Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Dối Trá

Tình yêu dối trá là cuốn tiểu thuyết trinh thám trong một chuỗi các tiểu thuyết trinh thám của Kellerman. Cuốn sách được mở đầu bằng một cuốn băng cát–xét gửi cho bác sĩ tâm lý học Alex Delaware, không đề địa chỉ người gửi. Trong băng là những tiếng gào thét điên loạn xen lẫn tiếng trẻ con ê a bốn từ “Tình yêu dối trá, tình yêu dối trá...” Alex cố gắng tìm hiểu, nhưng không hiểu nội dung của cuốn băng đó là gì, cũng không biết ai gửi cho anh và gửi vì lí do gì. Tuy nhiên, khi nhận được một cú điện thoại lạ lùng, đặc biệt là khi con cá vàng yêu quý của anh bị giết chết, anh nhận ra rằng cuộc sống của anh đang bị đe dọa. Với sự giúp đỡ của người bạn thân – thám tử Milo Sturgis, Alex bắt đầu khám phá ra những tình tiết phức tạp, chồng chéo của các vụ án mạng liên quan đến một cuộc hội thảo khoa học mà anh từng làm đồng chủ tịch cách đây hai mươi năm. Cuối cùng Delaware phát hiện ra mình đang bị một kẻ giết người bệnh hoạn săn đuổi. Hắn đốt nhà, phá phách và giết người để trả thù cho những sai lầm của người khác đã từng làm hắn đau khổ trong suốt hai mươi năm qua. Sự tham gia của tiến sĩ Delaware, một bác sĩ nhạy cảm, hiểu biết và nhân hậu đã làm cho mọi tội lỗi phải chùn bước. Đối với độc giả Việt Nam, nhà văn Jonathan Kellerman và những cuốn sách của ông còn rất mới mẻ. Chúng tôi giới thiệu cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông với bạn đọc với mong muốn độc giả Việt Nam sẽ biết thêm về một tác giả và những sáng tác của ông. *** Jonathan Kellerman sinh năm 1946 tại New York. Ông lớn lên ở Los Angeles, tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Los Angeles, nhận bằng tiến sĩ về tâm lý học lâm sàng tại Trường Đại học Nam California, nơi mà hiện nay ông đang cộng tác giảng dạy. Trước khi nhận học vị tiến sĩ, Kellerman đã từng làm biên tập, giáo viên, vẽ tranh minh họa và sáng tác nhạc. Trong sự nghiệp của ông, với tư cách là một nhà tâm lý học, ông đã đồng sáng lập và điều hành chương trình tâm lý xã hội ở viện nhi Thành phố Los Angeles: lãnh đạo một công ty tư vấn tâm lý, chỉ đạo việc nghiên cứu thuốc và điều chỉnh hành vi. Ngoài vai trò là một nhà văn, ông còn nổi tiếng khắp nước Mỹ như là một chuyên gia về bệnh stress ở trẻ em. Với hơn hai triệu bản những tiểu thuyết bán chạy nhất, được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhận cả giải Edgar và giải thưởng Anthony, Jonathan Kellerman đã được độc giả tôn là bậc thầy của truyện trinh thám tâm lý đương thời. Ngoài những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng như, Khi cành cây gẫy, Thử máu và Trên đỉnh, tiến sĩ Kellerman còn viết hai cuốn sách khoa học nổi tiếng về tâm lý học. Nhiều truyện ngắn và những bài xã luận của ông đã xuất hiện trên các báo, tạp chí nổi tiếng của Mỹ như Tạp chí bí mật, Tạp chí Los Angeles, Thời báo Los Angeles và tờ New week. Jonathan Kellerman đang sống ở Nam California với người vợ thân yêu của ông, nữ nhà văn Faye Kellerman và bốn người con – ba trai, một gái. Hiện tại ông vẫn đang tiếp tục viết tiểu thuyết về chống tội phạm. *** Gói hàng gửi đến được bao bằng loại giấy trơn, màu nâu, và được đựng trong một vỏ hộp, cỡ độ bằng cuốn sách. Tôi đoán là một cuốn sách học sinh, hình như tôi đã quên mất là mình đã đặt mua trước đó. Gói hàng nằm trên chiếc bàn lẫn trong đống đơn từ và các bản thông cáo Hội thảo sinh viên ở Hawai trên đường Croix. Trở lại thư viện, tôi đang cố nghĩ ra việc gì đó để lát nữa sẽ làm, thì Tiffani và Chondra Walace xuất hiện. Đây là cuộc gặp gỡ thứ hai của chúng tôi. Một năm trước đây, mẹ của hai cô bé đã bị chính người cha mình sát hại trên một ngọn đồi ở cánh rừng mang tên “Ngọn đồi của những Thiên Thần”. Ông ta bảo rằng đó là tội ác của sự đam mê và có lẽ điều đó cũng chẳng có gì lấy làm khó hiểu bởi trong cơn sốc tình cảm kinh hoàng như thế người ta dễ làm như vậy lắm chứ. Qua những tài liệu mà tòa án cung cấp, tôi biết rằng với Ruthanne và Donald Dell Walace chuyện cãi vã, xô xát giữa họ xảy ra như cơm bữa. Bà ta vốn chẳng phải là một phụ nữ cứng rắn, dù cuộc ly hôn của họ đem đến những điều không lấy gì làm tốt đẹp, nhưng bà vẫn dành cho Donald những “tình cảm yêu thương nồng nhiệt”. Vì thế, chẳng ai ngạc nhiên khi thấy ông ta dùng những lời đường mật để dụ bà cùng thưởng ngoạn chuyến du đêm trong cái đêm định mệnh đó, với lời hứa hẹn bữa cơm tối sẽ có món tôm hùm mà bà ưa thích, điều đó có lẽ còn mê hoặc hơn cả hương thơm của “nàng tiêu nâu”. Ngay khi vừa dừng xe trên một ngọn đồi tối bưng, trông ra phía cánh rừng hai người đã quấn lấy nhau, và từ chỗ âu yếm, tâm tình, tranh luận rồi dần dần biến thành cuộc khẩu chiến, phẫn nộ và cuối cùng họ lao vào cấu xé nhau như hai con thú dữ tranh mồi. Bất ngờ Donald Dell rút ra một con dao, lao tới người phụ nữ vẫn mang họ*của ông ta, đâm ba mươi tư nhát, sau đó hất xác bà ta ra khỏi chiếc xe thùng của mình, và làm rớt chiếc ví kẹp bằng bạc kiểu Ấn Độ, bên trong chứa đầy tiền và cả tấm thẻ hội viên của ông ta tại câu lạc bộ đua mô tô mang tên “Những Thày Tu Sắt”. Phụ nữ phương Tây, khi lấy chồng mang họ của chồng – ND. Với tội trạng rõ ràng, bản nghi án đã khiến ông ta bị tống vào nhà tù Folsom mười năm vì tội giết người mức độ hai. Ở đó ông ta được tự do tha thẩn trong một khu vườn cùng với mấy gã bạn tù trước đây là đàn em của anh em nhà Aryan. Tham gia một khóa học máy tự động mà lẽ ra ông ta có thể làm thầy. Trong xưởng làm việc ông ta đã học được những cách cư xử tốt và củng cố được những mặt yếu của mình. Ông ta còn có thể tập thể dục bằng cách chống đẩy, mà có lúc ông ta tập cho đến khi các cơ lồng ngực như muốn vỡ tung ra mới thôi. Sau bốn tháng ngồi tù, ông ta rất nóng lòng muốn gặp hai cô con gái của mình. Theo luật pháp, ông ta cũng được xem xét các quyền của người làm cha. Ông Stephen Huff, vị thẩm phán tư gia ở L.A.* – một trong những thẩm phán giỏi nhất đã đề nghị tôi xử lý vụ này. Chúng tôi gặp nhau trong phòng làm việc của ông ấy vào một buổi sáng tháng chín. Và trong khi vừa uống cốc nước gừng vừa vuốt lên cái đầu hói trơn bóng của mình, ông ta kể lại toàn bộ chi tiết vụ đó cho tôi. Căn phòng làm việc của ông được ốp bằng gỗ sồi, lâu ngày đã trở nên cũ kỹ, còn đồ đạc trong phòng thì mộc mạc, rẻ tiền. Những bức hình chụp lũ trẻ con ông bày, treo la liệt khắp phòng. L.A.: Viết tắt của chữ Los Angeles – ND. Tôi hỏi ông ta: – Stephen này, ông định khi nào thì gặp họ đấy? – Tôi sẽ đến thẳng nhà tù, mỗi tháng hai lần. – Tức là ông sẽ phải đáp máy bay. – Đúng vậy, mấy người bạn sẽ thu xếp vé cho tôi. – Bạn thế nào? – Nếu nói một cách khôi hài thì có thể gọi họ là Hội những người ủng hộ Quỹ Bảo Trợ Gia Đình Donal Dell Wallace. – Những người bạn hảo tâm quyên góp đúng không? – Ờ, ờ thì cứ cho là thế đi. – Tôi hiểu rồi, thế ra là món tiền khích lệ. Ông ta gượng cười khó nhọc và thoáng vẻ miễn cưỡng: – Mà đó cũng chẳng phải là vấn đề của chúng ta, đúng không ông Alex. – Sao nào! Steven? Chẳng lẽ việc không thanh toán tiền pháp lý được là vì ông bố góa ấy đang ngồi tù ư? – Không phải... mà thôi bỏ chuyện đó đi, thế có gì mới mẻ không? Được rồi, chúng ta chỉ gặp gỡ những đứa trẻ tội nghiệp đôi ba lần nữa thôi, sau đó viết một thông báo nói rằng việc viếng thăm như thế sẽ ảnh hưởng xấu đến tinh thần của bọn trẻ và chúng ta sẽ tạm đình vấn đề này. – Trong bao lâu? Ông ta đặt cốc nước gừng xuống và ngắm những hình tròn in ở trôn cốc xuống chiếc bàn, đang từ từ chuyển sang màu đậm do bị thấm nước. – Tôi có thể đình việc này ít nhất là một năm. – Sau đó thì sao nào? – Nếu ông ta thỉnh cầu lần nữa, thì bọn trẻ có thể được xem xét lại và chúng ta phải trì hoãn lần nữa. Trong khi thời gian lại ủng hộ bọn trẻ đúng không? Hy vọng là chúng sẽ càng chín chắn và cứng cỏi hơn. – Steve à, một năm nữa thì chúng sẽ lên mười, mười một rồi còn gì. Ông ta chỉnh chiếc cà vạt của mình. – Alex, tôi có thể kể gì cho anh đây? Vả lại tôi không muốn thấy cảnh lũ trẻ cau có, mếu máo. Tôi sẽ nhờ anh xem xét hộ, vì tôi biết anh có chí khí mạnh mẽ, quyết đoán nên hoàn toàn có thể đảm nhận công việc mà khiến nhiều người phải thoái trí này. – Nghĩa là người khác cũng có thể đề nghị thăm viếng? – Có thể quá đi chứ, anh nên xem lại một số ý kiến mà các đồng nghiệp của anh đưa ra. Có lần ai đó đã nói với tôi rằng đôi khi việc để đứa trẻ chứng kiến sự phiền muộn của người mẹ lại là điều hết sức thuận lợi, vì nó dạy cho đứa trẻ hiểu được giá trị của tình cảm đích thực. – Thôi được rồi – Tôi nói – Nhưng tôi muốn có một sự đánh giá trung thực, chứ không phải chỉ bằng hình thức qua loa cho xong chuyện. Chắc chắn phải là một việc gì hữu ích cho bọn trẻ sau này. – Liệu pháp tâm lý ư? Sao lại không nhỉ? Được rồi, anh cứ làm bất cứ việc gì anh muốn. Bây giờ anh rút hồ sơ rồi gửi thẳng cho tôi và anh sẽ được trả công, bằng mười lăm ngày làm việc. – Thế ai sẽ trả đây, những ông bạn hảo tâm à? – Đừng lo, tôi đảm bảo họ sẽ tăng cổ phần của anh mà. – Miễn là họ không dúi séc vào tay tôi là được. – Alex này, chắc tôi chẳng phải lo chuyện đó đâu, bây giờ tình hình đã khá hơn rồi. * Cũng như tuần trước, hai cô bé đến rất đúng giờ. Mỗi đứa níu lấy một tay bà ngoại, trông chúng như những chiếc va ly kéo mini. – Bọn trẻ đến rồi đây – Evelyn Rodriguez thông báo – Bà ta đứng chắn lối cửa ra vào, khẽ đẩy hai đứa nhỏ bước tới. – Chào hai cháu – Tôi nói. Tiffani gượng cười. Còn cô chị nhìn xa xăm lơ đãng. – Chuyến đi tốt đẹp chứ? Evelyn nhún vai, bặm môi rồi lại thôi... Vừa giữ ghì hai cô bé bà ta vừa kéo chúng lùi lại. Hai cô bé để mặc cho bà kéo đi, song vẫn cố cự lại bằng sức nặng của mình, như thể chúng muốn phản đối bà ta một cách lặng lẽ. Dường như cảm nhận được điều đó Evelyn liền buông lũ trẻ ra, vòng tay khoanh trước ngực, ho vài tiếng rồi quay mặt đi. Rodriguez là người chồng thứ tư của bà ta. Bà vốn là người Anglo, thân hình mập mạp, dáng vẻ nặng nề, trạc năm mươi tám tuổi, hai khuỷu và các đốt ngón tay đã nhăn nheo, nước da sạm đi vì hút thuốc lá quá nhiều. Còn đôi môi thì mỏng dính, thẳng tuột, tựa như vết chỉ khâu. Bà ta có vẻ rất khó nói chuyện. Nhưng tôi tin là không phải sau cái chết của cô con gái bà ta đâm ra như vậy, mà vốn trước đây tính bà ta đã thế rồi. Sáng nay, bà mặc một chiếc áo cánh không có cổ và đường nét thì chẳng rõ ràng. Đại thể đó là một chiếc áo vải, in hình hoa cà màu xanh da trời, nó khiến tôi liên tưởng đến một chiếc hộp giấy thơm được trang trí loè loẹt. Chiếc áo cuộn lên, xổ ra và trùm xuống chiếc quần Jeans màu đen được trang trí viền đỏ. Đôi giày tennis màu xanh da trời của bà lốm đốm những vết bợt trắng. Tóc bà ta cắt ngắn và để lượn sóng. Phần trên ngọn, bạc như râu ngô còn phần chân tóc thì đen thẫm. Những lỗ đeo khuyên tai đã làm hai dái tai nhăn nheo chảy xệ xuống. Nhưng bà Evelyn lại không đeo đồ trang sức. Phía sau hai tròng kính, đôi mắt bà vẫn chẳng thèm ngó vào mắt tôi. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Dối Trá của tác giả Jonathan Kellerman.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.
Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).