Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tấn Bi Kịch Z - Ellery Queen

10 năm sau thành công rực rỡ của  Tấn bi kịch X  và  Tấn bi kịch Y ,  Tấn bi kịch Z  ra đời! Thanh tra Thumm đã trở lại với cô con gái thông minh, có khả năng quan sát và liên kết các sự việc. Thượng Nghị sĩ tham nhũng Joel Fawcett – một người có vô vàn kẻ thù, bị sát hại! Bác sĩ Ira Fawcett, cũng bị sát hại! Hung thủ là một! Aaron Dow – tên tù nhân mới phóng thích vô tình trở thành kẻ tình nghi. Với quyết tâm tìm kiếm bằng chứng để minh oan cho Aaron Dow, bố con thanh tra Thumm đã đạt mình vàomột cuộc chiến công lý với tia hy vọng chỉ bằng 1%. Một lần nữa, Thumm lại phải nhờ đến sự minh mẫn của người bạn già Drury Lane Câu hỏi cuối cùng sẽ được giải quyết ra sao mang tên Z? *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vì sự tham gia của riêng tôi vào các sự kiện lịch sử này chẳng khơi gợi được gì hơn sự quan tâm lịch thiệp và ngắn ngủi từ những ai theo dõi vận mệnh của ngài Drury Lane, nên tự tôi sẽ kể qua bằng một ghi chép, cũng ngắn ngủi như thói đỏng đảnh của phụ nữ. Tôi trẻ trung, điều này phần nhiều được những nhà phê bình nghiêm khắc nhất thừa nhận. Tôi được trời phú cho đôi mắt to, xanh và trong veo - mà nhiều quý ngài thích làm thơ từng bảo - trông như cả một vì tinh tú ngự trên chín tầng mây. Một nam sinh trẻ măng, tốt bụng tại Heidelberg có lần từng ví màu tóc tôi với mật ong. Một quý bà người Mỹ thích đả kích sâu cay tại Cap d’Antibes mà tôi từng gặp gỡ đã ví mái tóc ấy phần nào giống cọng rơm khô. Gần đây khi đứng trong tiệm làm đẹp Clarisse tại Paris bên cạnh bộ đầm béo* bà ta bồ kết nhất, tôi phát hiện ra phom người mình thực sự gần đạt được những số đo hình thể quyến rũ của mụ đàn bà hay khinh người ấy. Thực ra, ngoài đôi bàn tay, bàn chân tôi đạt chuẩn hình thể - điều này theo đánh giá cỡ chuyên gia của chính ngài Drury Lane - tôi còn sở hữu bộ não làm việc theo trật tự tuyệt hảo. Cũng có người nói rằng một trong những nét quyến rũ chết người của tôi nằm ở chỗ “thiếu khiêm tốn một cách tinh tế,” một lời chém gió mà tôi cảm thấy chắc chắn sẽ gây họa cho tôi trong quá trình viết bài này. Các chi tiết thô thiển nhiêu đó đã đủ. Phần còn lại tôi có thể tự đặt tên cho nó là Chuyến Du Ngoạn Bắc Âu. Tôi đã từng đi chu du, có thể nói như vậy, kể từ những tháng ngày tóc thắt bím và mặc đồ thủy thủ. Các chuyến du ngoạn của tôi xen kẽ những lần dừng chân dài hạn: Ví như chẳng hạn tôi mất hai năm tại một ngôi trường tư thục đáng sợ ở London, nán lại trên Bờ Trái* trong mười bốn tháng trước khi tự thuyết phục mình rằng cái tên Patience Thumm sẽ chẳng được nói đến một cách kính cẩn như những cái tên Ganguin và Matisse. Giống Marco Polo tiến về phương Đông, tôi đi khắp các dải đất phương Đông; như Hannibal tấn công những cánh cổng thành Rome, tôi khám phá nền văn hóa châu Âu. Hơn nữa, tôi là người có tâm hồn khoa học: Tôi đã thử tinh dầu ngải absinthe tại Tunis, vườn nho Clos Vougeot tại Lyon và rượu aguardiente tại Lisbon. Tôi bị bật móng chân khi trèo lên ngôi thành cổ Acropolis tại Athens, cảm thấy vui sướng đầy dâm đãng khi đắm mình trong bầu không khí mê hoặc của hòn đảo Sappho. Chẳng cần phải nói thêm, tất cả những chuyến đi này dựa vào khoản tiền trợ cấp hào phóng với cái đuôi là một sinh vật bất tử hiếm hoi bậc nhất - một bà vú tiện cái là mắc chứng loạn thị và có khiếu hài hước. Du ngoạn giống như món kem sữa béo, nó cứ lan rộng mãi ra; tuy nhiên, sẽ chẳng ai chịu nổi nếu cứ ăn hoài một món. Và người đi du ngoạn, cũng như kẻ háu ăn, sẽ quay về nhà và hài lòng với chế độ ăn có kiểm soát hơn. Thế nên, với sự kiên quyết dịu dàng như một trinh nữ, tôi bỏ mặc bà vú đáng yêu tội nghiệp tại Algiers và giong buồm về nhà. Món thịt bò nướng tuyệt hảo của bố chào mừng tôi vẫn đang nằm yên trong bụng. Nói thật là ông thấy khiếp đảm khi thấy tôi cố tuồn vào New York bản tiếng Pháp cuốn Người Tình Của Phu Nhân Chatterley đáng yêu, rách tơi tả, cuốn sách khiến tôi phải hy sinh bao nhiêu buổi tối tuyệt đẹp tự giam mình trong phòng riêng tại trường tư thục nữ sinh. Nhưng khi giải quyết xong vấn đề nhỏ này, trước sự vui sướng của tôi, ông nhanh chóng đẩy tôi len qua cửa hải quan. Sau đó, chúng tôi yên vị trong sự tĩnh lặng êm dịu ở căn hộ của ông tại thành phố, hai con bồ câu đưa thư hoàn toàn xa lạ. Lúc này, khi đọc Tấn Bi Kịch X và Tấn Bi Kịch Y, tôi nhận thấy rằng ông bố già xấu xí, to lớn, vụng về và vĩ đại của tôi, thanh tra Thumm, chưa một lần giới thiệu những trang sách sinh động, sôi nổi này cho cô con gái thích xê dịch. Không phải vì ông không yêu mến tôi: Tôi hiểu được điều ấy từ ánh mắt ngỡ ngàng, phần nào đó đến kinh ngạc của ông khi chúng tôi hôn tạm biệt nhau trên cầu tàu. Chúng tôi chỉ đơn giản là ngày càng xa nhau. Mẹ đã tống cổ tôi sang châu Âu cho bà vú chăm sóc khi tôi còn quá nhỏ, không thể phản kháng. Tôi nghi ngờ sự thay đổi trong tình cảm luôn là điều đáng quý, đến lượt bà cũng ham mê tìm hiểu những nét thanh lịch, tao nhã ướt át của cuộc sống Lục địa già qua các lá thư tôi viết. Trong khi đó, người bố tội nghiệp chẳng có cơ hội nào, việc chúng tôi dần xa cách không phải hoàn toàn do lỗi của mẹ. Tôi nhớ lại hồi mình là con bé yếu ớt bò lổm ngổm dưới chân bố, quấy rối ông với những chi tiết đẫm máu nhất của những tội ác ông đang điều tra, đọc hết tất cả các tin tức vụ án với sự thích thú và không ngừng tấn công ông trên Phố Centre với những gợi ý ngớ ngẩn. Ông chẳng bao giờ mắng tôi nhưng tôi chắc chắn ông thấy nhẹ nhõm khi tôi bị tống sang Châu Âu. Dẫu sao đi nữa, bố con tôi phải mất vài tuần để nuôi dưỡng tình cảm trở lại mối quan hệ bình thường. Ông chưa sẵn sàng về tâm lý trước những lần viếng thăm chớp nhoáng của tôi trong thời gian lang thang, nào là ăn trưa mỗi ngày với một thiếu nữ trẻ đẹp, những nụ hôn chúc ngủ ngon, và trải qua tất cả những vui vẻ khi ông đóng vai một ông bố gia trưởng. Một thời gian ông thực sự hốc hác, mệt mỏi. Ông thấy sợ tôi hơn vô số tội phạm liều lĩnh từng săn đuổi suốt cuộc đời thanh tra. •   •   • Tất cả những đoạn này là phần mở đầu cần thiết cho câu chuyện của tôi về ngài Drury Lane, và vụ án lớn về Aaron Dow, tù nhân trong nhà tù Algonquin. Vì điều này giải thích được làm sao kẻ lang thang như Patience Thumm lại có liên quan đến một vụ án mạng. Trong những năm tháng lang thang và thư từ với bố - đặc biệt sau khi mẹ qua đời - tôi thấy tò mò trước những bóng gió thường xuyên, tình cảm của ông với thiên tài già cả lạ lùng ấy, ngài Drury Lane, người đã xuất hiện một cách hoành tráng trong cuộc đời ông. Dĩ nhiên, tôi không xa lạ với tên tuổi quý ông già nua này, với lý do tôi là độc giả trung thành của các truyện trinh thám có thật lẫn hư cấu. Lý do nữa là vì quý ông hưu trí hấp dẫn này không ngừng được giới báo chí, tại cả Mỹ lẫn châu Âu, tung hô như một siêu nhân. Đâu đâu cũng nhắc đến những kỳ tích ông đạt được trong các vụ án với tư cách là điều tra viên. Sau tai nạn bất ngờ khiến ông bị điếc, sự nghiệp diễn viên kịch của ông cũng chấm dứt. Nhiều lần những dư âm của chúng vẫn còn vẳng đến tai tôi tận Châu Âu. Sau khi quay về nhà, tôi bất ngờ nhận ra mình chẳng còn mong muốn gì hơn được gặp gỡ con người phi thường, sống trong một lâu đài tuyệt đẹp nhưng đầy mê hoặc nhìn ra sông Hudson. Nhưng tôi lại thấy mình quan tâm hơn đến đôi tai của ông khi phá án. Sau khi nghỉ hưu ở phòng Thám tử New York, bố tôi bỏ lại sau lưng bao nhiêu năm tháng phá án là món ăn giấc ngủ, sự tồn tại kiểu này khiến ông buồn chán đến không chịu nổi. Thế nên, điều không tránh khỏi là ông mở văn phòng thám tử tư, danh tiếng của riêng ông mang lại thành công cho ông ngay từ đầu. Về phần tôi, vì chẳng có việc gì để làm và cảm thấy rằng cuộc đời mình cũng như những kinh nghiệm từ chuyến du học vừa đủ giúp tôi kiếm sống một cách nghiêm túc, có lẽ điều không tránh khỏi là tôi phải đứng dậy từ nơi tôi đã từ bỏ nhiều năm về trước. Tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn tại văn phòng của bố, quấy rầy ông như ngày xưa và lắng nghe tiếng càu nhàu bực bội của ông. Dường như ông nghĩ rằng một đứa con gái thì phải có sức hấp dẫn giống như một bông hoa cài áo. Nhưng vì được thừa hưởng cái cằm bướng bỉnh của ông, sự kiên trì của tôi đã khiến ông nản lòng. Có vài dịp thậm chí ông còn cho phép tôi theo đuổi một cuộc điều tra khiêm tốn. Nhờ đó tôi học được nhiều thuật ngữ và môn tâm lý học của hình sự hiện đại - một khóa học thô sơ rất có ích giúp tôi thấu hiểu vụ án liên quan đến Dow. Nhưng có một chuyện dường như hữu ích hơn nhiều. Kinh ngạc không kém gì bố, tôi thấy rằng mình sở hữu một bản năng quan sát và suy luận phi thường. Tôi bất ngờ nhận ra mình có một tài năng rất đặc biệt, có lẽ được nuôi dưỡng bởi môi trường làm việc ban đầu, và sự quan tâm không thay đổi của tôi đối với tội phạm. Bố tôi rên rỉ, “Patty, con cứ như ả hầu bàn trơ trẽn trong bữa tiệc vậy. Con sẽ khiến quý ông già ngượng chết mất. Có Chúa mới biết, như những ngày xưa với Drury Lane ấy!” Và tôi đáp: “Ngài thanh tra đáng yêu ơi, đó là một lời khen tuyệt vời. Khi nào thì ngài định giới thiệu con với ông ấy đây?” Cơ hội đã đến một cách bất ngờ ba tháng sau khi tôi về nước. Giống như mọi cơ hội khác - nó bắt đầu hoàn toàn bình thường - sau đó biến thành một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Đúng như những gì trái tim một cô nàng luôn thèm khát và háo hức như tôi có thể mơ tới. Một hôm, một người đàn ông cao lớn, tóc xám ăn mặc trang nhã xuất hiện tại văn phòng của bố tôi. Sắc mặt ông ta lo lắng khiến tôi liên hệ với tất cả những ai từng tìm đến. Qua tấm thẻ rập nổi, tên ông ta là Elihu Clay. Dò xét tôi bằng đôi mắt sắc lạnh, ông ta ngồi xuống, hai bàn tay khum lại trên đầu gậy chống. Với thái độ khô khan, thận trọng của một chủ ngân hàng nguời Pháp, ông ta tự giới thiệu bản thân. Ông ta là chủ sở hữu Clay Marble Quarries - những mỏ đá chính tại hạt Tilden, vùng Thượng New York; văn phòng và nhà riêng ở thành phố Leeds, Anh quốc. Cuộc điều tra ông ta muốn nhờ bố tôi tiến hành có tính riêng tư và bảo mật. Đây là lý do chính của ông ta khi đến đây ngoài việc tìm kiếm một nhà điều tra. Ông ta một mực đòi phải thận trọng mọi nhẽ… “Tôi hiểu,” bố tôi cười toét. “Hút xì gà đi. Ai đó đang ăn cắp tiền mặt trong két à?” “Thực ra là không! Tôi có… à… một hội viên hùn vốn ẩn danh.” “Ha,” bố tôi nói. “Cho tôi biết đi.” Tên hùn vốn ẩn danh này - có vẻ giờ đây, sự ẩn danh này đã chuyển sang khía cạnh đáng lo ngại nhất - là Fawcett, bác sỹ Ira Fawcett. Người này là em trai của thượng nghị sĩ hạt Tilden, Joel Fawcett. Một ngài thượng nghị sĩ không ít thì nhiều cũng “chính trực”. Theo cái nhíu mày của bố, tôi nghĩ đây chắc chắn là một quý ông không trung thực và không có trái tim trong sáng. Là người không do dự tự phong mình là ‘thương nhân trung thực nhất của phái cựu trào’ giờ đây có vẻ Clay thấy hối hận khi hợp tác cùng bác sỹ Fawcett. Tôi đồ rằng bác sỹ Fawcett là một nhân vật khá đáng sợ. Ông ta khiến công ty dính líu đến các hợp đồng mà Clay nghi ngờ rằng có nguồn gốc bốc mùi. Ngành kinh doanh này rất thịnh vượng - quá thịnh vượng. Quá nhiều hợp đồng trong hạt và bang đều liên quan đến Clay Marble Quarries, cần thiết phải kiên quyết tiến hành một cuộc khảo sát tình hình. “Không có bằng chứng à?” bố tôi hỏi. “Chẳng có chút nào, thưa thanh tra. Rõ ràng hắn quá thông minh. Tất cả những gì tôi có chỉ là những nghi ngờ. Ông sẽ nhận vụ này chứ?” Nói rồi Elihu Clay đặt ba tờ giấy bạc giá trị cao nhất lên bàn. Bố liếc nhìn tôi. “Chúng ta nhận vụ này được không, Patty?” Nét mặt tôi băn khoăn. “Chúng ta bận lắm. Nếu thế phải hủy tất cả các vụ kia…” Elihu Clay nhìn tôi chằm chằm một lúc. “Tôi có ý kiến,” ông đột ngột nói. “Tôi không muốn Fawcett nghi ngờ ngài, ngài Thanh Tra. Cùng lúc đó ngài sẽ phải làm việc với tôi. Tại sao ngài không cùng cô Thumm đây đến các nhà khách của tôi tại Leeds? Cô Thumm đây có thể tới - chẳng phải tiện hay sao?” Tôi đoán rằng bác sỹ Ira Fawcett không phải là người trơ như gỗ đá trước sức quyến rũ nữ tính. Khỏi cần nói, ngay lập tức tôi cảm thấy thú vị. “Chúng ta xoay xở được mà bố,” tôi mạnh mẽ nói, và như thế mọi việc được thu xếp. •   •   • Chúng tôi mất hai ngày chuẩn bị mọi thứ, có thể nói như vậy. Đến tối Chủ nhật chúng tôi đã hoàn tất gói ghém đồ đạc cho chuyến đi tới Leeds. Elihu Clay đã đi trước chúng tôi, quay về vùng nông thôn cùng ngày ông đến thăm New York. Tôi còn nhớ mình đang duỗi dài chân trước đống lửa, nhấm nháp rượu brandy đào - chai rượu tôi đã trót lọt tuồn qua mặt anh sĩ quan hải quan trẻ tuổi tốt nhất - thì nhận được điện tín của thị trưởng Bruno - chính là ngài Walter Xavier đã từng làm công tố viên hạt New York khi bố tôi còn là một viên thanh tra tích cực. Còn bây giờ ông ta là một thống đốc nổi tiếng, hiếu chiến của bang New York. Bố tôi đập tay vào hông cười khúc khích, “vẫn là lão Bruno này! Chà, Patty, đây đúng là cơ hội con đang mong. Bố đoán rằng chúng ta có thể thực hiện được?” ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Z của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sứ Giả của Thần Chết - Sidney Sheldon
Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"..., đã từ trần ở tuổi 89. Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1982, Sheldon tâm sự: “Tôi cố gắng viết những tác phẩm để người đọc không thể đặt chúng xuống. Tôi viết để khi người đọc đọc tới cuối chương, họ phải đọc thêm một chương nữa”. Giải thích lý do tại sao có quá nhiều phụ nữ là các nhân vật chính trong các tác phẩm của ông, Sheldon nói: “Tôi thích viết về những người phụ nữ tài giỏi, và quan trọng hơn, là họ vẫn đầy quyến rũ, nữ tính. Phụ nữ có một sức mạnh vô cùng to lớn - đó là nét quyến rũ và người đàn ông không thể làm gì nếu thiếu điều này”. Không giống như những nhà văn khác thường sử dụng máy chữ hoặc máy tính để viết tác phẩm, Sheldon thường đọc ra 50 trang truyện mỗi ngày cho thư ký hay máy thu âm ghi lại. Sau đó, ông sửa bản sáng tác vào ngày hôm sau và cứ tiếp tục công việc như vậy cho tới khi tác phẩm của ông dài từ 1.200 tới 1.500 trang. Sheldon nói: “Tôi đọc và sửa lại bản viết cuối cùng từ 12 tới 15 lần. Có thể tôi chỉ dùng cả năm để sửa lại bản viết đó”. Sidney Sheldon sinh ngày 11/2/1918 tại Chicago, Illinois dưới tên Sidney Schechtel, trong một gia đình có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Ông bắt đầu việc viết lách ngay từ khi còn rất nhỏ. Lên 10 tuổi, cậu bé Sheldon đã kiếm được 10 USD cho một bài thơ. Thời trai trẻ, Sheldon từng làm nhiều nghề để kiếm sống trong khi là sinh viên tại Northwestern University và tham gia một nhóm chuyên viết những vở kịch ngắn. Sheldon từng thú nhận ông suýt tự tử vào năm 17 tuổi. Năm 17 tuổi, Sheldon quyết định thử vận may tại Hollywood. Công việc ban đầu duy nhất mà Sheldon nhận được là đọc kịch bản phim tại Universal Studio với giá 22 USD/ tuần. Trong khi đó, ban đêm ông viết kịch bản phim riêng của mình và bán lại cho Universal với giá 250 USD. Sau thế chiến thứ 2, từ một phi công của Lực lượng không quân Mỹ, Sheldon giải ngũ và về làm việc cho sân khấu kịch Broadway - nơi đánh dấu những bước đi quan trọng trong sự nghiệp viết văn của ông. Cũng tại đây, Sheldon nhận giải Tony award cho kịch bản hay nhất cho “Redhead”. Với hơn 300 triệu ấn bản được bán, Sheldon không chỉ là một trong những nhà văn “lão làng” của Mỹ mà còn có ảnh hưởng lớn trong nền văn học thế giới. Ông từng đoạt giải Oscar với kịch bản hay nhất cho phim “The Bachelor and the Bobby-Soxer” (1957), giải Tony Award cho vở nhạc kịch “Rehead” (1957) nổi tiếng của sân khấu kịch Broadway và giải Emmy cho “Dream of Jeannie” (1967) Tại Việt Nam, nhiều tác phẩm của Sheldon đã được dịch và xuất bản như “Âm mưu ngày tận thế”, “Bầu trời sụp đổ”, “Người lạ trong gương”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai”, “Kế hoạch hoàn hảo”, “Cát bụi thời gian”…. *** Tiểu thuyết kiếm cơm của Sidney Sheldon, như những cái nồi hơi ướt át sẽ tan nhanh vào không khí, chẳng đọng lại được gì nhiều cho mai sau. Nhưng trước khi qua đời, ông vẫn được coi là một trong những nhân vật kiệt xuất cuối cùng của thời kỳ hoàng kim trong nền văn học bình dân Mỹ.   Lần cuối cùng tôi gặp Sidney Sheldon là khi ông tham gia một bữa tiệc sang trọng tại Beverly Hills. Tôi còn nhớ, hôm đó, một tác giả có tuổi đã tẽn tò bước đến bên ông, cúi đầu, bày tỏ sự kính trọng của mình rồi rụt rè đưa cho nhà văn bậc thầy một bản thảo cuốn sách mới viết về cái chết của một ngôi sao Hollywood.   Hai người họ đều xúng xính trong những bộ trang phục cầu kỳ và được là ủi kỹ. Với lối chưng diện đó, Sheldon xứng đáng được gọi là "bảnh bảo" - một từ ông rất thích dùng trong các tiểu thuyết của mình. Nhưng ánh mắt của những thực khách có mặt tại bữa tiệc không nấn ná lâu ở Sheldon, người ta còn mải bàn luận về điều gì đó vừa đọc được trên tạp chí In Touch.   Sheldon có thể là một tài năng bậc thầy trong việc phóng các tiểu thuyết của mình lên bảng xếp hạng best-seller nhưng ngày hôm đó, ông thực sự không nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý. Những ai đã đọc sách của Aimee Bender, Dave Eggers và Nick Hornby tất nhiên sẽ không bao giờ đọc bất cứ thứ gì Sheldon viết. Nhưng tôi tự hỏi, không biết bao nhiêu người say mê Mật mã Da Vinci từng lén lút mở những "chiếc nồi hơi" mà Sheldon "sản xuất" ra. Sheldon qua đời, nghĩa là thời đại huy hoàng của nền văn học bình dân Mỹ mất đi một trong những cây bút cuối cùng.   Sinh năm 1917, Sheldon thuộc về một thế hệ nhà văn tôn sùng (và cả ghen tỵ nữa) với những tên tuổi nổi tiếng trên văn đàn Mỹ như Steinbeck và Hemingway. Nhưng họ cũng là những người sẵn sàng dựa vào chút tài năng của mình để biến văn đàn thành một sàn kinh doanh nhằm hốt bạc. Thực chất, mẫu hình của Sheldon là Irving Wallace và Harold Robbins. Và những cụm từ được dùng nhiều nhất trong các điếu văn dành cho ông như "ướt át, vô giá trị" đã chứng tỏ, ông là tác giả điển hình của những cuốn tiểu thuyết được người ta ưỡn ẹo đọc trên bãi biển hoặc cạnh các bể bơi.   Những trang viết của Sheldon chưa từng làm hài lòng các nhà phê bình chân chính. Không một đứa con tinh thần nào của ông cơ hồ sống được thêm 100 năm nữa kể từ thời điểm này. Có chăng, lúc đó, ông chỉ còn được người ta nhắc đến như một ví dụ điển hình cho những tác giả từng lọt vào danh sách best-seller của Mỹ. Chính vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong bộ sưu tập giải thưởng của Sydney Sheldon, dù đã có giải Oscar và Tony, sẽ không bao giờ có thể có thêm một Pulitzer. Nhưng con số 300 triệu bản sách của ông được tiêu thụ tại 180 quốc gia không hẳn là con số vô nghĩa.   Ít nhất, Sheldon cũng phải có những ảnh hưởng nhất định trên văn đàn Mỹ. Dan Brown có thể phá vỡ kỷ lục cũ của Sheldon với cuốn Mật mã Da vinci 53 tuần năm trên bảng xếp hạng best-seller nhưng Brown chắc chắn mắc nợ người đàn ông đã tạo ra cái mà các nhà phê bình gọi là "thứ rác rưởi lắm người đọc".   Sheldon học ở trường đời nhiều hơn là ở các trường học. Dù trải qua rất nhiều nghề nhưng viết lách vẫn là mục đích hướng tới của ông. Từ một người đọc bản thảo với thu nhập 17 USD mỗi tuần, ông dần trở thành một tác giả kịch bản, nhà văn. Trước khi chết, tải sản của ông lên tới 3 tỷ USD - một con số mà cả Dan Brown lẫn J.K. Rowling đều khó lòng mà theo kịp.   Thế nhưng, ở tuổi 17, sau khi đã trải qua rất nhiều lỗi lầm trong đời. Bi quan với khả năng trở thành nhà văn của mình, Sidney Sheldon rơi vào trầm cảm và đã tìm cách tự vẫn. Nhưng bố ông kịp xuất hiện trước khi nhà văn kịp nhấm nháp một lô thuốc ngủ với rượu whisky. Nếu không, thế giới sẽ không biết đến một "hiện tượng Sidney Sheldon".   Mời các bạn đón đọc Sứ Giá của Thần Chết của tác giả Sidney Sheldon.
Bầu Trời Sụp Đổ - Sidney Sheldon
Audiobook Bầu Trời Sụp Đổ   Winthrop là một gia đình quý tộc Mỹ, và trung tâm của nó là Gary Winthrop đầy hấp dẫn, lôi cuốn. Khi người đàn ông này đang trên đà để trở thành ngôi sao mới sáng nhất của Thượng nghị viện, thì bị giết trong ngôi nhà của mình - sự kiện mới nhất trong một loạt các vụ việc đã giết hại năm thành viên của gia đình chỉ trong vòng một năm. Một trong những người cuối cùng nhìn thấy Gary Winthrop còn sống là Dana Evans. Cô đã điều tra vụ này như những thảm kịch ngẫu nhiên, và nhận ra rằng cuộc điều tra này sẽ dẫn dắt cô qua nhiều châu lục, những nơi mà cô và cậu con trai bé bỏng của mình sẽ sống trong những mối nguy hiểm nghiêm trọng, để rồi cuối cùng nó dẫn cô đến một sự thật làm sửng sốt cả thế giới. *** "Nắm lấy cái thìa... một bát đầy hơi nước quyến rũ, sex và bốc hơi nghi ngút." - People "Một chuyến hành trình gấp gáp và bí ẩn... Sidney Sheldon là người biết cách chuyển tải sự kỳ bí... cùng lối kể chuyển đầy hồi hộp... và những tình tiết của ông được gắn kết, biến động và gây ngạc nhiên." - New York Post *** Sidney Sheldon là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Nàng sải những bước dài vội vã trên đại lộ Pennsylvania cách Nhà Trắng một khu phố, run rẩy trong cơn gió lạnh lẽo của tháng mười hai, tai ù đặc vì tiếng oanh tạc và sau đó là tiếng các máy bay ném bom vần vũ trên đầu, sẵn sàng trút hết mớ hàng hoá của tử thần xuống mặt đất. Nàng đứng lại, toàn thân cứng đờ, chìm sâu vào màn sương đỏ rực của sự kinh hoàng. Bỗng nhiên nàng thấy mình trở lại Sarajevo, và nàng nghe thấy tiếng bom rơi rít lên đến chói tai. Nàng nhắm nghiền mắt lại nhưng hành động đó không thể xua đi hình ảnh về những gì đang diễn ra quanh nàng. Bầu trời sáng rực lên, tiếng pháo, tiếng động cơ máy bay ì ầm, tiếng đạn súng cối và nhiều loại súng khác - tất cả họ lẫn vào nhau tạo thành một thứ âm thanh quái dị làm cho tai nàng điếc đặc. Gần đó, những toà cao ốc bị hất tung lên thành những đám bụi mù với xi măng, gạch đá và cát. Đám đông hoảng loạn chạy tứ tán về mọi hướng, cố trốn tránh cái chết. Từ xa, rất xa, một giọng đàn ông vang lên: - Cô không sao chứ? Một cách thận trọng, nàng từ từ mở mắt ra. Nàng đã lại đứng trên đại lộ Pennsylvania, trong ánh nắng mùa đông ảm đạm, lắng nghe tiếng máy bay phản lực và tiếng chuông báo động đang nhỏ dần đi trong trí nhớ của mình. - Thưa cô… cô không sao chứ? Nàng cố ép mình trở về với thực tại: - Không, tôi… tôi không sao, cám ơn ông. Anh ta ngó sững nàng. - Khoan đã? Cô là Dana Evans. Tôi là một fan 1 lớn của cô đây. Đêm nào tôi cũng xem cô trên WTN, và tôi còn xem đầy đủ các tin tức của cô từ Nam Tư nữa cơ. - Giọng anh ta tràn đầy sự ngưỡng mộ. - Việc đó với cô thật hấp dẫn, theo dõi cuộc chiến ấy, phải không? - Vâng. - Cổ họng Dana Evans khô khốc. Hấp dẫn khi thấy người ta nổ tung thành từng mảnh, xác các em bé bị tung lên trời, những mẩu thịt người trôi vật vờ trong dòng sông đỏ lòm. Đột nhiên nàng thấy đau bụng. - Xin lỗi! - Nàng quay ngoắt lại và bỏ đi thật nhanh. Daná Evans mới từ Nam Tư về được ba tháng. Những gì trong ký ức nàng hầu như còn nguyên vẹn. Có cái gì đó không thật khi được bước đi thong dong trên đường phố, dưới ánh sáng ban ngày mà không một chút phập phồng lo sợ, thoải mái nghe chim hót, nghe mọi người xung quanh cười nói. Ở Sarajevo không hể có tiếng cười, chỉ có tiếng bom đạn đì đùng và tiếng khóc than thảm thiết mà thôi. John Donne nói đúng, Dana nghĩ. Không ai là một hòn đảo cả. Chuyện xảy ra cho một người, cũng là chuyện xảy ra cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đều được tạo ra từ đất sét và phép màu của Thượng Đế. Chúng ta chia sẻ cùng một khoảnh khắc của thời gian. Cánh tay kia của tạo hoá bắt đầu lạnh lùng quét qua một phút tiếp theo. Ở Santiago, một bé gái mười tuổi đang bị bố đẻ cưỡng hiếp. Ở New York, một đôi tình nhân đang hôn nhau dưới ánh nến lung linh… Ở Flanders, một cô gái mười bảy tuổi đang sinh hạ một em bé… Ở Chicago, một người lính cứu hoả đang liều mạng cứu một con mèo khỏi toà nhà đang cháy… Ở Sao Paolo, hàng trăm cổ động viên đang giày xéo nhau đến chết khi hàng rào bị đổ trong một trận bóng đá. Ở Pisa, một bà mẹ bật khóc vì hạnh phúc khi chứng kiến đứa con mình chập chững bước những bước đầu tiên trong đời… Và còn biết bao chuyện khác diễn ra trong vũ trụ trong vòng sáu mươi giây, Dana nghĩ thầm. Thời gian cứ tiếp tục trôi cho đến khi nó ngùng lại và đưa tất cả chúng ta cùng sang một cõi vĩnh hằng huyền bí nào đó. Dana Evans hai mươi bảy tuổi, vẻ ưa nhìn, thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen xoã ngang vai, có cặp mắt xám thông minh, khuôn mặt hình quả tim và nụ cười ấm áp. Con một đại tá quân đội, Dana lớn lên như một đứa bé lang thang, theo bố đi từ căn cứ này sang căn cứ khác và cuộc sống này đã cho nàng nếm đủ mọi mùi vị của những cuộc phiêu lưu. Nàng vừa yếu ớt lại vừa can đảm và chính nét tương phản này đã mang lại cho nàng sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong suốt một năm Dana làm phóng viên mặt trận tại Nam Tư, khán giả khắp thế giới đã bị hấp dẫn bởi một người phụ nữ trẻ, đẹp, tận tuỵ tường thuật lại tình hình nóng hổi nhất ngay giữa lòng cuộc chiến, mạo hiểm cả tính mạng mình để đánh đổi lấy những tin tức mới nhất về những sự kiện đầy chết chóc đang diễn ra xung quanh. Và bây giờ, dù đi đến bất kỳ nơi nào nàng cũng dễ dàng bị mọi người nhận ra. Dana Evans thậm chí còn phát xấu hổ vì sự nổi tiếng của mình. Bước nhanh trên đại lộ Pennsylvania, rảo bước qua Nhà Trắng, Dana nhìn đồng hồ và nghĩ thầm, mình lại đến muộn mất thôi. Tập đoàn viễn thông Washington Tribune chiếm hết toàn bộ khu nhà lớn của đường NW số 6 với 4 toà nhà riêng biệt: ban quản trị, xưởng in ấn báo chí, bộ phận văn phòng, và khu truyền thông tổng hợp. Các studio của WTN toạ lạc trên tầng sáu của toà nhà thứ tư. Không khí làm việc ở đây lúc nào cũng căng như dây đàn với những nhân viên luôn dán mắt vào máy tính. Chính tại đây Dana đã gặp Jeff Connors. Anh từng là một ngôi sao bóng chày cho đến khi bị thương ở cánh tay do gặp tai nạn khi đang trượt tuyết, còn bây giờ Jeff là phóng viên thể thao cho WTN và thêm cả việc trình bày báo cho Nghiệp đoàn cung cấp báo chí Washington. Anh ngoài ba mươi tuổi, gầy, rắn rỏi, vẻ ngoài trẻ trung và dễ dãi, hấp dẫn mọi người bằng phong thái ung dung, điềm đạm. Jeff và Dana yêu nhau và họ đã bắt đầu tính đến chuyện hôn nhân. Ba tháng sau ngày Dana trở về từ Sarajevo, ở Washington không có sự kiện gì nổi bật. Leslie Stewart, bà chủ cũ của Tập đoàn viễn thông Washington Tribune đã bán tống bán tháo nó đi rồi biến mất, và chủ mới giờ đây là Elliot Cromwell, một ông trùm truyền thông quốc tế. Cuộc họp vào buổi sáng với Matt Baker và Elliot Cromwell có vẻ như đã bắt đầu. Khi Dana đến nơi, Abbe Lasmann, cô thư ký tóc đỏ quyến rũ của Matt bước ra chào nàng. - Mọi người đang đợi cô, - Abbe nói. - Cám ơn, Abbe. - Dana bước vào phòng họp. - Matt… Elliot… - Cô đến trễ, - Matt Baker càu nhàu. Đây là một người đàn ông lùn tè, tóc xám, vừa bước qua tuổi năm mươi, bộ dạng cộc cằn nóng nảy nhưng bù lại có đầu óc năng động và vô cùng sáng suốt. Bộ đồ vest của Matt trông nhàu nhĩ như thể ông ta đã mặc nó đi ngủ, và Dana ngờ rằng đó hoàn toàn là chuyện có thật. Ông ta điều hành WTN, bộ phận truyền hình của Diễn đàn doanh nghiệp Washington. Elliot Cromwell đã ngoài sáu mươi, vẻ thân thiện cởi mở với nụ cười thường trực trên môi. Đó là tỷ phú, và có đến hàng tá các bài khác nhau miêu tả việc ông ta đã có được số tài sản khổng lồ đó như thế nào. Trong lĩnh vực kinh doanh truyền thông, nơi mà mục đích chính là truyền bá thông tin, Elliot Cromwell vẫn là một con người bí ẩn. Ông ta nhìn Dana và nói: - Matt bảo rằng chúng ta đang giã cho các đối thủ nhừ tử. Hiệu suất làm việc của chúng ta vẫn tiếp tục tăng cao. - Tôi rất vui khi biết tin này, Elliot. - Dana, tối nào tôi cũng xem nhiều bản tin khác nhau, nhưng của cô bao giờ cũng có sự khác biệt lớn so với những cái kia. Tôi không biết rõ tại sao, nhưng tôi thích điều này. Dana có thể cho Elliot Cromwell biết nguyên nhân. Những bản tin kia chỉ đơn giản là - thông báo tin tức cho hàng triệu khán thính giả. Còn Dana thì quyết định biến nó thành một cái gì đấy riêng tư hơn. Trong tâm trí nàng, đêm nay, nàng sẽ nói với một quả phụ cô đơn, đêm mai, với một người bệnh nằm bất lực trên giường, đêm mốt, với một người bán hàng đang sống cách xa gia đình. Bản tin của nàng bao giờ cũng toát lên giọng điệu thân tình và ngầm chia sẻ, vì vậy người ta yêu thích chúng và hưởng ứng chúng một cách nhiệt tình. - Tôi biết đêm nay cô sẽ phỏng vấn một vị khách đặc biệt thú vị, - Matt Baker nói. Dana gật đầu. - Là Gary Winthrop. Gary Winthrop là vị hoàng tử quyến rũ đối với toàn thể Mỹ quốc, thành viên của một trong những dòng họ xuất sắc nhất đất nước. Anh ta còn trẻ, đẹp trai và hết sức lôi cuốn. - Winthrop không thích công khai về đời tư, - Cromwell lên tiếng. - Làm sao mà cô lại thuyết phục được anh ta? - Chúng tôi có cùng một sở thích, - Dana trả lời. Cromwellcau mày. - Thật không? - Thật. - Dana mỉm cười. - Tôi thích xem tranh của Monets và Van Goghs, còn anh ta thì thích mua chúng. Thành thật mà nói, trước đây tôi đã phỏng vấn anh ta, và từ đó chúng tôi trở nên thân thiết. Chúng ta sẽ cho phát cuốn băng có những tin tức mới về anh ta, rồi sau đó là cuộc phỏng vấn của tôi. - Tuyệt vời, - Cromwell cười rạng rỡ. Họ dành một tiếng đồng hồ tiếp theo để bàn bạc về chương trình mới của đài, có tên là Đường dây tội ác.Mục đích của chương trình này là sửa chữa sự bất công đã phán xét và nhắc lại những vụ án nổi tiếng đã được khám phá. - Hiện nay đang có rất nhiều chương trình thực tế trên đài, - Matt cảnh cáo, - vì thế chúng ta phải tỏ ra nổi trội hơn họ. Tôi muốn ta hãy bắt đầu bằng một sự tình cờ. Có thể chuyện này sẽ thu hút được sự chú ý của khán giả và… Hệ thống liên lạc nội bộ reo lên. Matt Baker nhấn một nút. - Tôi đã bảo cô rồi, không nhận một cú điện thoại nào cơ mà. Sao lại… Giọng của Abbe vang lên. - Tôi xin lỗi. Đây là của cô Evans. Trường học của Kemal gọi tới. Có vẻ khẩn cấp lắm. Matt Baker nhìn Dana. - Đường dây số một. Dana nhấc ống nghe, tim đập mạnh. - Alô… Kemal không sao chứ ạ?. - Nàng nghe một lát. - Tôi hiểu… tôi hiểu… Vâng, tôi sẽ đến ngay. - Nàng dập máy. - Chuyện gì vậy? - Matt hỏi. Dana trả lời. - Họ muốn tôi đến đón Kemal về. Elliot Cromwell cau mày. - Đứa bé mà cô mang từ Sarajevo về à? - Vâng. - Cả một câu chuyện dài đây. - Vâng. - Dana miễn cưỡng trả lời. - Có phải cô tìm nó, còn sống, trong một khu đất hoang. - Đúng vậy, - Dana trả lời. - Nó có bệnh tật gì hay sao? - Không. - Dana trả lời một cách cứng nhắc, vẻ như không muốn nói về những ngày tháng đó. - Kemal bị mất một cánh tay. Do bom gây ra. - Và… Cô nhận nó làm con nuôi?! - Không hẳn là vậy, Elliot. Tôi chỉ sắp sửa làm thế thôi. Còn bây giờ, tôi là người bảo trợ của nó. - Được, vậy cô cứ đi đi. Chúng ta sẽ bàn bạc về Đường dây tội ác sau. Khi Dana đến trường trung học Theodore Roosevelt, nàng đi ngay vào văn phòng gặp trợ lý hiệu trưởng, Vera Kostoff, ngoài năm mươi, tóc xám, điệu bộ hấp tấp, vẻ mặt lo lắng đang ngồi phía sau bàn làm việc. Đối diện với bà ta là Kemal. Trông nó có vẻ nhỏ hơn tuổi mười hai của mình, gầy gò và xanh xao, mớ tóc vàng bù xù và cái eằm bướng bỉnh. Nơi cánh tay phải là một ống tay áo trống khống. Thân hình mỏng mảnh của nó dường như đã bị căn phòng làm cho bé lại. Lúc Dana bước vào, không khí trong phòng đang rất nặng nề. - Chào bà Kostoff, - Dana nhẹ nhàng lên tiếng. - Kemal. Kemal nhìn chằm chằm vào đôi giày của nó. - Tôi được biết có chuyện gì đó đã xảy ra. - Dana tiếp tục. - Vâng, chính xác là như thế, cô Evans. - Bà ta trao cho nàng một mảnh giấy. Dana nhìn nó, bối rối. Trên đó viết: Vodja, Pizda, zbosti, fukati, nezakonski otrok, umreti, tepec. Nàng ngước lên. - Tôi… tôi không hiểu. Đây là tiếng Serbi, phải không? Bà Kostoff sin sít trả lời: - Vâng, đúng thế. Thật không may cho Kemal là tôi cũng là người Serbi. Đó là những từ mà em đã nói trong trường. - Mặt bà ta đỏ bừng. - Ngay cả cánh lái xe tải người Serbi cũng không nói thế, cô Evans, và tôi không thể tưởng tượng những lời lẽ như vậy lại được thốt ra từ mồm của đứa trẻ này. Kemal gọi tôi là một pizda. Dana nhắc lại: - Một pi… - Tôi hiểu rằng Kemal còn xa lạ với đất nước chúng ta, và tôi cũng đã rất chiếu cố đến điều này, nhưng… biểu hiện của nó thật đáng bị khiển trách. Nó thường xuyên tham gia các vụ đánh lộn và khi tôi trách phạt nó, vào sáng nay, nó đã… lăng mạ tôi. Như thế là quá lắm rồi. Dana khéo léo đáp. - Tôi chắc rằng bà hiểu hoàn cảnh khó khăn của nó, bà Kostoff, và… - Tôi đã nói rồi, tôi luôn chiếu cố, nhưng hình như nó đang định thử thách sự nhẫn nại của tôi. - Tôi hiểu. - Dana nhìn sang Kemal. Nó vẫn nhìn xuống đất, mặt mũi sưng sỉa. - Tôi hy vọng đây sẽ là vụ rắc rối cuối cùng, - bà Kostoff nói. - Tôi cũng vậy. - Dana đứng lên. - Đây là bảng thành tích học tập của Kemal. - Bà Kostoff mở ngăn kéo, lấy một tờ giấy ra và đưa cho Dana. - Cám ơn. - Dana nói. Trên đường về nhà, Kemal hoàn toàn yên lặng. - Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Dana hỏi, - Tại sao cháu cứ thích đánh nhau, và tại sao cháu lại nói những từ như thế chứ? - Cháu không biết là bà ta nói được tiếng Serbi. Khi cả hai về đến căn hộ của Dana, nàng nói: - Cô phải trở về phòng thu, Kemal. Cháu ở nhà một mình, được chứ? - Word. Lần đầu tiên Kemal nói thế với nàng, Dana tưởng rằng nó không hiểu ý mình, nhưng nàng nhanh chóng nhận ra đây là một kiểu tiếng lóng của bọn trẻ. Word có nghĩa là "vâng, phải" dùng để chỉ người thuộc giới tính kia… Dana lôi bảng kết quả học tập mà bà Kostoff đưa ra xem. Môi nàng mín lại, Lịch sử: D, Tiếng Anh: D. Khoa học tự nhiên: D. Khoa học xã hội: F. Toán: A. Nhìn bảng kết quả, Dana nghĩ, ồ, Chúa ơi, Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Chúng ta sẽ bàn chuyện này vào lúc khác, - nàng nói - Cô trễ giờ rồi. Đối với Dana, Kemal vẫn luôn là một điều bí ẩn. Khi ở bên nàng, nó cư xử rất có lễ phép, còn tỏ ra dễ thương, chu đáo và quan tâm. Vào các ngày cuối tuần, Dana và Jeff đưa nó đi chơi khắp Washington. Họ đến Vườn thú quốc gia, nơi có vô vàn các loại thú hoang quý hiếm, say sưa quan sát những con gấu trúc khổng lồ độc đáo. Họ tham quan Viện bảo tàng không gian và vũ trụ quốc gia, và Kemal được trông thấy chiếc máy bay đầu tiên của anh em Wright đung đưa trên trần nhà, rồi họ đi qua khu Skylab để sờ vào những hòn đá mang từ mặt trăng về. Họ đến trung tâm Kennedy và sân khấu Arena. Hai người giới thiệu với Kemal món pizza ở quán Tom Tom, món tacos ở quán Mextec, món gà rán phương Nam ở Georgetowns. Kemal yêu quý quá từng giây phút vui vẻ đó. Nó thật sự hạnh phúc khi có Dana và Jeff ở bên. Nhưng… mỗi khi Dana phải đi làm, Kemal trở thành một người khác hẳn. Nó tỏ ra chống đối và thù địch với tất cả. Dana cũng không tiện giao nó cho những người đến giúp việc, và những người đến trông đã kể những câu chuyện ghê gớm về những buổi tối ở cùng Kemal. Jeff và Dana đã cố giải thích khuyên bảo nó, nhưng vô hiệu. Có lẽ nó cần một sự trợ giúp đặc biệt, Dana nghĩ. Nàng không biết gì về những nỗi sợ hãi kinh khủng luôn bám riết lấy Kemal. Bản tin tối của WTN đã bắt đầu. Richard Melton, đồng sự bảnh bao của Dana và Jeff Connors ngồi phía sau nàng. Dana Evans đang nói: "… theo các tin tức quốc tế, Anh và Pháp vẫn đang gặp nhiều khó khăn với căn bệnh bò điên… đây là những thông tin của René Linaud từ Reims". Trong phòng điều khiển, đạo diễn Anastasia Mann ra lệnh: - Chuyển cảnh. Trên màn hình giờ là cảnh nông thôn nước Pháp. Cửa phòng thu bật mở và một nhóm người bước vào. Mọi người ngước nhìn lên. Tom Hawkins, một đạo diễn trẻ nhiều tham vọng của mục tin tức buổi chiều lên tiếng: - Dana, cô quen Gary Winthrop à? - Dĩ nhiên. Ở ngoài, Gary Winthrop còn đẹp trai hơn trong ảnh nhiều. Anh ta trạc tuổi bốn mươi, cặp mắt xanh sáng, nụ cười ấm áp và có sức quyến rũ kỳ lạ. - Chúng ta lại gặp nhau, Dana. Cám ơn vì đã mời tôi. - Hoan nghênh sự có mặt của anh. Dana nhìn quanh. Nửa tá thư ký bỗng nhiên tìm được lý do đột xuất để có mặt trong phòng thu. Gary Winthrop hẳn là đã quen với cảnh này rồi. Dana nghĩ, chợt cảm thấy vui vui. - Vài phút nữa là đến phần của anh rồi. Tại sao không ngồi xuống đây, cạnh tôi nhỉ? Đây là Richard Melton. Hai người đàn ông bắt tay nhau. - Anh biết Jeff Connors rồi, phải không? - Dĩ nhiên. - Rồi Gary đùa luôn. - Anh nên ra ngoài làm việc đi, Jeff, đừng có ngồi tào lao mãi. - Vâng, tôi cũng đang định làm như vậy đấy. Cảnh quay về nước Pháp đã kết thúc và tiếp theo là chương trình quảng cáo. Gary Winthrop lặng lẽ ngồi xem cho đến hết. Từ phòng điều khiển, Anastasia Mann nói: - Chuẩn bị, chúng ta sẽ phát cuốn băng. - Bà ta lặng lẽ đếm ngược bằng các ngón tay của mình. - Ba… hai… một… Trên màn hình giờ đây là quang cảnh bên ngoài của Bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Một phóng viên đang cầm chắc lấy chiếc microphone, bất chấp cơn gió lạnh buốt. "Chúng tôi đang đứng trước bảo tàng nghệ thuật Georgetown, nơi ông Gary Winthrop đang tổ chức trao một món quà trị giá năm mươi triệu đôla cho viện bảo tàng. Nào, chúng ta hãy cùng vào trong". Bây giờ là cảnh nội thất tráng lệ của viện bảo tàng. Vô số quan chức, nhân viên cấp cao và phóng viên đang vây chặt lấy Gary Winthrop. Ông giám đốc bảo tàng, Morgan Ormond trao cho anh ta một tấm bằng lớn. - Ông Winthrop, thay mặt cho viện bảo tàng, cho hàng triệu khách tham quan đến đây, và cho ban quản trị viện, chúng tôi xin chân thành cám ơn sự đóng góp vô cùng to lớn này của ông. Đèn flash thi nhau loé sáng. Gary Winthrop trả lời: - Tôi hy vọng việc này sẽ giúp các hoạ sĩ trẻ nước Mỹ có cơ hội tốt hơn để không chỉ thể hiện bản thân mà còn giới thiệu được tài năng của họ ra toàn thế giới. Tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Phóng viên trong cuốn băng nói: - Đây là Bill Toland, tại bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Trở về phòng thu chứ, Dana? Đèn đỏ của camera bật sáng. - Cảm ơn Bill. Chúng ta thật may mắn vì đã mời được ông Gary Winthrop đến đây cùng nói chuyện về món quà tuyệt vời của ông. Máy quay lia một cú rộng và hình Gary Winthrop ngồi trong phòng thu đã xuất hiện trên màn hình. Dana lên tiếng: - Món tiền năm mươi triệu đôla này, ông Winthrop, sẽ được dùng để mua tranh cho viện bảo tàng chứ? - Không. Đây là một sự bảo trợ mới dành cho những hoạ sĩ trẻ người Mỹ, những người không thể, hay nói một cách khác là không có cơ hội được thể hiện những gì mà họ có. Một phần của số tiền sẽ được dùng để hỗ trợ những em học sinh có năng khiếu ở các thành phố thuộc bang. Có rất nhiều em nhỏ lớn lên mà không có chút kiến thức nào về nền nghệ thuật của nước mình. Chúng có thể biết đến trường phái ấn tượng Pháp, nhưng tôi muốn chúng nhận thức rõ hơn về những di sản của chính chúng, với những hoạ sĩ Mỹ như Sargent, Homer và Remington. Nói tóm lại, số tiền này dùng để cổ động các hoạ sĩ trẻ phát huy hết tài năng của họ cũng như dành cho tất cả những bạn trẻ nào có hứng thú với nghệ thuật. - Có tin đồn rằng ông đang dự tính chạy đua vào Nghị viện, ông Winthrop. Đây có phải là sự thật không? - Dana hỏi. Gary Winthrop mỉm cười: - Tôi đang nắn gân mọi người đấy. - Thật là thú vị. Theo kết quả bỏ phiếu thử mà chúng tôi đã xem qua, thì ông đang dẫn đầu. Gary Winthrop gật đầu. - Gia đình tôi đã có một bảng thành tích dài về việc phục vụ chính phủ rồi. Nếu như tôi có được chút hữu dụng nào với đất nước thì, tôi xin làm bất cứ việc gì mà Chính phủ yêu cầu. - Xin cảm ơn sự có mặt của ông, ông Winthrop. - Cảm ơn. Gary Winthrop chào tạm biệt và rời phòng thu trong lúc phát quảng cáo. Jeff Connors, ngồi cạnh Dana nói: - Chúng ta cần nhiều người như anh ta ở trong Quốc hội hơn! - Chúa ơi. - Chúng ta có thể nhân bản anh ta. À mà… Kemal sao rồi? Dana nhăn mặt. - Jeff… làm ơn đừng bỏ cả Kemal và nhân bản vào cùng một rọ. Em không chịu nổi đâu. - Vẫn còn bị ảnh hưởng bởi chuyện sáng nay à? - Ừ, nhưng chỉ hôm nay thôi. Ngày mai sẽ… Anastasia Mann nói: - Trở lại nào. Ba… hai… một… Đèn đỏ bật sáng. Dana nhìn về phía ống kính. "Sau đây là phát thanh viên Jeff Connors với phần tin thể thao". Jeff nhìn vào ống kính và bắt đầu nói: "Hôm nay, trận bóng rổ giữa hai đội…" Vào lúc hai giờ sáng, trong căn nhà của Gary Winthrop ở khu tây bắc Washington, hai người đàn ông đang gỡ những bức tranh trên tường phòng khách xuống. Một người đeo mặt nạ, Lone Ranger, còn người kia là đại uý Midnite. Họ làm với vẻ ung dung hết mức, lôi từng tờ tranh khỏi khung kính và nhét vào chiếc bao bố to sụ. Lone Ranger nói: - Mấy giờ thì xe tuần mới quay lại? Đại uý Midnite trả lời: - Bốn giờ. - Họ thật tốt bụng khi hẹn đầy đủ giờ giấc với chúng ta, nhỉ? Đại uý Midnite nhấc một bức tranh trên tường và đập nó xuống nền nhà lát gỗ sồi, gây ra một tiếng động lớn. Hai người dừng lại một lát và nghe ngóng. Yên lặng. Lone Ranger nói: - Lại lần nữa. Đập mạnh vào. Đại uý Midnite lấy một bức tranh khác và ném mạnh xuống sàn. - Nào, xem chuyện gì xảy ra nhé. Trên giường ngủ ở tầng trên, Gary Winthrop bị tiếng ồn làm thức giấc. Anh ta ngồi hẳn lên. Mình đã nghe thấy tiếng động, hay chỉ là mơ thấy nó? Anh ta lắng nghe một hồi lâu. Vẫn yên lặng. Không chắc lắm, anh ta đứng dậy, bước ra hành lang và bật đèn. Hành lang vẫn tối om. - Này. Có ai ở dưới đó không? - Không có tiếng trả lời. Đi xuống lầu, anh ta bước dọc theo hành lang cho đến cửa phòng khách. Anh ta dừng lại và ngó sững hai người đàn ông đeo mặt nạ với vẻ hoài nghi. - Các anh làm cái quái gì ở đây thế này? Lone Ranger quay sang anh ta và nói: - Chào Gary. - Xin lỗi vì đã đánh thức ông dậy. Hãy đi ngủ tiếp đi. Không một tiếng động, khẩu Beretta xuất hiện trên tay hắn. Hắn đẩy cò hai lần và một màu đỏ lòm bắn tung toé ra từ ngực Gary. Lone Ranger và đại uý Midnite nhìn cái xác của Gary Winthrop đổ ập xuống nền nhà. Hài lòng, chúng quay lưng và tiếp tục hoàn thành nốt việc lấy đi các bức tranh. ... Mời các bạn đón đọc Bầu Trời Sụp Đổ của tác giả Sidney Sheldon.
Người Đàn Bà Đáng Sợ - Erle Stanley Gardner
Anh chàng thanh niên Ted Balfour trong “Người đàn bà đáng sợ” là con người hiền lành lương thiện, chỉ vì một vài sơ sót mà bị bọn xấu vu oan, bôi nhọ. Bọn xấu còn dựng lên hiện trường giả để đánh lạc hướng nhân viên điều tra, khiến cho vụ án trở nên rắc rối đến nổi các vị ở tòa án cũng bị nhầm lẫn. Nhờ sự trợ giúp đắc lực của thám tử Paul Drake và cô thư ký trung thành, tận tụy là Della Street, cùng với sự nhạy bén của một đầu óc thông minh, luôn tha thiết với công lý tưởng chừng như bế tắc, vị luật sư tài ba rất đáng yêu của chúng ta đã khám phá ra sự thật. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Della Street, cô thư ký riêng của Luật sư Perry Mason, nhấc máy điện thoại lên và hỏi: - A lô! Một giọng trẻ trung và ngân vang của phụ nữ ở đầu dây hỏi lại: - Ông Mason sẽ đòi bao nhiêu tiền thù lao cho một ngày làm việc ở Tòa án? Câu trả lời của Della Street lập tức trở nên thận trọng: - Điều đó còn tùy thuộc vào đây là loại việc gì, việc ông ấy phải làm là việc gì... - Ông ta chỉ việc nghe chứ không làm việc gì khác. - Bà muốn nói rằng ông ấy không phải tham gia vào việc tranh cãi chăng? - Không. Chỉ đơn giản là nghe người ta nói những gì và từ đấy rút ra những kết luận của mình. - Bà là ai? Tôi muốn bà cho biết tên. - Bà cần một cái tên để ghi vào sổ chăng? - Đúng như vậy. - Nếu thế thì ghi là Cash (thanh toán ngay, bằng tiền mặt). - Sao ạ? - Cash! - Tôi nghĩ tốt hơn là bà nên nói chuyện với ông Mason, - Della Street nói. - Tôi sắp xếp cho bà một cuộc hẹn nhé. - Chúng ta không có thời gian để hẹn. Công việc mà tôi quan tâm sẽ diễn ra vào lúc 10 giờ, ngay sáng hôm nay. - Xin bà chờ một lát, bà đừng bỏ máy nhé. Perry Mason đang đọc báo, ngẩng đầu lên khi người thư ký bước vào phòng. - Ông chủ, - cô nói với ông, - ông phải tự giải quyết việc này ạ. Một người phụ nữ, đoán theo giọng nói thì còn trẻ, muốn là ông nên có mặt ở Tòa án, nơi sẽ diễn ra một việc gì đó vào sáng nay. Cô ta đang đợi ông ở đầu dây. - Tên cô ấy là gì? - Cô ấy nói với tôi là Cash. Mason mỉm cười và nhấc máy nói lên, trong lúc ấy thì Della Street đi nối dây vào máy. - Vâng, - ông nói. - Perry Mason đang ở máy đây. - Sáng nay vào lúc 10 giờ, tại phòng số 23, sẽ xét xử Balfour theo truy tố của phòng Chưởng lý, - một giọng nói thận trọng trả lời. - Tôi muốn biết là tôi sẽ phải trả bao nhiêu để ông đi dự phiên tòa ấy và rút ra những kết luận của mình. - Tên cô là gì? - Như đã nói với thư ký của ông, ông chỉ cần ghi là Cash vào sổ là đủ. - Bây giờ là 9 giờ 25 phút. - Mason xem chiếc đồng hồ quả quít. - Tôi có hai cuộc hẹn vào buổi sáng và một vào buổi trưa. Tôi chỉ có thể bỏ chúng khi phải làm một công việc rất quan trọng. - Đây là một công việc như thế. - Nếu vậy thì tôi sẽ bỏ những cuộc hẹn đó. Khoản thù lao... - Sẽ là bao nhiêu? - 500 đôla. - Mason đáp lại khá khô khan. - Ối! Tôi... Tôi... thất vọng. Tôi không có ý... Thôi, tôi rất buồn, nhưng mà chúng ta không nói tới chuyện ấy nữa! Cảm động vì sự hốt hoảng trong giọng nói của người đang đối thoại với mình, Mason hỏi lại: - Cô không nghĩ là số tiền phải nhiều đến như vậy chứ gì? - Vâng... vâng... Tôi chỉ có tiền lương và... - Cô hiểu cho, tôi có nhiều khoản phải chi tiêu trong một ngày. Cô làm nghề gì? - Tôi là thư ký. - Và đơn giản là cô muốn đến để nghe xem người ta nói gì về vụ này? - Vâng... Nhưng tôi không đủ tiền... Tôi không... - Cô muốn rằng cô phải trả bao nhiêu? - 100 đôla. Tôi cũng có thể trả tới 150... - Tại sao cô lại muốn tôi đến dự phiên tòa đó? Vụ ấy có liên quan đến cô chăng? - Không trực tiếp. Không... - Cô có xe hơi riêng không? - Không ạ. - Có tiền gởi ngân hàng chứ? - Thưa có! - Bao nhiêu? - Khoản trên 600 đôla. - Thôi được! Cô đã thành công trong việc khêu gợi óc tò mò của tôi đấy. Nếu cô trả tôi 100 đôla, tôi sẽ thực hiện điều cô yêu cầu. - Ồ! Ông Mason... Ôi, rất cảm ơn ông! Tôi xin cử một người tùy phái đến gặp ông ngay... Ông hiểu cho, rất không nên để ông biết tôi là ai... Tôi không thể giải thích được, nhưng người ta sẽ mang tiền đến cho ông ngay tức khắc. Và tôi yêu cầu ông đừng nói với ai là có người nhờ ông trong vụ này. Tôi rất muốn là ông tới đấy như một người đi nghe tòa xử, rằng ông không ngồi cùng chỗ với các luật sư khác. - Nhưng nếu tôi không tìm được chỗ ngồi? - Tôi đã nghĩ đến điều ấy. Khi tới nơi, ông nhìn về phía bên trái, ông sẽ thấy một phụ nữ tóc đỏ hoe, khoảng 40 tuổi, ngồi ở hàng ghế thứ tư tính từ cuối phòng trở lên. Bên cạnh người ấy là một phụ nữ trẻ hơn, tóc nâu sẫm, đã đặt hai chiếc áo măng tô trên ghế phía tay trái của mình. Ông chỉ cần đi đến chỗ ấy, cô ta sẽ nhấc áo nhường ghế cho ông. Chúng ta mong rằng sẽ không ai nhận ra ông... Ông đừng mang theo cặp da. Một tiếng cạch báo cho người luật sư biết rằng đường dây đã bị cắt, và ông quay lại người thư ký của mình. - Della, khi người tùy phái mang 100 đôla của người đàn bà đó tới, cô làm giấy biên nhận và bảo anh ta đưa lại cho người đã giao việc cho mình. Tôi đi dự phiên tòa ấy đây. ... Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Đáng Sợ của tác giả Erle Stanley Gardner.
Mối Thù Thiên Thu - Jack London
Mối thù thiên thu là một phần thuộc tập 10 truyện trinh thám nổi tiếng Thám Tử Conan của Jack London. Liệu diễn biến tiếp theo của câu chuyện sẽ xảy ra nư thế nào!? *** Jack London sinh ngày 12-1-1876 tại San Francisco, tiểu bang California, với tên khai sinh đầy đủ là John Griffith Chaney trong một khu nghèo khổ của thành phố - "bên kia đường ray" như sau này ông viết. Những thanh ray của tuyến tàu điện chính ngăn San Francisco ra làm 2 nửa: phía bắc là khu của những người giàu; còn phía nam đường ray - người nghèo, thất nghiệp và ăn mày chen chúc. Jack London đã được sinh ra tại chính khu này và lại là đứa con ngoài giá thú. Ông không bao giờ biết được cha mình là ai, chỉ nghe nói lại đó là một nhà chiêm tinh với những thủ thuật đáng ngờ, một kẻ luôn trốn tránh trách nhiệm làm cha. Tuổi thơ của Jack ngập trong đói nghèo và sự khốn cùng. Trong một cuốn tiểu sử tự thuật ông viết sau này, ông thú nhận năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên ông phải đi ăn cắp - do cái đói thúc bách - một mẩu sandwich của một cô bé. Mãi tới năm 9 tuổi Jack mới có chiếc áo sơ mi đầu tiên. Tuy là một chiếc áo cũ nhàu nát, nhưng "Tôi phấn khởi biết dường nào. Nhiều ngày liền tôi không cởi áo ra để cho mọi người biết mình cũng có sơ mi mặc như ai", như Jack đã viết như thế. Tác giả của "33 đầu sách cùng rất nhiều truyện ngắn và mẩu tin trên báo" được coi là một trong những nhà văn hiện thực Mỹ hàng đầu. Nét nổi bật trong những cuốn sách của ông là vốn sống thực tế với những bi kịch của cuộc đời. Cho đến nay, Jack London vẫn là một trong những tác giả được bạn đọc khắp thế giới ưa thích nhất. Cách đây một thế kỷ. Vào tháng 11-1916, khi tin ông từ trần được loan báo khắp thế giới, rất nhiều độc giả không muốn tin vào sự thật phũ phàng đó. Họ thêm vào một trong những huyền thoại nữa về nhà văn vĩ đại: Jack London không tự vẫn, mà ông lẩn khuất ở một nơi nào đó… *** Xe lướt tuyết rền rĩ những âm điệu như than vãn hoà với tiếng rèn rẹt của dây cương và tiếng leng reng của những quả chuông buộc nơi cổ những con chó đầu đàn; nhưng người và vật đều mệt mỏi nên chẳng buồn cất tiếng. Con đường mòn nằm lấp dưới lớp tuyết dày đặc mới rơi xuống. Họ đã vượt một khoảng đường xa, và những bàn trượt nặng trĩu dưới những tảng thịt nai rừng nặng như đá, bám rít lấy mặt tuyết chưa kết đông và chậm lại một cách bướng bỉnh hầu như có người xúi giục vậy. Màn đêm xuống dần, nhưng đêm hôm đó họ không có ý định cắm trại. Tuyết lả tả rơi trong bầu trời êm ả, không thành băng tuyết mà thành những mảnh pha lê li ti đủ hình thể xinh đẹp. Trời thực ấm áp - chỉ ngót 10 độ[1] dưới không độ - và mọi người cảm thấy thoải mái. Meyers và Bettles đã lật hai cánh mũi che tai lên, và Malemute Kid* lại còn tháo cả bao tay ra. Đàn chó đã mệt mỏi từ lúc xế trưa, nhưng lúc này chúng lại tỏ ra hăng hái như vừa được tiếp một nguồn sinh lực mới. Trong đám những con chó khôn, có một vẻ bồn chồn – chúng hung hăng nhưng bị dây kéo cản lại, chúng hỉnh mũi đánh hơi và dỏng tai lên nghe ngóng. Chúng bực tức với những con có vẻ thờ ơ, thúc dục những con này bằng cách táp nhẹ vào mông chúng. Những con bị trách móc như vậy cũng dúm lại và hùa vào làm cho vẻ hung hăng lan rộng thêm. Sau cùng con đầu đàn của chiếc xe dẫn lộ rít lên một tiếng mãn nguyện, rạp mình sát xuống tuyết rồi lao tới phía trước. Những con khác cũng rít lên như vậy. Các đoàn sau đi túm tụm lại, dây kéo siết lại gần nhau; những chiếc xe lướt trên tuyết băng tới trước, và mọi người nắm chặt lấy cây cột, nhấc chân bước mạnh mẽ càng lúc càng mau để khỏi bị xe lướt tuyết cán lên. Dường như họ vừa trút được hết sự mỏi mệt lúc ban ngày, và họ lên tiếng hò khuyến khích đàn chó. Chúng đáp lại bằng những tiếng sủa ăng ẳng vui vẻ. Họ đang tiến với một sức phi mau như gió qua bóng tối đang xuống dần. Mọi người lần lượt kêu mấy tiếng “Quẹo! Quẹo!” trong khi chiếc xe lướt tuyết bất chợt rời bỏ đường chính, họ điều khiển những xe lướt tuyết đó như đoàn thuyền lướt trong gió. Sau đó là cuộc chạy nước rút một trăm thước tới cái cửa sổ che bằng tấm da bên trong có ánh sáng le lói như báo cho mọi người biết đó là cái chòi có người ở, có lò lửa kiểu Yukon đang cháy rực, và những ấm trà đang bốc hơi nghi ngút. Người và vật đã đổ xô tới chiếc chòi đó. Chừng sáu chục con sủa vang như khiêu khích, và có những con vật lông xù to lớn xông lại phía những con chó kéo chiếc xe đi đầu. Cánh cửa mở bật ra, một người mặc áo màu đỏ tía thuộc Cảnh Sát miền Tây Bắc bước một cách khó khăn giữa những con vật hung hăng, lông chúng che phủ tới đầu gối người đó; ông dàn hoà chúng một cách bình tĩnh và vô từ bằng cái cán roi. Sau đó mọi người bắt tay chào hỏi, và Malemute Kid được người lạ bắt tay mời vào căn lều của chính mình. Stanley Prince, lẽ ra phải ra đón anh, và có nhiệm vụ trông chừng cái lò và trà nóng, lại đang bận rộn khách khứa. Họ chừng hơn chục người, thật là một nhóm người hỗn tạp phụng sự Hoàng gia Anh để thi hành luật pháp hoặc phân phát thư tín. Họ thuộc nhiều nhân chủng khác nhau, nhưng cuộc đời thường nhật đã tạo họ thành một hạng người đặc biệt - một loại người dong dỏng và gân guốc, có bắp thịt cứng rắn vì phải đi lại đường rừng, khuôn mặt xạm nắng và tâm hồn thanh thản, cặp mắt sáng luôn luôn nhìn thẳng và thành thực. Họ đánh xe do chó của Hoàng gia kéo, gieo sợ hãi vào lòng những kẻ bất lương, họ ăn những thực phẩm thanh đạm của chính phủ ban cho và lấy thế làm sung sướng. Họ đã từng trải đời, tạo được nhiều thành tích, và sống những giờ phút nên thơ mà họ không ngờ. Họ sống rất thân mật và hồn nhiên. Hai người trong bọn nằm dài trên giường của Malemute Kid, miệng hát những bài ca mà tổ tiên người Pháp của họ đã hát khi mới đặt chân tới mảnh đất miền Tây Bắc và sống chung với người Da Đỏ ở đó. Giường của Bettles cũng bị chiếm; ba hay bốn “khách du hành” lực lưỡng vừa cựa quậy ngón chân của họ trong đống chăn mền vừa nghe chuyện một người đã từng phụng sự trong lữ đoàn hải thuyền cùng với Wolseley khi ông này chiến đấu mở đường đi tới Khartoum. Và khi anh này mệt rồi, một chàng “chăn bò” thuật lại về những triều đình cùng những ông hoàng bà chúa mà anh ta đã thấy hồi Buffalo Bill đi lưu diễn tại các kinh đô bên Âu Châu. Trong một góc phòng có hai chàng lai, cựu đồng ngũ trong một cuộc bại trận, ngồi sửa lại dây cương và đàm luận về hồi mà miền Tây Bắc đang chìm trong khói lửa của cuộc nổi loạn và Louis Riel làm chúa tể. Những lời giễu cợt và trò nghịch tinh thô lỗ ồn ào như vỡ chợ, và những cuộc mạo hiểm gian truân trên những nẻo đường và khúc sông được kể lại như chuyện tầm thường, nhưng sở dĩ nó được nhắc lại là vì nó có đượm vẻ khôi hài hoặc ngộ nghĩnh. Prince say sưa theo dõi chuyện của những vị anh hùng không tên tuổi này, những người đã chứng kiến lịch sử diễn biến, đã coi những chuyến vĩ đại, những chuyện hào hùng là chuyện tầm thường hoặc tình cờ trong cuộc sống thường nhật mà thôi. Chàng đem thuốc lá quý ra cho mọi người chuyền tay quấn hút một cách lãng phí; rồi trí nhớ dường như được mài dũa lại, mọi người đua nhau thuật lại những chuyện phiêu lưu kỳ thú cho anh nghe. Khi buổi chuyện trò tàn và những kẻ du hành kia nhồi thuốc lá vào ống điếu cuối cùng rồi trải ra những cái túi ngủ bằng da thú được cuộn chặt, Prince quay lại bạn để hỏi thêm tin tức. Malemute Kid, đang bắt đầu cởi giầy, cất tiếng trả lời: “Anh biết chàng chăn bò là ai rồi, và chắc anh cũng đoán được một cách dễ dàng là người nằm cùng giường với hắn có máu Anh Cát Lợi. Còn những người kia đều là dòng dõi của những tay lục lâm, lai với không biết bao nhiêu dòng máu khác. Hai người đang ở ngoài cửa đi vào thì lai máu Eskimo. Anh chàng có cái khăn quàng bằng len đan – hãy để ý cặp lông mày và cằm hắn - một người Tô Cách Lan đã từng khóc trong chiếc lều ám khói của người mẹ Da Đỏ của hắn. Và thằng đẹp trai đang đặt cái áo khoác xuống để gối đầu là một thằng lai Pháp – anh đã nghe hắn nói chuyện đó; hắn không ưa hai thằng Da Đỏ vào sau hắn. Anh hiểu không, khi bọn “lai” nổi loạn dưới sự chỉ huy của Riel thì bọn “thuần tuý”, (không lai) lại cứ phớt tỉnh, và từ ngày đó tới giờ họ vẫn không ưa gì nhau mấy”. ... Mời các bạn đón đọc Mối Thù Thiên Thu của tác giả Jack London.