Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mật Mã Do Thái

Mật Mã Do Thái

Bạn có biết rằng Người Do Thái chỉ chiếm ít hơn 1 % dân số thế giới, nhưng 176 người đạt giải Nobel lại là người Do Thái. 25 phần trăm các tổ chức nhận giải thưởng Nobel Hòa bình thì đều do người Do Thái thành lập hoặc đồng sáng lập.

Trong khi ở Mỹ có khoảng 67 phần trăm học sinh tốt nghiêp cấp ba vào được đại học, thì người Do Thái lại có đến 80% học sinh vào được đại học trong đó có 23% vào được trường Ivy League – một trường đại học danh giá của Mỹ

Các nghiên cứu đã cho thấy rằng người Do Thái gốc Đức và Bắc Âu rất thông minh với chỉ số IQ từ 117 đến 125, cao hơn 12-15 so với nhóm không phải Do Thái. Nhóm hiệu quả kinh tế người Mỹ gốc Ít-sa-en được xem là nhóm mà “có khả năng nhiều hơn 7 lần các nhóm khác về tập trung cao nhất những nguồn thu nhập cao hơn và có tỉ lệ thấp nhất sự phụ thuộc vào sự giúp đỡ của xã hội”.

Có nhiều người xác định hiên tượng phi thường này do yếu tố thiên tài, còn một số khác thì cho rằng đó là do yếu tố thành công bí mật ẩn chứa trong văn hóa Do Thái đã thúc đẩy họ thành công đến như vậy. Theo khía cạnh tâm linh, mục sư Mô-sê người Do Thái cổ đại đã cho chúng ta kinh Torah và cho chúng ta những lời tiên tri Do Thái đã được viết trong Kinh thánh Cựu Ước.

Mật Mã Do Thái – Perry Stone

Theo lịch sử, người Do Thái vừa là người thành công nhất và cũng là người bị ngược đãi nhiều nhất trong tất cả các nhóm dân tộc trên trái đât. Ngày nay, sự tài năng và chuyên môn kinh doanh của họ đã đưa họ đến những vị trí cao nhất trong cộng đồng kinh doanh toàn cầu. Đó là những luật sư đứng đầu, những bác sĩ tài năng và những nhà lãnh đạo thành công.

Đã có rất nhiều cuốn sách viết về sự thịnh vượng của người Do Thái và lý do người Do Thái thành công, những lại rất ít cuôn sách viết về ý nghĩa của Kinh Torah và giao ước cội nguồn cho tất cả những lời chúc phúc của Do Thái.

Mục đích của cuốn Mật mã Do Thái này là để tìm ra những bí mật nhằm khám phá và giải mã bộ kinh Torah, giao ước Áp ra ham và lời mặc khải thiêng liêng trong Cựu ước đã tạo nên cách sống và suy nghĩa của người Do Thái, làm cho dân Do Thái trở thành người không thể gục ngã và một dân tộc được chúc phúc.

Talmud Tinh Hoa Trí Tuệ Do Thái Phương Pháp Giáo Dục Con Của Người Do Thái Bí Quyết Kinh Doanh Của Người Do Thái

Những người Do Thái chính thống đều hiểu hết những lề luật của Thiên Chúa, còn người Ki-tô giáo thì hiểu được hồng ân của Thiên Chúa. Cả người Do Thái và Ki-tô giáo đều nhận thức và biết được sách và Kinh Thánh giao ước của Đấng Cứu Thế. Những vị giáo trưởng có một nguồn tri thức đáng ngạc nhiên về tiên tri và kinh Torah và người Ki-tô giáo gọi đó là Cựu Ước còn người Do Thái gọi đó là sách thánh Do Thái Tanakh.

Mật mã Do Thái” sẽ hé lộ cái nhìn mới mẻ và sự soi sáng giúp khai sáng cho các tín hữu không phải Do Thái hiểu được những mặc khải thiêng liêng mà Chúa đã ban cho dân Do Thái.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

Bắc Giang Địa Chí - Trịnh Như Tấu (NXB Chân Phương 1937)
Sau khi tôi xuất bản quyển Hưng Yên địa chí, có nhiều bạn quá yêu khuyên nên lần lượt soạn Địa chí tất cả các tỉnh, hợp thành một bộ địa dư toàn quốc. Công việc to tát như thế, tự biết sức mình không đạt được với cái tuổi thanh niên học lực còn ít, lịch duyệt chưa nhiều! Lại thêm thời giờ eo hẹp thì dù có muốn cũng không sao toại chí. Một ngày kia, về thăm quê nhà, trong một cuộc hội kiến, quan chánh công sứ PETTELAT khuyên tôi soạn Bắc Giang địa chí và hứa giúp sưu tầm tài liệu.Bắc Giang Địa ChíNXB Chân Phương 1937Trịnh Như Tấu293 TrangFile PDF-SCAN
PDF PHONG TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ hằng năm vào ngày mất (còn gọi là kỵ nhật) thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), vàA các dịp lễ Tết khác trong một năm như: Tết Nguyên Đán, Tết Hàn thực, Tết Trung thu, Tết Trùng cửu, Tết Trùng thập... Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử... người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công.Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cầu tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.Đây là một lễ vô cùng quan trọng, bởi nhớ đến ông bà tổ tiên là đã thể hiện lòng thành kính với vong linh người đã khuất, không phụ thuộc vào việc làm giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với chén nước, quả trứng, nén hương cũng giữ được đạo hiếu.Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người Việt Nam ta có phong tục thờ cúng tổ tiên để tưởng nhớ đến nguồn gốc của mình. Đó là một phong tục tập quán tốt cần được giữ gìn và phát huy. Cuốn sách Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam giới thiệu với bạn đọc những phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, đó là: phong tục thờ cúng tổ tiên, các vị thần thờ tại gia và thờ phụng trong ngày Tết.Mong rằng, nội dung trong quyển sách này sẽ góp phần giúp bạn đọc giữ gìn, phát huy những phong tục thờ phụng đã có từ ngàn đời nay.
Chuyện Đời Xưa PDF (NXB Khai Trí 1967) - Trương Vĩnh Ký
Chính quyền Pháp ở Sài Gòn cử Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn phục vụ sứ thần Phan Thanh Giản đi Pháp và Tây Ban Nha với ý đồ xin chuộc lại 3 tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường và Côn Đảo. Cuộc công du kéo dài 6 tháng từ tháng 9.1863 đến tháng 2.1864. Trương Vĩnh Ký tỏ ra rất đắc lực, đi đến xứ nào nói được tiếng nước ấy. Giữa năm 1864, Trương Vĩnh Ký được cử làm giám đốc trường Thông Ngôn (Collèges des Interprètes).Chuyện Đời XưaNXB Khai Trí 1967Trương Vĩnh Ký130 TrangFile PDF_SCAN
PDF TRUYỀN KỲ MẠN LỤC - NGUYỄN DỮ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Truyền kỳ mạn lục (chữ Hán: 傳奇漫錄, nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện lạ), là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dư (thường được gọi là Nguyễn Dữ), sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm, và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút".Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này.Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất.Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh.Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16...