Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Bạc - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky

Tiểu thuyết "Con Bạc" nằm trong khuôn khổ seri "cuộc đổ bộ của chàng Dostoievski" trong hình dạng ba cuốn sách bìa giống hệt nhau, chỉ khác nhau tên sách, bao gồm: Con Bạc, Người Chồng Vĩnh Cửu, Chàng Ngốc Hữu Ích". Ba đầu sách này thuộc tủ sách được “Quỹ Hỗ Trợ Quảng Bá Văn học Nga-Văn học Việt Nam” tài trợ xuất bản hồi 2015 nhưng hai năm qua chỉ lưu hành nội bộ, nay NXB Văn học mới in đại trà cho quần chúng nhân dân được đọc. Với nguyên mẫu trực tiếp của một con người đã phát triển đa dạng, nhưng nhiều mặt lại chưa hoàn chỉnh, không tin gì, nhưng lại không dám không tin, chống lại quyền lực nhưng lại sợ quyền lực. Anh ta tự huyễn hoặc mình rằng ở nước Nga anh ta chẳng có việc gì làm và vì thế anh ta chỉ trích gay gắt những người từ trong nước Nga kêu gọi ngoại kiều Nga về nước. ...Vấn đề chính là ở chỗ tất cả những tinh túy cuộc sống của anh ta: sức mạnh, niềm hăng say, lòng dũng cảm lại đổ vào trò chơi rulet. Anh ta là con bạc, nhưng không phải con bạc tầm thường, cũng như tên hiệp sĩ keo bẩn của Pushkin không phải là tên keo bẩn tầm thường. Anh là nhà thơ có đẳng cấp riêng biệt, nhưng vấn đề là ở chỗ chính anh lại xấu hổ với thơ anh, bởi vì anh cảm thấy sâu sắc cái thấp hèn của loại thơ ấy, mặc dù nhu cầu phiêu lưu đã làm tăng phẩm giá cho anh trong con mắt của chính anh. Toàn bộ câu chuyện là chuyện anh chơi rulet ở các sòng bạc đến năm thứ ba. *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình ***   Ý tưởng viết truyện Con bạc xuất hiện từ mùa thu năm 1863. Ngày 18 tháng Chín năm 1863 từ Roma, Dostoievski viết cho N.N. Strakhov “Tình tiết câu chuyện là thế này: có một người Nga ở nước ngoài. Ông hãy hình dung rằng vấn đề ngoại kiều Nga được bàn nhiều trên báo chí. Tất cả sẽ được phản ánh trong truyện của tôi. Nói chung là tôi sẽ mô tả thời điểm hiện tại (với khả năng có thể) của đời sống của đất nước chúng ta. Tuy nhiên, tôi lấy nguyên mẫu trực tiếp của một con người đã phát triển đa dạng, nhưng nhiều mặt lại chưa hoàn chỉnh, không tin gì, nhưng lại không dám không tin, chống lại quyền lực nhưng lại sợ quyền lực. Anh ta tự huyễn hoặc mình rằng ở nước Nga anh ta chẳng có việc gì làm và vì thế anh ta chỉ trích gay gắt những người từ trong nước Nga kêu gọi ngoại kiều Nga về nước. ‹…› Vấn đề chính là ở chỗ tất cả những tinh túy cuộc sống của anh ta: sức mạnh, niềm hăng say, lòng dũng cảm lại đổ vào trò chơi rulet. Anh ta là con bạc, nhưng không phải con bạc tầm thường, cũng như tên hiệp sĩ keo bẩn của Pushkin không phải là tên keo bẩn tầm thường. (Nói chung đó không phải là việc so sánh tôi với Pushkin. Tôi nói chỉ để làm rõ thôi). Anh là nhà thơ có đẳng cấp riêng biệt, nhưng vấn đề là ở chỗ chính anh lại xấu hổ với thơ anh, bởi vì anh cảm thấy sâu sắc cái thấp hèn của loại thơ ấy, mặc dù nhu cầu phiêu lưu đã làm tăng phẩm giá cho anh trong con mắt của chính anh. Toàn bộ câu chuyện là chuyện anh chơi rulet ở các sòng bạc đến năm thứ ba”. Mùa hè năm 1865, bị xiết nợ dữ dội, Dostoievski buộc phải bán cho “chủ nợ” và cũng là “con người khá tồi tệ” F.T. Stellovski quyền xuất bản toàn tập sáng tác của mình. Thế nhưng trong hợp đồng có một khoản mục đặc biệt, Dostoievski kể trong bức thư gửi A.V. Korvin Krukovskaia ngày 17 tháng Sáu năm 1866, trong đó tôi hứa với ông ta rằng muốn in toàn tập thì tôi phải chuẩn bị xong một cuốn tiểu thuyết không dưới mười hai tay sách, và nếu tôi không kịp nộp vào ngày 1 tháng Mười một năm 1866, hạn chót, thì ông ta, Stellovski, có quyền được tiếp tục in trong chín năm liền không phải trả tiền, và tôi còn nghĩ ra rằng ông ta được in cả những gì tôi sẽ viết ra mà không phải trả một đồng nhuận bút nào nữa”. Đang say sưa viết Tội ác và hình phạt, Dostoievski chưa bắt tay vào viết tiểu thuyết mới cho đến đầu tháng Mười năm 1866. Khi thời hạn hoàn thành cam kết chỉ còn chưa đầy một tháng, ông bắt buộc phải mời người phụ nữ viết tốc ký Anna Grigorievna Snitkina (sau này là vợ ông) để đọc cho cô chép cuốn tiểu thuyết trong vòng 26 ngày, từ ngày 4 đến hết ngày 29 tháng Mười. Có thể cho rằng đến trước thời điểm này Dostoievski đã chuẩn bị được những bản nháp hoặc những phương án tỉ mỉ cho tác phẩm, cho nên mới có thể xây dựng được Con bạc trong thời gian ngắn đến thế. Trong hồi ký của mình bà A.G. Dostoievski kể về quá trình viết cuốn Con bạc. Trước ngày bà đến làm việc, Dostoievski đã có các phác thảo, sau đó từ 12 giờ đến 4 giờ chiều mỗi ngày, nghỉ ngơi rất ít, ông đọc cho bà ghi tốc ký, rồi khi về nhà, bà giải mã và viết lại cho sạch đẹp. Những phần bản thảo Con bạc mà bà viết tay và sau trở thành bản thảo cho thấy rằng trước khi đem nộp cuốn tiểu thuyết cho nhà xuất bản Dostoievski lại một lần nữa sửa chữa bản thảo. Ngày 1 tháng Mười một năm 1866 bản thảo được nộp cho Stellovski với tựa đề Ruletenburg (có nghĩa là Thành phố rulet). Nhưng nhà xuất bản yêu cầu ông phải đổi tên sách thành “một cái tên gì đó, nghe có vẻ Nga hơn” (xem thư của Dostoievski gửi V.I. Gubin ngày 8 tháng Năm 1871). Dostoievski đồng ý và rồi tác phẩm được in trong Toàn tập Dostoievski do F. Stellovski ấn hành tại Saint Petersburg (1866) với nhan đề Con bạc. Trong hổi ký của mình bà Dostoievskaia A.G. (Moskva, 1871) có viết: “… Trung tâm câu chuyện là “con bạc”, một trong những mẫu người Nga hải ngoại. Bên cạnh đó là gia đình một tướng quân người Nga, cũng là hải ngoại. Đó là một gia đình ngẫu nhiên đã tách khỏi nếp sống truyền thống sau cuộc cải cách nông dân, vấn đề này ở những tác phẩm về sau Dostoievski có những phần nghiên cứu đáng kể. Trong chuyến đi đầu tiên sang châu Âu năm 1862 ông đã quan sát nhiều gia đình Nga kiều và đã viết trong bài Ghi chép mùa đông về những ấn tượng mùa hè. Theo thống kê của tờ Người đưa tin Nga số tháng Mười năm 1862, thì chỉ riêng năm 1860 đã có hơn hai trăm ngàn người Nga đi ra nước ngoài…” Có một điều thú vị là chủ đề “người Nga ở nước ngoài” cũng đã được I.S. Turgenev khai thác, mặc dù ở khía cạnh khác, trong tác phẩm Khói (1867), được viết và được xuất bản gần như đồng thời với Con bạc của Dostoievski. Những diễn biến của câu chuyện tình của nhân vật lúc làm việc trong gia đình tướng quân với tư cách gia sư và cô con gái nuôi của tướng quân là Polina có nhiều điều được lấy ra từ những quan hệ phức tạp giữa Dostoievski với Apollinariya Prokohevna Suslova. Trong một bức thư Dostoievski đã viết về cô: “Cô ấy đòi hỏi mọi người đủ thứ, cái gì cũng phải hoàn hảo, không tha thứ bất kỳ một thiếu sót nào…” (thư gửi N.P. Suslova ngày 19 tháng Tư năm 1865). Những lời này có thể hoàn toàn phù hợp với Polina. Một số tình tiết liên quan đến Polina, như việc cô bị anh chàng người Pháp De-Grie quyến rũ, việc cô muốn trả anh ta một khoản tiền, đều có nguồn gốc từ cuộc đời của A.P. Suslova và được Dostoievski hư cấu thêm (xem Suslova A.P. Những năm tháng gần Dostoievski. Moskova, 1928). Tác giả Con bạc còn có một niềm đam mê giống như nhân vật của mình, Aleksei Ivanovich, đó là thói đánh bạc. Về thú chơi rulet, trong những chuyến đi của mình Dostoievski thường vẫn kể lại cho những người thân. Trong một bức thư gửi từ Paris cho V.D. Konstant đề ngày 20 tháng Tám năm 1863, kể về lúc thắng bạc ở Viesbaden, Dostoievski viết: “… trong suốt bốn ngày này tôi chỉ chú mục vào các con bạc. Số người đặt tiền có tới mấy trăm. Thật tình mà nói, biết chơi thì chỉ có vài người thôi. Tất cả đều thua cháy túi vì không biết chơi. Hai người thắng là một bà người Pháp và một huân tước người Anh, họ chơi giỏi, không hề thua, ngược lại, nhà cái suýt vỡ trận. Tôi nói điều này, xin đừng bảo rằng vì vui sướng mà tôi quá lời, tôi không bị thua vì tôi biết mánh lới để không thua, mà lại thắng cuộc. Mánh lới ấy tôi biết, thật là dễ hiểu và đơn giản, đó là biết tự kiềm chế một phút, dù ở bất kỳ thời điểm nào của cuộc chơi, không được nóng vội. Vấn đề chỉ có thế…” “Lý thuyết” chơi rulet của tác giả trong bức thư trích dẫn trên đây trùng hợp với lý thuyết của nhân vật Aleksei Ivanovich, đặc biệt là trong chương cuối. Bà A.G. Dostoievskaia nhớ lại rằng trong quá trình viết tác phẩm, khi bàn đến số phận của các nhân vật, thì “Fiodor Mikhailovich hoàn toàn đứng về phía “con bạc” và nói rằng có nhiều tình cảm và ấn tượng của anh ta là chính ông đã trải nghiệm. Ông khẳng định rằng ông có thể có được cá tính mạnh, chứng minh được cá tính bằng chính cuộc đời mình, nhưng ông lại không có sức mạnh để chiến thắng đam mê chơi trò rulet”. Hình tượng “con bạc” của Dostoievski có lịch sử văn học lâu đời. Trong văn học thế giới, danh sách những tác phẩm khai thác chủ đề này có thể kể ra không bao giờ hết. Chính Dostoievski đã nói đến mối quan hệ giữa tác phẩm của ông với các tác phẩm của Pushkin. Ngoài Những bi kịch nhỏ phải kể đến Con đầm Pích. Giữa Con đầm Pích với Con bạc có những chi tiết gần nhau. Tuy nhiên Germann của Pushkin chỉ có một say mê duy nhất là làm giàu để có quyền lực đối với mọi người. Còn Aleksei Ivanovich thì vừa thắng được hai trăm ngàn đã lập tức tiêu hết. Dostoievski coi đó là biểu hiện của nét tính cách Nga thuần túy. Khi xây dựng hình tượng Aleksei Ivanovich, Dostoievski cho thấy đã có những mối liên hệ với hình tượng “Dubrovski” của Pushkin. Troekurov gọi Dubrovski là “gia sư” với hàm ý miệt thị. Aleksei Ivanovich cũng tự gọi mình là “gia sư”, một cách tự ti trong những trường hợp muốn nhân mạnh vị thế phụ thuộc của mình. Trong truyện của Pushkin (chương XI) và trong Con bạc từ “gia sư” đều được viết theo kiểu phiên âm sang tiếng Pháp là “outchitel”. Cũng như nhiều tác phẩm khác của giai đoạn này, Con bạc có liên quan đến các bài báo chính luận của Dostoievski những năm 1861-1864, đặc biệt là bài Ghi chép mùa đông về ấn tượng mùa hè. Vấn đề chủ đạo là ở chỗ trong tác phẩm, Dostoievski muốn đối lập nước Nga hiện đại với châu Âu. Nhiều hình tượng trong tiểu thuyết dường như là bản minh họa cho những kết luận của Dostoievski trên mặt báo và trong tổng kết chuyến đi đầu tiền của ông ra nước ngoài. Aleksei Ivanovich là hình ảnh độc đáo của những thanh niên mà Dostoievski nói đến trong Ghi chép mùa đông…, những người này, cũng như Chatski, không tìm được con đường sự nghiệp ở Nga, đã đi sang châu Âu để “tìm một cái gì đó”. Nhân vật này được đối lập với nam tước Vurmergelm và De-Grie. Con bạc không muốn cúi đầu trước thần tượng Đức và không muốn dấn thân vào việc kiếm tiền… Theo Dostoievski, tính cách của những người Pháp, Đức, Anh trong quá trình phát triển lịch sử của đất nước họ đã được “định hình” rõ rệt, còn tính cách dân tộc của Nga thì lại đang trong quá trình phát triển, từ đó mà có “tính không định hình” của Aleksei Ivanovich và Polina, cũng từ đó mà người Nga có hoài bão sâu sắc muốn khắc phục tính thiến giao trong các hình thái xã hội phương Tây, và ông nhìn thấy tính ưu việt lịch sử của nước Nga, tiền đề để trong một thời gian ngắn nữa nước Nga sẽ tìm được những con đường tiến tới những lý tưởng cao cả của toàn nhân loại. Về mặt này, đóng vai trò quan trọng là hình tượng tiêu biểu: “bà già” Antonida Vasilevna. De-Grie và mademoiselle Blanche là những nhân vật mà Dostoievski châm biếm. Khi đặt tên cho tên hầu tước tự phong chuyên lèo lá và cho vay cắt cổ De-Grie, bằng cái tên của nhân vật hào hiệp trong tiểu thuyết thế kỷ mười tám Manon Lescaut[1], Dostoievski đã châm biếm mức độ xuống cấp đạo đức của giai cấp tư sản Pháp. Hình ảnh ngài Astley người Anh, là người chiếm được cảm tình của cả Aleksei Ivanovich, cả “bà già” và cả Polina, làm ta nhớ đến các nhân vật hào hiệp và tốt bụng trong các tiểu thuyết mà Dostoievski rất yêu thích của Dickenst[2] và Thackeray.[3] Hình tượng ngài Astley được tác giả xây dựng không cần nhiều chi tiết là phù hợp với quan niệm trong giới dân chủ Nga về người Anh. Saltykov Schedrin trong bài Đời sống xã hội của chúng ta (tháng Năm 1863) đã viết rằng một người Anh đi du lịch “thì ở đâu cũng tự hào, tự tin, ở đâu cũng mang đến một kiểu mẫu riêng với tất cả các mặt mạnh yếu của nó”. Con bạc đã nhiều lần được đưa lên sân khấu. Năm 1916, S.S. Prokofiev dựa vào tiểu thuyết này đã viết một vở opera và đã được trình diễn trong nhà hát hoàng cung Saint-Petersburg. Còn về bút pháp của Dostoievski thì đã có biết bao nhiêu người bàn đến, tựu trung lại, ai cũng cúi đầu bái phục và tôn ông là bậc thầy về phân tích tâm lý nhân vật. Sách của ông hay về tình tiết thì ít, mà hay về nội tâm thì nhiều. Tác phẩm này không phải ngoại lệ. Người dịch  (Theo tư liệu của E.I. Kiko) Mời các bạn đón đọc Con Bạc của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khao
Khao được coi là tiểu thuyết trào phúng, xuất bản lần đầu năm 1946. Bìa này của NXB Văn học năm 1988. Bản ebook dưới đây lấy nguồn từ Tổng tập văn học Việt Nam tập 33. *** Thơ của Xuân Sách về Bùi Huy Phồn trong "Chân dung nhà văn" Phất rồi ông mới ăn khao Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời Ông đồ phấn ông đồ vôi Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng (in nghiêng: tên tác phẩm của ông) Một giai thoại về Bùi Huy Phồn Bùi Huy Phồn phải bỏ làng... Chuyện vào làng văn phải bỏ... làng là có thật. Người ấy chính là nhà văn Bùi Huy Phồn, quê ở Vân Đình, huyện Ứng Hoà (Hà Tây cũ). Nhà văn Bùi Huy Phồn từng dạy học, viết văn, làm báo, sáng tác thơ và qua các công tác: Uỷ viên Ban Vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ (trước cách mạng) ở Hà Nội, Uỷ viên Ban Chấp hành Đoàn Kháng chiến Bắc Bộ, Chủ bút báo Tây Việt Bắc (khu X), Giám đốc Nhà xuất bản Văn học 1962-1972... Năm 20 tuổi, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay dã sử “Lá huyết thư”, rồi sau này liên tiếp xuất bản hơn 20 tập tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch cùng với 4 tập thơ trào phúng. Bùi Huy Phồn là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng với bút danh Đồ Phồn. Để bước được vào làng văn và có được một bề dày văn phẩm, thi phẩm như kể trên, thì những ngày đầu “chập chững” vào làng văn, Bùi Huy Phồn phải bỏ làng ra đi... Năm ấy, khi Bùi Huy Phồn mới 15, 16 tuổi, nhân dịp Tết Nguyên đán, thấy mẹ dặn chị gái đi chợ nhớ mua mấy tờ giấy hồng điều cánh sen mang sang nhà cụ đồ Hai trong làng nhờ viết cho dăm câu đối bằng chữ nho để dán ở trong nhà, ngoài cửa, ngoài ngõ mấy ngày Tết. Thấy có giấy hồng điều, Bùi Huy Phồn tự nghĩ ra đôi câu đối rồi viết bằng chữ quốc ngữ, đem dán vào hai cột cổng ngoài nhà thờ họ vào trước lúc giao thừa. Sáng mồng một Tết, Bùi Huy Phồn dậy thật sớm ra trước cổng nhà thờ họ để ngắm và thưởng thức tác phẩm trào phúng đầu tay của mình. Nhưng thật lạ, không rõ kẻ nào đã bóc đi? Trên cột chỉ còn lại những vết bóc nham nhở. Bùi Huy Phồn ức quá, cảm thấy mình như một người đi săn lần đầu vớ phải một viên đạn thối. Song nghĩ lại, ông thấy có khi thế lại may, bởi vì chỉ lát nữa thôi cụ tuần anh, tuần em, cụ thượng cùng “Tinh thê đẳng” (những người chức sắc trong làng, xã thời đó) mũ mãng cân đai đi đến nhà thờ đại tôn họ Bùi lễ tổ mà bắt gặp đôi câu đối “bạo thiên, nghịch địa” của ông, thì mẹ ông phải đi tạ tội “phạm thượng”. Con dại cái mang mà! Những vị chức sắc làng xã kia không nổi giận sao được khi đọc những câu đối mà Bùi Huy Phồn viết thế này: “Mồng một Tết người đội mũ cánh chuồn khoe mẽ Ba ngày xuân tớ trùm nơm mẹ đĩ ngâm thơ” Mặc dù chưa có vợ nhưng Bùi Huy Phồn vẫn “mượn tạm” cái nơm mẹ đĩ để đối với mũ cánh chuồn. Thật là hả hê quá, mũ cánh chuồn đối với cái váy đàn bà. Tưởng chuyện bị mất câu đối chìm trong im lặng. Nào ngờ, chắc để hết Tết, qua rằm tháng giêng? Đúng ngày 16 tháng giêng năm ấy, nhân ngày giỗ tổ họ Bùi, những người “tai to mặt lớn” trong làng, xã có mặt. Giờ là dịp để họ “sờ gáy’ tác giả câu đối kia. Cụ tuần anh nói với mẹ Bùi Huy Phồn: - Phải đưa thằng Phồn ra nhà thờ họ ngay. Phồn vừa bước đến cửa, cụ tuần anh quát: - Thằng kia, vào đây! Rồi cụ tuần anh quay sang nói với mọi người trong họ: - Hôm nọ, mồng một Tết, anh và các chú vận phẩm phục triều đình đi hành ngơi trong thôn, xóm, cho dân làng được ra bái yết lấy may. Thế mà thằng này (chỉ Phồn) nó dám làm câu đối nói láo! Bùi Huy Phồn lắp bắp định cãi thì cụ tuần anh đập tay xuống tráp, thét lớn: - Câm! Tao lại sai nó nọc cổ mày xuống trước từ đường, đánh cho tan xác bây giờ. Mày muốn làm bình dân thì mày ra Hà Nội. Mày muốn làm cộng sản thì mày sang Nga-la-tư. Chứ còn ở cái làng này thì phải có tôn ti trật tự! Thôi cút! (câu nói này, cũng như những nhân vật Tuần anh, Tuần em... đã được đưa vào trong tác phẩm Khao) Có ai ngờ câu quở mắng của cụ tuần anh kia đã trở thành những lời “tiên tri” ứng nghiệm với cuộc đời Bùi Huy Phồn. Quả thật, sau “vụ câu đối Tết”, Bùi Huy Phồn đã phải bỏ làng ra Hà Nội làm một người bình dân viết văn kiếm sống và sau này, ông được sang Liên Xô thật trong đoàn nhà văn Việt Nam và trở thành một người cộng sản viết văn. *** Lão buông dùi, buông đục. Lão híp cặp mắt. Lão nhe đôi hàm lợi trơ. Rồi xoa hai tay vào nhau, lão thở phào qua đôi hàm lợi ấy. Lão đã khớp xong đôi cá ở ván địa. Cả đôi cá ở ván thiên. Lão đã khớp gần xong tám cặp cá ở cỗ quan tài. Một cỗ quan tài cho lão. Lão khoái! Và nghĩ ngợi. Tất cả mọi người khi đến cái tuổi “gần đất xa trời”, thấy mình sắp được nằm dài thanh thản trong cỗ quan tài, ai mà không nghĩ ngợi? Lão nghĩ rằng: năm nay, lão vừa bẩy mươi hai. Lại có chín con, một miếng đất ở, ba gian nhà. Tổng cộng là bẩy mươi hai tuổi, chín con, một miếng đất, ba gian nhà. Ta có nên tính cả một mụ vợ gù và một con chó ghẻ? Chín con, nhưng theo thói thường, những đứa hiếu đạo đều là đứa yểu số, hoặc nghèo xác, nghèo xơ. Còn những đứa tổ độ mát mặt mát mày lại là đứa cư xử với lão chả ra gì ráo. Một miếng đất ở đã đem cầm lấy tiền nộp ma khô cho vợ cả lão đâu từ năm trước. Ba gian nhà chỉ chờ được tiếp một cơn gió mạnh, là nằm kềnh ra ngửa mặt lên cười với giời. Rút lại, ở lão, chỉ còn có chút tuổi bẩy mươi khả dĩ cho lão tự hào được với trong xóm ngoài làng. Thiên tước kia mà! Lão đã chẳng có phú quý - một con chó ghẻ, ba gian nhà -, nhưng ở đời này, ai không làm được nên phú quý? Lão cũng chẳng có công danh - phó mộc từ năm mười bốn, lão vẫn còn phó mộc đến lúc bẩy mươi, - nhưng ai không làm được nên công danh? Còn như nói đến thiên tước, nói đến sự sống nổi cái tuổi mà lão sống đến ngày hôm nay, dễ ai mà sống được? Đó là một triết lý lão lấy làm sung sướng mới khám phá ra, để hằng ngày hiểu thị cho cái đám thê nhi, sau tiếng rít điếu cày, hoặc cạn một cút con rượu lậu. Đó cũng là một thứ khí giới lão tính sẽ dùng đến để tự vệ ở chỗ đình chung điếm sở, chống với mấy ông Nhang, ông Cán, ngõ hầu hạ giá họ, mỗi khi họ cậy là Nhang, là Cán, hạ giá lão là một thằng… bạch đinh! Bạch đinh! Lão hết cười. Và buồn. Lão đứng lên - như mỗi khi buồn - lẻn vào gậm ban thờ, moi ra một cút rượu lậu, nhấp nháp xuông vài tợp làm vui. Được kích thích trong não cân, đột nhiên, lão tìm ra, lần này cũng như tất cả mọi lần, câu trả lời cho cái điều sỉ nhục trên kia: - A! Bạch đinh, âu nó cũng là cái… số. Phải; chính nó là cái “số”! Lão lại được dịp nhe lợi ra cười phào, sung sướng về sự khám phá mới mẻ này, như lúc vừa đây đã khám phá ra cái “thiên tước”. Chính nó là cái số. Cái số đã cho thiên hạ làm ông Nhang, ông Cán, cái số đã bắt lão mòn đời làm thằng dân trắng, lưng đen khố cao. Rồi lão nghèo, đói, rách, rét. Đó cũng là cái số cả mà thôi. Rồi Chánh Vận sai người đánh đập lão để đòi nợ, hay Lý Bá trói giải lão để ốp thuế năm xưa, chung quy cũng chỉ là cái số lão phải cam như thế. Ấy thế là lão đã vơi được hẳn những oán hận trong lòng! Như mỗi khi vui, lão lại tợp luôn vài tợp rượu cho nó thêm vui. Lão khà một cái khà thống khoái. Chỉ bực một nỗi mụ vợ gù của lão mãi chưa về chợ, thế nào chẳng mua cho lão đôi bìa đậu phụ với vài đồng mắm tôm! Sực nghĩ đến mụ vợ gù, lão không chỉ cười phào. Lão quệt tay lau miệng, liếm môi một cái, cười hẳn ra mấy tiếng “hức hức” liền. Đó mới cũng là cái “số” của giời xui! Nếu không, thì tự dưng sao mụ, chẳng rõ quê quán nơi đâu, lại thành ra con mụ ăn mày. Đã thế rồi, tự dưng sao mụ lại đến xin ngủ nhờ trong túp nhà của lão một đêm! Hai đêm! Rồi lại thêm nữa một đêm! Cho đến khi mụ thấy rằng mụ chẳng cần đi, và lão thấy rằng để mụ ở cũng chẳng thiệt gì cho lão. Mời các bạn đón đọc Khao của tác giả Đồ Phồn.
Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà
CẢNH BÁO: KHÔNG ĐƯỢC ĐỌC SAU KHI TRỜI TỐI "Một người nào đó sẽ phải đứng lên để chống lại bóng tối. Và con là người duy nhất có thể." Trong nhiều năm qua, Thầy Trừ Tà Gregory đã giữ cho Hạt an toàn khỏi ma quỷ. Giờ thời gian của ông đã kết thúc, nhưng ai sẽ là người tiếp quản chuyện đó? Hai mươi chín người học việc đã đến thử - một vài người không đạt tiêu chuẩn, một vài người đã bỏ trốn, một vài người đã chết. Chỉ còn lại duy nhất Thomas Ward. Cậu là niềm hy vọng cuối cùng; cậu bé học việc cuối cùng. Liệu Thomas có thành công? Liệu cậu có học được sự khác nhau giữa phù thủy loại lành và phù thủy loại độc? Liệu lời cảnh báo của Thầy Trừ Tà về những cô gái đi giày mũi nhọn có bao gồm cả Alice không? Và điều gì sẽ xảy ra nếu Thomas vô tình giải thoát Mẹ Malkin, phù thủy độc ác nhất ở Hạt…? Câu chuyện đáng sợ đầu tiên trong series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà. *** Joseph Delaney từng dạy truyền thông và phim ảnh ở một trường trung học tại Blackpool, Anh. Ông sống cùng gia đình ở Lancashire, giữa trung tâm lãnh thổ của ông kẹ. Sự Báo Thù Của Phù Thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay. Truyện được hãng Warner Bros. Pictures mua bản quyền và chuyển thể thành phim với tên Người con trai thứ bảy (The Seventh Son, đạo diễn: Sergei Bodrov). Phim sẽ được phát hành trong đầu năm 2013, có sự tham gia của nam diễn viên Ben Barnes (vai Thomas Ward), Julianne Moore (vai Mẹ Malkin), nam diễn viên Jeff Bridges (vai Thầy Trừ Tà Gregory)… Series Cậu Bé Học Việc và Thầy Trừ Tà do Chibooks xuất bản 2012-2013: Phần 1: Sự Báo Thù Của Phù Thủy (The Spook’s Apprentice) Phần 2: Lời nguyền của Quỷ độc (Spook's Curse) Phần 3: Đêm của Kẻ Đánh Cắp Hồn (The Spook’s Secrect) Phần 4: Đòn Tấn Công của Quỷ Vương (The Spook’s Battle) Phần 5: Cơn Thịnh Nộ của Huyết Nhân (The Spook’s Mistake) Phần 6: Sự Hi Sinh của Thầy Trừ Tà (The Spook’s Sacrifice) Phần 7: The Spook’s Nightmare Phần 8: The Spook’s Destiny Phần 9: The Spook’s I am Grimalkin Phần 10: The Spook’s Stories: Witches Phần 11: The Spook’s Bestiary *** "Phù thủy hả mẹ? Chúng ta liên minh với phù thủy sao?" Là chân học việc của Thầy Trừ Tà, nhiệm vụ hàng đầu của Tom là bảo vệ Hạt khỏi thế lực bóng tối. Nhưng giờ đây mẹ lại cần đến sự giúp sức của cậu tại quê nhà Hy Lạp của bà để nổi dậy chống lại một trong mấy vị Cổ Thần, mụ Ordeen gớm ghiếc. Mẹ đã triệu tập một nhóm hùng hậu để chiến đấu, nhưng trong số đó lại có cả các phù thủy đến từ Pendle. Liệu Tom có thể đi ngược lại tất cả những gì Thầy Trừ Tà đã dạy mà liên minh với kẻ thù hay không? Điều bí mật gì mẹ đang cố giấu cậu ấy? Và điều gì cần phải hy sinh trong trận chiến chống lại bóng tối? Câu chuyện đáng sợ thứ 6 trong series Cậu bé học việc và thầy trừ tà. *** Tôi bừng tỉnh với tâm trạng bồn chồn lo lắng có chuyện gì đó chăng lành. Ngoài trời, những tia sét đánh chằng chịt bên khung cửa, tiếp nối bằng những đợt sấm rền. Trước đây tôi từng ngủ qua những đêm giông bão ở Hạt, nên chắc chắn những thứ ấy không thể làm tôi thức giấc. Không đâu, tôi linh tính có một mối nguy nào đó đang chực chờ ngoài kia. Tôi nhảy phóc ra khỏi giường, đúng lúc chiếc gương ngay cạnhđầu giường tôi đột nhiên sáng hơn lên. Tôi thoáng thấy hình ảnh phản chiếu của ai đó lướt qua rồi nhanh chóng biến mất. Nhưng tôi đã kịp nhận ra khuôn mặt. Là Alice. Dù được đào tạo trong hai năm liền để trở thành phù thủy, Alice vẫn là bạn tôi. Cô bé đã bị Thầy trừ tà xua đuổi nên phải quay trở lại khu đồi Pendle. Tôi nhớ có ghê lắm nhưng vẫn ráng giữ lời hứa với Thầy mình mà tảng lờ mọi nỗ lực liên lạc của cô ấy. Nhưng lần này tôi không thể lờ đi được nữa. Cô ấy đã cố ghi lại lời nhắn trên gương, còn tôi không thể không đọc trước khi dòng chữ phai mất. Maenad là gì nhỉ? Tôi chưa từng nghe đến. Với lại làm sao mà một tên sát thủ bất kỳ nào có thể tiếp cận được tôi khi hắn phải băng qua khu vườn của Thầy trừ tà - nơi luôn được Ông Kẹ thần thánh của Thầy trông chừng? Nếu kẻ nào đó xâm phạm khu vườn, Ông Kẹ ấy sẽ gầm lên một tiếng đến cả cách đó hàng dặm vẫn còn nghe ra, và sẽ xé xác kẻ xâm phạm thành trăm mảnh. Còn nữa, làm sao Alice biết được mối nguy hiểm đó? Cô bé đang ở Pendle cách đây hàng dặm. Tuy vậy, tôi cũng sẽ không làm ngơ lời cảnh báo của cô ấy đâu. Thầy tôi, John Gregory, đã ra ngoài xử lý một hồn ma chuyên gây rắc rối, chỉ còn lại mỗi tôi trong ngôi nhà này. Mà tôi lại chẳng có gì tự vệ trong tay. Thanh trượng cùng túi đồ của tôi đang ở tuốt trong bếp, nên tôi phải đi lấy vậy. Đừng hoảng, tôi tự nhủ. Từ từ bình tĩnh nào. Tôi nhanh chóng mặc quần áo, xỏ chân vào đôi ủng. Tôi nhẹ nhàng mở cửa phòng ngủ và cẩn thận lẻn ra ngoài khu hành lang tối om om ngay lúc tiếng sấm rền vang một lần nữa. Tại đây tôi dừng lại nghe ngóng. Vạn vật im phăng phắc. Thấy chắc ăn rằng chưa có kẻ nào đột nhập vào được trong nhà, nên tôi tiếp tục rón rén đi xuống cầu thang. Tôi lướt qua khu tiền sảnh rồi hướng thẳng vào bếp. Tôi nhét sợi xích bạc vào túi quần, rồi vừa nắm lấy thanh trượng, tôi vừa mở cửa sau để bước ra ngoài. Ông Kẹ đâu nhỉ? Tại sao Ông Kẹ lại không bảo vệ ngôi nhà và khu vườn khỏi kẻ đột nhập? Mưa xối thẳng vào mặt tôi khi tôi đứng chờ, kỹ lưỡng dò mắt qua sân cỏ lẫn cây cối ngoài kia xem có cử động nào không. Mời các bạn đón đọc Cậu Bé Học Việc Và Thầy Trừ Tà Tập 6: Sự Hy Sinh Của Thầy Trừ Tà của tác giả Joseph Delaney.
Và Rồi Núi Vọng
Afghanistan trong Người đua diều (The Kite Runner) là một giấc mơ ấu thơ đẹp đẽ, sự đẹp đẽ được reo rắc, ươm mầm từ những hoài niệm, xót thương, ẩn ức. Cậu bé Amir đi xa Kabul đến vạn dặm vẫn khắc khoải về một góc phố, về một ngôi nhà, về một ấu thơ thấm đẫm nỗi niềm. Người đua diều ngay khi ra mắt đã trở thành hiện tượng xuất bản. Tác phẩm đầu tay của bác sĩ Khaled Hosseini trở thành “best seller” trong nháy mắt. Người Mỹ kinh ngạc và lặng đi trước một Afghanistan đau thương nhưng lấp lánh giấc mơ. Afghanistan trong Và rồi núi vọng (And the Mountains Echoed) là một giấc mơ thăm thẳm đau đớn. Ở đó, đói nghèo đặt dấu vết lên từng nhân vật, chiến tranh tàn phá từng số phận, sự đau khổ, trống rỗng hủy hoại từng cuộc đời. Những số phận mang hình hài Afghan Shadbagh (một địa danh ở Pakistan) không hiểu vì sao được đặt tên cho ngôi làng của Afghanistan - nơi Hosseini bắt đầu câu chuyện của mình. Người cha Saboor nghèo khổ, gia cảnh kiệt quệ sau cái chết của đứa con trai chưa đầy tuổi hồi mùa đông đã quyết định bán cô con gái Pari cho một gia đình giàu có ở Kabul. Hành trình kéo xe của Saboor từ Shadbagh đến Kabul như vô tận, lết theo đó là nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Saboor không có sự lựa chọn. Nghèo đói đã trĩu nặng trên vai ông. Sự trong sáng, thơ ngây của 2 đứa con dày vò, hành hạ ông. Và cuộc chia ly ở Kabul đã xô đẩy cuộc đời mỗi người trong số họ theo những hướng khác nhau, Pari ở lại với gia đình giàu có trong cô đơn, trống rỗng. Ông bố Saboor, người anh trai Abdullah trở về Sadbagh trong nỗi đau đớn dày xéo họ suốt phần đời còn lại. Và rồi núi vọng là cuốn sách thứ 3 của bác sĩ Hosseini. Trước đó, anh đã từng viết Người đua diều và Ngàn mặt trời rực rỡ, đều để lại ấn tượng mạnh mẽ về đất nước Afghanistan. Cuốn Người đua diều được chuyển thể thành phim năm 2007. Và rồi núi vọng được kể theo thời gian phi tuyến tính. Mỗi chương là một dấu mốc thời gian. Mỗi dấu mốc thời gian là một cuộc đời. Từ cuộc chia tay Kabul, diễn biến câu chuyện vừa như có sự sắp đặt, vừa như chẳng hề có sự sắp đặt nào. Những nhân vật đến rồi đi. Nhiệm vụ của họ là kể câu chuyện của mình, sứ mệnh của họ là một nút thắt, một dấu chấm trên hành trình cuộc đời đằng đẵng với chằng chịt các mối quan hệ kết nối. Theo nhiều cách, số phận đẩy chúng ta ra xa nhau, rồi kết nối lại bằng những biến cố, bằng những sợi dây vô hình. Những số phận Afghan trong Và rồi núi vọng bị xô đẩy, bị vùi dập, bị hủy hoại, bị chia cắt trong bối cảnh đất nước chiến tranh kéo dài. Cuộc chiến của Mỹ, sự can thiệp của người Nga, sự tàn bạo của Taliban đã chia cắt Afghanistan thành từng số phận nhỏ. Dưới ngòi bút của Hosseini, “ở Kabul, mỗi một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch”. Ông lão Nabi bám trụ ở Kabul để chứng kiến cuộc sống thay đổi theo chiến sự. Pari bị xô đẩy đến Pháp với khoảng trống vô tận trong lòng. Abdullah bằng cách nào đó đã đến Mỹ với câu hỏi của cả cuộc đời: em gái đang ở đâu? Anh em Timur, Idris từ Mỹ trở về Afghanistan mang theo những mục đích riêng. Markos vòng quanh thế giới để tìm bản ngã. Gia đình Parwana trôi dạt theo cuộc di cư tị nạn ở Pakistan… Mỗi người trong số họ đều mang những bi kịch riêng, những gương mặt riêng của một người Afghan đặc trưng. Cùng quẫn và bế tắc. Day dứt và bất lực. Đau đớn và kiên cường. Nỗi đau của nhà văn giấu trong từng nhân vật Chất chứa đằng sau mỗi số phận là nỗi xót thương hoang hoải và trĩu nặng tâm tư của tác giả. Tưởng như, nỗi niềm dân tộc, nỗi niềm Afghanistan khiến tác giả đau đớn trong cả những giấc mơ. Khaled Hosseini sinh năm 1965 tại Kabul, Afghanistan. Anh và gia đình rời Kabul sang Paris năm 1976. Năm 1980, gia đình Hosseini được chính phủ Mỹ bảo hộ, họ sang California và định cư tại đó đến nay. Đằng sau một Pari tha hương bé nhỏ, là những con chữ len lỏi nói về sự mạnh mẽ. Đằng sau một Roshi bất hạnh là niềm kiêu hãnh âm thầm về sự kiên cường của dân tộc Afghan. Hay, đằng sau bác sỹ Idris là thấp thoáng những nỗi day dứt, dày vò của chính tác giả, khi tận mắt chứng kiến cả ngàn thảm kịch ở Kabul, Idris trở về Mỹ nhìn cuộc sống giàu sang, xa hoa thấy như lạc lõng, như nực cười, như vô vị. Khi nhìn những đứa trẻ bị bỏ đói, bị hãm hiếp, bị giết hại ở Afghan, cuộc sống nhung lụa ở California bỗng trở nên tội lỗi. Idris đã nghĩ đến việc xây dựng một rạp chiếu phim mini trong nhà, và thấy như muốn khóc khi số tiền đó có thể xây được một ngôi trường ở Afghan. Chỉ tiếc, Hosseini đã quá tham nhân vật, quá tham diễn giải về những số phận, đôi khi, anh để mình lan man, và trượt quá xa câu chuyện chính. Khi độc giả chờ đợi một sự quay về, chờ đợi một lần gặp gỡ, chờ đợi một kịch tính, Hosseini lại để mình lạc đi trong những mối quan hệ rối bời. Kể từ Người đua diều, Ngàn mặt trời rực rỡ đến Và rồi núi vọng, câu chuyện trở đi trở lại với Hosseini, là ở Kabul, cứ một dặm vuông có cả ngàn thảm kịch. Đọc Và rồi núi vọng để thấy, trong từng câu chữ, trong từng nỗi nhớ thương, trong từng hoài niệm, trong cả những nỗi đau đớn khôn nguôi là một giấc mơ Afghan thăm thẳm. *** Khaled Hosseini, là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Hoa Kỳ. Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Người đua diều (2003) và Ngàn mặt trời rực rỡ (2007) bán được 38 triệu bản trên toàn thế giới. Ngoài ra, Người đua diều đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 2007. Năm 2003, Hosseini cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay tên The Kite Runner (nghĩa là: Người đua diều). Cuốn sách là câu chuyện về cậu bé Amir vật lộn để có hàn gắn quan hệ với cha mình và vượt qua nỗi ám ảnh về một sự việc thời thơ ấu. Bối cảnh truyện đặt ở Afghanistan, từ lúc chính quyền Taliban rệu rã đến khi sụp đổ hoàn toàn, và khu vực vịnh San Francisco mà cụ thể là Fremont, California. Trong các chủ đề được nói tới, bao gồm căng thẳng sắc tộc giữa người Hazara và người Pashtun ở Afghanistan, và những trải nghiệm di cư của hai cha con Amir đến Mỹ. Theo thông tin của Nielsen Bookscan, Người đua diều xếp thứ ba trong số những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ năm 2005. Phiên bản sách nói của cuốn sách được đọc bởi chính tác giả. Tháng 12 năm 2007, bộ phim cùng tên dựa trên cuốn tiểu thuyết được công chiếu. Hosseini có một vai nhỏ khúc gần cuối phim - một người lạ đứng ngoài nhìn Amir mua con diều để sau đó thả với Sohrab. Năm 2008, cuốn sách được chuyển ngữ tiếng Việt và được tái bản năm 2013 xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tiểu thuyết thứ hai của ông A Thousand Spendid Suns (tạm dịch: Ngàn mặt trời rực rỡ) được phát hành vào năm 2007, cũng lấy bối cảnh tại Afghanistan. Truyện theo dõi sự giao thoa giữa hai số phận của hai người phụ nữ cách nhau một thế hệ, Mariam và Laila. Thời gian trong tiểu thuyết từ lúc Afghanistan chịu sự chiếm đóng của Xô Viết, đến những năm dưới ách Taliban và hậu Taliban. Nhà sản xuất Scott Rudin và hãng Columbia Pictures đã mua quyền chuyển thể cuốn sách thành phim. Năm 2010, tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Các tác phẩm được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Người Đua Diều Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ Và Rồi Núi Vọng ... Mời các bạn đón đọc Và Rồi Núi Vọng của tác giả Khaled Hosseini.
Whiney Yêu Dấu
Niềm say mê trẻ con của Whitney Stone đối với anh chàng hàng xóm đã khiến người cha lạnh nhạt, không tình cảm đẩy nàng đến Paris để sống cùng với dì và chú. Dưới sự chỉ dẫn đầy yêu thương, cô gái trẻ đã trở thành một người đẹp mê hồn và được cả xã hội Paris hoa lệ yêu quý... Công tước Claymore đẹp trai và quyền lực đã quyết tâm biến nàng thành vợ mình. Bất chấp sự quan tâm nhiệt thành của Công tước, Whitney vẫn kiên định với tình yêu thời thơ ấu. Cho đến khi nàng nhận thấy mình bị Công tước cuốn hút, sự cuốn hút vừa khiến nàng vừa thích thú vừa hoang mang. Nhưng Công tước không hề có chút băn khoăn. Chàng muốn Whitney và chàng đã lên kế hoạch để giành lấy nàng, bấp chấp vô số ngáng trở, bao gồm cả lòng mê đắm của Whitney với một chàng trai khác, sự lo lắng ngày càng tăng của dì nàng và những nỗ lực vụng về của người cha tham lam nhằm kiểm soát đứa con gái xinh đẹp của mình. Đam mê bốc cháy giữa Công tước và cô gái trẻ, nhưng Whitney không dễ dàng khuất phục trước 'ông chủ' của mình. Những hiểu lầm và sự phản bội ám ảnh cả Whitney và Clayton. Phải chăng "Tình yêu có thể chiến thắng được tất cả"? Nhưng để hạnh phúc đơm hoa kết trái, họ sẽ phải vượt qua một đầm lầy hiểu lầm đe dọa bất cứ hy vọng nào về một kết thúc hạnh phúc. "Trong vòng mười lăm năm kể từ khi Whitney yêu dấu được phát hành lần đầu tiên, tôi đã phải cưỡng lại mong muốn viết một tập tiếp theo, nhưng tôi cũng luôn ước rằng mình đã không kết thúc câu chuyện khá đột ngột như đã làm. Tôi thấy rằng mình có thể bổ sung một số cảnh tuyệt vời và kéo dài những cảnh khác, nhưng tôi không hề nghĩ mình có cơ hội làm điều đó. Quyết định tái bản Whitney yêu dấu như một ấn phẩm đặc biệt mang lại cho tôi cơ hội đó, tôi hy vọng các bạn cũng thích thú thưởng thức ấn phẩm mới có bổ sung này nhiều như tôi thích thú mang lại nó cho bạn." (Judith McNaught) *** Nhận định "Judith McNaught là một đẳng cấp riêng." - USA Today "Tác giả ăn khách bậc nhất New York Times đã khéo léo dệt nên một câu chuyện ly kỳ đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng hồi hộp, đầy những nhân vật không thể quên và chằng chịt những mạch ngầm dữ dội của khát khao, tham vọng." - Amazon.com "Một câu chuyện tình yêu đích thực hòa trộn giữa sự hài hước, hồi hộp, bí ẩn và lãng mạn khôn cùng."- Regan *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường ... *** Trong cỗ xe du hành sang trọng lắc lư nhè nhẹ trên con đường mòn ngoại ô, Quý bà Anne Gilbert tựa má vào vai chồng và thốt ra một tiếng thở dài nóng ruột. “Phải đến cả tiếng đồng hồ nữa chúng ta mới đến nơi, vậy mà sự chờ đợi đã gần như ăn mòn em. Em đang băn khoăn bây giờ Whitney trông như thế nào khi cô bé đã lớn”   Bà chìm vào im lặng và lơ đãng nhìn khung cảnh miền quê xanh tươi của nước Anh trôi qua cửa sổ xe bao phủ bởi hoa mao địa hoàng màu hồng và hoa mao lương vàng hoang dại, trong khi cố gắng hình dung đứa cháu gái bà đã không gặp gần 11 năm qua.   “Cô bé sẽ rất đẹp, như mẹ của nó. Và cô bé sẽ có nụ cười, sự dịu dàng và tính tình ngọt ngào của mẹ nó…”   Quý ông Edward ném một cái nhìn ngờ vực cho vợ mình. “Tính tình ngọt ngào?” ông lặp lại với vẻ nghi ngờ hài hước. “Đó không phải những gì mà cha cô bé nói trong lá thư của ông ấy.”   Là một nhà ngoại giao đại diện cho Lãnh sự quán Anh ở Paris, Ngài Gilbert là một bậc thầy với những lời bóng gió, nói tránh, ám chỉ và hàm ý. Nhưng trong cuộc sống riêng, ông thích lựa chọn dễ chịu là thẳng thắn nói lên sự thật. “Cho phép anh gợi lại trí nhớ của em,” ông nói, dò dẫm trong túi quần và rút ra lá thư từ cha của Whitney. Ông đẩy đôi kính mắt lên sống mũi, và phớt lờ vẻ nhăn nhó của vợ, ông bắt đầu đọc: “‘Cách cư xử của Whitney là một sự sỉ nhục, những hành vi của con bé thật đáng bị chỉ trích. Nó là một con bé lanh chanh ngỗ ngược, là sự thất vọng đối với tất cả những người nó quen và là một nỗi xấu hổ của tôi. Tôi xin cô đưa con bé đến Paris với cô, hy vọng rằng cô có thể thành công hơi tôi với đứa bé ngang bướng này.’”   Edward cười khoái trá. “Chỉ cho anh chỗ nào nói cô bé có ‘tính khí ngọt ngào.’”   Vợ ông quăng cho ông một cái nhìn dằn dỗi. “Martin Stone là một người đàn ông lạnh lùng và không có cảm giác, không nhận ra sự dịu dàng và phẩm chất tốt đẹp cho dù Whitney có! Chỉ cần nghĩ đến cách ông ta mắng cô bé và bắt nó về phòng ngay sau đám ma của chị gái em.”   Edward nhận ra sự ngoan cố biểu hiện trên cằm của vợ và vòng tay ôm vai bà trong một cử chỉ hòa giải. “Anh cũng không thích người đàn ông đó hơn em, nhưng em phải thừa nhận là, vừa mới mất người vợ trẻ trong một đám tang sớm, lại bị đứa con gái buộc tội, ngay trước mặt năm mươi người, là đã nhốt mẹ nó vào một cái hộp vì vậy bà ấy không thể đi ra đã khiến ông ta khá bối rối.”   “Nhưng Whitney vừa mới năm tuổi đầu!” Anne nóng nảy phản đối. .... Mời các bạn đón đọc Whiney Yêu Dấu của tác giả Judith McNaught.