Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Gác Đêm Tập 3

Tóm tắt phần trước Một vụ án vượt ngục ly kỳ, 22 đào phạm trốn thoát ra ngoài trở thành cơn ác mộng cho người dân thành phố Nam An. Dưới vô vàn áp lực nặng nề, tổ chức thần bí Người gác đêm đã bị lãng quên bao lâu được khởi động lại. Một Tiêu Lãng nhanh nhạy bướng bỉnh, một Lăng Mạc lạnh lùng ít nói, cùng với các đồng đội khác trở thành lực lượng chủ lực trẻ trung của Người gác đêm thế hệ mới. Đằng sau vụ án vượt ngục, họ phát hiện ra một gã trẻ tuổi chuyên truy sát các đào phạm - “Kị sĩ u linh” . Hắn không chỉ có khả năng chính là người lập kế hoạch của vụ vượt ngục, còn có khả năng nắm được những thông tin cơ mật của nội bộ Người gác đêm, từ đó mới có thể luôn ra tay trước một bước mỗi lần Người gác đêm hành động. Sau nhiều khó khăn, Tiêu Lãng và Lăng Mạc cuối cùng đã hợp sức cùng bắt sống được tên “Kị sĩ u linh” xuất quỷ nhập thần, nhưng rồi ngay trong bệnh viện được canh phòng nghiêm ngặt, “Kị sĩ u linh” đã bị ám sát, chỉ lưu lại một mảnh giấy thần bí in mấy chữ “Người gác đêm”. Ai là hung thủ sát hại “Kị sĩ u linh” ? Ai là “nội gián” tiết lộ thông tin của nội bộ Người gác đêm? Trong quá trình truy bắt hung thủ, tổ chức Người gác đêm lần lượt phải đối mặt với những thách thức bởi từng vụ án đột ngột xảy ra: Đoạn đường cao tốc vào một đêm mưa bão, trước cửa kính ô tô đột nhiên xuất hiện một bóng ma trắng toát; ở một thị trấn nhỏ yên bình, mấy bé gái sơ sinh còn đang quấn tã bị đâm vào người những cây kim bạc một cách tàn nhẫn; Trong một nhà nghỉ nhỏ nằm cạnh bệnh viện, chỉ trong một đêm xuất hiện năm “con nhộng” đẫm máu đáng sợ… Các vụ án ly kỳ xảy ra ở những nơi khác nhau, song đều có liên quan đến một thế lực đen tối tiềm tàng nào đó. Mỗi hung thủ đều có một mặt sở trường “thiên phú khác người”, trong quá trình trưởng thành, bọn chúng đều phải chịu sự tác động của một nhân tố nào đó, kích thích gây ra biến đổi năng lực. Những năng lực này khiến cho đám người biến đổi này luôn gây án một cách thành thạo lão luyện, khó mà bắt giữ được. Nhưng thế hệ trẻ tuổi của Người gác đêm bất luận bằng mọi giá, từ trong những manh mối bất thường, tìm được cách phá án đối phó với những kẻ biến đổi, bọn họ còn lần theo vụ án “Kị sĩ u linh” bị giết hại, kết nối với một loạt nghi án trẻ sơ sinh mất tích, vén lên một góc tảng băng bí mật về một tổ chức to lớn đằng sau “Kị sĩ u linh” . Thì ra, trong đám người biến đổi có rất nhiều người đều là những đứa trẻ sơ sinh bị mất tích năm nào, còn đối tượng ra tay của đám người này là những người có mối liên quan mật thiết đến một vụ án cũ từ nhiều năm trước. Năm đó, thành viên của tổ chức Người gác đêm là Đổng Liên Hoa phụ trách điều tra phá án một vụ án mạng giết chồng, hai mẹ con nhiều năm phải sống trong bóng đêm u ám của bạo lực gia đình đã bỏ trốn ngay trong đêm, nhưng cuối cùng vẫn bị Lão Đổng tìm ra. Người mẹ bị xét xử tử hình, chỉ còn lại một mình người con trai Đỗ Xá. Lão Đổng thương cho cảnh ngộ của Đỗ Xá, sau khi đưa đứa trẻ vào viện phúc lợi còn thường xuyên đến thăm hỏi, song không ngờ rằng, Đỗ Xá lại này sinh âm mưu giết hại Lão Đổng. Cho đến tận khi vớt được phần thi thể rời rạc của Lão Đổng trên sông, tội ác của Đỗ Xá mới bị phát hiện. Nhưng Đỗ Xá đã thoát khỏi án tử nhờ một tờ giấy chứng minh mắc bệnh tâm thần, cho đến giờ vẫn đang bị giam giữ trong nhà tù Kim Ninh. Nạn nhân bị những kẻ biến đổi giết chết, đều là những người năm đó từng giúp đỡ Đỗ Xá. Đổng Lạc con trai Lão Đổng cũng đã chết rồi, vậy thì, những kẻ biến đối này rốt cuộc có mối liên hệ gì với Lão Đổng? Sau những tranh đấu gian khổ, cuối cùng bọn họ đã bắt được Sơn Tiêu - hung thủ của vụ án “Kị sĩ u linh” , những tưởng rằng mọi nghi vấn sẽ theo đó mà được lý giải, không ngờ, vào đúng đêm hôm thầy giáo hướng dẫn Đường Tuấn của tổ chức Người gác đêm thẩm vấn xong Sơn Tiêu, ông đã chôn thân bên dưới chiếc máy xúc ở khu công trường hoang vắng trống trải… Cái chết của Đường Tuấn có vẻ như là một sự cố ngoài ý muốn. Nhưng không một ai biết được, tại sao ông lại xuất hiện ở đó vào giữa đêm. Duy nhất có chiếc vòng đeo tay trên cổ tay Đường Tuấn là tiết lộ ra một thông tin vi diệu: Số bước đi thể hiện trên vòng đeo tay và số bước đi được ghi lại trong điện thoại của Đường Tuấn có sự cách biệt vô cùng lớn… *** Lời tựa Chống lại bóng tối, bảo vệ ánh sáng. Cuốn thứ ba “Người gác đêm 3” trong series Người gác đêm đã xong rồi. Điều đáng mừng là, “Người gác đêm 2” vừa ra mắt, lập tức vươn lên dẫn đầu trên bảng tiêu thụ, điều đó khiến tôi vô cùng cảm động. Chính là vô vàn độc giả, đã cổ vũ tôi, thúc giục tôi, kịp thời chỉ ra những thiếu sót của tôi, đưa ra những ý kiến góp ý và kiến nghị, mới khiến cho tôi tiếp tục đi được đến ngày hôm nay. Không chỉ vậy, tôi còn tự nhận thấy rằng mình đang tiến bộ lên từng ngày. Còn nhớ khi đó vào lúc xuất bản tập đầu “Người gác đêm 1“, không ít bạn bè cũ của tôi vẫn còn chưa thích nghi được. Là do sự thay đổi trong kết cấu của toàn bộ câu truyện cũng như trong phong cách sáng tác, khiến cho bộ truyện Người gác đêm và bộ truyện Pháp y Tần Minh có phong cách khác biệt hẳn với nhau. Bởi vậy, tôi đã nhận được rất nhiều phê bình và kiến nghị. Quả thực, bản thân tôi cũng ý thức được rằng, nhược điểm trong viết lách của mình đã hiển hiện ra đó. Nói thật lòng, vào lúc đó tôi đã tính chuyện rút lui. Nhưng tôi biết rằng, nếu như thực sự không lấp đầy hố trống nữa, vậy thì đây mới là một biểu hiện không có trách nhiệm, vậy thì không phải là Lão Tần nữa rồi. Để series Người gác đêm ngày càng hay hơn, cùng lúc với quá trình sáng tác tập 1 “Kẻ trời phạt” trong series Pháp y Tần Minh thứ hai, tôi cũng đã bắt đầu tiến hành chỉnh sửa toàn bộ thế giới quan cũng như hệ thống câu chuyện của “Người gác đêm 3”. Một điều vô cùng vinh hạnh nữa là, luôn có một đội ngũ ưu tú ủng hộ giúp đỡ tôi. Đó chính là đội ngũ lập kế hoạch của nhà xuất bản Nguyên Khí, còn cả các bạn học sinh của đội ngũ biên tập trang wechat Pháp y Tần Minh. Họ đã cung cấp cho tôi rất nhiều hướng tư duy hợp lý, đồng thời phát huy vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa tuyến truyện chính cho các tác phẩm sau này của series Người gác đêm. Trong vòng nửa năm, đã sửa chữa tất cả 13 lần bản thảo, tuyến truyện chính của “Người gác đêm 2” mới được định hình xong. Trong khoảng thời gian này, đau khổ có, tiều tụy có, bàng hoàng có, nhưng rồi bản thân tôi đều kiên trì vượt qua, cuối cùng thực sự đã thu được thành quả to lớn. Sau khi “Người gác đêm 2”xuất bản, được sự ủng hộ của bạn bè, lượng tiêu thụ tăng lên một cách ổn định. Điều quan trọng hơn cả là, đánh giá của bạn đọc cũng tăng lên một cách rõ rệt. Đây là niềm an ủi lớn nhất đối với tôi. Cho nên, tôi đã cầm bút viết ra phần lời dẫn này với tâm trạng vô cùng hứng khởi. Đương nhiên, trước đó, tôi vẫn dành thời gian mấy tháng liền để nghiền ngẫm cốt truyện chính của “Người gác đêm 3”. Sửa bản thảo rất nhiều lần, hao tổn rất nhiều trí lực. Tôi tin tưởng rằng, bản thảo đã thành hình lần này của “Người gác đêm 3“, có thể khiến cho các bạn được đọc những câu chuyện càng thú vị hơn. Ngoài việc chuẩn bị trước một cách đầy đủ, còn có một việc khiến cho tôi tràn đầy niềm tin và mong đợi rằng sẽ viết tốt cuốn truyện này. Có một hôm, vào lúc tôi và bố tôi cùng uống rượu trò chuyện với nhau, vô tình nhắc đến trạng thái cảnh sát và ý thức pháp trị thời bố tôi còn trẻ, đã gợi mở cho tôi rất nhiều. Bố tôi kiên nhẫn giải thích cho tôi tiến trình phát triển từ “quy kết có tội” cho đến “suy đoán vô tội”, thậm chí còn đưa ra vài vụ án ví dụ sinh động. Sau đó ông có đưa ra một quan điểm: Chúng ta bây giờ đều biết rằng “suy đoán vô tội” là chân lý, nhưng mà, trong lòng mọi người, có đều thực sự đồng tình với “suy đoán vô tội” hay không? Cho dù “suy đoán vô tội” thật sự đi vào lòng người như vậy, vậy thì, yếu tố “đoán tội” nói đến ở đây, nên được định nghĩa như thế nào? Chứng cứ như thế nào được coi là “suy đoán”, chứng cứ như thế nào được coi là “xác thực”? Có ranh giới rõ rệt để phân định hay không? Một vấn đề nghe có vẻ rất đơn giản, mà nói ra như vậy, có phải là đáng để xem xét hay không? Tôi tin rằng, vào lúc tôi bắt đầu cầm bút viết ra cuốn sách, cũng đồng thời luôn suy nghĩ về vấn đề này, đem những câu hỏi thấm nhuần vào trong từng câu chữ. Nếu như cuốn sách này có thể khiến cho độc giả đi tìm hiểu về những vấn đề này, vậy thì mục đích của tôi coi như là đạt được rồi. Đương nhiên, nếu như mọi người có thể thông qua việc đọc cuốn sách này mà thấy được những vinh quang và trách nhiệm của những người cảnh sát nhân dân “gánh vác trọng trách đi về phía trước” kia nữa, thì tôi lại càng thêm hài lòng hơn. Đồng thời, tôi cũng chuẩn bị được nhiều những tình tiết câu chuyện phá án “có vẻ huyền ảo, thực ra chân thực” đan xen chặt chẽ trong tuyến truyện chính, tin rằng những bạn độc giả yêu thích việc suy luận phá án nhất định có thể thông qua việc đọc truyện mà thỏa mãn cơn nghiện của mình. Cuối cùng, có một tin không biết là tin tốt hay tin xấu để báo với mọi người. Vào lúc sáng tác đề cương “Người gác đêm 3”, tôi phát hiện ra những điều tôi muốn biểu đạt càng ngày càng nhiều, vốn dự định cuốn “đại kết cục” này đến giờ về cơ bản là không thể dung nạp được nhiều câu chuyện và tư tưởng như vậy, cho nên, tôi chỉ còn cách là hoạch định bộ truyện Người gác đêmtừ 3 cuốn thành 4 cuốn. Cũng có nghĩa là, xem xong cuốn sách này, câu chuyện vẫn chưa đi đến hồi kết. Các bạn sẽ thấy không thoải mái, hay là mong đợi đây? Bất luận thế nào, tôi đã không thể đừng được nỗi khát khao cầm bút bắt đầu viết ra câu truyện rồi, lời dẫn dài dòng văn tự đến đây là hết. Cảm ơn các bạn vẫn luôn ủng hộ tôi như ngày nào, cảm ơn các bạn đã luôn động viên cổ vũ cho những người cảnh sát nhân dân “chống lại bóng tối, bảo vệ ánh sáng” của chúng ta! Câu chuyện, xin được bắt đầu! Tần Minh Ngày 4 tháng 8 năm 2018 *** Con người có ba thứ không nên nhớ đến, Kiếp nạn, cái chết và tình yêu; Anh muốn nhớ đến thì anh sẽ khổ đau tận cùng. Vladimir Nabokov 1 Mưa to như trút. Cô gái trẻ không che ô. Toàn thân đã ướt sũng, cô tựa người vào bức tường gạch màu xanh xám, không còn cảm nhận được sự ấm áp của bức tường. Bức tường gạch màu xanh xám còn rất mới, dấu vết các đường gân dọc do máy móc ép xuống hằn in bên trên còn chưa bị bào mòn đi theo năm tháng, nhưng rồi, vào thời điểm đúng dịp mùa mưa trời âm u suốt như thế này, rêu xanh cũng đã mọc đầy ở khe hở giữa những viên gạch. Cô gái không biết đang nghĩ ngợi điều gì, cả phần lưng phía sau dựa sát vào bức tường gạch, đầu ngẩng lên, để mặc những hạt mưa to như hạt đậu tùy ý rơi trên khuôn mặt non nớt mà thanh tú của cô. Trong làn mưa mịt mù, dường như cô có thể nhìn thấy phía trên cùng của bức tường cao, chỗ cách phía trên đỉnh đầu cô hơn 3 mét, là tấm lưới bằng dây thép gai đang nhe nanh múa vuốt. Đôi tay cô bám chặt vào bức tường, mười ngón tay đang cào vào các khe tường, cứ ra sức cào, tựa như muốn cào bằng hết bức tường gạch màu xanh vô cùng kiên cố này. Đám rêu xanh bị móng tay tác động vào, dồn hết sang một bên, còn thừa cơ ra sức dính chặt vào trong các kẽ móng tay cô gái. “Này, làm gì đó? Hãy tránh xa nơi này!” Một giọng thanh niên trẻ trung vang lên cắt đứt tiếng mưa rơi đều đều, vọng đến tai cô gái trẻ, toàn thân cô run lên nhè nhẹ. “Làm gì đó? Tránh xa nơi này!” Giọng người thanh niên lặp lại một lần nữa, nhưng lần này khẩu khí thêm nặng hơn. Cô gái theo hướng giọng nói nghiêng mặt nhìn sang phía trên bên phải của mình, trong làn mưa mịt mù, dường như cô nhìn thấy trên đỉnh bức tường có một căn chòi gác, bên trong chòi gác có một bóng người mơ hồ đang mặc áo mưa, tay ôm súng trường. “Nghe thấy không? Tránh xa nơi này!” Âm thanh một lần nữa to hơn, khẩu súng trong tay của bóng người đó cũng giơ lên cao. Hai bên nhìn nhau chăm chú hồi lâu, rồi cô gái quay đầu bỏ chạy. Bóng người bên trong chòi gác một lần nữa lại đứng thẳng người lên, đeo súng vòng ra sau lưng, cầm chiếc máy bộ đàm đặt trên bàn lên. “Bảo vệ cổng chính chú ý, một người phụ nữ không rõ danh tính đang di chuyển về phía các anh.” Mặt trước của khối kiến trúc là một quảng trường rộng lớn, ngay đến một cái cây cũng không có, đất cát trên mặt đất bị nước mưa rơi xuống bắn ra tung tóe. Cô gái đứng giữa quảng trường, hai bàn tay nắm chặt, nhìn thẳng vào khối kiến trúc to lớn trước mặt. Cô đứng im bất động, mặc cho những giọt nước mưa giá lạnh xuôi theo đuôi tóc xuống cổ rồi chảy vào phía bên trong người, toàn thân cô đã bị ướt hết. Cô nhìn trân trân vào bốn chữ màu đen lớn phía trên đỉnh tòa kiến trúc, ánh mắt đầy vẻ giận dữ, cũng có thể là bi thương nữa. Cô đã hòa lẫn vào trong làn nước mưa ngập trời, nếu như không phải là đôi mắt đang đỏ hoe, cơ bản là không phát hiện ra cô đang khóc mãi không thôi. Rầm. Sau khi một tiếng động lớn vang lên từ chiếc cổng sắt, hai cánh cổng sắt lớn trước mắt từ từ di chuyển chậm chạp, cho đến khi xuất hiện một lối đi hẹp đủ cho hai người có thể đi qua. Từ trong lối đi đó, hai chiếc ô lớn màu đen xuất hiện, bên dưới chiếc ô đen là hai người mặc trang phục cảnh sát màu xanh lá. Hai người bước ra khỏi chiếc cổng sắt, chiếc cổng sắt sau lưng ngay lập tức đóng chặt lại. Hai người tiến đến chỗ cô gái đang đứng trên quảng trường, mưa lớn dội vào bên trên chiếc ô, phát ra tiếng “rào rào rào” ầm ĩ. Cô gái không hề di chuyển, vẫn cứ chăm chú nhìn không chớp mắt vào bốn chữ đen lớn phía xa. Lúc tiến đến chỉ còn cách cô gái khoảng 2 mét, người cảnh sát lớn tuổi dừng lại, đồng thời đưa tay ra ngăn người cảnh sát trẻ tuổi vẫn đang định tiến về phía trước lại. Người cảnh sát trẻ hiếu kỳ nhìn sang người cảnh sát lớn tuổi. “Đảm bảo cự ly an toàn.” Người cảnh sát lớn tuổi nói nhỏ nhưng bị tiếng mưa át đi nên nghe không rõ ràng. Yết hầu của người cảnh sát trẻ tuổi chạy lên chạy xuống mấy cái, muốn nói gì đó, lại không nói ra lời. Cậu giơ chiếc ô đen cầm trong tay ra, dường như muốn che chắn cho cô gái khỏi cơn mưa to như trút nước, song do khoảng cách quá xa, không thể nào vươn tới được. “Cô gái, mưa lớn như thế này, bị ướt là sinh bệnh đó.” Người cảnh sát lớn tuổi nói bằng giọng thăm dò. Cô gái trẻ dường như không nhìn thấy gì, cũng không nghe thấy gì hết, vẫn cứ đứng trong làn mưa lớn chăm chú nhìn về phía xa. “Cô gái? Cô gái?” Người cảnh sát lớn tuổi làm điệu bộ giơ tay trước mắt cô gái, dường như muốn thu hút sự chú ý của cô, “Cô đến đây làm gì thế? Có phải là đi lạc đường không? Chỗ này ngoài nhà tù ra, không có cơ quan đơn vị nào cả. Đi tiếp về phía sau là nông thôn rồi.” Cô gái vẫn cứ chẳng nói chẳng rằng. Người cảnh sát trẻ tuổi thực sự không đành lòng đứng nhìn tiếp, cậu tiến lên phía trước mấy bước, giương chiếc ô che lên trên đầu cô gái, còn bản thân mình thì ngay lập tức bị mưa lớn làm ướt hết. Có thể do cơn mưa lớn trên đỉnh đầu đột nhiên ngừng hẳn, khiến cô gái có vẻ đã định thần trở lại. Cô chậm rãi nhìn thẳng vào người cảnh sát trẻ tuổi chỉ đứng cách mình một bước chân, dường như cậu ta trạc tầm tuổi với mình, 17, 18 tuổi, chiếc cầu vai* học viên một sao gắn trên vai áo. So với người cha ruột của mình, trên cầu vai của cậu ta còn ít hơn bốn vạch. Chàng trai mặt mũi khôi ngô tuấn tú, sáng sủa sạch sẽ, trong ánh mắt lúc này không giấu được vẻ hiếu kỳ và đồng cảm. “Có gì cần chúng tôi giúp đỡ không? Tôi họ Tần.” Chàng trai nói. Cô gái nhìn chăm chú vào đôi mắt chàng trai, không nói gì cả. Mặc dù mưa lớn đã bị chiếc ô che mưa chặn lại, song từ khóe mắt cô gái những giọt nước vẫn không ngừng rơi xuống. Cho dù bị ngăn cách bởi làn nước mưa chảy xuống từ trên vành mũ của mình, chàng trai cũng vẫn nhìn thấy rõ ràng. “Trong kia chúng tôi có điện thoại, có thể giúp cô liên hệ với người nhà của mình.” Chàng trai nói thêm. Cô gái vẫn nhìn chàng trai không chớp mắt, khiến cậu có chút lúng túng không biết phải làm sao. “Cô gái, chắc cô chưa đến 18 tuổi nhỉ? Nếu cô vẫn cứ không nói gì, tôi phải thông báo cho công an đấy.” Người cảnh sát lớn tuổi cũng tiến lại gần rồi nói. “Các người, các người không phải là công an ư?” Giọng nói của cô gái rất nhỏ, trong tiếng mưa lớn hầu như không nghe rõ được. “Tôi là cảnh sát tư pháp, cậu ấy là học viên của Học viện Công an.” Người cảnh sát lớn tuổi nói, “Cô đến chỗ này làm gì?” “Tôi, tôi, tôi đến tìm người.” Cô gái cúi thấp đầu xuống, bất giác chạm tay mình vào bên eo. “Tìm người ư? Vậy sao cô không nói sớm, để bị mưa làm ướt vậy làm gì chứ.” Người cảnh sát trẻ tuổi đưa chiếc ô đen trong tay về phía tay cô gái. Cô gái không nhận, cậu dứt khoát ấn chiếc ô vào tay cô, rồi sau đó nhanh chóng đứng nép vào bên dưới chiếc ô của người cảnh sát lớn tuổi. “Cô tìm ai vậy?” Giọng điệu cảnh giác của người cảnh sát lớn tuổi đã giảm bớt phần nào. “Đỗ Xá.” Cô gái trả lời vẫn với giọng nói nhỏ nhẹ như tiếng của một con muỗi. “Đỗ Xá? Chỗ chúng tôi không có người này đâu.” Người cảnh sát trẻ tuổi nói. Người cảnh sát lớn tuổi xua xua tay, nói: “Cô có giấy tờ không? Thăm phạm nhân cần phải có giấy tờ.” “Ồ, Đỗ Xá là phạm nhân ư.” Người cảnh sát trẻ tuổi bất chợt hiểu ra. “Tôi là người nhà anh ta, tôi chỉ muốn gặp anh ta chút thôi, nói một câu rồi đi.” Cô gái lại chạm tay vào bên eo mình một cách vô thức. “Người nhà? Tôi lại nghe nói anh ta không có ai thân thích cả.” Anh mắt người cảnh sát lớn tuổi một lần nữa ánh lên vẻ cảnh giác, “Hơn nữa, cho dù có phải là người nhà hay không, đều phải tiến hành theo trình tự là có giấy tờ.” “Nhưng mà, tôi chỉ muốn nhìn anh ta một cái, nhìn một cái thôi cũng không thể được sao?” Giọng cô gái đã trở nên to hơn, trong giọng nói đầy vẻ cầu khẩn. “Đây là trình tự pháp luật, chứ không phải trò chơi trẻ con.” Người cảnh sát lớn tuổi nói. “Thật đấy, tôi chỉ muốn nhìn anh ta thôi, không nói gì cả, nhìn một cái xong tôi sẽ đi!” Cô gái không đừng được gào lên. “Cô gái, thật sự là không thể.” Người cảnh sát lớn tuổi đưa chiếc ô cho người cảnh sát trẻ tuổi, giơ cổ tay lên nhìn đồng hồ đeo tay, nói: “Cô đứng ở đây lâu như vậy rồi, cần phải rời khỏi đây thôi.” “Không! Tôi không đi! Ông không cho tôi gặp anh ta, tôi sẽ không đi!” Cô gái vung tay một cái vứt chiếc ô che mưa trong tay xuống đất. “Chúng tôi là muốn tốt cho cô thôi, cô không đi cũng không gặp được đâu.” Người cảnh sát trẻ tuổi nhặt chiếc ô lên, đưa lại cho cô gái, nhưng cô gái không cầm. Thế nên cậu đành phải cùng với cô gái đứng dưới một chiếc ô. Mời các bạn mượn đọc sách Người Gác Đêm Tập 3 của tác giả Tần Minh & Nguyễn Quỳnh Trang (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Chết Giữa Thinh Không - Agatha Christie
Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây), Nguyên tác: Death in the Clouds/ Death in the Air. Là tập 12 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Trên chuyến phi cơ hạng sang Prometheus nhắm hướng bay đến phi trường Croydon, thám tử Hercule Poirot theo thói quen nghề nghiệp đưa mắt theo dõi từng hành khách trên máy bay. Trước tiên là nàng Jane Grey đang ngồi thu mình rụt rè... còn Norman Gale đăm chiêu nghĩ ngợi... đến anh chàng nhà khảo cổ trẻ tuổi Jean Dupont vừa nhổm người đứng dậy giơ tay đập chết con o­ng vò vẽ bay vù vù trên đầu mọi người. Mãi đến lúc phát hiện Madame Giselle ngồi chết ở dãy ghế phía sau khoang tàu, thám tử Hercule Poirot mới nhận ra còn một con o­ng khác nữa, chính là một mũi tên tẩm độc dùng ống xì đồng thổi bay đi.  Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Bẫy Chuột - Agatha Christie
Tính đến năm 2007, Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của Agatha Christie hiện đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay với trên 20.000 buổi diễn. Nội dung của nó kể về một vụ án mạng có thật, từng gây chấn động Vương quốc Anh vào năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương quốc Anh là một trong những đế quốc tham chiến sớm nhất. Cho đến ngày hiệp ước đình chiến được các bên ký kết, tổng thiệt hại về người của đảo quốc sương mù cho cuộc chiến này là 320.000 người. So với những quốc gia tham chiến khác như Liên Xô, Đức, Ba Lan… thì con số này rất "nhỏ". Thế nhưng, chỉ tính riêng tại Vương quốc Anh, thì con số này lớn vô cùng. Ngày 9/1/1945, cậu bé Dennis O’Neill - 13 tuổi bị phát hiện đã chết trong tình trạng thể chất vô cùng kinh khủng. Cậu bé gần như chỉ còn một bộ da bọc xương, cơ thể bầm dập những vết đòn roi, vết đòn cũ chưa mờ thì đã bị che lấp bởi những trận đòn kế tiếp. Dennis và em trai Terence - 11 tuổi, được một đôi vợ chồng trung niên nuôi nhận ở một nông trại hẻo lánh tại Shropshire. 13 giờ chiều, mẹ nuôi của Dennis - bà Esther Gough gọi điện báo với bác sỹ rằng Dennis đã ổn định, sức khỏe đang hồi phục. Thế nhưng đến 15h cùng ngày, khi vị bác sỹ đến nông trại, Dennis đã chết. Và theo khám nghiệm tử thi cũng như kết luận từ các bác sỹ, Dennis đã chết nhiều giờ trước đó. Nước Anh một phen chấn động về cái chết của Dennis. Thời điểm ấy, báo chí xứ sở sương mù chỉ đưa tin về những chiến thắng của quân đội Anh trước phe phát-xít, về hàng nghìn kẻ thù bị tiêu diệt trong ở mỗi chiến trường, về những thiệt hại của người Anh trong cuộc chiến. Vậy nhưng, hình ảnh về cái chết thương tâm của Dennis O’Neill vẫn khiến tất cả phải ngậm ngùi. Kết quả khám nghiệm tử thi gây sốc với tất cả. Dennis bị trụy tim do bị đánh quá mạnh vào lồng ngực. Cậu bé bị giết, chứ không phải vì chết đói nữa. Dennis chết, chỉ 2 ngày trước sinh nhật tuổi 13. Và phải có kẻ phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Bẫy Chuột của tác giả Agatha Christie.
Ba Điều Bí Ẩn - Agatha Christie
Ba Điều Bí Ẩn là tập 18 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Hamborough Close, Westshire Ngày 24-9-1936 Kính gửi ông Hercule Poirot, Một vụ việc vừa phát sinh, đòi hỏi sự xử lý tinh tế và kín đáo. Tôi đã nghe nhiều người nói tốt về ông, nên quyết định giao phó việc này cho ông. Tôi có nhiều lý do để tự tin mình là nạn nhân của một vụ gian lận, Nhưng vì lý do gia đình, không muốn kêu cảnh sát. Tôi đã có một số biện pháp để phòng thân và đối phó với tình hình, nhưng ông cần sẵn sàng đến đây ngaykhi vừa nhận được điện. Ông khỏi cần trả lời thư này, xin gửi tới ông lòng biết ơn. Kính thư: Gervase Chevenix-Gore *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Ba Điều Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.
Thành Phố Trộm - David Benioff
Trong cuộc phong tỏa Leningrad tàn bạo của quân Đức, Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của và bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai tên Kolya. Thay vì bị hành quyết, Lev và Kolya còn có cơ hội giữ mạng sống bằng cách thực thi một nhiệm vụ tưởng chừng không thể: tìm về một tá trứng. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và chịu sự thiếu đói không thể tin nổi, Lev và Kolya dấn thân vào một cuộc săn lùng qua khắp tình trạng hỗn loạn tàn khốc của Leningrad và đằng sau phòng tuyến địch để tìm cái bất khả. Với những diễn biến khôi hài và thâm thúy, kinh hoàng và xúc động, Thành Phố Trộm là một cuộc phiêu lưu Thế chiến 2 nghẹt thở, đầy chất điện ảnh, là câu chuyện của lứa tuổi thành niên thân thiết với cảm xúc cực kỳ hiện đại để nói về quá trình các chàng trai trở thành đàn ông. “Cuốn tiểu thuyết thứ hai của David Benioff khắc họa một cốt truyện mạnh mẽ, một tình bạn sôi nổi, một chuyện yêu đương kỳ quặc, đủ hạng người xấu đáng sợ, một bầu không khí chập chờn giữa chủ nghĩa hiện thực thô sượng và sự lố bịch kiểu thần thoại và một khiếu hài tăm tối nhưng khó cưỡng; thật ra là mọi thứ mà bạn đọc có thể mong đợi ở một câu chuyện về tình bạn đặt trong bối cảnh quân Đức bao vây Leningrad trong Thế chiến 2.” *** Mùa đông năm 1941, Leningrad bị quân Đức vây hãm gắt gao. Gió rét cắt da cắt thịt, mọi mẩu gỗ trong thành phố đều đã biến mất và cháy trong bếp lò của ai đó, thức ăn đã từ lâu biến thành giấc mơ xa xỉ, những cư dân với phần ăn tem phiếu khiêm tốn trở nên gầy rộc vì đói kém và mọi hành vi phạm tội đều bị hành quyết bởi không có đủ lương thực nuôi tù nhân. Khi Lev Beniov bị bắt vì tội hôi của, cậu đã nghĩ mình sẽ chết chắc, cho đến khi bị ném vào cùng xà lim với tên đào ngũ điển trai Kolya. Họ có cơ hội được sống bằng cách thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi: tìm về một tá trứng để làm bánh cho đám cưới của con gái ông đại tá. Trong một thành phố bị cắt đứt mọi nguồn tiếp tế và dường như không còn chút thực phẩm nào, Lev và Kolya đã dấn thân vào cuộc săn lùng không thể nào quên… Lev mười bảy tuổi, thân hình gầy gò càng thêm còi cọc vì thiếu ăn, tự nhận không phải là ý trung nhân lý tưởng của con gái, vẫn còn khá ngây thơ và chưa biết tình yêu là gì. Trong khi đó, Kolya hoàn toàn ngược lại: điển trai, khỏe mạnh, tự tin, là một gã khoác lác biết tuốt và nói nhiều không thể tin được. Đồng thời, Kolya là người tử tế, nghĩa hiệp, liều lĩnh, và là bộ óc chỉ dẫn lẫn hành động cho cả hai người. Nhưng dù trái ngược nhau về cả ngoại hình và tính cách, họ vẫn là một cặp bài trùng cực kỳ hợp rơ. Kolya đóng vai trò là người chăm sóc, còn Lev với vai trò một người lắng nghe và chia sẻ. Ngay từ lần đầu gặp mặt, Kolya đã cho Lev một miếng xúc xích ngon lành, rồi không ít lần bảo vệ cho Lev như thể đang bảo vệ một đứa em trai thân thiết. Còn Lev, mặc dù hay cáu kỉnh vì Kolya cứ lải nhải suốt trên hành trình, nhưng vẫn kiên nhẫn lắng nghe những câu chuyện của Kolya mà hóa ra đó chính là câu chuyện anh ta sáng tác. Tình bạn của họ, không phải là kiểu săn sóc cho nhau từng ly từng tí, đây là kiểu tình bạn điển hình của hai đứa con trai: trêu chọc và khiêu khích, nói tục, tình yêu, tình dục, ban đầu là khó chịu và tưởng như không thể hòa hợp, rốt cuộc lại nảy nở rực rỡ, sôi nổi, ồn ào nhưng sâu sắc và cảm động một cách diệu kỳ. Kolya thường vòng tay lên vai Lev và nói đủ thứ chuyện, khi thì để khai thông đầu óc vẫn còn ngây thơ của Lev, khi thì chia sẻ những khát khao bình dị hoặc kể tiếp câu chuyện dở dang… Thật ra, người thuần khiết nhất chỉ thích cho đi mà không cần nhận lại, và người ngây thơ nhất không cần biết phía trước là muôn vàn khó khăn chết chóc, người lạc quan nhất hài hước ngay cả khi cận kề cái chết, lại chính là Kolya.    Hành trình đi tìm trứng băng qua cả thành phố đến tận chiến tuyến kẻ thù cũng là hành trình băng qua súng đạn tàn khốc, băng qua những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đối diện với cái đói khủng khiếp và cái lạnh tê người, chứng kiến những phận người lụi tàn và bất hạnh mà họ không thể nào giúp đỡ gì được vì chính họ cũng đang bị cái đói cào xé. Trong hành trình đó, họ đã trưởng thành hơn, Lev đã can đảm hơn và có thể tự hào kể lại đã đoạt mạng hai tên Đức bằng dao khi chưa đủ mười tám tuổi. Họ dấn thân vào cuộc phiêu lưu với mục đích được sống, nhưng đôi khi chỉ mong ước có một miếng bánh mì thật hay một miếng xúc xích thật, hoặc Lev thì ganh tị với Kolya vì được ngủ với Sonya xinh đẹp tốt bụng, hay như Kolya sẽ mở tiệc ăn mừng nếu có thể đi ị. Khôi hài, trần trụi nhưng sâu cay, những bất hạnh này chẳng phải để tố cáo hiện thực chiến tranh, mà sao vẫn nghe sống mũi cay cay. Khi mà chất bi kịch hòa lẫn trong hài kịch, khi mà nước mắt của cái đau khổ được giấu sâu cùng trong những cái cười khôi hài, thì những cái bất hạnh này đã trở nên quá lớn để nghĩ đến. Họ chỉ chấp nhận số phận của mình.    Giọng văn phóng khoáng và táo tợn, ngôn ngữ rất đời và rất chân thực, dùng những mảnh đời bất hạnh và những khát khao trần trụi để mô tả tinh vi bức tranh hiện thực của chiến tranh làm bối cảnh cho một tình bạn lạ kỳ. Diễn biến nhanh và thu hút như một bộ phim điện ảnh, dễ dàng đọc liền mạch từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng, mới cười đó rồi lại tê dại đi sau đó, để lại sau cùng một ấn tượng mạnh mẽ về một tình bạn trong hoàn cảnh bắt buộc đã nhanh chóng nảy sinh và gắn bó không thể quên đến cuối đời. *** David Benioff sinh năm 1970 tại New York trong một gia đình Do Thái. Ông là nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất truyền hình và đạo diễn. David Benioff là một nhà biên kịch và nhà sản xuất truyền hình, nhà văn và đạo diễn người Mỹ. Cùng với cộng tác viên của mình D. B. Weiss, anh được biết đến nhiều nhất với tư cách là đồng sáng tạo, người dẫn chương trình và nhà văn của Game of Thrones, bộ phim chuyển thể từ HBO của George R. R. Mời các bạn đón đọc Thành Phố Trộm của tác giả David Benioff.