Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Người Bạn - Erich Maria Remarque

Với Ba Người Bạn, nước Đức của Remarque không còn là những tòa nhà màu xám mà là một thành phố nhỏ mờ sương của những bụi tử đinh hương, một góc giáo đường, những quán rượu nhỏ nép mình trong làn mưa lất phất. Đó cũng không phải là đất nước của những bộ óc lạnh lùng lý trí mà là của những thân phận nhỏ bé dù bị trôi giạt đến bước đường cùng vẫn khao khát và chan chứa yêu thương. Đó là một nước Đức của tình cảm và mộng mơ, một nước Đức của nỗi buồn và cái đẹp. *** Erich Maria Remarque (1898 – 1970) là nhà văn nổi tiếng người Đức. Ngoài kiệt tác Phía Tây không có gì lạ đầy xúc động, ông còn được yêu mến qua hàng loạt các tác phẩm chan chứa tình yêu dành cho con người và cuộc sống khác như Ba Người Bạn, Khải Hoàn Môn, Đêm Lisbon…. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương lẫn Nobel Hòa bình. Ba Người Bạn là tác phẩm Remarque cho ra mắt vào năm 1936 kể về cuộc sống nước Đức thời kỳ hậu chiến. Mặc dù không nổi tiếng như Phía Tây không có gì lạ nhưng với nhiều độc giả Việt Nam, đây lại là tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất, thay đổi hoàn toàn cái nhìn của họ về đất nước và con người Đức, thậm chí là cả cách nhìn về cuộc sống. *** Bạn đọc Việt Nam đã yêu mến Remarque (Erich Maria Remarque - tên thật Erich Paul Remark, 1898 - 1970) - nhà văn Đức nổi tiếng, một trong những tiểu thuyết gia nhiều thành công nhất của thế kỷ hai mươi - qua các tác phẩm “Phía Tây không có gì lạ”, “Thời gian để sống và thời gian để chết” do nhà xuất bản Văn Học giới thiệu. Remarque chiếm được hằng triệu con tim độc giả trên khắp hành tinh không đơn giản vì ông là một thiên tài văn học; đọc Remarque, ta tìm thấy ở nhà văn một tấm lòng đầy tình yêu thương con người, cảm thông với nỗi đau của con người, tha thiết mong cho tất thảy một cuộc sống hạnh phúc mà con người vốn dĩ xứng đáng được hưởng. Trái tim nhân đạo ấy không thể không ứa máu trước những sự thật tàn khốc mà hai cuộc đại chiến thế giới đã gieo rẳc cho nhân loại, thiên tài văn học ấy không thể im tiếng trước những tội ác ghê tởm do chính bọn cầm quyền của đất nước mình gây ra. Năm 1933 bọn phát xít Đức buộc cho Remarque tội “phản bội những người lính cửa chiến tranh thế giới bằng văn học” và ra lệnh đốt các tác phẩm của nhà văn, năm 1938 ông bị tước bỏ quốc tịch Đức, buộc phải sang New York năm 1939 (1947 nhập quốc tịch Mỹ). Từ sau 1945, Remarque sống khi ở Mỹ, khi ở Thụy Sỹ, ông mất năm 1970 ở Locarno (Thụy Sỹ). Cả thế giới biết đến Remarque qua hàng loạt tiểu thuyết của ông: “Phía Tây không có gì lạ” (1929), “Đường trở về” (1931), “Ba Người Bạn (Chiến Hữu)” (1938), “Hãy yêu những kẻ hậu sinh” (1941), “Khải hoàn môn” (1946). “Tia lửa sống” (1952), “Thời gian để sống và thời gian để chết” (1954), “Bia mộ đen” (1956), “Đêm ở Lissabon” (1962), “Bóng tối nơi thiên đường” (1971)… Xuyên suốt các tác phẩm của Remarque là tính nhân đạo sâu sắc, là tiếng nói kiên định, không mệt mỏi chống lại cuộc chiến tranh phát xít phi nghĩa. Remarque không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, không hô khẩu hiệu chống phát xít, nhưng các tác phẩm của ông đã bóc trần toàn bộ bản chất tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, lột tả những cảnh địa ngục trần gian mà chiến tranh đã đưa lại. Biết bao số phận khổ nhục, ê chề, biết bao kiếp người phiêu dạt, tha hương không bến đậu, biết bao tình yêu tuyệt vọng, con người phải sống lẩn lút như loài vật, sống mà như đã chết… người đọc cùng đau xót với nỗi đau của tác giả, đau xót bao nhiêu, càng căm phẫn, ghê tởm bấy nhiêu cuộc chiến tranh do bè lũ phát xít gây nên. Thật dễ hiểu vì sao bọn phát xít lại thù ghét nhà văn, khiếp sợ ảnh hưởng văn học của ông đến thế. Một mảng đề tài được Remarque khá quan tâm là số phận của những người cựu chiến binh Đức, những người phải gánh chịu trực tiếp hậu quả cuộc chiến tranh diễn ra ngoài ý muốn của họ. Tác phẩm “Ba Người Bạn” để lại ấn tượng hết sức sâu sắc bởi lẽ đã giúp ta thấy được cái hậu quả gớm ghiếc ấy dưới biết bao góc độ. Cốt truyện diễn ra vào những năm 20 của thế kỷ này, thời gian xen giữa hai cuộc đại chiến thế giới. Các nhân vật trung tâm là ba cựu chiến binh trẻ, ba “chiến hữu” trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Ba Người Bạn trong thời hậu chiến - những con người tiêu biểu cho cái “thế hệ vất đi” sau chiến tranh. Họ là những thanh niên bình thường, từng có những ước mơ bình thường: người muốn trở thành bác sĩ, kẻ muốn trở thành giảng viên đại học… nhưng đã bị buộc tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tuy không bỏ xác ngoài trận tuyến như biết bao thanh niên đồng lứa với mình, Robby, Lenz và Koster đã bị chiến tranh cướp mất lẽ sống, họ thấy cuộc đời phi lý và trống rỗng, thể xác trẻ trung mà tâm hồn sớm già cỗi. Ngoài những giờ sửa chữa xe thuê, vật lộn kiếm sống, họ tiêu phí thời gian vào những đêm rượu chè, những phen phóng xe điên cuồng, những cuộc hoan lạc… để rồi lại về một mình đối diện với chính mình, cô đơn, trống rỗng, trong một gian buồng trọ tồi tàn. Ba Người Bạn gắn bó với nhau hết mình đương đầu với cuộc sống, trong khi thực ra họ cũng không hiểu sống để làm gì. Mối tình của Pat và Robby đã cho cuộc sống ấy chút ý nghĩa. Họ thấy mình cần thiết cho mối tình ấy, cho cô gái bất hạnh ấy, họ quên mình đến cảm động giúp cô gái chống lại bệnh tật. Nhưng đó chỉ là cuộc chống chọi tuyệt vọng của ba nạn nhân trực tiếp của chiến tranh hòng cứu cô gái là nạn nhân gián tiếp của chiến tranh; lớn lên trong những năm chiến tranh đói kém. Pat đã mắc chứng lao phổi, căn bệnh vô phương cứu chữa thời bấy giờ. Ba thanh niên lành mạnh bị xô đẩy vào cuộc chiến, bị biến thành những kẻ đồng lõa, để rồi sau đó bị quẳng sống vạ vật giữa cái xã hội hỗn mang thời hậu chiến. Với họ, chỉ có mất mát: Lenz mất mạng vì một bọn phát xít choai choai, Koster phải bán xưởng, bán chiếc xe mà anh yêu quý hơn chính cánh tay mình, Robby mất người yêu, cũng là mất cái mắt xích cuối cùng gắn anh với cuộc đời… Ai là kẻ có tội trước cuộc đời bỏ đi của họ? Cuộc chiến tranh phát xít. “Ba Người Bạn” vẽ lên đầy đủ cuộc sống cơ cực của tầng lớp nghèo hèn nhất trong xã hội, những con người bị coi là hạng “cặn bã” phải chịu hậu quả ghê gớm của chiến tranh, để một nhóm kẻ cầm quyền hưởng lợi nhuận chiến tranh. Có lẽ không ai có thể cảm thông với đám cựu chiến binh hơn là các cô gái điếm và ngược lại. Họ đều là những người trẻ tuổi, nuôi những mơ ước bình dị, nhưng chiến tranh đã không cho họ cái cơ hội làm một con người bình thường. Nạn đói, nạn thất nghiệp, sự bỏ mạng của người chồng nơi chiến địa đã đẩy những người phụ nữ suốt đời chỉ mơ làm vợ làm mẹ ấy phải lao vào con đường bán trôn nuôi miệng. Remarque đã viết về họ, những nạn nhân đáng thương chứ không đáng trách ấy, với một ngòi bút đầy nhân đạo, vị tha. Dưới ngòi bút của tác giả, những nhân vật “cặn bã” này, những chàng trai cô gái bất hạnh “bỏ đi” này lại “người” hơn ai hết. Thật cảm động là những trang viết về tình gắn bó đùm bọc giữa họ với nhau, họ không thương lấy nhau thì còn ai thương họ nữa, vả chăng họ mất mát nhiều quá, thiệt thòi nhiều quá nên cũng quá cảm thông nhau. Những người như họ có quyền hưởng hạnh phúc, nhưng cuộc đại chiến thế giới thứ nhất đã thiêu ra tro quá khứ và hiện tại của họ, và đại chiến thế giới lần thứ hai đang rình rập hủy nốt cái gọi là tương lai không có tương lai của họ. Đói nghèo, thất nghiệp, mãi dâm - những nét tiêu biểu của xã hội Đức trong những năm cuối thập kỷ 20 thế kỷ này đã được Remarque mô tả một cách hết sức giản dị mà cực kỳ rõ nét, đầy đủ trong “Ba Người Bạn”. Các nhân vật của ông mỗi người khổ sở mỗi cách. Đó là Muttchen, một bà lão đêm đêm đứng đường với chảo xúc xích để cung phụng ông chồng nghiện moocphin, đó là Valentin, cựu chiến binh, nuôi ấn tượng quá khủng khiếp về cuộc chiến tranh, không còn biết bắt đầu lại ra sao với cuộc đời mình, suốt ngày ngập trong rượu mừng vì nỗi thoát chết; đó là Hasse, một viên chức cần mẫn, lúc nào cũng chúi mũi vào việc công sở, nơm nớp lo mất việc, không dám ăn tiêu, dè xẻn từng đồng phòng khi thất cơ lỡ vận, để đến nỗi bà vợ chịu không nổi bỏ đi, cuối cùng kẻ xấu số ấy thắt cổ tự vẫn; đó là F Grau, một họa sĩ có tài nhưng phải sống bằng nghề truyền thần ảnh người chết… Biết bao kiếp người bế tắc trong một xã hội bế tắc. Qua một chương thôi, Remarque đã cho ta thấy sự bế tắc tột cùng của những người Đức thời bấy giờ, họ đổ xô đến những cuộc hội họp chính trị, không cần biết mục đích của đảng phái chính trị ấy, họ tìm một cái gì đó thay cho tôn giáo để mà tin, để mà bấu víu, và dễ dàng trở thành những kẻ cuồng tín. Đó chính là cơ sở để chủ nghĩa phát xít phát triển, đi đến chỗ cầm quyền. Đã thấy bóng dáng của lũ người mặc áo bludông, những tên phát xít khủng bố được dung túng. Vả chăng Lenz cũng đã chết bởi bàn tay chúng. “Ba Người Bạn” cũng như cả loạt tác phẩm có thể gọi là “chống chiến tranh” của Remarque hơn lúc nào hết vẫn mang tính thời sự nóng hổi, bởi hiện nay các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới đang đấu tranh không tiếc sức cho một hành tinh hòa bình không có chiến tranh, chống lại cuộc chiến tranh thế giới mới luôn đe dọa bùng nổ bởi bàn tay của các thế lực đế quốc và bọn phát xít mới. Giới thiệu với bạn đọc “Ba Người Bạn”, chúng tôi hy vọng thời gian tới đây có thể lần lượt cho ra mắt đầy đủ, có hệ thống, các tác phẩm nổi tiếng tiếp theo của Remarque, nhà văn lỗi lạc mà bằng sự nghiệp văn học của mình mãi mãi còn góp tiếng nói cho hòa bình. 7-1987. Vũ Hương Giang Mời các bạn đón đọc Ba Người Bạn của tác giả  Erich Maria Remarque.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vết Nhơ Của Người
Coleman Silk, một giáo sư đại học đáng kính, hẳn đã không bao giờ ngờ được rằng sau gần nửa thế kỷ qua mặt cả thế giới với một bí mật vĩ đại, cuộc đời ông lại bị hủy hoại bắt đầu từ một lời buộc tội ngớ ngẩn và dối trá: tội phân biệt chủng tộc. Vết nhơ của người là một bi kịch lạ thường, một kiệt tác đầy trăn trở về con người bị nghiền nát bởi những nỗi ám ảnh đạo đức và thanh tẩy của kẻ khác. Tràn ngập những hồi tưởng, những đối thoại, những suy nghĩ đẩy cốt truyện xuống hàng hầu như thứ yếu, nhạo báng pha trộn với trắc ẩn, lạnh lùng đặt kế bên cuồng nộ, Vết nhơ của người đã viết về thân phận con người với một sự mãnh liệt có thể khiến người đọc nghẹt thở. Lần theo cuộc đời đáng kinh ngạc của giáo sư Silk, Philip Roth, bằng một bút lực chưa bao giờ thất bại trong việc biến tác phẩm của mình trở thành một trải nghiệm đọc vừa thử thách vừa khoan khoái, đã đặt ra những câu hỏi quyết liệt về những thứ nhãn dán mà xã hội áp đặt lên con người, thậm chí cả về cái ranh giới phân chia thiện-ác mà từ lâu đã hằn sâu trong nhận thức nói chung. *** AI CŨNG BIẾT Chính vào mùa hè năm 1998 ấy mà ông hàng xóm Coleman Silk của tôi - ông này, trước khi nghỉ hưu cách nay hai năm, vốn là giáo sư môn văn học Hy La ở Đại học Athena trong thị trấn suốt hơn hai chục năm sau đó làm chủ tịch hội đồng giảng viên thêm mười sáu năm nữa - tâm sự với tôi rằng, ở tuổi bảy mốt, ông đang dan díu với một cô lao công ba mươi tư tuổi đang làm việc ở trường. Ngoài ra hai lần một tuần cô còn lau dọn trạm bưu điện thị trấn, một căn chòi gỗ nhỏ xám xịt trông cứ như nó từng che chở một gia đình dân ngụ cư tới từ Oklahoma khỏi những cơn bão cát hồi thập niên 1930 và, đứng một mình lẻ loi đối diện trạm xăng và cửa hàng tạp hóa bên kia đường, nó giương cao lá cờ Mỹ tại giao lộ của hai con đường sầm uất nhất cái thị trấn phố núi này. Coleman thấy cô lần đầu tiên khi cô đang lau sàn trạm bưu điện một ngày nọ ông ghé vào, vài phút trước giờ đóng cửa, để nhận thư từ - một phụ nữ gầy, cao, góc cạnh với mái tóc vàng nhuốm bạc cột gọn thành túm đuôi ngựa sau gáy và có nét mặt như tạc, kiểu tạc thô, thường đi liền với những bà vợ lam lũ, sùng đạo đã nếm trải những buổi đầu vất vả của miền New England, mẫu phụ nữ thuộc địa khắc khổ bị khóa chặt trong nền luân lý thống trị thời đó và tuân theo nó. Tên cô là Faunia Farley, và dù những nỗi khốn khổ mà cô phải chịu đựng là gì đi chăng nữa thì cô cũng giấu kín chúng đằng sau cái kiểu mặt xương xương vô hồn như thể nó che chẳng giấu điều gì mà chỉ toát lên một nỗi cô đơn mênh mông. Faunia sống trong một căn phòng tại trại bò sữa địa phương nơi cô phụ việc vắt sữa để trừ tiền thuê trọ. Cô từng theo học trung học trong hai năm. Mùa hè mà Coleman tâm sự với tôi về Faunia Farley và bí mật của họ cũng là mùa hè mà, khá trùng hợp, bí mật của Bill Clinton được hé lộ tới từng chi tiết đáng xấu hổ cuối cùng - từng chi tiết đời thực cuối cùng, sự sống động, giống như sự nhục nhã, ứa ra từ sự cay độc của cái dữ kiện cụ thể. Chúng ta chưa từng có quãng thời gian nào như thế kể từ vụ người ta vớ được ảnh khỏa thân của tân Hoa hậu Mỹ trên một số báo Penthouse cũ, những bức ảnh chụp cô ta tao nhã tạo dáng trong tư thế quỳ và nằm ngửa đã buộc cô thiếu nữ bị ô danh đó phải trả lại vương miện mà tiến bước trở thành một ngôi sao nhạc pop lớn. Năm chín mươi tám ở New England là một mùa hè của hơi ấm và ánh nắng tuyệt vời, còn ở môn bóng chày là một mùa hè của trận chiến huyền thoại giữa một nam thần home run da trắng với một nam thần home run da nâu*, còn trên cả nước Mỹ thì là mùa hè hơi nồng lòng mộ đạo, hơi nồng sự thanh khiết, khi chủ nghĩa khủng bố - vốn đã trở thành mối đe dọa bao trùm đối với an ninh quốc gia - được nối tiếp bằng trò mút c.., và một ông tổng thống trung niên trẻ trung, sung mãn với một nhân viên hăm mốt tuổi trơ tráo, đắm đuối chơi nhau trong Phòng Bầu dục như hai đứa mới lớn trong bãi đậu xe làm sống lại niềm đam mê cộng đồng cổ xưa nhất của nước Mỹ, về mặt lịch sử có lẽ là lạc thú bội bạc và tai hại nhất: sự đê mê của thói cao đạo. Trong quốc hội, trên báo chí, và trên các trang mạng, đám tởm lợm công chính thích gây chú ý, điên cuồng kết tội, lên án, và trừng phạt, hùng hồn lớn tiếng dạy đời khắp nơi: tất cả chìm trong một cơn cuồng loạn có tính toán với cái tinh thần mà Hawthorne (người, hồi thập niên 1860, sống cách chỗ tôi chẳng mấy dặm) đã nhận ra từ buổi đầu non trẻ của đất nước rất lâu về trước, chính là “sự ngược đãi”; tất cả bọn họ đều hăm hở tiến hành những nghi thức thanh tẩy khắc nghiệt sẽ cắt đứt con cu chổng ngược ra khỏi ngành hành pháp, nhờ đó khiến mọi chuyện trở nên thoải mái và an toàn đủ cho cô con gái mười tuổi của Thượng nghị sĩ Lieberman lại có thể ngồi xem ti vi với ông bố xấu hổ của nó. Không, nếu bạn chưa sống qua năm 1998, bạn không hiểu được thói cao đạo nghĩa là gì đâu. William F. Buckley, nhà bình luận cánh hữu được in ở một loạt các báo, viết, “Khi Abelard* làm điều đó, người ta có thể ngăn không cho nó tái diễn,” bóng gió rằng việc làm sai trái của tổng thống - ở chỗ khác Buckley lại gọi đó là “thói dâm dục vô độ” của Clinton - có thể được cứu vãn tốt nhất không phải bằng một biện pháp hiền lành như luận tội mà, tốt hơn là, bằng kiểu trừng phạt thời trung cổ đã được dành cho giáo sĩ Abelard do đám đồng sự thích giương dao của tay bạn đồng tu với Abelard, giáo sĩ Fulbert, thực hiện, vì cái tội lén lút quyến rũ và kết hôn với cháu gái của Fulbert, trinh nữ Héloise. Không như giáo lệnh của Khomeini kết án tử cho Salman Rushdie, ước muốn thiết tha của Buckley mong được thấy đòn trừng phạt bằng thiến hoạn nhằm răn đe này không kèm theo mối lợi tiền bạc cho bất kỳ thủ phạm tương lai nào. Tuy nhiên, nó được thúc đẩy bởi một tinh thần nghiêm nhặt không kém tinh thần của vị đại lão giáo chủ nọ, và nhân danh những lý tưởng không kém phần cao đạo. Đó là mùa hè ở Mỹ khi mà cảm giác buồn nôn trở lại, khi mà trò đùa cợt không ngừng lại, khi mà những suy đoán và đặt giả thuyết này nọ và lối nói cường điệu không ngừng lại, khi mà nghĩa vụ giải thích cho con cái về cuộc sống của người lớn bị gác lại để duy trì trong đầu óc chúng mọi ảo tưởng về cuộc sống người lớn, khi mà sự nhỏ mọn của con người đơn giản là nghiền nát tất cả, khi mà một thứ ma quỷ đã sổng chuồng trong đất nước và, ở cả hai phe, người ta ai nấy đều băn khoăn “Tại sao chúng ta lại điên đến thế?” khi đàn ông cũng như đàn bà, lúc thức dậy vào buổi sáng, khám phá ra rằng hồi đêm, trong một giấc ngủ đã đưa họ đi xa hơn nỗi ghen tị và thù ghét, họ đã mơ tới vẻ trơ tráo của Bill Clinton. Còn tôi thì mơ thấy một biểu ngữ khổng lồ được quấn theo kiểu trào lưu Dada, như một tác phẩm bao gói của Christo*, từ đầu này tới đầu kia của Nhà Trắng và mang dòng chữ MỘT CON NGƯỜI BẰNG XƯƠNG BẰNG THỊT SỐNG Ở ĐÂY. Đó là mùa hè khi mà - lần thứ một tỉ - sự lộn xộn, hổ lốn, hỗn độn đó cho thấy nó còn tinh tế hơn ý thức hệ của kẻ này và hệ đạo lý của kẻ khác. Đó là mùa hè khi mà con cu của một tổng thống hiện diện trong tâm trí của từng người một, và cuộc sống, với tất cả sự bẩn thỉu trơ tráo của nó, một lần nữa làm cả nước Mỹ rối loạn. Đôi khi vào một thứ Bảy, Coleman Silk sẽ gọi điện và mời tôi chạy xe từ chỗ tôi ở phía bên này núi sang chỗ ông sau bữa tối để nghe nhạc, hoặc để chơi bài gin rummy*, một điểm ăn một xu, hoặc ngồi trong phòng khách vài giờ và nhâm nhi ít cognac và giúp ông vượt qua cái mà với ông luôn là buổi tối tồi tệ nhất trong tuần. Đến mùa hè 1998, ông sống một mình trên đó - một mình trong căn nhà cũ lớn lát ván ghép sơn trắng nơi ông đã cùng bà vợ Iris nuôi lớn bốn đứa con - đã được gần hai năm, kể từ khi Iris bị đột quỵ và qua đời đột ngột trong khi ông đang mải chiến đấu với trường đại học về cáo buộc phân biệt chủng tộc do hai sinh viên trong lớp nhắm vào ông. Đến thời điểm đó Coleman đã ở Athena gần hết cuộc đời hàn lâm của mình, một lãng tử thành thị ngọt lịm như mía, cởi mở, sắc sảo, có chút gì đó của một chiến binh, chút gì đó của một nhà điều hành, chứ chẳng có mấy tí của một giáo sư mô phạm kiểu mẫu dạy tiếng Hy Lạp và La tinh (thể hiện qua Câu lạc bộ Hy La Thường đàm mà ông khởi xướng, theo kiểu tinh thần dị giáo, khi còn là một giảng viên trẻ). Khóa học tổng quan đáng nể của ông về văn học Hy Lạp cổ qua bản dịch - được gọi là GHM, viết tắt của Gods (thần linh), Heroes (anh hùng) và Myth (thần thoại) - rất được lòng đám sinh viên chính bởi nhờ tất cả những sự trực tiếp, thẳng thắn và đầy thuyết phục theo kiểu phi hàn lâm trong cách ứng xử của ông. “Các bạn biết văn học châu Âu khởi đầu thế nào không?” ông thường hỏi, sau khi điểm danh ở buổi học đầu tiên của lớp. “Bằng một cuộc cãi cọ. Toàn bộ văn học Âu châu nảy sinh từ một cuộc tranh luận.” Rồi ông cầm cuốn Iliad lên và đọc cho cả lớp nghe những câu thơ mở đầu. “ ‘Hỡi thần thi ca, hãy hát về nỗi uất hận tàn hại của Achilles... Khởi sự nơi họ lần đầu tranh cãi, Agamemnon vua của loài người, và Achilles vĩ đại.’ Và họ tranh cãi nhau về cái gì, hai tâm hồn bạo liệt, dũng mãnh ấy? Nó cũng tầm thường như một trận cãi cọ trong quán rượu. Họ cãi nhau về phụ nữ. Cụ thể là một thiếu nữ. Một thiếu nữ bị tước khỏi cha cô ta. Một thiếu nữ bị bắt cóc trong chiến trận. Mia kouri - cô ta được tả như thế trong cuốn sử thi này. Mia, như trong tiếng Hy Lạp hiện đại, là mạo từ không xác định ‘một’; kouri, tức cô gái, trong tiếng Hy Lạp hiện đại đã chuyển thành kori,có nghĩa là con gái ruột. Lúc này, Agamemnon mê thiếu nữ ấy hơn vợ mình, Clytemnestra. ‘Clytemnestra không đẹp bằng cô ấy,’ ông ta nói, ‘ở khuôn mặt cũng như vóc dáng.’ Điều đó chỉ ra rất rõ tại sao ông ta không muốn từ bỏ thiếu nữ này, phải vậy không? Khi Achilles yêu cầu Agamemnon trả cô gái lại cho cha cô ta để vuốt giận Apollo, vị thần vốn đang vì việc cô gái bị bắt cóc mà nổi đóa lên giết người đến nơi, Agamemnon từ chối: ông ta sẽ chỉ đồng ý nếu Achilles giao cho ông ta cô gái của anh để bù lại. Thế là Achilles bốc hỏa. Achilles bừng bừng sát khí: người đàn ông dễ nổi giận nhất trong số những gã man di dễ nổi khùng mà một nhà văn từng được sung sướng mô tả lại; đặc biệt khi chuyện đó lại liên quan đến uy tín và dục vọng của anh ta, cỗ máy giết người siêu nhạy cảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Achilles lừng danh: cảm thấy cô độc và bị ruồng bỏ bởi một sự xúc phạm tới danh dự. Achilles anh hùng vĩ đại, người, bằng sức mạnh cơn thịnh nộ trước sự lăng mạ - sự lăng mạ vì không cứu được cô gái - đã tự cô lập mình, tự đặt mình một cách ngang bướng bên ngoài chính cái xã hội mà anh ta là người bảo vệ đầy vinh quang và sự hiện diện của anh là vô cùng cần thiết. Cuộc cãi cọ ngày ấy, một cuộc cãi cọ hung bạo về một thiếu nữ và thân xác trẻ trung của cô ta cùng những niềm khoái lạc của sự mê đắm tình dục: nó, dù xấu dù tốt, trong cái hành động xúc phạm quyền lợi của dương vật, phẩm giá của dương vật, của nguồn sinh lực sung mãn nơi một ông hoàng chiến binh, chính là cách mà nền văn học hư cấu vĩ đại của châu Âu khởi đầu, và đó là lý do mà hôm nay, sau gần ba ngàn năm, chúng ta sẽ bắt đầu ở câu chuyện của hai bọn họ…” Coleman nằm trong nhóm thiểu số người Do Thái trong đội ngũ giảng dạy ở Athena khi ông được nhận vào làm và có lẽ cũng là một trong những người Do Thái đầu tiên được phép dạy tại khoa văn học Hy La ở bất cứ đâu trên nước Mỹ; một vài năm trước đó, người Do Thái duy nhất của Athena là E. I. Lonoff, nhà văn viết truyện ngắn hầu như đã bị quên lãng và cũng là người mà, từ hồi tôi còn là một tác giả tập sự mới được xuất bản, vẫn còn chật vật và đang hăm hở tìm kiếm sự công nhận của một bậc thầy, tôi đã từng có một chuyến viếng thăm đáng nhớ. Trong suốt những năm tám mươi và lẹm cả vào thập niên chín mươi, Coleman cũng là người Do Thái đầu tiên và duy nhất từng công tác tại Athena trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên; rồi, vào năm 1995, sau khi từ chức chủ tịch để quay lại sự nghiệp giảng đường, ông quay lại dạy hai lớp trực thuộc chương trình ngôn ngữ và văn chương tích hợp vốn đã nuốt trọn cả khoa văn học cổ điển Hy La và được giáo sư Delphine Roux điều hành. Trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên, và với sự ủng hộ hết lòng của vị hiệu trưởng mới đầy tham vọng, Coleman đã dẫn dắt trường đại học cổ hủ, tù hãm, Lờ Đờ Trũng Thấp này và, không phải là không mạnh tay nghiền nát, đặt dấu chấm hết cho cái vai trò trang trại giải khuây cho các quý ông của nơi này bằng cách huỵch toẹt khuyến khích những người vô dụng trong số vệ binh già của hội đồng giáo sư tính chuyện về hưu sớm, và tuyển mộ những phó giáo sư trẻ nhiều tham vọng, đồng thời cách mạng hóa chương trình giảng dạy. Hầu như chắc chắn rằng đến lúc ông về hưu, tại bất cứ thời điểm nào mà ông muốn, và nếu không có rắc rối gì, thì hẳn sẽ có một tuyển tập những bài viết được xuất bản để vinh danh ông, hẳn sẽ ra đời một chuỗi Bài giảng Coleman Silk mở cửa cho công chúng, sẽ có một cái ghế trong khoa văn học cổ điển mang tên ông, và có lẽ - xét đến tầm quan trọng của ông đối với việc phục hưng nơi này trong thế kỷ hai mươi - cả tòa nhà dạy các môn khoa học xã hội hoặc thậm chí giảng đường North Hall, công trình trọng điểm của trường, cũng sẽ được đổi tên để vinh danh ông sau khi ông mất. Trong thế giới hàn lâm nhỏ bé này, nơi ông đã sống phần lớn cuộc đời mình, đáng ra ông đã thôi không còn bị ghét bỏ hoặc thậm chí sợ hãi hoặc trở thành chủ đề đàm tiếu, mà thay vào đó là được chính thức xiển dương mãi mãi. Mời bạn đón đọc Vết Nhơ Của Người của tác giả Philip Roth & Phạm Viên Phương(dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).
Người Yêu Của BuBe - Carlo Cassola
Tiểu thuyết Người yêu của Bube (La ragazza di Bube) ngay khi ra mắt độc giả vào năm 1960 đã gây một tiếng vang lớn trong làng văn học Ý, và đoạt giải thưởng văn học Premio Strega, một trong những giải thưởng văn học lớn của Ý. Tiểu thuyết được nhà văn Carlo Cassola (1917-1987) viết trong khoảng những năm 1958-1959 dựa trên một câu chuyện có thật xảy ra ngay sau khi cuộc kháng chiến giải phóng nước Ý khỏi ách phát xít của Mussolini và Hitler vừa chấm dứt (1945). Câu chuyện lấy bối cảnh làng Val d’Elsa ở vùng Toscana thuộc miền Trung nước Ý, tại thời điểm Thế chiến thứ hai vừa kết thúc. Các nhân vật trong truyện còn đang sống trong dư âm của bầu không khí hào hùng và cũng đầy đam mê tuổi trẻ, của cuộc kháng chiến chống phát xít Ý và Đức. Bube, một chiến sĩ du kích cộng sản chống phát xít, từ chiến khu trở về và đến thăm gia đình người đồng chí đã hy sinh trong Người yêu của Bube kháng chiến. Anh gặp Mara, em gái của người đồng chí, và hai người yêu nhau. Giữa lúc tình yêu của Bube và Mara vừa chớm nở với tất cả những khao khát và say đắm của tình yêu đầu đời thì một biến cố đã xảy ra: trong một cuộc xô xát, khi tay cảnh sát trưởng bắn chết một đồng chí trong nhóm, Bube và một người bạn khác đã bắn chết hắn và con trai hắn. Đột nhiên, đôi tình nhân đứng trước một thử thách lớn của tình yêu: Bube phải chạy trốn sang Pháp để tránh bị truy lùng, trong khi Mara ở lại quê nhà vắng bặt tin anh. Đêm trước khi Bube lên đường chạy trốn ra khỏi nước Ý, anh và Mara đã lần đầu thực sự yêu nhau với những tình cảm trong trắng và hồn nhiên của những người lần đầu biết yêu. Nổi bật trong truyện là hình tượng “người yêu của Bube.” Sách đã khắc họa rất sinh động quá trình biến đổi của Mara: trước những sóng gió bão táp của cuộc đời, từ một cô gái mới lớn mười sáu tuổi quê mùa và hồn nhiên, rất thông minh sắc sảo nhưng cũng rất trẻ con, Mara dần trở thành một người phụ nữ đầm tính, sâu sắc và tự chủ ở tuổi hai mươi lăm. Lúc đầu, Mara chỉ chấp nhận Bube để có bạn trai đem khoe với bạn bè, cô đồng ý sang ra mắt gia đình Bube cũng để được ra tỉnh mua giày cao gót và túi xách. Nhưng rồi tình yêu đến và cô đã dần trưởng thành. Một chi tiết gây xúc động: đêm trước khi Bube ra đi, Mara đã từ chối nhận số tiền anh cho cô mua túi xách, để anh đem theo phòng thân. Sau đó là những tháng năm đằng đẵng cô chờ đợi người yêu trong bặt vô âm tín, khi tuổi xuân dần qua đi. Trong thời gian cô đơn chờ đợi, Mara quen với Stefano, một anh công nhân, cũng là đảng viên cộng sản, có nhân cách đáng quý, và trong lòng cô cũng không khỏi xao động, và hai người yêu nhau. Xung đột lên đến đỉnh điểm trong chính nội tâm của Mara, đó là sự đấu tranh giữa một tình cảm đã có lúc muốn buông xuôi để chạy theo một tương lai có chồng con yên ấm với Stefano và một lý trí mách bảo rằng cô là điểm tựa duy nhất cho Bube, rằng anh chịu đựng được vì nghĩ rằng ở quê nhà vẫn còn cô chờ đợi mình. Nhưng chính ngay lúc ấy, nút thắt đã được gỡ khi Bube bị bắt và sau đó bị tuyên án mười bốn năm tù. Tại thời điểm bước ngoặt đó, Mara đã quyết định cuộc đời mình phải ở bên cạnh Bube, nhất là trong tình cảnh khó khăn về mặt tinh thần của anh lúc đó. Mara xem đó là một “bổn phận,” một giá trị đạo đức mà cô không thể từ chối. Mara cắt đứt quan hệ tình cảm với Stefano, và tiếp tục chờ đợi mười bốn năm, thăm nuôi Bube và chờ ngày anh mãn hạn tù để cùng nhau xây dựng tương lai. Thoạt đầu tác giả đã lồng nhân vật Bube trong nhiều bối cảnh quan trọng, nhưng càng đọc, qua các biến cố dẫn dắt mạch truyện, người ta sẽ nhận thấy tác giả đã dần đưa Mara lên thành nhân vật chính và Bube chỉ còn là một điều kiện tác động lên các quyết định của Mara. Dù có bản tính nông nổi, thiếu suy nghĩ thấu đáo, dễ bị khích động đi dến các hành động thô bạo vũ lực, nhưng Bube cũng thể hiện một nhân cách đáng quý, sống hết mình trong tình yêu, và luôn thể hiện thái độ nâng niu, tôn trọng, giữ gìn cho người yêu. Trong tiểu thuyết còn có một đoạn tả rất rõ về tình cảm nhân bản của Bube với cha xứ Ciolfi - vốn là một tay phát Người yêu của Bube xít, nhưng chiếm được những tình cảm ấu thơ của Bube. Bube đã cố tình làm lơ như không thấy cha xứ Ciolfi, và cũng chính Bube sau đó đã phải đứng ra tìm cách bảo vệ cha xứ khi ông này bị người dân trong làng phát hiện và đòi hành hung. Tuy nhiên, chính Bube cuối cùng lại phải hành hung cha xứ trước áp lực của người dân căm thù phát xít. Điều này cho thấy Bube cũng chưa thoát khỏi tâm thức của thời chiến và đã sử dụng vũ lực để giải quyết các xung đột. Những suy nghĩ của Bube phần nào phản ánh sự giận dữ, thất vọng của những người cộng sản Ý khi cảm thấy bị phản bội: họ đã chiến đấu, hy sinh xương máu nhưng cuối cùng cũng không làm được cách mạng như họ mong muốn, và chính quyền lại thuộc về tay những lực lượng bảo thủ hữu khuynh, thậm chí thân phát xít hay cựu phát xít được hưởng ân xá. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh nước Ý sau Thế chiến thứ hai, mô tả những người cộng sản Ý, theo cái nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Để rộng đường tham khảo của bạn đọc, Nhà xuất bản Trẻ xin giới thiệu đến các bạn tiểu thuyết Người yêu của Bube. Mời các bạn đón đọc Người Yêu Của BuBe của tác giả Carlo Cassola.
Chuyện Tình - Erich Segal
Chuyện tình là câu chuyện tình yêu trong sáng, chân thật nhưng không kém phần lãng mạn của Jenny -  cô sinh viên trường nhạc, nhà nghèo nhưng luôn lạc quan và yêu đời, với Olvier - chàng công tử trường luật Havard, con một triệu phú danh tiếng và là nhà tài trợ chính cho ngôi trường này. Tình yêu đã giúp họ đi qua sự phản đối từ phía người cha Oliver - vì rằng gia đình Jenny nghèo, để tiến tới hôn nhân khi họ còn đang là sinh viên. Khởi đầu cuộc sống từ hai bàn tay trắng, cả hai cùng hạ quyết tâm phải cùng nhau làm việc cật lực và chi tiêu “chắt bóp” để hoàn tất việc học. Nhưng không vì thế mà tình yêu của họ vơi đi sự thi vị và lãng mạn.  Những khó khăn tưởng chừng như đang khép lại khi cả hai tốt nghiệp đại học và mỗi người đã tìm cho mình một công việc riêng; khi cuộc sống của họ dần ổn định, họ tính đến chuyện có con thì bất ngờ phát hiện Jenny mắc bệnh hiểm nghèo. Lần đầu tiên trong đời chạm phải nỗi đau lớn, Oliver tưởng chừng như đang rơi xuống vực sâu thăm thẳm… Thế nhưng tình yêu đã giúp Oliver cất giấu nỗi đau để tiếp tục đến bên Jenny bằng chính Oliver của mọi ngày để Jenny không dự cảm được nỗi đau sắp đến với cô. Chuyện tình đẹp của họ được kết thúc bằng sự ra đi nhẹ nhàng của Jenny, và câu nói của cô trong cuốn tiểu thuyết đã trở thành tuyên ngôn kinh điển của tình yêu: "Yêu có nghĩa là không bao giờ nói lời hối tiếc". *** Ông Cavilleri đang ở ngoài hành lang hút thuốc không biết đến điếu thứ bao nhiêu khi tôi đến cạnh ông. Tôi nhẹ nhàng gọi: Bố! Ông ngẩng đầu lên và tôi chắc ông đã hiểu. Rõ ràng ông cần được an ủi. Tôi bước lại đặt tay lên vai ông. Tôi sợ Ông òa khóc còn tôi gần như chắc chắn là không khóc. Tôi muốn nói là tôi không khóc được nữa, tôi đã vượt qua chặng đó rồi. Ông lại úp bàn tay lên tay tôi, lẩm bẩm: – Giá bố. Giá bố… Ông nín bặt và tôi chờ đợi. Còn có gì vội nữa đâu. Giá bố đừng hứa với Jenny sẽ tỏ ra cứng cỏi để khuây khỏa con. Rồi để giữ đúng lời hứa, ông âu yếm vỗ nhẹ lên tay tôi. Nhưng tôi muốn được một mình, muốn thở khí trời, muốn đi bộ một lúc, có lẽ thế. *** Erich Segal là một nhà viết tiểu thuyết, kịch bản phim người Mỹ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Erich Segal là tác phẩm Chuyện Tình (Love Story.).   Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình của tác giả Erich Segal.
Chân Ngắn, Sao Phải Xoắn - Huyền Lê
“ Chân ngắn, sao phải xoắn!” là câu chuyện hài hước, dí dỏm về một cô nàng chân ngắn điển hình.  Đỗ Tiến Phương  - nhân vật chính của truyện là cô gái thông minh, cá tính và đặc biệt, cô có sự tự tin vô đối về bản thân. Nhan sắc của Tiến Phương  thuộc dạng “ khó cải tạo”  với đôi mắt híp như sợi chỉ cùng cặp chân đo đến ngang eo cũng chỉ vẻn vẹn được tám mươi chín phân.  Không những thế, Tiến Phương còn có một tuổi thơ không mấy êm đềm vì bố cô bỏ đi khi cô còn trong bụng mẹ. Mặc dù vậy, cô vẫn luôn tự tin thậm chí là tự hào về nhan sắc cũng như hoàn cảnh xuất thân của mình, cô chưa từng nghĩ rằng mình là người thiếu may mắn. Đỗ Tiến Phương với tính cách “tưng tửng” đã gây ra đủ các chuyện dở khóc, dở cười trong cuộc sống của chính mình và cả những người xung quanh cô. Bắt đầu là cuộc đụng độ giữa cô và “oan gia” Hoành Tá Tràng  khi cô “trót” vượt đèn đỏ trên phố. Sau đó, liên tục là những rắc rối khác có “dính líu” đến Hoành Tá Tràng khiến cô và anh chàng cảnh sát giao thông trẻ trung này trở thành “ kẻ thù không đội trời chung” của nhau. Cũng như rất nhiều cô gái khác, Tiến Phương có một thói xấu mà dù chết vạn lần vẫn không thể bỏ được, đó là mê trai đẹp. Dù bất cứ nơi đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, hễ cứ thấy trai đẹp là cô ngay lập tức “đứng hình” … Vì thế mà khi vừa bước chân vào lớp cao học, Tiến Phương đã mê tít Lãng Tử - là chàng trai đẹp trai nhất lớp mình. Nhưng, mối tình đó chỉ là tình yêu âm thầm, mặc dù đã rất nhiều lần cô cố gắng tiếp cận Lãng Tử nhưng đều vô ích. Tiến Phương vẫn kiên trì “bám trụ” và yêu thầm Lãng Tử mặc cho anh chàng đã có người yêu. Cho đến khi, Lãng Tử cưới vợ, Tiến Phương mới nghĩ rằng mình thực sự hết cơ hội. Cô thất tình, nhưng không buồn bã, chán nản như bao cô gái khác, cái kiểu thất tình của Tiến Phương khá đặc biệt, cô mở chiến dịch “Lạnh lùng và kiêu hãnh” để chứng minh cho Lãng Tử thấy anh ta sai lầm vì đã không chọn cô. Và cô đã thành công ngoài mong đợi. Sau rất nhiều nỗ lực, Tiến Phương và Lãng Tử cũng đã đến được với nhau. Nhưng tình yêu của họ không được bao lâu thì tan vỡ. Tiến Phương lại trở về với con người thật của mình, vui vẻ, ương ngạnh, tưng tửng nhưng đã có nhiều suy tư hơn. Bên cạnh cô, “oan gia” Hoành Tá Tràng vẫn không ngừng gây rắc rối và anh chàng xấu trai “ Hăng-rô” Nguyễn  thì không ngừng tán tỉnh làm cô nhiều phen đau đầu nhức óc. Tiến Phương cuối cùng cũng tìm thấy tình yêu của mình bên một người xứng đáng. Không những thế, cô đã khiến cho Cục Kẹo – một cô gái yếu đuối, người luôn theo đuổi Hoành Tá Tràng có cái nhìn khác đi về cuộc sống, cô đã bồi đắp cho Cục Kẹo lòng yêu cuộc sống, sức mạnh để vượt qua nỗi buồn để tiến lên. Bên cạnh đó, việc bước vào một công ty truyền thông nhờ vào mối quan hệ của mẹ cô đã giúp cô khám phá ra bí mật động trời mà bao năm qua mẹ cô che giấu. Cô tìm thấy bố sau rất nhiều năm đinh ninh rằng ông đã bỏ mẹ con cô ra nước ngoài với nhân tình từ khi cô còn tượng hình trong bụng mẹ. *** Từ khi chính thức nhận bố, tôi vui đến nỗi mọi thứ xung quanh tôi bỗng nhiên dễ thương hết sức. Tôi ca hát, nhảy múa rồi “hẹn hò” đi chơi với bố suốt ngày… Mẹ tôi chắc cũng ghen tỵ với tôi nên mới cảnh báo tôi đừng vui quá hóa rồ con nhá. Rồ là rồ thế nào được, tôi luôn là người biết mình có gì và đang đứng ở vị trí nào chứ, mặc dù, thi thoảng tôi vẫn hơi… tự đề cao mình quá!!! Nhưng bố tôi nói, đó là nét dễ thương rất riêng của tôi, đấy, chỉ có bố mới nhận ra vè đẹp tiềm ẩn của tôi mà thôi. Bố mẹ tôi tái hợp, mà thực ra, nói là tái hợp cũng không đúng. Họ bắt đầu tình yêu thì đúng hơn, non nửa cuộc đời, họ mới chính thức thừa nhận tình cảm dành cho nhau, dẫu có hơi muộn màng nhưng đó mới là thứ tình cảm đáng trân trọng. Vì thế, đừng bao giờ nhìn tuổi tác mà đánh giá tình yêu, bởi tình yêu không bao giờ có tuổi. Mẹ chăm sóc bố rất chu đáo, tôi thấy mẹ cười nhiều hơn, dáng đi nhẹ nhõm và mẹ dường như trẻ lại. Bố tôi cũng vậy, ông nói suốt ngày và chăm chỉ, tỉ mẩn sửa soạn những thứ bề bộn trong nhà, những thứ mà trước đây, vì nhà không có đàn ông nên mẹ và tôi bỏ mặc hoặc lắp ghép qua loa. Tôi ngồi giúp bố đóng lại cái giá sách, mẹ lăng xăng bên cạnh để chỉ đạo, bất chợt tôi nói. “Sao bố mẹ không cưới nhau nhỉ?” Bố nhìn sang mẹ mỉm cười, mẹ tôi lúng túng. “Già thế này rồi, cưới xin gì nữa, ở vậy cũng được rồi.” “Làm sao có chuyện đó được, con không thể ‘gả’ mẹ cho bố theo kiểu không kèn không trống như thế này được.” Bố tôi cười ngất, loạng choạng tụt xuống, mẹ tôi lại lườm tôi như thường lệ… Mẹ tôi phẩy tay. “Bố con anh thôi đi, có phải trẻ con đâu.” “Chính vì không phải trẻ con mới phải cưới, chứ chẳng lẽ em để mọi người nghĩ anh ở nhờ nhà em mãi à?” Tôi vỗ tay đôm đốp, mẹ tôi xoa xoa lá lắc đầu vẻ bất lực trước hai bố con. Thế là cuộc chạy đua bắt đầu, tôi hăng hái chọn váy cưới cho mẹ, may vest cho bố, xem tổ chức đám cưới ở đâu… Tôi chạy hồng hộc lo chu tất mọi thứ, bố mẹ có vẻ hãnh diện vì tôi, nhưng mẹ cứ liên mồm nhắc nhở: “Làm nho nhỏ thôi, đừng rùm beng quá”. Sao lại không rùm beng nhỉ? Cưới bố mẹ tôi cơ mà! Tôi còn muốn cho cả thế giới này biết là bố mẹ tôi cưới nhau cơ đấy, thế mà mẹ nói không rùm beng thì còn gì là hay ho gì nữa? Cuối cùng, dưới sự trợ giúp của tôi, bố mẹ cũng đã tổ chức thành công một đám cưới ấm cúng và cảm động. Tôi hăng hái lên giật mic để kể kể về chuyện tình cảm của bố mẹ mình, đương nhiên là tôi đã thêm mắm, dặm muối cho nó thêm phần ly kỳ và sinh động hơn. Ai cũng nước mắt ngắn dài, mẹ tôi thì khỏi nói, bà đã khóc ngay khi vừa mặc vào người chiếc váy cưới. Bố Tam Mao của tôi, thi thoảng lại lén lau những giọt nước mắt khi nghe tôi nói, ông nhìn tôi đầy tự hào. Tôi cũng thế, vừa kể chuyện của bố mẹ, nhưng mắt tôi lại cay sè vì hạnh phúc. ... Mời các bạn đón đọc Chân Ngắn, Sao Phải Xoắn của tác giả Huyền Lê.