Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bức Tranh Dorian Gray

Không chỉ là một kiệt tác văn chương gây nhiều tranh cãi khi mới xuất bản, “Bức tranh Dorian Gray” còn là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Oscar Wilde. Lấy bối cảnh diễn ra vào thời Victoria ở nước Anh, Dorian Gray có vẻ ngoài cuốn hút, đã truyền cảm hứng cho Basil vẽ chân dung của anh. Đó là một bức chân dung kì lạ, nó thay Dorian Gray già đi, thậm chí khi Dorian Gray trở nên tệ bạc, xấu xa, bức tranh cũng trở nên tệ hại theo. Cứ thế Dorian Gray giữ được vẻ ngoài suốt gần hai mươi năm, nhưng liệu giữ được vẻ ngoài hào hoa bất biến theo thời gian có thật sự là may mắn? Trút hết sự suy đồi của mình vào một bức tranh liệu có làm cho Dorian Gray hạnh phúc, hay đó lại chính là khởi đầu cho những bất hạnh ngấm ngầm bao phủ cuộc đời anh ta? *** Trong lịch sử văn chương nhân loại có những cuốn sách được viết ra quá sớm so với thời đại của chúng, nên dường như vì thế mà chúng phải chịu trắc trở ngay từ những ngày mới chào đời. Ví dụ điển hình là Lolita của Vladimir Nabokov: Bị cấm ở nhiều nơi, không thể in ở Mỹ, nơi nó được sáng tác xong vào năm 1953, và phải xuất bản lần đầu ở Pháp vào năm 1955. Tuy nhiên, như đã biết, sau đó Lolita nhanh chóng trở thành một tác phẩm bán chạy hàng đầu của văn chương tiếng Anh, luôn được xếp hạng đầu trong các cuộc bình chọn, và đưa tác giả của nó trở thành một trong các nhà văn vĩ đại nhất nhân loại. Trước đó hơn nửa thế kỷ, vào năm 1891, cũng từng có một kiệt tác văn chương chịu số phận gập ghềnh không kém, là Bức tranh Dorian Gray (The picture of Dorian Gray) của Oscar Wilde, nhà văn vĩ đại người Ai Len. Sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng Bảy năm 1890 trên tạp chí Lippincott's Monthly Magazine, mặc dù đã bị kiểm duyệt và bỏ đi khoảng năm trăm từ, nhưng cuốn sách này vẫn chịu phản ứng dữ dội từ giới phê bình văn chương Anh quốc, do đụng đến các vấn đề chưa được xã hội chấp nhận vào thời điểm ấy. Phiên bản sách giấy của Bức tranh Dorian Gray được Oscar Wilde chỉnh sửa, bổ sung, viết thêm phần Lời tựa rất nổi tiếng, và cho nhà xuất bản Ward, Lock and Company in vào năm 1891. Như vậy, tác phẩm này có hai phiên bản: một là bản 1890 với 13 chương và khoảng năm trăm từ bị kiểm duyệt, hai là bản 1891 với 20 chương và được in thành sách. Ngoài ra, năm 2011, Harvard University Press đã in lại bản 1890 với 13 chương nguyên vẹn không bị bỏ từ nào như Oscar Wilde viết từ đầu. Bản dịch tiếng Việt này được làm theo bản 1891 của Ward, Lock and Company. Mặc dù cuốn sách hiện nay đã nổi tiếng, được dựng thành phim và kịch, thậm chí Dorian Gray đã thành một thuật ngữ chỉ một hội chứng thời đại, nhưng tác giả của nó lại không được chứng kiến sự thành công của đứa con tinh thần của mình. Tác giả Bức tranh Dorian Gray phải chịu số phận bi thảm hơn nhiều so với tác giả Lolita, ông sống những ngày tháng cuối đời trong cô độc và nghèo khổ. Ngày 30 tháng Mười một năm 1900, ông qua đời vì bệnh viêm não tại Paris, khi mới 46 tuổi. Cuốn sách đã đem lại cho Oscar Wilde nhiều bi kịch, biến ông trở thành nhân vật bị xã hội căm ghét, và không khó nhận ra sự phản kháng của ông trong phần Lời tựa khi tái bản nó, với những tuyên ngôn đầy ẩn ý như: “Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi.” Hoặc: “Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động.” Tuy nhiên, thời gian là hòn đá thử vàng với nghệ thuật, không phải cái gì lấp lánh leng keng cũng chịu đựng được sự phán xét tàn nhẫn của thời gian. Năm nào cũng có vô số cuốn tiểu thuyết được viết ra, được ca ngợi bởi các nhà phê bình cũng như báo chí, thậm chí được các giải thưởng lớn nhưng không mấy cuốn còn lại được sau vài chục năm. Và trong các cuốn sách trụ vững với thời gian ấy thì, cũng như Lolita, Bức tranh Dorian Gray đã được đánh giá như một trong các kiệt tác văn chương quan trọng nhất của nhân loại. Tình yêu đồng giới mà nó đề cập đến đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, mặc dù cũng chưa thể nói là đã được coi là bình thường tại một số nước nhất định. Tuy nhiên, chủ đề này chỉ là một điểm nhấn trong Bức tranh Dorian Gray, và ngay cả mô-típ bán linh hồn cho quỷ dữ cũng không phải là mới, mà chính kỹ thuật viết tuyệt đẹp đã đem lại sự thành công cho tác phẩm này. Vốn nổi tiếng như một tác giả của những câu văn hài hước, sâu sắc và đôi khi rất cay độc, Oscar Wilde đã đưa câu chuyện tưởng chừng rất khó viết cho tao nhã ấy thành một tiểu thuyết cực kỳ hấp dẫn không chỉ về số phận một nhân vật riêng lẻ, mà về bi kịch chung của thân phận con người. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách: Henry Wotton, Dorian Gray, Basil Hallward, theo Oscar Wilde, là ba phản thân của tác giả, là những hình ảnh mà thế gian nhìn nhận về ông; chính ông muốn mình sẽ trở thành, có thể, ở một thời đại khác; và ông nghĩ là của chính ông. Thực ra cũng không ai biết ai trong ba nhân vật trên đây có nhiều tính Oscar Wilde hơn cả, vì không phải lúc nào con người cũng nhìn nhận được chính xác về mình, dẫu người đó có là một thiên tài chăng nữa. Người viết những dòng này vốn hâm mộ Oscar Wilde từ khi còn là một cậu bé, và không thể phủ nhận rằng đã bị nhiều câu văn của ông ảnh hưởng phần nào đến cách tư duy, nên việc dịch Bức tranh Dorian Gray, tiểu thuyết duy nhất của ông, vừa là một chuyến trở về thế giới của bậc thầy, vừa là một nghĩa vụ cá nhân: Đưa kiệt tác này đến với tiếng Việt một cách hoàn hảo nhất, bằng tất cả những gì mà khả năng và thời gian cho phép. Ba tháng dịch Bức tranh Dorian Gray đã đem lại cho người dịch nó những kỷ niệm khó quên, không chỉ trong mà còn ngoài cuốn sách. Có những chương dài và vô cùng phức tạp vì liên quan đến những kiến thức văn hóa và lịch sử cổ xưa của châu Âu, có nhiều câu văn đẹp đến mức không thể bỏ đi tiếp khi chưa thấy bản dịch thỏa mãn được chính người dịch, có những lúc mệt mỏi với sự đen tối không đáy của tâm hồn con người, có những lúc bật cười với sự hài hước đặc biệt của Oscar Wilde, có những lúc xao lòng với nỗi đau đằng sau một nụ cười nào đó, nhưng, trên tất cả, là niềm hạnh phúc vì đã, cùng với thần tượng của mình, tạo ra được một thứ tuyệt đối vô ích, chỉ vì mê nó đến cùng cực. Thiên Lương *** Nghệ sỹ là người tạo ra cái đẹp. Biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sỹ là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể tái hiện qua phong cách khác hoặc chất liệu khác các ấn tượng của mình về cái đẹp. Hình thái phê bình cao nhất cũng như thấp nhất là một dạng tự truyện. Những ai thấy nghĩa xấu trong cái đẹp là đã đồi bại song không nhờ thế mà khả ái hơn. Đó là tội trọng. Nhưng ai thấy nghĩa đẹp trong cái đẹp thì đã biết tu dưỡng. Với những kẻ này thì vẫn còn hy vọng. Họ là những kẻ được chọn lựa, những kẻ thấy cái đẹp chỉ đơn giản là đẹp mà thôi. Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa hiện thực là cơn thịnh nộ của Caliban khi thấy mặt mình trong gương. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa lãng mạn là cơn thịnh nộ của Caliban khi không thấy mặt mình trong gương. Cuộc đời đạo đức của con người tạo thành một phần chủ đề của nghệ sỹ, nhưng đạo đức nghệ thuật cốt ở sự sử dụng thành thạo một công cụ không hoàn hảo. Không nghệ sỹ nào muốn làm sáng tỏ điều gì. Ngay cả những điều đúng đắn cũng có thể bị làm sáng tỏ. Không nghệ sỹ nào có sự đồng cảm với luân thường đạo lý. Sự đồng cảm với luân thường đạo lý ở nghệ sỹ là một phong cách riêng tư không thể dung thứ. Không nghệ sỹ nào từng bệnh hoạn. Nghệ sỹ có thể diễn tả mọi điều. Tư tưởng và ngôn ngữ là các công cụ nghệ thuật của nghệ sỹ. Sự đồi bại và đức hạnh là các chất liệu của nghệ sỹ cho nghệ thuật. Từ quan điểm hình thái học, mẫu mực mọi nghệ thuật là nghệ thuật của nhạc sỹ. Từ quan điểm cảm xúc, ngón nghề của nghệ sỹ là mẫu mực. Mọi nghệ thuật đồng thời là bề mặt và biểu tượng. Những ai đi xuống dưới bề mặt đều làm liều. Những ai đọc biểu tượng đều làm liều. Chính khán giả, chứ không phải cuộc sống, mới là cái mà nghệ thuật thật sự phản chiếu. Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động. Khi các nhà phê bình bất đồng, nghệ sỹ thống nhất với chính mình. Ta có thể tha thứ cho kẻ tạo ra một thứ hữu ích chừng nào y còn chưa mê nó. Lý do duy nhất để bào chữa cho việc tạo ra một thứ vô ích là người ta mê nó đến cùng cực. Mọi nghệ thuật đều tuyệt đối vô ích. Oscar Wilde *** Oscar Wilde, tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, sinh ngày 16.10.1854. Oscar Wilde là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch và phê bình nổi tiếng của Ireland. Năm 1871, ông học tại Trinity College (Dublin), sau đó học tại Magdalen College (Oxford, 1874-1878). Ở đây ông đã gặp và chịu ảnh hưởng của nhà văn, nhà phê bình Walter Pater (1839-1894) và ủng hộ phong trào ”nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông cũng chính là người khởi xướng việc giảng dạy phong trào nghệ thuật này. Năm 1878, Oscar Wilde nhận giải Newdigate của Oxford cho bài thơ Ravenna. Năm 1884, Wilde kết hôn và cùng gia đình định cư tại Chelsea (London), tiếp tục viết và làm việc cho các tạp chí như Pall Mall Gazette và biên tập viên của Women's world (1887 – 1889). Ông xuất bản sách truyện cổ tích đầu tiên năm 1888 với tác phẩm The Happy Prince and Other Stories (Hoàng tử hạnh phúc và những câu chuyện khác). Ông sáng tác nhiều và thành công với lối viết tự nhiên, trong sáng. Ông cũng thành công với quyển tiểu thuyết duy nhất The Picture of Dorian Gray (1891). Sở trường của ông là biên kịch và với giọng văn trào phúng, châm biếm cùng với cách chơi chữ hóm hỉnh, ông đã sản xuất các phim hài như Lady Windermere's Fan (1892), An Ideal Husband (1895) và The importance of being earnest(1895), Salomé (1896). Năm 1895, Wilde bị buộc tội "có lối sống không đứng đắn” đối với hành vi “tình dục đồng giới” với 02 năm lao động khổ sai. Sau khi ra tù vào tháng 5/1897, ông đã dành phần đời còn lại của mình ở châu Âu, xuất bản "The Ballad of Reading Gaol" trong năm 1898. Ông qua đời tại Paris vào ngày 30 Tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Chân Dung Của Dorian Gray - Oscar Wilde Gã Khổng Lồ Ích Kỷ - Oscar Wilde Tội Ác Của Huân Tước Arthur Savile Và Các Truyện Ngắn Khác ... Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Dorian Gray của tác giả Oscar Wilde & Thiên Lương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đêm Tối Và Ánh Sáng - Torey Hayden
Đến với “Đêm tối và ánh sáng”, bạn sẽ cảm nhận mình như một người đang lặng lẽ chứng kiến những gì xảy ra trong một lớp học đặc biệt. Ở đó có: Torey – một cô giáo trẻ; Anton – anh chàng cao to mang trong mình hai dòng máu Mexico – Mỹ, mới vào nghề và vẫn chưa tốt nghiệp trung học; Whitney – cô gái tình nguyện chỉ mới học cấp hai. Với những đứa trẻ bị rối loạn và bị khiếm khuyết về mặt tâm thần: một cậu bé với hệ thần kinh bất ổn và thường xuyên có hành vi bạo lực, một cô bé chỉ mới tám tuổi nhưng đã hai lần tự sát, những đứa trẻ mắc bệnh tự kỷ bẩm sinh, một bé gái bảy tuổi từng là nạn nhân của nạn lạm dụng thể xác, một cô bé xinh xắn nhưng bị mắc bệnh tâm thần phân liệt từ nhỏ… Và Sheila – cô bé bị mẹ bỏ rơi trên đường cao tốc khi mới bốn tuổi, đã bắt cóc và thiêu sống một bé trai ba tuổi khi em lên sáu. Trong “Đêm tối và ánh sáng”, bạn sẽ thấy  được ý nghĩa của sự chân thật, ý nghĩa của những việc làm xuất phát từ trái tim của cô giáo Torey, để rồi những đứa trẻ dần dần thích nghi, bắt đầu trò chuyện, biết làm chủ phần nào cảm xúc của mình. Riêng đối với Sheila, với ánh mắt hoang dại và tính tình kỳ dị đầy bí ẩn là một thử thách gay go cho cô trong suốt thời gian em theo học để chờ một chỗ trống trong bệnh viện liên bang - nơi mà rất nhiều người có thầm quyền cho rằng đó là nơi tốt nhất đối với em. Sheila là cô bé thông minh và ở em sự thông minh trái ngược với cái thân thể nhỏ bé nhưng cân đối, với những hiểu biết vượt hẳn những đứa trẻ đồng trang lứa. Nhưng suốt sáu năm trời từ lúc được sinh ra, em đã bị vùi lấp bởi cái quá khứ kinh hoàng. Hạnh phúc mới thật sự đến khi em tin vào người mà em cho rằng đã “cảm hóa” em và phải có trách nhiệm với em. Với ý thức về vai trò, trách nhiệm và lòng yêu trẻ của một giáo viên, Torey đã từng bước, từng bước chinh phục cô nhóc Sheila. Điều này không dễ dàng chút nào, trái lại nó là một chặng đường đầy gian nan vất vả mà ít có người giáo viên nào làm được. Sheila bắt đầu chịu nói chuyện sau những ngày ngồi thu mình trên một chiếc ghế, em đã bớt sợ hãi, bớt đập phá và bắt đầu nhận thấy rằng sự quan tâm của cô Torey dành cho em không như những người khác, nó là sự yêu thương thật sự. Đọc “Đêm tối và ánh sáng” bạn như lạc vào thế giới của trẻ thơ. Sự ngây thơ, trong trẻo của những tâm hồn vẫn đang hiện hữu bên trong những biểu hiện kỳ lạ của các em. Rất nhiều lần bạn sẽ phải mỉm cười khi bắt gặp những ý nghĩ ngu ngơ tự nhiên mà chỉ ở trẻ thơ mới có. Sheila, cô bé với những suy nghĩ vượt hẳn tuổi của em, những ý nghĩ ganh tỵ pha lẫn nét nũng nịu, đáng yêu. Bệnh viện liên bang đã có chỗ trống, trong khi Sheila bắt đầu có những tiến bộ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu em bị đưa vào đó? Và không! Em sẽ vẫn được “điều trị” ở cái “lớp học điên khùng” mà em yêu mến, trước sự ủng hộ của rất nhiều người. Ngày mà phiên tòa “định mệnh” được mở ra và kết thúc bằng nụ cười vui sướng của chàng luật sư dễ mến là ngày mà Sheila hạnh phúc nhất, em cảm nhận được sự ấm áp của một gia đình, được ủ ấm trong tình thương của “cha Chad” và ”mẹ Torey” Trong lúc đau đớn tận cùng, Sheila vẫn cố níu chặt áo cô Torey, và thét lên: “Đừng bỏ con! Đừng để họ bắt con đi mất. Con muốn cô ôm con”. Bạn sẽ thấy mình rất lạ khi đồng hành cùng cô trò họ đến lúc này, mắt bạn ướt là một điều hết sức bình thường khi chứng kiến cái nhu cầu bình thường của một đứa trẻ; em cần sự chở che, cần tình yêu thương và vì cần tất cả điều đó, em rất cần cô Torey. Cuối cùng thì Sheila cũng sẵn sàng cho việc hòa nhập vào lớp học dành cho những trẻ bình thường. Và như bao người giáo viên khác, với cô Torey “Đó là một khoảnh khắc ngọt ngào nhưng buồn bã đối với tôi, bởi tôi biết mình đã bị bỏ lại đằng sau”. Và niềm vui trọn vẹn đã đến vào một ngày cô nhận được một lá thư, bên trong là bài thơ với tựa đề: Gửi đến Torey với rất nhiều “tình yêu” do chính tay cô Sheila viết. Xuyên suốt quyển sách, đặc biệt kể từ lúc Sheila vào lớp, bạn sẽ thấy nhịp thở của mình gần như bị phụ thuộc vào những chuyển biến tâm lý trong đó. Thật lạ khi đọc quyển sách này, bạn có cảm giác không dám thở mạnh vì sợ nếu như thế sẽ làm không khí trong lớp học đặc biệt này càng thêm căng thẳng, sợ nó có thể làm đứt sợi tơ mong manh vừa mới hình thành từ rất nhiều những cố gắng không ngừng của cô Torey. Tôi đọc và cảm nhận rất rõ tim mình phát ra từng đợt sóng dâng tràn ở ngực, lan ra hai bên vai rồi làm mắt âng ấng nước. Lúc trước tôi rất sợ phải yêu thương một ai đó, tôi đã từng như thế, yêu thương là hạnh phúc nhưng bạn vẫn cảm nhận đâu đó một nỗi đau, sự lo lắng khi sợ họ gặp những điều không vui thậm chí là rất đau khi một nỗi bất hạnh nào đó đến với họ. Và chính “Đêm tối và ánh sáng” đã xua tan nỗi sợ hãi đó. Tôi đã đọc ở đâu đó câu nói đại khái rằng sẽ rất vui khi ta có thể diễn tả “trúng phóc” ý nghĩ của mình, nhưng tôi vẫn chưa thật sự thấy vui vì trong lòng vẫn còn điều gì đó chưa thể hiện ra được, một phần do khả năng tôi chưa đủ, phần vì điều đó sẽ đầy đủ và chính xác hơn khi bạn dùng chính trái tim mình để cảm nhận. Và để biết điều đó là gì? Dành ít thời gian tìm đọc “Đêm tối và ánh sáng”, bạn sẽ cảm nhận rất rõ. Ngay cả khi bạn không muốn biết đi nữa, tôi nghĩ bạn cũng nên đọc vì quyển sách này sẽ là một người bạn hữu ích với bạn hôm nay và cả đến sau này. Mời các bạn đón đọc Đêm Tối Và Ánh Sáng của tác giả Torey Hayden.
Lý Trí Và Tình Cảm - Jane Austen
Lý trí và Tình cảm (tiếng Anh: Sense and Sensibility) là một tiểu thuyết của nhà văn Anh Jane Austen. Được xuất bản năm 1811, nó là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Austen được xuất bản, dưới bút danh "A Lady." Câu truyện xoay quanh Elinor và Marianne, hai người con gái của ông Dashwood với người vợ thứ hai. Họ có một người em gái, Margaret, và một người anh trai cùng cha khác mẹ tên là John. Khi người cha qua đời, tài sản của gia đình được trao lại cho John, và ba người con gái cùng với bà mẹ phải sống trong một hoàn cảnh không mấy dư dả. Họ tới ngôi nhà mới, một ngôi nhà ở nông thôn của một người họ hàng xa, nơi mà họ trải nghiệm cả tình yêu và nỗi buồn khi tình yêu tan vỡ. Tuy nhiên, cuối cùng Elinor và Marianne đều có được hạnh phúc. Cuốn sách đã được nhiều lần chuyển thể thành phim điện ảnh và truyền hình, bao gồm phim truyền hình năm 1981 (Rodney Bennett); phim điện ảnh năm 1995 (Lý An); một phiên bản bằng tiếng Tamil tên là Kandukondain vào năm 2000; phim truyền hình trên BBC vào năm 2008 (John Alexander). Mời các bạn đón đọc Lý Trí Và Tình Cảm của tác giả Jane Austen.
Vô Tri - Milan Kundera
Trong 'Vô tri', Milan Kundera kể câu chuyện hồi hương của Irena và Josef, và ta đọc thấy qua chuyến đi khó khăn đó, họ đồng thời trở về với những đòi hỏi sâu kín của tâm tư. Sau 20 năm sống ở nước ngoài, Irena về thăm tổ quốc Bohême và thành phố Praha của tuổi thơ cô. Thực ra, cô không háo hức với chuyến đi này lắm, vì lúc này ở Pháp cô đã sống yên ổn với công việc, căn hộ và các con. Cô về đơn giản là do sự thúc giục của chồng cô, Gustaf, một người đang thấy có nhiều cơ hội làm ăn ở Praha khi bộ máy kinh tế thị trường ở đó đang mở hết công suất. Nhưng điều làm cô đau đớn ngay trước lúc lên đường là một người bạn cô ở Paris đã xem chuyến trở về Praha này như là chuyến trở về mang ý nghĩa nhân sinh lớn lao vì không như vậy cô sẽ thiếu hẳn một chiều kích quyết định để đánh giá con người: chiều kích lịch sử. Sylvie đã phớt lờ hai mươi năm sống ở Paris của Irena - hai mươi năm ấy cô đã xây dựng cho mình một khoảng trời riêng đủ ấm áp, đủ hạnh phúc, và đủ những đường nét nhân văn chính yếu. Khi Irena nói: “Tớ sống ở đây được hai mươi năm rồi. Cuộc đời tớ là ở đây!” thì Sylvie im lặng khó chịu, ngầm muốn nói rằng (Irena) không được phép lảng tránh những sự kiện vĩ đại đang diễn ra “tại nước cậu”. Với Sylvie, đó là Cuộc Trở Về Vĩ Đại, có thể sánh với cuộc trở về của Ulysse trong sử thi Hy lạp Odyssée. Mời các bạn đón đọc Vô Tri của tác giả Milan Kundera.
Bức Thư Tình Cuối - Jojo Moyes
Anh yêu em – ngay cả khi trên trái đất này không có anh, không có tình yêu hay thậm chí không tồn tại cuộc sống này – anh vẫn yêu em. Thư Zelda gửi ScottFitzgerald Đó là vào năm 2010. Khi Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện và hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp ích cho sự nghiệp của cô. Có lẽ nếu những người yêu nhau này có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính cuộc đời cô. Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại và giúp cô nhìn ra được sự thật trong mối quan hệ tình cảm của cô. Trong tác phẩm này, câu chuyện tình song đôi được tác giả lồng ghép khéo léo, với nhiều chi tiết hấp dẫn, lãng mạn, và đôi lúc nóng bỏng. Một ngày vào năm 1963, Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Kể từ đó, cô phải sống trong sự giằng xé nội tâm, cũng như luôn muốn tìm kiếm người kí tên B đó là ai. Song song đó là phải luôn đối phó với người chồng, một doanh nhân thành đạt, chuyên quyền và dường như ông biết về người tên B của cô… Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện một phần là vì cô tìm thấy mình giống như nhân vật nữ trong bức thư - Jennifer và một phần hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp sự nghiệp của cô thăng hoa. Cô nghĩ rằng có lẽ nếu Jennifer và “B” có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính mình. Do đó, Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại câu chuyện tình yêu đó. Có thể nói, Bức thư tình cuối là câu chuyện tình yêu đẹp, sâu sắc, cuốn hút với cái kết bất ngờ. Tác giả Jojo Moyes:  Cô sinh năm 1969. Năm1992, cô nhận được học bổng cao học báo chí của tờ The Independent để theo học tại City University. Năm 1994, cô làm việc tại Hồng Kông cho tờ Sunday Morning Post. Jojo Moyes làm cho The Independent được mười năm, từ trợ lý biên tập tin tức đến phóng viên mảng truyền thông và nghệ thuật. Từ năm 2002, cô theo đuổi nghề viết tiểu thuyết, với quyển đầu tiên Sheltering Rain. Với tác phẩm Bức thư tình cuối, cô được đông đảo bạn đọc biết đến và đã đoạt giải tiểu thuyết lãng mạn năm 2011 tại Anh. Mời các bạn đón đọc Bức Thư Tình Cuối của tác giả Jojo Moyes.