu thuyết dã sử về nữ sĩ Hồ Xuân Hương, lần đầu được nhà in Mai Lĩnh xuất bản, đúng vào thời kỳ có những biến động lớn của lịch sử dân tộc. Bản thảo chưa kịp phổ biến rộng, đã phải "khiêm nhường" nằm ẩn khuất trong im lặng, nên được ít người biết đến, không như các tác phẩm khác của họ Ngô, chúng ta sẽ bắt gặp ở đây một ngòi bút hư cấu tài hoa, phóng túng, làm rõ những nét đặc sắc trong cuộc đời Bà Chuá thơ Nôm, cả đời tư và những bài thơ "tương truyền" mà chỉ bà mới làm được. Những sinh hoạt văn hóa, khoa cử của kinh thành Thăng Long, vào những năm cuối thế kỷ 19; cũng được Ngô Tất Tô tái hiện một cách chân xác, sinh động. Chúng ta thấy hiện rõ trong tác phẩm hình ảnh Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ đang thử phá hết những cái đạo đức giả, chấp nhận cuộc chơi " với ông hiền, ông thánh"; vạch rõ những thứ lễ nghi chế độ của các ông đặt ra cho đàn bà, con gái... rặt là những cái xiềng xích trói buộc. Trong lần in này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn vẹn tiểu thuyết dã sử "Trong rừng nho" cùng bạn đọc, hoàn toàn tôn trọng những gì mà Ngô Tất Tố đã thể hiện về nữ sĩ họ Hồ. *** Đêm ấy không có trăng. Phố phường Hà Nội đã theo cảnh tượng trời đất, biến thành một vật đen xì. Vũ trụ thu lại vùng ánh sáng của mấy cây đình liệu. Gió bấc ào ào thổi. Chín, mười ngọn lửa lớn bằng chín mười cái bịch, hết thảy điên cuồng lồng phách như muốn lìa những bó đuốc nứa, nhẩy vọt lên tầng mịt mù. Quang cảnh trường thi hôm nay càng rộn ràng hơn mấy hôm trước. Dưới lớp ngói ống của nhà "thập đạo", xiêm áo xen với cờ quạt, thấp thoáng hiện trước bóng đèn lồng. Trong những gian chòi canh lơ lửng gác ở lưng trời, hiệu trống cái đi đôi với hiệu thanh la, thong thả đưa những giọng oai hùng trịnh trọng. Ngoài dãy phên nứa hùng vĩ như bức tường thành quây kín bốn "vi" nền trường, đội lính trú phòng rầm rập theo vó ngựa của viên giám trường đề điệu, tiếng nhong nhóng của nhạc ngựa hóa lộn tiếng dình dình của trống quân. Trên nếp cửa tiền, một bức hoành biển dài dằng dặc như chiếc thuyền thoi, nghênh ngang nằm gối đầu vào đôi đồng trụ. Với bông hoa sen chỉnh chọe kết ở chính giữa và đôi trái găng lủng lẳng treo ở đôi đầu, làm "diềm" phủ trên mép biển dường muốn phô vẻ thắm của tấm nhiễu điều. Với màu sơn son lóng lánh in ánh lửa sáng choang: cái khung chữ nhật, như có ý khoe nét vàng của bốn chữ "Tân hưng thịnh điển." Từ mặt tiền qua phía tả đến mặt hậu, cũng như từ mặt hậu qua phía hữu đến mặt tiền, bốn cửa ở bốn góc đều ngỏ thênh thang. Mấy cái khung bảng chứa hàng mấy nghìn tên người cùng ngảnh cái mặt "rán giấy" ra đường, như đương ngóng các thầy sĩ tử. Mấy chiếc ghế tréo cao chín mười bậc cùng duỗi bốn chân đứng cạnh các cửa, như đương đợi mấy ông khảo quan. Hai cửa của vi tả vi hữu ở đằng sau, cũng như hai cửa của vi giáp vi ất ở đằng trước, toán lính kiểm soát đã chực ngoài cửa bằng dáng bộ nghiêm trang. Tấm áo nẹp xanh thân đỏ gọn gàng nấp dưới chiếc nón dấu sơn quang dầu. Những sợi dây tòng của tay thước khảm trai, bông bênh rủ trên miếng ban kiên sạc sỡ. Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào tự nẻo xa xa đưa lại, học trò các nơi tới tấp kéo đến cửa trường. Gió bấc thổi càng dữ. Những cây đình liệu cháy càng nỏ. Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người đông như đám hội. Có người đến bảy tám mươi tuổi, mái tóc bạc phất phơ xòa dưới nón sơn. Cũng có người mới độ mười bốn, mười ba, hồng mao còn ngất nghểu ngóng trên vành khăn nhiễu. Có người mặt non mơn mởn chỉ vào trạc mười tám đôi mươi. Cũng có người râu dài lê thê, ít ra phải năm sáu chục tuổi. Có người ra tuồng kiết xác, cái thân gầy guộc co ro sưởi trong mảnh áo đơn. Cũng có người rất mực phong lưu, áo bông quấn sù sù, hàm răng vẫn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu, khuỷu tay còn đủ sức thích bên kia, gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng có người cất cổ không lên, lều, chiếu đều bị lôi xềnh xệch ở mặt đất. Vênh cái mặt dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu. Dúm trên trán những nét lo âu, ấy là người lao đao trường ốc. Đủ các nhân vật. Đủ các bộ dạng. Đêm càng khuya, học trò kéo ra càng nhiều. Ai vào vi nào, lật đật tìm đến cửa vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người trang thức cùng một lối như nhau: sườn này cái chõng tre và bộ gọng lều, sườn kia thì bó áo tơi và cuộn áo lều hoặc một đôi chiếu cói, trên ngực quả bầu be và chiếc ống quyển, dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ vật nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thẩy xúm lại và đu lên cổ các ông thư sinh. Hình như trời bắt bao nhiêu ông cống, ông đồ, trước khi bước lên đường công danh, đều phải tập làm anh phu tải. Kẻ chen vào, người đẩy ra, kẻ du đi, người kéo lại, dưới bóng lửa sáng, đám người bị dồn dập, bị xô đẩy, cồn cộn như lớp sóng nước triều. Tiếng gọi nhau, tiếng hỏi nhau, tiếng mắng nhau, tiếng cãi nhau, tiếng lầm rầm, nói chuyện với nhau, các thứ tiếng ấy hợp lại, thành một cái vọng ầm ầm, bốn khu cửa trường giống như bốn cái chợ lớn. Sang đầu canh tư, các cây đình liệu đều cháy già một nửa. Tàn nứa đỏ ối theo ngọn gió bấc tản mác bay khắp giữa trời. Rồi từ từ, nó rơi xuống đám đầu người, xuống quãng đất không, xuống những nơi xa tít, nếu nó không bị tắt ở bóng tối. Trong nhà thập đạo, trống khẩu gióng, kiểng đồng, nện đủ ba hồi chín tiếng, các bóng đèn đều bị lay động, các ông quan trường cắt nhau mỗi người xuống mỗi vi. Bốn ông ngự sử đem hết chức trách đàn hặc lên bốn chòi canh. Hai ông phân khảo tiến ra cửa hai vi tả hữu với cái quyền "nửa nội nửa ngoại. Ông phó chủ khảo theo biển "phụng chỉ" đến cửa vi ất. Còn cửa vi giáp, vẫn là phần ông chánh chủ khảo trông nom. Hai hàng đèn lồng lấp ló soi hai bên đường, một đôi lọng vàng nghiêm chỉnh rước lá cờ "khâm sai" đi đằng trước đường, ông chủ trường thi và cái mũ cánh chuồn, cái hốt ngà voi, cái đai kim tuyến, cái áo thủy ba, cái hia rát con bướm vàng bằng bạc, khúm núm núp dưới bốn chiếc lọng xanh chóp bạc, thong thả đi từ nhà thập đạo ra cửa trường. Cũng như mấy ông phó khảo phân khảo ở các cửa kia. Ông chánh chủ khảo vâng mệnh lệnh tôn nghiêm của lá cờ vua ban, khoan thai bước lên mặt ghế tréo và ngồi chỉnh choẹ vợi một chồng quyển thi của học trò. Lọng vàng lọng xanh lại lần lượt làm theo phận sự. Nghĩa là bốn cái lọng xanh cùng che vào ông chủ khảo, hai cái lọng vàng thì che cho lá cờ "khâm sai". Tiếng ầm ầm ở khu đất của trường tự nhiên im bặt, mấy nghìn con mắt đều đổ dồn vào viên đại thần đứng đầu khảo quan. Bỗng như phá bầu yên lặng: "Báo oán giả tiền nhập! Báo ân giả thứ nhập! Sĩ từ thứ thứ nhập!" - Dứt mấy tiếng loa chiếu lệ, ậm ọc ở trên chòi canh. Người lính đứng cạnh ghế tréo của ông chủ khảo theo miệng người lại phòng cầm sổ cũng đứng chỗ ấy, bắc loa đọc tên họ học trò. Một tiếng dạ bật lên trong đám đông. Một người thiếu niên liều mạng lách qua "vòng vây, đệ các đồ đạc kềnh càng đến khu đất trước ông chủ khảo. Toán lính kiểm soát bắt đầu làm việc. Họ giở bỏ áo tơi và cuốn áo lều, họ dòm những cái chõng, chân chõng, họ ghé vào ống đựng quyển và quả bầu be đựng nước, họ lần giải lưng và vuốt các gấu áo gấu quần, họ cởi tung cả bộ gọng lều, rồi họ lục soát đến cái tráp sơn. Ngoài một thoi mực, một cái nghiên, vài cái bút, một cái dùi vở, một tập giấy bản và mấy cái bánh giò, mấy cái bánh dầy, vài cái chả trâu, vài miếng cơm nắm, vài miếng thịt rang, trong tráp không có vật gì khả nghi. Người thiếu niên ấy được phép lĩnh quyển thi của người lại phòng, và tung tăng đi vào trong trường với các đồ đạc lúc lích, vấn quanh vai quanh cổ. Đến lượt người khác theo tiếng loa gọi tiến vào. Người này cũng không có sách thạch bản hay văn cũ chữ kiện chi hết, nhưng các đồ lặt vặt không đựng bằng tráp mà đựng bằng yên, và trong cái yên lại thêm một bộ bàn đèn thuốc phiện. Thuốc phiện không phải vật bị cấm, người ấy cũng được lĩnh quyển vào trường. Người lính cầm loa lại gọi đến tên người nữa. Cũng không có thứ gì gian lậu, nhưng ở trong tráp người ấy lại có một dầm con. Thì ra ông có chứng đi kiết, phải dùng thứ khí giới ấy để vùi cái bã văn chương xuống nền lều, nếu khi làm văn chẳng may bệnh phát. Mang dầm vào trường không có tội gì. Người ấy được qua cứa trường như hai người kia, sau khi đã nhận quyển thi bỏ vào ống quyển. Tên người khác nữa được nhắc lại trong miệng loa đồng. Các vật cần dùng của người này không khác gì của mấy người trước. Riêng có thứ đồ đựng nước không phải là quả bầu be mà là một cái lọ sành rộng miệng. Ngạc nhiên, người lính kiểm soát thò que khoắng dưới trôn lọ, tức thì ở trên mặt nước có vật tròn tròn nổi lên. Càng lấy làm lạ, người lính kia vội vớt vật ấy ra bửa ra xem. Té ra một mớ giấy bản viết chữ nhỏ hơn con kiến, người ta đã vo tròn lại và trát một lượt sáp ong ở khắp chung quanh. Của phi pháp liền bị tịch thu, và cái tội "mang sách vào trường" tức khắc đưa học trò gian ngoan ra khỏi nơi thi cử. Người lại phòng, người lính cầm loa và bọn lính kiểm soát lại tiếp tục làm việc như thường. Chừng nửa canh năm, sương mù ở các cây đình liệu đã lui xuống gần mặt đất, ánh sáng cũng biến ra sắc úa vàng. Đám người và đám lều chõng đã chuyển hết ba phần tư vào trường, khu đất ngoài trường chỉ còn lơ thơ vài trăm học trò, tiếng ồn ào dần dần êm dịu. Mặt trời mọc, các cây đình liệu cũng vừa cháy hết, vũ trụ đã khôi phục cảnh tượng xinh đẹp và mông mênh của ban ngày. Trong miếng đất giáp với cửa trường, một chàng trai trẻ thơ thẩn đợi sự - khám xét của bọn lính kiểm soát. Bộ mặt tuấn tú cố chọi vẻ kiều diễm với ánh nắng buổi mai. Đôi mắt long lanh như muốn hút cả sơn hà thành quách. Quần áo đồ đạc chàng ấy không có thứ gì phạm cấm, chỉ duy cái ngực sao lại nở nang mẩy lớn, hơi khác với ngực người thường. Lục hết cái món linh tinh, cố nhiên bọn hạnh kiểm soát không quên soát cái chỗ mà họ đã nghi ngờ đó. Vừa thục tay vào lần trong áo chàng ta, thì người lính ấy lập tức rút luôn tay ra, dáng bộ giẫy nẩy giống như đụng phải nước nóng. Những người gần đó hau háu nhìn chàng tuổi trẻ bằng đôi mắt ngờ vực, có kẻ bảo chàng ấy giắt nhiều sách vở giấy má trong mình, có kẻ lại đổ trong mình chàng ta hẳn có hung khí hoặc phù chú chi đó. - Bẩm quan lớn, người này không phải đàn ông. Sau tiếng trình giật giọng của người lính kiểm soát, ông chủ khảo trọ trẹ gắt gỏng: - Sao mi hay Bẩm quan lớn, con thấy... Rồi ngập ngừng, người lính như không dám nói nốt. - Mi thấy cái chi? Người lính lại ngập ngừng: - Bẩm con thấy... Sự thông minh của chủ khảo đã do sự ngập ngừng đó mà biết được cái người lính đã thấy, ngó mặt người trẻ tuổi, ông ấy hỏi một cách nghiêm nghị: - Có thật mi là đàn bà không? Đích thực đàn bà, người ấy không dám chối cãi. Lệnh nghiêm từ trên ghế tréo đưa xuống. Người đàn bà ấy phải bỏ chiếu, lều, chõng, tráp ở cửa trường, theo luôn sợi thừng của lính kiểm soát để đi ra dinh tổng đốc. Trong đám đông, những ông sĩ tử còn đợi tiếng gọi, xôn xao người nọ hỏi người kia: - Cô ả nào mà to gan thế - Quê quán chị ta ở đâu, có ai biết không? - Cô ta ở phường Khán Xuân, chứ đâu. - A! Cái cô ái nam ấy ư? - Phải, chính cô ái nam ấy đấy! - Hoài của nhỉ! người thế mà ái nam! - Cô ả học hành khá lắm phải không? - Chẳng khá lại dám giả trai đi thi? Giỏi lắm đấy chứ, kém gì nàng Văn Tú Tài? - Các ông dám khen nó giỏi, tôi thì tôi cho là đồ đ...,"Nữ ngôn bất xuất", chữ sách để đâu? Một người con gái đã có đọc sách mà dám len lỏi vào thi với đám con trai, thì còn biết danh giá là cái gì nữa. Dầu hay! "Tám vạn ngậm tư" cũng là đồ bỏ. - Chẳng những đồ bỏ mà thôi, lại còn cái tội "khi quân" nữa chứ. Giả làm con trai đi thi đó là khi quân chứ gì! Rồi các ông xem, chị ta được "giảo giam hậu là nhẹ, nếu tội ấy vào người đàn ông thì phải "trảm quyết". Cứ thế, người ta cứ chĩa vào mặt người con gái mà cãi vã với nhau mãi như thế. Mặc cho những tiếng mỉa mai, những lời khen ngợi bay ngoài lỗ tai, cô gái lạ đời cứ việc đi qua trước mặt mọi người bằng dáng bộ thản nhiên. Mặt trời lên cao. Ánh nắng đã làm tan bớt giá rét. Khu đất ngoài trường dần dần vắng teo. Câu chuyện "thi gian" của cô ả ái nam, nửa theo các ông học trò vào trong vi giáp, nửa đi với bọn hàng quà hàng bánh ra các phố phường. ... Mời các bạn đón đọc Trong Rừng Nho của tác giả Ngô Tất Tố.
Sô Cô La Chạy Trốn - Dorothy Koomson
Sô-cô-la chạy trốn không phải là một câu chuyện cổ tích, nữ chính gặp nam chính rồi yêu nhau say đắm mà ở đó có sự đấu tranh, giằng xé trong tư tưởng một thời gian để đến với nhau. Tác giả đã xây dựng các nhân vật rất thực, có ưu, khuyết điểm, chẳng ai hoàn hảo cả, họ có thể mắc những sai lầm lớn vì không vượt qua được nỗi sợ hãi của mình cũng như chính bản thân mình.  Đôi khi, bạn đọc bắt gặp hình ảnh của mình trong câu chuyện, bởi chúng ta từng chạy trốn trong hành trình của cuộc đời. Bởi chạy trốn bao giờ cũng dễ dàng hơn nhiều so với việc chạm đến và cảm nhận. Nhiều lúc bạn không dám yêu vì sợ bị phản bội, không dám thử bay lên cao vì sợ cảm giác rơi xuống đất, không dám nói vì sợ bị từ chối…  Đọc xong cuốn sách, chúng ta nhận ra rằng chạy trốn không bao giờ là giải pháp cho mọi chuyện. Chạy trốn chỉ giúp bạn an toàn trong nhất thời nhưng bạn sẽ không bao giờ biết được cảm giác khi được làm một điều gì đó trọn vẹn. Mà chúng ta “hãy chấp nhận nỗi đau và xem mọi thứ có thể lấp lánh đến thế nào khi em nhìn nó từ phía khác!” như lời khuyên của anh trai Amber dành cho cô. *** Mày đang trôi trên một biển sô-cô-la. Sô-cô-la ấm, ngọt, đầy khoái cảm... sô-cô-la êm ái, mượt mà, dìu dịu. Biển sô-cô-la vỗ lên thân thể mệt mỏi, trần truồng của ta. Trùm phủ. Vuốt ve. Mang đi mọi đau đớn và âu lo. Mọi thứ, thế giới, thực tại, con người, đều đã được xô hết đi bằng biển sô-cô-la dập dìu trên da thịt. Yên bình, nhẹ... “Anh... ờ, đi nhé.” Nghe chẳng giống miền cực lạc sô-cô-la của mình tí nào. Tôi hé mở một bên mắt ngái ngủ, kiểm tra xung quanh. Ồ. Hóa ra không phải tôi đang trôi trên một đại dương kem sữa gốc ca cao nào cả. Mà sự thật là tôi đang gập người trên sofa, chân co tận ngực, trán tựa đầu gối, chiếc áo choàng tắm màu trắng sữa quấn quanh mình trần. Chẳng cần gương cũng biết mặt tôi đang dúm dó vì thiếu ngủ; đôi mắt đen nâu còn đầy vết ngủ nghê; và mái tóc đen dài tới cằm vốn gọn gàng giờ bù xù trông như gai với tua, chẳng khác gì một tượng sắt kiểu Gothic. Không, có cố cũng không thể xa thiên đường hơn thế này được nữa đâu. Nhất là khi có một tên đàn ông đang đứng trong phòng khách của tôi và lèm bèm chuyện đi với ở. Như một ả đang tiến gần giá treo cổ, tôi nhỏm đầu dậy và quay sang nhìn hắn. Greg đã quần áo chỉnh tề: áo chui đầu xanh sẫm, rộng thùng thình bên dưới một áo khoác dài tới gối. Quần jeans xanh. Túi màu đen đeo trên người. Đã mặc quần áo. Đầy đủ. Ngạc nhiên gì chứ? Nếu hắn sắp đi, chả lẽ lại mặc quần lót đứng đó? Greg cũng nhìn tôi, rõ ràng đang đợi tôi mở miệng. Đáp lại tuyên bố ở đi của hắn. Tôi câu giờ bằng cách hạ chân xuống, cẩn thận không thể hở thứ gì dưới lớp áo choàng, rồi tôi bắt đầu nghịch một cái gai tóc trên đầu, xoắn nó quanh ngón trỏ trong lúc cố tiếp xúc bằng mắt mà không phải nhìn vào Greg. Tôi phải xử lý sao đây? Lâu lắm tôi mới phải làm việc này, tôi quên xừ mất phải làm sao rồi? Nên tỏ ra tự nhiên chăng? Hay chán chường? Quan tâm? Nghiêm túc? Tuyệt vọng? Rồi còn màn phát biểu nữa. Tôi phải nói gì? “Chào nha, cảm ơn đã ngủ với em?” hay “Biến đi và đừng bao giờ bén mảng đến phòng ngủ của tôi nữa?” Rồi còn bữa sáng thì sao? Tôi khá chắc chắn là nên mời ăn sáng. Nhưng mà thế thì phải mất thêm cả tiếng đồng hồ nữa. Chắc hắn chẳng muốn kéo dài thêm vụ này bằng bữa sáng đâu nhỉ. Hay là có? Nhưng nếu hắn bỏ đi bây giờ thì đến thứ Hai tôi biết phải làm sao? Bọn tôi sẽ xử sự ra sao nếu cứ để mọi thứ lửng lơ trong không khí thế này? Quá nhiều câu hỏi cần trả lời đến nỗi tôi nghĩ nhẽ phải có người viết một quyển sách hướng dẫn cách hành xử trong những trường hợp thế này ấy chứ, nhờ? Một quyển Hướng dẫn nhỏ cho Những Sai lầm lớn hay gì đó. Đảm bảo kiếm bộn tiền. Có lẽ tôi nên thỏa hiệp. Không ăn sáng, cũng không chỉ ra cửa... Taxi! Tôi sẽ “đãi” hắn taxi về nhà. Nếu tôi làm thế, hắn sẽ còn lẩn quẩn ở đây đủ lâu để một trong hai đứa bật ra câu “Chuyện này chưa bao giờ xảy ra, OK?” Rồi chúng tôi sẽ cũng đồng ý không bao giờ nhắc lại nữa. Không bao giờ. Và rồi hắn sẽ cư xử đúng mực và bỏ về. Tôi hắng giọng, cố buộc mình phải nhìn vào mắt Greg. Lọn tóc quấn quanh ngón trỏ của tôi chặt đến đau tức. “Anh có muốn em gọi anh một cái taxi?” Tôi hỏi, giọng nhẹ nhàng và bình thản. Chẳng ai biết thật ra tôi đang khó thở, và sẽ còn tiếp tục khó thở cả sau khi hắn đi. “Không, anh cứ thế đi thôi. Đi khỏi đây thôi,” Greg trả lời nhưng không rục rịch. “Anh chắc chứ?” tôi khăng khăng. Hắn gật đầu và vẫn không cử động, rõ là không biết phải cử động làm sao. “Thật đấy, chả ngại gì đâu,” tôi nói. “Anh cứ đứng đó, em chỉ vào anh và bảo ‘Anh là một cái taxi.’ Dễ mà. Em làm vậy suốt.” Hắn chỉ đứng đó nhìn tôi chằm chằm. Tôi cũng nhìn hắn chằm chằm. Ừ thì ăn sáng vậy! ... Mời các bạn đón đọc Sô Cô La Chạy Trốn của tác giả Dorothy Koomson.
Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie - Mitch Albom
Đây là một quyển sách nhỏ rất cảm động đã được in lần đầu vào tháng 10, năm 2002. Quyển sách nói về một ông thầy già nua có thật ngòai đời, một cậu sinh viên cũ của người thầy khả kính đó, và những bài học cuối quí giá nhất trên đời. Văn phong của Mitch Albom rất giản dị, kể chuyện một cách rất nhẹ nhàng tâm tình, về những kỹ niệm với ông thầy khả kính và rất ư có cá tính ấy. Sau những ngày thăm viếng thứ ba kết thúc, chúng ta cũng sẽ rất ngậm ngùi thương tiếc cho những kỹ niệm đẹp tuyệt vời mà ông Mitch Albom ghi lại cho chúng ta cùng nhón chân nhìn vào những bài học tuyệt vời đầy tình người với người của cặp thầy trò này. *** Mitch Albom là một nhà báo, giữ mục thể thao cho tờ Detroit Free Press. Liên tiếp mười năm, lúc chỉ vào lứa tuổi trên 30, anh chàng  ký  mục  gia  thể  thao  này,  được  Hội  Ký  Giả  Thể  Thao (Associated Press Sports Editors) vinh danh là người ký muc gia thể Thao hay nhất. Thế rồi một ngày nọ, vì một sự đình công, anh đã tạm ngưng viết mục ký Thể Thao, để hoàn thành quyển sách, sau này là quyển sách bán chạy nhất trong năm 1977 - Quyển sách không liên quan gì tới thể thao. Một quyển sách viết về kinh nghiệm cuộc đời của một giáo sư đại học già đang chết dần mòn vì bệnh Lou Gehrig. Một tối nọ, Mitch Albom đang đổi từ  đài này qua đài khác không mục đích, và anh bỗng chú ý tới chương trình "Nightline" của Ted Koppel. Kìa người ta đang nói về ông Thầy yêu quý của anh! Từ lâu khi ra khỏi đại học, anh không còn liên lạc với ông Thầy Xã Hội Học, mà anh rất thân từ thuở bận quần jeans, áo thun, và đầu óc đầy lý tưởng. Giờ đây Mitch Albom là ký mục gia ăn khách, người ta cần anh viết về các trận banh, bóng rỗ, túc cầu, baseball, quần vợt nóng bỏng. Thêm vào đó anh còn làm cho đài radio, xuất hiện trên đài truyền hình, anh bận rộn với các các buổi phỏng vấn về các tay thể thao gia nổi tiếng đương thời. Anh chạy theo từng mùa của thể thao và quên mất ông Thầy yêu quý đã từng có những buổi nói chuyện đời lý thú với.... Sau buổi truyền hình, Mitch Albom gọi điện thoại hỏi thăm người thầy già, rồi bay về lại thành phố đại học cũ để thăm thầy. Và từ đó mỗi ngày thứ Ba cho đến khi Thầy Morrie Schwartz qua đời, hai thầy trò gặp nhau. Một thầy giảng về cuộc đời, và một trò ghi chép bài học và cảm nghĩ đã thay đổi đời sống của anh. Dù Thầy đang chết dần mòn nhưng thế giới thầy đầy tình yêu và hy vọng. "Tình Yêu là sự hiện diện của ta trên cuộc đời, dù rằng thể xác ta đã ra đi (Love is how you stay alive, even after you are gone).  Mitch Albom đã ghi lại kinh nghiệm của một người đang chết dần mòn, nhưng tư tưởng của ông vẫn còn mãi mãi. Đó là quyển "Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie" (Tuesdays with Morrie) của Mitch Albom. *** Khoá học cuối đời của vị giáo sư già của tôi diễn ra mỗi tuần một buổi tại nhà ông bên cạnh cửa sổ phòng đọc sách, nơi ông có thể nhìn ngắm một cây dâm-bụt, rụng lá đỏ hồng. Lớp nhóm vào mỗi ngày thứ ba. Bắt đầu sau bữa ăn sáng. Môn học là Ý Nghĩa Cuộc Đời. Dạy theo kinh nghiệm. Không có điểm sắp hạng nhưng có thi vấn đáp mỗi tuần. Sinh viên phải trả lời câu hỏi và phải tự đặt câu hỏi của mình. Cũng phải làm một vài công việc tay chân như nâng đầu giáo sư lên để vào một tư thế thoải mái, hoặc đeo cặp kiếng của ông vào sống mũi. Hôn ông từ giã cũng được thêm điểm. Không cần sách nhưng bàn nhiều về đề tài, bao gồm lòng nhân ái, làm việc cộng đồng, gia đình, tuổi già, tha thứ và cuối cùng là cái chết. Bài giảng cuối cùng rất vắn tắt chỉ có vài chữ. Đám tang diễn ra thay cho lễ tốt nghiệp. Mặc dầu không thi cuối khoá nhưng sinh viên phải viết một bài dài về những gì đã học được. Bài ấy được trình bày ở đây. Khoá học cuối cùng của vị thầy già chỉ có một sinh viên. Sinh viên đó là tôi. Khoảng cuối mùa Xuân năm 1979, vào một buổi chiều Chủ Nhật nóng bức, nhễ nhại. Tụi tôi cả trăm đứa ngồi với nhau, bên cạnh nhau, trên nhiều dãy ghế xếp đế trên nền cỏ trong khu trung tâm đại học. Chúng tôi mặc áo thụng nylon màu xanh dương và nghe bài diễn văn dài đến sốt ruột. Khi cuộc lễ chấm dứt, chúng tôi ném mũ lên trời và thế là chúng tôi chính thức tốt nghiệp, hoàn thành  năm  chót  của  đại  học  Brandeis,  nằm  trong  thành  phố Waltham, Massachussetts. Đối với nhiều đứa chúng tôi, tuổi thơ vừa mới hạ màn. Sau buổi lễ, tôi gặp Thầy Morrie Schwartz, ông thầy mà tôi quý mến nhất và giới thiệu Thầy với ba má tôi. Ông là người nhỏ bé, bước đi là những bước ngắn như thể là gió mạnh lúc nào cũng có thể bốc ông lên tới mây. Trong bộ lễ phục ngày tốt nghiệp, trông ông giống như một cây thánh giá dựng giữa ông tiên tri trong Kinh Thánh và một thiên thần tí hon vào dịp Giáng Sinh. Mắt ông long lanh hai màu xanh dương lục, tóc thưa mỏng màu bạch kim xoà xuống trán, đôi tai lớn, sóng mũi hình tam giác và hai chùm lông mày hơi ngả màu. Mặc dầu răng ông không đều đặn và hàm răng dưới thụt vào trong -- giống như có ai đấm xô vào trong -- khi ông cười lại giống như khi bạn vừa nói một câu khôi hài chưa ai từng nói trên trái đất này. Ông bảo ba má tôi là tôi đã chọn tất cả những giảng khoá mà ông dạy. Ông bảo ba má: "Ông bà có một cậu con đặc biệt lắm đấy. " Tôi bối rối nhìn xuống đôi chân. Trước khi chia tay, tôi trao tặng ông thày một gói quà là chiếc cặp da màu xám với tên tắt của phía trước chiếc cặp. Tôi đã mua chiếc cặp này ngày hôm trước tại một thương xá. Tôi không muốn quên ông. Có lẽ tôi không muốn ông quên tôi thì đúng hơn. "Mitch, cậu là một trong những sinh viên giỏi. " Ông vừa nói vừa ngắm chiếc cặp. Rồi ông ôm tôi. Tôi cảm thấy hai cẳng tay gầy gò ôm quanh lưng. Tôi cao hơn ông nên khi ông ôm tôi, tôi cảm thấy ngượng ngùng như tôi là một phụ huynh và ông là một thằng nhỏ. Ông hỏi rồi đây tôi sẽ còn liên lạc với ông nữa không, tôi không do dự trả lời: "Dĩ nhiên còn chứ, Thầy". Khi ông lùi ra, tôi thấy ông khóc. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Thứ Ba Với Thầy Morrie của tác giả Mitch Albom.